Bài giảng Lịch sử sách và Lịch sử thư viện (Ngành: Thư viện) - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai
lượt xem 7
download
(NB) Bài giảng Lịch sử sách và Lịch sử thư viện với mục tiêu giúp người học có thể xác định tầm quan trọng và quá trình hình thành của sách và của thư viện trong xã hội; Hiểu được mục đích xuất hiện của sách và thư viện trong xã hội; Quá trình hình thành và quy luật phát triển của sách và thư viện;..
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Lịch sử sách và Lịch sử thư viện (Ngành: Thư viện) - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai
- UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG BÀI GIẢNG MÔN HỌC: LỊCH SỬ SÁCH VÀ LỊCH SỬ THƯ VIỆN NGHỀ: THƯ VIỆN (Áp dụng cho Trình độ trung cấp) LƯU HÀNH NỘI BỘ NĂM..................
- MỤC LỤC Table of Contents BÀI GIẢNG ............................................................................................................................................1 NỘI DUNG CHI TIẾT CỦA CỦA TÀI LIỆU GIẢNG DẠY ...............................................................................4 Phần 1: Lịch sử sách ..............................................................................................................................4 Chương 1: Vai trò tác dụng của sách trong đời sống xã hội .............................................................4 1. Sự hình thành sách .............................................................................................................................4 2. Vai trò, tác dụng của sách trong đời sống xã hội...................................................................... 17 Chương 2: Qui trình xuất bản sách ................................................................................................... 18 1. Quyết định xuất bản ............................................................................................................... 18 2. Liên kết xuất bản .......................................................................................................................... 18 3. Chế bản điện tử ............................................................................................................................ 19 4. Thiết kế bìa ................................................................................................................................... 19 5. In – gia công – đóng gói ................................................................................................................ 19 6. Nộp xuất bản phẩm lưu chiểu và nộp xuất bản phẩm cho Thư viện Quốc gia Việt Nam .......... 20 7. Phát hành ...................................................................................................................................... 20 Chương 3: Lịch sử sách Việt Nam ..................................................................................................... 20 2.1. Sự xuất hiện sách ở Việt Nam .................................................................................................... 21 2.2.1. Thời phong kiến ...................................................................................................................... 21 2.3. Mối quan hệ của sách đối với nền văn hóa dân tộc Việt Nam ................................................... 21 Phần 2: Lịch sử thư viện ..................................................................................................................... 21 Chương 1: Sơ lược Lịch sử sự nghiệp Thư viện Thế giới – Thời gian 4 giờ ................................... 21 1. Bản chất của thư viện...................................................................................................................... 21 1.1 Khái niệm thư viện .................................................................................................................... 21 1.2. Các thành phần cơ bản của thư viện ...................................................................................... 22 2.. Các thư viện nổi tiếng trên thế giới............................................................................................... 23 Chương 2: Lịch sử sự nghiệp thư viện Việt Nam – Thời gian 5 giờ ................................................ 29 2.1. Tổng quan lịch sử thư viện Việt Nam ........................................................................................ 30 2.2. Các giai đoạn phát triển của sự nghiệp thư viện Việt Nam ....................................................... 32
- NỘI DUNG CHI TIẾT CỦA CỦA TÀI LIỆU GIẢNG DẠY BÀI GIẢNG MÔN HỌC Lịch sử sách và lịch sử thư viện Mục tiêu môn học: - Về kiến thức: Xác định tầm quan trọng và quá trình hình thành của sách và của thư viện trong xã hội - Về kỹ năng: Hiểu được mục đích xuất hiện của sách và thư viện trong xã hội; Quá trình hình thành và quy luật phát triển của sách và thư viện - Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Nắm được vai trò, tác dụng của sách và thư viện trong đời sống xã hội Nội dung: Phần 1: Lịch sử sách Chương 1: Vai trò tác dụng của sách trong đời sống xã hội 1. Sự hình thành sách Sách là gì? Ban đầu sách chỉ được coi là một thiết bị/công cụ để lưu trữ thông tin. Rất lâu sau đó, sách mới được coi là công cụ để truyền tải và thể hiện ý tưởng của loài người. Yếu tố đầu tiên cần quan tâm về lịch sử của sách đó chính là động lực nào đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của sách? Một quy luật chung được tìm thấy cho những cột mốc phát minh trong lịch sử của sách nói chung và các phát minh ở mọi lĩnh vực khác nói riêng là nó đều được khởi tạo và thúc đẩy bởi nhu cầu xã hội. Những ký hiệu, nét vẽ đầu tiên được tìm thấy trong lịch sử loài người là một di chỉ trên đá có niên đại vào khoảng 75,000 năm TCN. Những hình vẽ như vậy trong các hang động, trên xương động vật hay trên đá được tìm thấy tương đối phổ biến cho đến tận khoảng năm 10,000 TCN. Nhưng việc thay đổi lớn trong cơ cấu xã hội, kinh tế dẫn đến một cách sống mới, một xã hội với những vấn đề mới về quản trị, thương mại và sản xuất mới là động lực chính dẫn đến việc lưu trữ thông tin một cách có ý thức và hệ thống. Sách ra đời nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu đó.
- Hình vẽ trên đá có niên đại cổ nhất được tìm thấy Tablet đất sét Vào khoảng 3700 năm TCN, người Summer ở vùng Lưỡng Hà (nơi vốn rất thiếu gỗ và đá, tài nguyên phổ biến nhất chính là đất sét) đã chế tạo ra những tablet bằng đất sét kích thước khoảng một bàn tay để làm thiết bị lưu trữ thông tin đầu tiên. Họ nặn đất sét, tạo ra một mặt phẳng, và khi đất sét vẫn còn ướt dùng những đầu nhọn để gạch lên đó. Sau đó đem miếng đất sét đó đi phơi hoặc cho vào lò nung. Tablet bằng đất sét Thời kỳ này, các nhà nước cổ đại đã hình thành, xã hội đã phân hóa ra các tầng lớp khác nhau. Nông nghiệp và kinh tế đã sản xuất ra của cải vật chất dư thừa đủ để một bộ phận người không cần tham gia vào sản xuất mà có thể làm những công việc khác như quản trị hay thương mại. Các ký hiệu trên những tablet đầu tiên được tìm thấy chủ yếu để đếm số lượng con vật trong đàn, những đồ đã trao đổi hay ai nợ của ai bao nhiêu thực phẩm. Với người Summer, tablet chỉ để ghi lại những thương vụ làm ăn hay luật lệ.
- Đến năm 3100 TCN, người Summer đã bắt đầu quy chuẩn những hình vẽ của mình, và đó được coi là chữ viết đầu tiên của loài người với tên gọi pictograph. Chữ viết ngày càng được đơn giản hóa giúp dễ dàng hơn cho cả người đọc và người viết. Pictographic của người Summer năm 2800 TCN Pictographic của người Summer năm 2500 TCN. Tuy vậy các ký hiệu trên vẫn còn phức tạp và khó để vẽ. Tablet đất sét có một nhược điểm lớn đó là không hề dễ dàng để sử dụng một vật nhọn kim loại vẽ ra được các đường cong phức tạp trên bề mặt. Do đó đến năm 2500 TCN, một loại chữ viết mới có tên cuneiform chủ yếu sử dụng các đường thẳng đã ra đời để phù hợp với việc viết trên tablet đất sét. Việc sử dụng các đường thẳng cũng giúp việc quy chuẩn chữ viết trở nên dễ dàng hơn, khi người nào cũng có thể viết na ná giống nhau, chứ khó có thể giống nhau như khi sử dụng pictographic. Do đó năm 2500 TCN được coi là dấu mốc cho việc ra đời chữ viết quy chuẩn. Giấy papyrus ở Ai Cập Ai Cập, một nền văn minh rực rỡ khác, cũng tự phát triển một hệ thống chữ viết và thiết bị lưu trữ hoàn toàn khác so với người Lưỡng Hà. Vào khoảng 2500 TCN, xã hội Ai Cập cũng đã hình thành và phát triển thịnh vượng theo cách thức tương tự với nền văn minh Lưỡng Hà, cho dù 2 nền văn minh này rất ít có sự giao lưu với nhau do vị trí địa lý cách biệt.
- Ai Cập vốn nổi tiếng với chữ tượng hình (hielogryphic) của mình. Vào khoảng 2600 năm TCN, người Ai cập đã phát triển tương đối hoàn thiện chữ tượng hình, nhưng chủ yếu họ cũng khắc trên những hang động hay phiến đá mà thôi. Chữ tượng hình của người Ai Cập Tuy vậy, chữ tượng hình của người Ai cập lại đi theo một con đường khác, chứ không phải theo hướng đơn giản hóa cả về hình thức lẫn số lượng ký tự tương tự như chữ cuneiform của người Summer. Ra đời vào khoảng 3400 năm TCN, vào thời kỳ khoảng 2500 năm TCN, số lượng ký tự của người Ai Cập sử dụng đã lên đến 800. Nhưng không giống với người Summer, số lượng ký tự của chữ viết Ai Cập tiếp tục tăng lên, và đến công nguyên, con số này đã lên đến 5000. Tuy vậy chữ tượng hình của Ai cập có 3 loạị trong đó có một loại được cải tiến theo hướng tối giản hóa cho số đông người dân có thể sử dụng. Và đến khoảng năm 700 TCN, hình thức đơn giản nhất của chữ Ai Cập là chữ Demotic ra đời. Tuy vậy cả 3 vẫn tồn tại song song và bổ sung cho nhau, ví dụ chữ được viết trên giấy papyrus chủ yếu là Demotic; còn chữ tượng hình gốc chủ yếu được sử dụng trong các văn bản chính thống hay chạm khắc trên lăng miếu, đền đài hay những đồ vật quý, linh thiêng. Trong khi đó loại chữ tượng hình còn lại được coi là động lực chính để ra đời loại chữ alphabet đầu tiên sau này ở Lưỡng Hà. Loại chữ này bao gồm 23 ký tự được sử dụng như các chữ để bắt đầu biểu diễn cho một từ, giống với vai trò của các phụ âm trong ngôn ngữ hiện đại. Người Ai Cập phát mình và sử dụng loại chữ này song song với 2 loại còn lại từ khoảng năm 2700 TCN. Tuy vậy người Ai Cập lại không tiếp tục cải tiến và sử dụng loại chữ tượng hình này nhiều (lý do khiến số lượng ký tự tượng hình chỉ có tăng lên chứ không giảm xuống).
- Sự cải tiến của chữ viết Ai Cập Thiết bị viết chính của người Ai Cập là giấy papyrus. Đây là một loại giấy được làm từ cây papyrus vốn chỉ tồn tại ở dọc bờ sông Nile của Ai Cập. Cây papyrus sau khi được lột vỏ sẽ được cắt thành từng lát mỏng, ngâm vào nước để các chất đường hoàn toàn được loại bỏ, sau đó ghép nối với nhau thành tấm và được phơi khô dưới áp lực của những tảng đá lớn trong khoảng 7 ngày để thành sản phẩm hoàn chỉnh. Cách thức sơ chế giấy papyrus có thể xem tại video sau 2 tấm giấy papyrus cổ nhất được tìm thấy ở Ai Cập trong một lăng mộ hoàn toàn chưa được sử dụng và có niên đại khoảng 3000 năm TCN. Sau đó giấy papyrus được cải tiến, và tồn tại phổ biến dưới dạng cuộn. Giấy papyrus tồn tại dưới dạng cuộn cổ nhất được tìm thấy có niên đại khoảng 2000 năm TCN. Giấy papyrus dạng cuộn là công cụ viết phổ biến ở Ai Cập Để viết trên giấy papyrus này, người Ai Cập sử dụng mực và bút lông. Ai cập có 2 loại mực, màu đen làm từ muội than và màu đỏ làm từ hoàng thổ. Mực được đúc thành bánh và khi sử dụng thì được trộn với nước và nghiền đều ra tương tự như mực được sử dụng ở Trung Quốc. Chữ màu đỏ được sử dụng nhằm nhiều mục đích : như là
- để nhấn mạnh, hay được dùng với vai trò tương tự dấu ngoặc đơn trong ngữ pháp hiện đại. Các chữ cái hay từ đầu tiên, chữ trên tiêu đề, các ký hiệu hay dấu chấm ngắt câu đều sử dụng màu đỏ. Một văn bản trên giấy papyrus dạng tấm, chữ demotic và dùng 2 loại mực Ưu điểm của giấy papyrus đó là việc viết trên giấy dễ dàng hơn nhiều trên tablet đất sét, và cũng hơn trong việc vẽ những đường cong, do đó chữ demotic của người Ai Cập có rất nhiều đường cong, thay vì chỉ toàn gạch và nét thẳng như cuneiform như của người Summer. Chính việc này đã dẫn đến việc tranh, ảnh xuất hiện rất nhiều trong các văn bản của người Ai cập, thậm chí có nhiều cuộn giấy papyrus chỉ toàn là tranh. Bản đồ đầu tiên được tìm thấy ở Ai Cập có niên đại khoảng 1300 năm TCN. Chính vì ưu điểm đó của giấy papyrus mà khi các nền văn minh có sự giao lưu trao đổi cả về thương mại, buôn bán cũng như khoa học, kỹ thuật bắt đầu từ 1500 TCN đã dẫn đến việc giấy papyrus của Ai cập được biết đến và sử dụng rộng rãi ở những vùng đất, nền văn minh khác. Đặc biệt nó được coi là công cụ viết và trao đổi thông tin, tư tưởng chính để làm nên một nền văn minh Hy Lạp – La Mã vô cùng rực rỡ. Tuy vậy giấy papyrus cũng có nhược điểm chung là dễ rách, dễ bị phá hủy bởi thiên tai hay chiến tranh hay từ các vi sinh vật. Do đó không có một thư viện giấy papyrus nào được tìm thấy, mà hầu hết là những bản thảo nhỏ lẻ. Sách dạng lật trang (codex) ra đời Sách dùng phương thức lật trang (codex) thay vì phương thức cuộn ra đời vào khoảng năm 100 SCN và được coi là một phát minh vĩ đại; tồn tại hơn 2000 năm cho đến tận ngày nay đã biến sách thành một thiết bị lưu trữ, tra cứu và truyền tải thông tin cực kỳ hữu dụng và phổ biến. Người ta không biết ai là người đầu tiên phát minh ra cách thức làm sách hoàn chỉnh như vậy. Tuy nhiên ý tưởng về việc ghép nối những trang giấy lại với nhau lại tương đối phổ biến. Ý tưởng đầu tiên là ghép các miếng giấy lại với nhau thông qua một sợi dây và được thúc đẩy bởi động lực viết ra những văn bản dài. Tablet đất sét là một thiết bị mà thông tin lưu trên đó rất hạn chế, và không dễ để ghép nối hay tìm lại thông tin trên các tablet đó. Giấy papyrus theo dạng cuộn giải quyết tốt hơn vấn đề đó, nhưng vào thời kỳ đó, chữ viết dùng ký tự tượng hình và bút lông cũng khó có thể viết nhiều
- thông tin trên một cuộn giấy. Giải pháp đầu tiên được ra đời vào khoảng năm thứ 4 TCN với một dạng sách khá lạ ở các nước Ả rập Sách được làm bằng cách ghép các miếng lá cọ với nhau Trong khi đó vào khoảng năm 500 TCN ở Hy Lạp cũng có một thiết bị có vai trò tương tự là tablet bằng sáp. Thiết bị này có chức năng như tấm bảng cho học sinh tiểu học tập viết thời kỳ trước; hoặc cũng có vai trò như một cuốn sổ tay ghi chép thường được dùng để ghi chép trong các buổi họp. Lượng thông tin viết trên đây có thể tương đối lớn. Ai Cập, Pompeii và Romania là những nơi mà số tablet bằng sáp được tìm thấy nhiều nhất. Pompeii là nơi có đến 200 tablet xưa với niên đại 131-167 được khai quật. Tablet bằng sáp là công cụ như tấm bảng cho học sinh thời trước Book of Psalms được coi là quyển sách hoàn chỉnh có niên đại cổ nhất (350 SCN) được tìm thấy, sách dày đến 490 trang. Các nhà khảo cổ cũng tìm thêm được khoảng
- 15 quyển sách khác dày trên 100 trang có niên đại khoảng 200-400 SCN. Hầu hết các sách tồn tại dưới dạng codex ở thời kỳ này đều là những quyển sách liên quan đến Thiên chúa giáo hay Kinh Thánh. Do đó có người cho rằng chính những người theo Thiên chúa là những người đã phát minh ra sách dạng codex và truyền bá tôn giáo cũng như công nghệ của mình khắp Châu Âu như là một cách để đạo Thiên chúa được lan tỏa rộng rãi hơn. Cuốn sách hoàn chỉnh đầu tiên được tìm thấy Do Hy Lạp đến thế kỷ thứ 6 bắt đầu bước vào thời kỳ đen tối trong lịch sử của mình, khi mà lượng sách sản xuất ra giảm sút đáng kể, số người biết đọc biết viết giảm hẳn, các thư viện và hiệu bán sách không tồn tại được nữa. Nhà thờ và tu viện là nơi sản xuất gần như tuyệt đối số sách ở châu Âu thời kỳ này; và hầu hết cũng là để đáp ứng nhu cầu sách tự thân của mình. Tình hình như vậy kéo dài cho đến tận đầu thế kỷ 13. Trong suốt thời kỳ đen tối đó, vùng đất của người đạo Hồi lại nổi lên như là trung tâm tri thức của phương Tây và Cận Đông. Trong suốt 400 năm phát triển rực rỡ nhất, từ năm 800 đến 1200. Trong 400 năm này, số sách mà người đạo Hồi đã sản xuất ra là khoảng 600,000 cuốn; vượt xa số sách của cả Chấu Âu thời kỳ trước và đế quốc Byzantine phía đông có thể làm ra được. Sách trong thời kỳ này chủ yếu là theo dạng codex. Vật liệu ban đầu người đạo Hồi sử dụng là giấy da, nhưng sau đó giấy hiện đại; một phát minh của Trung Quốc du nhập đến vùng của người đạo Hồi vào những năm 600 và nhanh chóng được sử dụng rộng rãi để thay giấy papyrus và giấy da. Đến năm 900, giấy Trung Quốc gần như đã thống trị hoàn toàn. Người đạo Hồi có một số đóng góp lớn cho lích sử phát triển của sách. Họ là người du nhập và cải tiến giấy và kỹ thuật làm giấy từ Trung Quốc để cho phù hợp với thực tế của họ và tiếp tục truyền bá nó sang châu Âu. Giấy của Trung Quốc chủ yếu là được làm từ gỗ cây dâu tằm, một loại cây mà ở Cận Đông hay Châu Âu không hề có. Người đạo Hồi đã sử dụng gỗ và sợi của cây lanh để thay thế. Họ cũng cải tiến khuôn và dùng búa để cán mỏng và ép các tấm bột gỗ thay vì sử dụng tay như người Trung Quốc. Phương thức đóng sách của họ cũng tương đối khác so với Châu Âu hay người Byzantine khi họ sử dụng keo dán để dán gáy sách thay vì đục lỗ và dùng kim để khâu như các thời kỳ trước. Đó cũng là cách thức đóng sách hiện đại.
- Họ cũng là nơi tiếp tục duy trì, bảo tồn và cải tiến những thành tựu của nền văn minh Hy-La để lại. Khoa học hay y học, vốn chẳng thể tồn tại được ở Châu Âu mãi cho đến tận thế kỷ 13 với những công trình toán học đầu tiên của Fibonacci thì lại rất phát triển ở những nước Hồi giáo. Người Hồi giáo thời kỳ này có đến 10 phát minh khoa học lớn, trong đó có 2 phát kiến quan trọng về quang học làm tiền đề cho việc sản xuất ra thủy tinh và kính; có tác động rất lớn tới việc đọc sách của những người lớn tuổi thời kỳ sau. Những kiến thức của người đạo Hồi là tiền đề quan trọng khi chúng được truyền bá và sử dụng trong các trường đại học đầu tiên ở Châu Âu sau này. Người Hồi giáo rất thích sách cũng như việc sưu tập chúng. Hệ thống thư viện công cộng, cửa hàng bán sách và trường học như thời Hy-La không thể tồn tại ở Châu Âu nhưng lại rất phát triển ở các nước đạo Hồi thời kỳ này vì nhu cầu về sách và tri thức rất lớn. Riêng ở Baghdad vào thế kỷ thứ 10 có đến hơn 100 cửa hiệu bán sách tồn tại. Những quý tộc Hồi giáo thời kỳ này thường đầu tư rất lớn vào sách và sở hữu một số lượng sách khổng lồ. Bộ sưu tập lớn nhất là của Ibn Abbad với một kho sách mà phải cần đến 400 con lạc đà mới tải hết, ước chừng khoảng 4000 quyển. Có những quý tộc sẵn sàng bỏ ra tới 10,000 dirhem để mua và sở hữu sách; số tiền tương đương với việc họ đầu tư vào trang thiết bị; vũ khí hay lạc đà và vật nuôi. Điều đó chứng tỏ giới quý tộc và trí thức sẵn sàng chi nhiều tiền thế nào để trả công cho những người sao chép sách cho họ. Tuy vậy họ cũng bị chỉ trích vì việc dựa dẫm quá nhiều vào thư viện sách thay vì trí nhớ của mình. Thời kỳ rực rỡ của người Hồi giáo chấm dứt vào khoảng đầu thế kỷ 13, khi quân đội Mông Cổ đánh chiếm và phá hủy nền kinh tế; các công trình kiến trúc hay giết hàng trăm nghìn người đạo Hồi. Thời kỳ vàng của người đạo Hồi coi như chấm dứt. Trong khi đó ở Châu Âu thời kỳ đầu thế kỷ 13 xã hội đã có những chuyển biến theo hướng tích cực hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho tri thức và những cải tiến nhanh chóng diễn ra. Trong suốt 700 năm, từ 500-1200, nhà thờ là nơi có quyền lực tuyệt đối, ảnh hưởng và quyết định mọi mặt đời sống của người dân khắp Châu Âu. Một trong số những sự kiểm soát đó chính là sự kiểm soát việc sản xuất sách và truyển bá thông tin trong xã hội. Thời kỳ này, nhà thờ và tu viện là nơi duy nhất sách được làm ra. Một trong các công việc chính của các tu sĩ là việc chép lại các bản thảo tôn giáo, tín ngưỡng hoặc một số ít các tài liệu khác. Giáo hội là nơi quyết định quyển sách nào được chép ra; tu sĩ nói riêng và mọi người nói riêng không có quyền tự sao chép theo những quyển sách mà mình mong muốn. Tu sĩ cũng không được trao đổi bản thảo chép tay cho người khác hay từ chối khi nhận được lệnh. Nếu không họ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Trong sự quản lý nghiêm ngặt đó của nhà thờ, không nhiều phát minh liên quan đến tri thức được ra đời ở thời kỳ này. Đột phá lớn nhất chính là sự chuyển dịch dần từ văn hóa nói; diễn thuyết và truyền miệng trong một nhóm người sang đọc sách một một cách yên tĩnh và một mình. Sự chuyển dịch này bắt nguồn từ sự ra đời của dấu cách trong khi viết. Thừa hưởng từ nền văn minh Hy-La, sách của thời kỳ trước là những chuỗi ký tự dài lê thê, không biết bắt đầu và kết thúc khi nào, được gọi dưới một cái trên đặc trưng “Scriptio continua – Continuous script” vốn được thừa hưởng từ kiểu viết cuneiform của người Summer và sau đó là hệ chữ alphabet chỉ toàn phụ âm của người Phoenician. Đọc sách thời kỳ trước là kiểu đọc thành tiếng to cho nhiều người cùng nghe; vì văn hóa lời nói rất phát triển.
- Một văn bản chữ Latin theo cách “Scriptio continua” Tuy nhiên vào thế kỷ thứ 7, một tu sĩ người Ai Len đã phát minh ra cách thức viết có dấu cách để phân biệt rõ từ nọ và từ kia. Ai Len hay nước Anh nói chung vốn chưa bao giờ là thuộc địa của Hy Lạp hay đế chế La Mã, ít chịu ảnh hưởng từ văn hóa nói của nền văn minh Hy-La nên việc phải đọc to một văn bản toàn chữ dài lê thê, vừa đọc vừa phải đoán từ này kết thúc ở đâu, câu này kết thúc ở đâu là một cực hình và cũng tốn nhiều trí năng. Tuy nhiên cũng phải đến tận thế kỷ 11 phát minh này mới được áp dụng phổ biến trong cách viết sách trong các nhà thờ trên toàn bộ châu Âu. Và việc đọc sách yên lặng này cũng là một yếu tố quan trọng dẫn đến nhu cầu sách ở châu Âu tăng lên rất nhiều, dẫn đến việc nhà thờ không thể kiểm soát hết được việc sản xuất và mua bán sách. Thêm một yếu tố chủ chốt khác đó là sang thế kỷ 12, với rất nhiều biến động về kinh tế chính trị đã khiến đời sống cư dân châu Âu bắt đầu thay đổi. Những thành phố lớn bắt đầu được hình thành, giai cấp giàu nghèo cũng bắt đầu được phân chia rõ rệt hơn. Các thành phố lớn nhất thời kỳ này phải kể đến Venice và Genoa có khoảng 100
- nghìn người; Florence có khoảng 90 nghìn; Palermo và Pisa khoảng 50 nghìn; Paris khoảng 80 nghìn; Bruges và London khoảng 35 nghìn. Nền kinh tế mới đòi hỏi một hệ thống giáo dục hoàn toàn mới, có khả năng đào tạo ra những người làm trong các ngành y dược, thương mại, luật hay nhà thờ. Các trường đại học đầu tiên được ra đời. Mở đầu là trường Bologna năm 1088 rồi đến Paris và Oxford. Sang thế kỷ 13, xuất hiện thêm nhiều trường có tiếng khác như Cambridge, Montpellier, Toulouse, Angers, Padua, Naples, Salamanca, Valladolid. Rất nhiều trường trong số này vẫn tồn tại đến tận bây giờ. Việc ra đời trường học khiến các sinh viên và giáo sư rất cần sách trong việc dạy và học. Các hiệu sách nằm gần trường đại học được ra đời nhằm cung cấp sách cho 2 đối tượng trên, mặc dù giá và nội dung vẫn do trường học kiểm soát. Từ khi trường đại học đầu tiên ra đời, một làn sóng kiến thức từ các nước Hồi giáo tràn vào Châu Âu,và trong 2 thể kỷ; đã có vài trăm đầu sách tiếng Do Thái và Ả rập được dịch ra và lưu hành trong các trường đại học. Một phòng trong đại học Bologna Việc văn hóa đọc sách yên lặng phổ biến đã dẫn đến rất nhiều cải tiến trong cấu trúc của sách được ra đời ở thể kỷ 14 theo chiều hướng cải thiện hiệu năng và tốc độ đọc. Ở thể kỷ 13, sách đã bắt đầu được phân chia thành các chapter, và mục lục cũng đã được ra đời. Dấu chấm, dấu phẩy và dấu ngoặc đơn đều ra đời trong thời kỳ này. Dấu ngoặc đơn được sử dụng thay cho phương thức sử dụng mực đỏ để gạch chân đoạn cần ghi chú là một điều rất được chào đón, nhất là với công nghệ in ra đời sau này. Rồi tiếp đến là tiêu đề của chương, mục lục về nội dung của chương hay tiêu đề từng trang sách tiếp tục được sinh ra. Đến năm 1400, cấu trúc của sách đã hầu như giống với cấu trúc của sách hiện đại. Sách tham khảo cũng bắt đầu xuất hiện. Văn hóa đọc mới cũng khiến kiến trúc của thư viện phải thay đổi. Nếu như trước đây, thư viện phải chia làm nhiều phỏng nhỏ để việc diễn thuyết của nhóm nọ không ảnh hưởng đến nhóm kia thì nay thư viện đã được thiết kế theo hướng có không gian chung rất lớn và thoáng.
- Sách ở thời kỳ này đã biết sử dụng những cú pháp như chấm câu Công nghệ in hàng loạt của Gutenberg Ý tưởng về việc sản xuất hàng loạt và nhanh chóng một văn bản, thông tin đã có từ rất lâu. Người Summer đã chế tạo ra những bản khắc bằng gỗ hay đá để ấn lên những miếng đất sét vẫn còn đang ướt để sản xuất hàng loạt một văn bản nào đó, thông thường liên quan đến văn chương và thơ ca. Công nghệ in tiếp theo đó là bôi mực lên một bản khắc bằng gỗ hoặc kim loại, rồi sau đó in lên mặt một tờ giấy. Kỹ thuật này được người Trung Quốc phát minh vào khoảng năm 200 SCN. Kỹ thuật này được sử dụng rộng rãi khắp thế giới cổ đại, chủ yếu nhằm in ra các bức tranh hay hình minh họa.
- Một bản khắc gỗ với những họa tiết của người Ấn Độ Công nghệ in sắp chữ (movable type) cũng được phát minh lần đầu tiên ở Trung Quốc vào năm 1040 SCN dưới thời Bắc Tống. Vật liệu để làm khuôn in là ban đầu bằng gỗ, sau đó được chuyển sang là gốm. Khuôn in làm bằng kim loại đầu tiên được Hàn Quốc sử dụng vào năm 1234 và sau đó được nhà Tống sử dụng để in tiền giấy. Ở châu Âu, Gutenberg là người sử dụng công nghệ in sử dụng khuôn kim loại đầu tiên vào năm 1450. Mặc dù phát minh ra công nghệ in ấn rất sớm trước Gutenberg nhưng việc in ấn ở các nước Á Đông không thể phát triển mạnh và nhanh được bởi lý do chủ yếu là trong khi châu Âu sử dụng hệ thống ký tự Latin gồm 26 chữ cái thì các nước Châu Á hầu hết sử dụng chữ tượng hình với hàng nghìn ký tự. Việc in ấn đại trà sử dụng công nghệ in dùng khuôn và sắp chữ là một việc rất khó khả thi với các nước Châu Á. Ra đời vào đúng thời điểm nhu cầu sách đang rất cao, phát minh của Gutenberg nhanh chóng được khắp Châu Âu đón nhận và sử dụng. 30 năm sau, 1480 có đến 110 thị trấn ở Châu Âu đã sử dụng máy in của Gutenberg mà tập trung nhất là ở Venice với 156 đầu sách được in ra. Con số này của các thành phố khác là Milan (82), Augsburg (67), Nuremberg (53), Florence (48), Cologne (44), Paris (35) và Rome (34). Trong 3 năm từ 1495-1497, có 1821 đầu sách được in, trong đó có 24.5% là từ Venice. Đến năm 1500, đã có 236 thị trấn có máy in và 35 nghìn đầu sách đã được xuất bản. Trước
- năm 1500, hầu hết sách đều không có đánh số trang. Nhưng đến năm 1600, đã có 4/5 số sách có sử dụng số của người Ả rập ở cuối trang sách của mình. So sánh giữa bản sách viết tay và bản in từ máy của Gutenberg Nhu cầu thông tin của con người ngày càng cao. Đến khoảng đầu những năm 1600 đã xuất hiện những tờ báo in để cung cấp thông tin nhanh chóng đến người dân. Máy in sử dụng động cơ hơi nước ra đời năm 1814 và công nghệ sản xuất giấy mới ra đời năm 1802 càng khiến việc in ấn dễ dàng với chi phí rẻ hơn. Trong vòng 20 năm từ 1820 đến 1840, ở Anh đã có đến 2000 tờ báo và tạp chí mới xuất hiện. Cùng với đó là tỷ lệ biết chữ tăng lên đáng kể. Đến năm 1840, ở Anh đã có khoảng 68% đàn ông và 52% phụ nữ biết đọc biết viết. Phát minh của Gutenberg đã được đánh giá là một trong những phát minh quan trọng của lịch sử loài người, ra đời rất đúng thời điểm và là động lực chính dẫn đến các cuộc cách mạng Phục Hưng, Khai sáng hay cách mạng công nghiệp sau này; đưa nền văn minh châu Âu bước vào thời kỳ phát triển thịnh vượng mới tương tự như nền văn minh Hy-La trước đó 2000 năm. 2. Vai trò, tác dụng của sách trong đời sống xã hội Sách chính là sản phẩm của con người và xã hội: Trong sách có chứa vô vàn kiến thức, được ghi chép lại trong toàn nhân loại ở từng thời kỳ, từng nền văn hóa trên thế giới. Sách là công cụ thể hiện các thành tựu của con người cố gắng đạt được trong mỗi thời kỳ, từ lịch sử khai sinh đến xã hội phát triển của ngày nay. Sách cũng là phương tiện cất giữ những kho tàng về di sản của tinh thần vô giá, mà nhân loại đã cố gắng gây dựng từ xưa đến nay. Với nguồn kiến thức, sách được xem là chìa khóa vàng giúp mở ra cánh của ước mơ cho mỗi người. Nhưng để điều đó thành hiện thực, bản thân người đọc sách cần biết cách áp dụng nó. Sách còn là một món ăn tinh thần của loài người, nó chính là kho tàng của tri thức mà nhân loại dùng để miêu tả lại tất cả các lĩnh vực. Khi mọi người đọc sách, thì mỗi lĩnh vực sẽ có cung cấp một dạng tài liệu, thông tin cũng như kiến thức khác nhau có liên quan, để giúp con người hiểu hơn vấn đề.
- Điều cuối cùng mà sách tạo dựng được vị thế của riêng mình, bởi nó là sản phẩm của tinh thần phi vật thể. Nghĩa là sản phẩm đó do con người tạo nên, nó là khu báu của kiến thức nhân loại. Nếu ai hỏi sách là gì? Không hiểu được xâu xa những điều chúng tôi nói ở trên thì các bạn có thể hiệu ngắn gọn, nó chính là tổng hợp các tờ giấy có chữ, có hình ảnh việc bằng tay, in ra hoặc là buộc, dán lại với nhau thành 1 phía. Mỗi tờ trong một cuốn sách sẽ gọi là trang. Hiện nay sách có sách in ấn, cũng có sách điện tử còn gọi là Ebook. Nội dung trong sách rất đa dạng, văn hóa, tinh thần, kinh tế, xã hội… đều có. Những người viết ra sách, có thể gọi là biên tập, nhà văn, nhà thơ,… tất cả đó đều là người sáng tác nghệ thuật. Họ khẳng định tài năng của mình, giúp nhân loại hiểu rõ hơn những gì đã trải qua, đang hiện diện. Từ những gì mà chúng tôi chỉ ra như vậy, chắc hẳn các bạn đã nắm rõ hơn thế nào là sách rồi đúng không. Để hiểu cặn kẽ, biết rõ tại sao nó lại quan trọng trong đời sống của xã hội phát triển, của tri thức thì các bạn hãy cùng chúng tôi đến với những phần tiếp theo của bài viết, với nội dung về vai trò của sách, cũng như cách đọc sách hiệu quả nhé. Chương 2: Qui trình xuất bản sách 1. Quyết định xuất bản Tác giả hoặc cá nhận, tổ chức sở hữu hợp pháp đối với tác phẩm, cuốn sách chọn một nhà xuất bản có chức năng phù hợp với nội dung tác phẩm, cuốn sách và gửi bản thảo (in ra trên giấy A4 hoặc bản file) cho Nhà xuất bản. Nhà xuất bản đọc duyệt, biên tập nội dung theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. Nhà xuất bản khi kiểm duyệt nội dung thấy đáp ứng được quy định, thực hiện đăng ký xuất bản với Bộ Thông tin và Truyền thông theo mẫu quy định và nhà xuất bản chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung đăng ký xuất bản. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký xuất bản, Bộ Thông tin và Truyền thông phải xác nhận đăng ký xuất bản bằng văn bản, cấp số xác nhận đăng ký xuất bản từng tác phẩm, tài liệu hoặc xuất bản phẩm tái bản và cấp mã số sách tiêu chuẩn quốc tế (ISBN); trường hợp không xác nhận đăng ký phải có văn bản trả lời nêu rõ lý do Văn bản xác nhận đăng ký xuất bản là căn cứ để nhà xuất bản ra quyết định xuất bản đối với từng tác phẩm, tài liệu, xuất bản phẩm tái bản. Thời hạn để ra quyết định xuất bản chậm nhất là ngày 31 tháng 12 của năm xác nhận đăng ký; trường hợp không thực hiện việc xuất bản, nhà xuất bản phải báo cáo với Bộ Thông tin và Truyền thông trước ngày 31 tháng 3 của năm liền sau năm xác nhận đăng ký và số xác nhận đăng ký xuất bản, mã số sách tiêu chuẩn quốc tế (ISBN) đã được cấp không còn giá trị thực hiện. Quyết định xuất bản được kí bởi Giám đốc hoặc Phó giảm đốc được ủy quyền của nhà xuất bản, và có thời hạn ghi rõ trên giấy phép, nơi chỉ định in xuất bản phẩm. 2. Liên kết xuất bản Nhà xuất bản được liên kết với tổ chức, cá nhân (gọi chung là đối tác liên kết) sau đây để xuất bản đối với từng xuất bản phẩm:
- a) Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; b) Nhà xuất bản, cơ sở in xuất bản phẩm, cơ sở phát hành xuất bản phẩm; c) Tổ chức khác có tư cách pháp nhân Hình thức liên kết của nhà xuất bản với đối tác liên kết bao gồm: a) Khai thác bản thảo; b) Biên tập sơ bộ bản thảo; c) In xuất bản phẩm; d) Phát hành xuất bản phẩm. Việc liên kết chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Có văn bản chấp thuận của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm, tài liệu được liên kết xuất bản; b) Có hợp đồng liên kết xuất bản giữa nhà xuất bản và đối tác liên kết. Hợp đồng liên kết phải có các nội dung cơ bản theo quy định của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; c) Trường hợp liên kết biên tập sơ bộ bản thảo, ngoài việc phải có đủ điều kiện quy định tại điểm a và điểm b khoản này, đối tác liên kết phải có biên tập viên. Đối với tác phẩm, tài liệu có nội dung về lý luận chính trị; lịch sử, tôn giáo, chủ quyền quốc gia, hồi ký thì nhà xuất bản không được liên kết biên tập sơ bộ bản thảo. 3. Chế bản điện tử Sau khi có quyết định xuất bản, dữ liệu tác phẩm, cuốn sách được đánh máy và trình bày lại theo khổ sách được chọn in, và được in ra trên một loại giấy gọi là giấy can ((tiếng Pháp: Papier calque - giấy để sao chép, đồ lại) là giấy có khả năng thấu quang cao, nghĩa là có thể cho ánh sáng đi qua) và chuyển đến nhà in. 4. Thiết kế bìa Bìa 1 (bìa trước của cuốn sách) phải ghi rõ tên sách, tên tác giả hoặc người biên soạn, người chủ biên (nếu có), họ tên người dịch (nếu là sách dịch), người phiên âm (nếu là sách phiên âm từ chữ Nôm); tên nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp giấy phép xuất bản. Bìa 4 phải ghi giá bán lẻ đối với sách kinh doanh; đối với sách do Nhà nước đặt hàng phải ghi là “sách Nhà nước đặt hàng”; đối với sách không kinh doanh phải ghi là “sách không bán”, mã vạch chuẩn,…. Tác giả được in hình ở bìa 4 để giới thiệu. Bìa cấm quảng cáo bất kì loại gì. Ghi trên cùng một trang sách: Họ tên và chức danh của tổng giám đốc (giám đốc) chịu trách nhiệm xuất bản; họ tên và chức danh của tổng biên tập chịu trách nhiệm nội dung; họ tên biên tập viên; khuôn khổ sách, số xác nhận đăng ký xuất bản, số quyết định xuất bản của tổng giám đốc (giám đốc) nhà xuất bản hoặc số giấy phép xuất bản của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản; họ tên người trình bày, minh họa; họ tên người biên tập kỹ thuật, họ tên người sửa bản in; số lượng in; tên và địa chỉ cơ sở in; thời gian nộp lưu chiểu; mã số sách tiêu chuẩn quốc tế (ISBN); 5. In – gia công – đóng gói Cơ sở in chỉ được nhận in xuất bản phẩm theo quy định sau đây: a) Đối với xuất bản phẩm thực hiện thông qua nhà xuất bản thì phải có quyết định xuất bản (bản chính) và bản thảo có chữ ký duyệt của tổng giám đốc (giám đốc) nhà xuất bản;
- b) Đối với tài liệu không kinh doanh của cơ quan, tổ chức Việt Nam, tổ chức nước ngoài không thực hiện qua nhà xuất bản thì phải có giấy phép xuất bản (bản chính) và bản thảo có đóng dấu của cơ quan cấp giấy phép quy định tại Điều 25 của Luật xuất bản; c) Đối với xuất bản phẩm in gia công cho nước ngoài phải có giấy phép in gia công và bản mẫu xuất bản phẩm đặt in gia công có đóng dấu của cơ quan cấp giấy phép quy định tại Điều 34 của Luật xuất bản. Việc nhận in xuất bản phẩm phải có hợp đồng theo quy định của pháp luật giữa cơ sở in với nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh. Số lượng xuất bản phẩm được in phải được thể hiện trong hợp đồng và phải phù hợp với quyết định xuất bản hoặc giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh. 6. Nộp xuất bản phẩm lưu chiểu và nộp xuất bản phẩm cho Thư viện Quốc gia Việt Nam Tất cả xuất bản phẩm phải nộp lưu chiểu cho cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản chậm nhất là 10 ngày trước khi phát hành. Việc nộp lưu chiểu xuất bản phẩm được thực hiện theo quy định sau đây: a) Nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp giấy phép xuất bản phải nộp ba bản cho Bộ Thông tin và Truyền thông; trường hợp số lượng in dưới ba trăm bản thì nộp hai bản b) Cơ quan, tổ chức được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy phép xuất bản phải nộp hai bản cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và một bản cho Bộ Thông tin và Truyền thông; trường hợp số lượng in dưới ba trăm bản thì nộp một bản cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, một bản cho Bộ Thông tin và Truyền thông; c) Đối với xuất bản phẩm tái bản không sửa chữa, bổ sung thì nộp một bản cho Bộ Thông tin và Truyền thông; trường hợp có sửa chữa, bổ sung thì thực hiện theo quy định tại điểm a và điểm b khoản này; d) Xuất bản phẩm có nội dung thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật thì chỉ nộp tờ khai lưu chiểu; Trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày xuất bản phẩm được phát hành, nhà xuất bản, cơ quan, tổ chức được phép xuất bản phải nộp ba bản cho Thư viện Quốc gia; trường hợp số lượng in dưới ba trăm bản thì nộp hai bản. 7. Phát hành Sách sau khi được in ra, được kiểm tra chất lượng, và hoàn thành nộp lưu chiểu. Tác phẩm, cuốn sách chỉ được phát hành khi được nhà xuất bản ra quyết định phát hành. Mọi cá nhân và tổ chức đều có thể xuất bản tác phẩm, sách của mình, miễn là tuân thủ theo đúng các quy định của Luật xuất bản Việt Nam, cụ thể thực hiện đúng quy trình xuất bản một tác phẩm, sách tại Việt Nam như đề cập trên. Chương 3: Lịch sử sách Việt Nam 1. Mục tiêu: Giúp học sinh hiểu đặc điểm và quá trình phát triển của sách Việt Nam 2. Nội dung chương:
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng lịch sử Việt Nam (1945 - 1954)
54 p | 1551 | 336
-
Bài giảng: Lịch sử xã hội học (Th.S. Ngô Thị Kim Dung)
123 p | 756 | 116
-
Lịch sử địa phương: Phần 2 - Nguyễn Cảnh Minh
41 p | 428 | 59
-
Bài giảng Lịch sử hành chính Nhà nước Việt Nam: Chương 6 - ThS. Nguyễn Xuân Tiến
130 p | 240 | 37
-
Bài giảng Lịch sử hành chính Nhà nước Việt Nam: Chương 3 - Hành chính nhà nước thời nhà Hồ - ThS. Nguyễn Xuân Tiến
33 p | 179 | 28
-
Bài giảng Lịch sử hành chính Nhà nước Việt Nam: Chương 3 - Hành chính nhà nước thời nhà Đinh - ThS. Nguyễn Xuân Tiến
76 p | 142 | 25
-
Đề cương bài giảng: Chế độ ruộng đất trong lịch sử cổ - trung đại Việt Nam
9 p | 189 | 22
-
Tài liệu ôn tập phần Lịch sử Đảng
17 p | 130 | 20
-
CHƯƠNG IV: VIỆT NAM Ở NỬA ĐẦU TK XIX BÀI 25: TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, VĂN HÓA DƯỚI TRIỀU NGUYỄN ( NỬA ĐẦU TK XIX)
10 p | 180 | 14
-
Bài giảng Lịch sử các học thuyết kinh tế - Chương 6: Học thuyết J.M.Keynes và trường phái Keynes
20 p | 96 | 10
-
Bài giảng Di tích lịch sử văn hóa (Ngành: Quản lý văn hóa) - Trường Cao đẳng Lào Cai
24 p | 55 | 7
-
Bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: Chương 3 - Tạ Châu Phú
131 p | 57 | 6
-
Trần Nhân Tông (1279 – 1293)
7 p | 72 | 5
-
Phương pháp dạy học Lịch sử theo chuyên đề: Phần 1
262 p | 24 | 3
-
Kỷ yếu lịch sử hình thành vùng đất An Giang: Phần 1
46 p | 22 | 3
-
Ebook Lịch sử Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Việt Bắc (1965-2015): Phần 2
120 p | 9 | 2
-
Bài giảng Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: Chương 1 - Tạ Châu Phú
93 p | 10 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn