intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Lý thuyết tài chính - ứng dụng (Nghề: Kế toán doanh nghiệp - Trình độ: Trung cấp) - Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:74

25
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Bài giảng Lý thuyết tài chính - ứng dụng (Nghề: Kế toán doanh nghiệp - Trình độ: Trung cấp) - Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu" có cấu trúc gồm 3 chương. Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tài chính; Chương 2: Tín dụng trong nền kinh tế thị trường; Chương 3: Tài chính doanh nghiệp. Mời các bạn cùng tham khảo giáo trình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Lý thuyết tài chính - ứng dụng (Nghề: Kế toán doanh nghiệp - Trình độ: Trung cấp) - Trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Bạc Liêu

  1. UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH BAÏC LIEÂU TRÖÔØNG CĐ KINH TEÁ – KYÕ THUAÄT BÀI GIẢNG LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH – TÍN DỤNG NGHỀ: KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP TRÌNH ĐỘ: TRUNG CẤP GVBS: LƯU THỊ MINH THƯ Bạc Liêu, năm 2018 (TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ) 0
  2. MỤC LỤC Trang Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH 3 1. Tiền đề ra đời, tồn tại và phát triển cuả tài chính 3 1.1. Tiền đề sản xuất hàng hoá và tiền tệ 3 1.2. Tiền đề nhà nước 3 2. Bản chất cuả tài chính 3 3. Chức năng của tài chính 3 3.1. Chức năng phân phối 3 3.2. Chức năng giám đốc 4 4. Hệ thống tài chính của Việt Nam 4 4.1. Căn cứ để xác định các khâu của hệ thống tài chính 5 4.2. Khát quát nhiệm vụ của các khâu tài chính 5 Câu hỏi 5 Chương 2. TÍN DỤNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 7 1. Khái niệm, chức năng và vai trò của tín dụng 7 1.1. Khái niệm 7 1.2. Chức năng của tín dụng 7 1.3. Vai trò của tín dụng 8 2. Các hình thức tín dụng 9 2.1. Tín dụng thương mại 9 2.2. Tín dụng ngân hàng 10 2.3. Tín dụng Nhà nước 10 2.4. Tín dụng tiêu dùng 10 3. Lãi suất tín dụng 10 3.1. Định nghĩa 11 3.2. Nguyên tắc xác định lãi suất 11 3.3. Các loại lãi suất 11 3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất 12 3.5. Ý nghĩa của lãi suất tín dụng 14 CÂU HỎI 15 Chương 3. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1. Tài sản cố định và vốn cố định của doanh nghiệp 1
  3. 1.1. Tài sản cố định 1.2. Vốn cố định 1.3. Khấu hao tài sản cố định 2. Vốn lưu động của doanh nghiệp 2.1. Khái niệm và nội dung vốn lưu động 2.2. Xác định nhu cầu vốn lưu động 3. Chi phí - Doanh thu - Lợi nhuận của doanh nghiệp 3.1. Chi phí và giá thành của doanh nghiệp 3.2. Doanh thu của doanh nghiệp 3.3. Lợi nhuận của doanh nghiệp Câu hỏi và bài tập TÀI LIỆU THAM KHẢO 2
  4. Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH Mục tiêu: - Nêu bản chất của tài chính, trình bày được mối quan hệ giữa các khâu của hệ thống tài chính của Việt nam. - Phân tích được chức năng và vai trò của tài chính đối với nền kinh tế, từ đó thấy được tầm quan trọng của nó đối với mọi hoạt động của nền kinh tế. - Vận dụng kiến thức vào học các mô đun kết toán chuyên ngành - Thái độ học tập nghiêm tức, tuân thủ các quy định của pháp luật về tài chính hiện hành của luật thuế Việt Nam. 1. Tiền đề ra đời, tồn tại và phát triển cuả tài chính 1.1. Tiền đề sản xuất hàng hoá và tiền tệ - Sự ra đời của nền sản xuất hàng hóa tiền tệ làm xuất hiện các nguồn tài chính: Đó là của cải của xã hội được biểu hiện dưới hình thức giá trị. Hoạt động phân phối của cải xã hội trước đây được thực hiện dưới hình thái hiện vật nay chuyển sang thực hiện dưới hình thái giá trị và đó là biểu hiện hoạt động phân phối của tài chính. - Nền sản xuất hàng hóa tiền tệ không ngừng phát triển, các mối quan hệ trong đời sống kinh tế xã hội cũng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn và chính điều đó làm cho các quan hệ tài chính càng trở nên đa dạng phong phú hơn, hoạt động của tài chính có bước phát triển cao hơn và ngược lại. 1.2. Tiền đề nhà nước - Nhà nước ra đời, tồn tại gắn liền với xã hội có giai cấp, bằng quyền lực chính trị của mình nhà nước có quyền quyết định việc in tiền, đúc tiền, quy định mệnh giá của đồng tiền trong toàn bộ nền kinh tế, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động phân phối dưới hình thức giá trị của tài chính. - Nhà nước tham gia trực tiếp vào việc huy động, phân phối và sử dụng một bộ phận quan trọng của cải xã hội để đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình bằng nhiều hình thức khác nhau theo nguyên tắc bắt buộc hay tự nguyện như: thu thuế, phát hành công trái, trái phiếu, tín phiếu … 2. Bản chất cuả tài chính Bản chất của tài chính được đặc trưng bằng sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ chủ yếu với chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ đại diện cho những sức mua nhất định của các chủ thể kinh tế xã hội. Tài chính phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn lực tài chính thông qua việc tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau trong đời sống kinh tế xã hội. 3. Chức năng của tài chính 3.1. Chức năng phân phối Chức năng phân phối của tài chính là sử dụng tài chính để phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Nhờ chức năng phân phối của tài chính, các nguồn lực tài 3
  5. chính được đưa vào nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau, thỏa mãn những lợi ích khác nhau trong đời sống kinh tế xã hội. - Đối tượng của phân phối: là toàn bộ của cải xã hội dưới hình thức giá trị, là tổng thể các nguồn tài chính, có trong xã hội - Chủ thể phân phối: là người có thể tham gia trực tiếp vào quá trình phân phối các nguồn lực tài chính trong xã hội, do đó cần phải thỏa mãn các tiêu thức sau: + Có quyền sở hữu các nguồn tài chính + Có quyền sử dụng các nguồn tài chính + Có quyền lực chính trị + Có sự ràng buộc của các quan hệ xã hội - Kết quả phân phối: là sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định cho các mục đích khác nhau của các chủ thể trong xã hội - Đặc điểm của chức năng phân phối: + Luôn gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. + Phân phối của tài chính chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, không kèm theo sự thay đổi về hình thái giá trị. + Phân phối của tài chính bao hàm cả quá trình phân phối lần đầu và quá trình phân phối lại 3.2. Chức năng giám đốc Là sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra giám đốc bằng đồng tiền của hoạt động phân phối dưới hình thức giá trị thông qua việc xem xét tính cần thiết, quy mô và hiệu quả của việc phân phối gắn với việc tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. - Đối tượng giám đốc: là toàn bộ quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, quá trình vận động của các nguồn tài chính. - Chủ thể giám đốc: cũng là chủ thể của phân phối, đó là chủ sở hữu của các quỹ tiền tệ. - Kết quả giám đốc: là đảm bảo tính hợp lý của phân phối, đảm bảo sự đúng đắn của việc tạo lập và tính hiệu quả của việc sử dụng các quỹ tiền tệ. - Đặc điểm của chức năng giám đốc: + Chức năng giám đốc của tài chính không đồng nhất với mọi khả năng giám đốc của đồng tiền, chủ yếu sử dụng chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ của đồng tiền. + Chức năng giám đốc của tài chính có tính thường xuyên, liên tục, toàn diện, rộng rãi, kịp thời. 4. Hệ thống tài chính của Việt Nam 4.1. Căn cứ để xác định các khâu của hệ thống tài chính - Sự vận động của các nguồn tài chính cùng với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Mỗi khâu tài chính phải là một tụ điểm của các nguồn tài chính, có các quỹ tiền tệ đặc thù. 4
  6. - Tính đồng nhất về hình thức các quan hệ tài chính và tính mục đích của quỹ tiền tệ trong lĩnh vực hoạt động. - Sự hoạt động của các chủ thể kinh tế xã hội. - Các khâu tài chính phải có những nét tương đồng, phù hợp với hệ thống tài chính quốc tế. Từ những căn cứ trên, hệ thống tài chính nước ta bao gồm các khâu: + Tài chính nhà nước + Tài chính doanh nghiệp + Tài chính của các khâu tài chính trung gian + Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội 4.2. Khát quát nhiệm vụ của các khâu tài chính 4.2.1. Tài chính nhà nước Đặc trưng của TCNN là sự tồn tại của một số quỹ tiền tệ lớn, gắn liền với việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước. TCNN đảm bảo cung ứng nguồn tài chính đáp ứng yêu cầu tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo quốc phòng an ninh, thực hiện các chức năng quản lý kinh tế xã hội của nhà nước, thực hiện đường lối đối ngoại của nhà nước … 4.2.2. Tài chính doanh nghiệp Đặc trưng của TCDN là gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ. TCDN là nơi thu hút nguồn tài chính từ các khâu khác để hoạt động, đồng thời cũng chính là nơi tạo ra nguồn tài chính để cung ứng cho các khâu tài chính khác. 4.2.3. Tài chính của các khâu tài chính trung gian Đặc trưng chung của các khâu tài chính trung gian là gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ như là một tụ điểm của các nguồn tài chính trong quá trình vận động trước khi được sử dụng cho các mục đích tích lũy hay tiêu dùng của các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. 4.2.4. Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội có đặc trưng cơ bản là gắn liền với các quỹ tiền tệ được sử dụng chủ yếu cho mục đích tiêu dùng. Trong trường hợp chưa sử dụng, tạm thời nhàn rỗi thì có thể dùng tham gia vào thị trường tài chính như gửi các tổ chức tín dụng, đầu tư vào các loại chứng khoán hoặc tham gia trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. CÂU HỎI Câu 1. Trình bày các chức năng của tài chính và nêu mối quan hệ của chức năng tài chính. Câu 2. Nêu bản chất của tài chính và trình bày các mối quan hệ trong bản chất của tài chính. Câu 3. Nêu khái quát nhiệm vụ của các khâu tài chính trong hệ thống tài chính Việt Nam. 5
  7. Chương 2. TÍN DỤNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Mục tiêu: - Trình bày được nội dung vai trò, chức năng của tín dụng, trong nền kinh tế thị trường. - Nhận biết và phân tích được ưu điểm, hạn chế của mỗi hình thức tín dụng từ đó vận dụng trong từng trường hợp cụ thể. - Giải thích được các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng và xác định được các hình thức tín dụng. - Tiếp nhận và phân tích những nội dung tài chính, tín dụng, của doanh nghiệp một cách cẩn thận, chính xác phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp trong từng thời điểm cụ thể. - Chủ động nghiên cứu, tiếp nhận những kiến thực mới để áp dụng vào công việc trong thực tiễn với trách nhiệm cao nhất 1. Khái niệm, chức năng và vai trò của tín dụng 1.1. Khái niệm Tín dụng theo pháp luật ngân hàng Việt Nam ghi nhận rằng, tín dụng là quan hệ vay (mượn) dựa trên cơ sở tin tưởng và tín nhiệm giữa bên cho vay (mượn) và bên đi vay (mượn). Theo đó, bên cho vay chuyển giao một lượng vốn tiền tệ (hoặc tài sản) để bên vay sử dụng có thời hạn. Khi đến hạn, bên vay có nghĩa vụ hoàn trả vốn (tài sản) ban đầu và lãi suất. 1.2. Chức năng của tín dụng 1.2.1. Chức năng phân phối lại tài nguyên Tín dụng là sự vận động của vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác. Chính nhờ sự vận động của tín dụng mà các chủ thể vay vốn nhận được một phần tài nguyên của xã hội phục vụ cho sản xuất hoặc tiêu dùng. Phân phối tín dụng được thực hiện bằng hai cách: - Phân phối trực tiếp: là việc phân phối vốn từ chủ thể có vốn tạm thời chưa sử dụng sang chủ thể trực tiếp sử dụng vốn đó là kinh doanh và tiêu dùng. Phương pháp phân phối này được thực hiện trong quan hệ tín dụng thương mại và việc phát hành trái phiếu của Nhà nước và các công ty. - Phân phối gián tiếp: Là việc phân phối được thực hiện thông qua các tổ chức trung gian, như ngân hàng, HTX tín dụng, Công ty Tài chính... Trong nền kinh tế hiện đại, phân phối vốn tín dụng qua các tổ chức trung gian chiếm vị trí quan trọng nhất. Một mặt các tổ chức trung gian tập trung vốn tiền tệ của các doanh nghiệp và cá nhân để làm nguồn vốn cho vay, mặt khác chúng phân phối nguồn vốn đó dưới hình thức cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, cá nhân và một phần cho kho bạc Nhà nước. Giữa phân phối qua tín dụng và phân phối qua Ngân sách có những điểm khác nhau: Đối với tín dụng phân phối trên cơ sở hoàn trả, phân phối vốn liên quan đến thu 6
  8. nhập quốc dân, và tổng sản phẩm xã hội, phân phối chủ yếu cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Trong khi ngân sách phân phối vốn mang tính chất cấp phát, phân phối chủ yếu liên quan đến thu nhập quốc dân và phân phối chủ yếu cho lĩnh vực phi sản xuất. 1.2.2. Tạo cơ sở để lưu thông dấu hiệu trị giá (tiền không đủ giá). Trong thời kỳ đầu lưu thông là hoá tệ, nhưng khi các quan hệ tín dụng phát triển, các giấy nợ đã thay thế cho một bộ phận tiền trong lưu thông. Lợi dụng đặc điểm này, các ngân hàng đã bắt đầu phát hành tiền giấy vào lưu thông. Lúc đầu tiền giấy phát hành trên cơ sở có dự trữ quí kim (vàng), nhưng dần dần tiền giấy phát hành vào lưu thông tách rời với dự trữ vàng của ngân hàng. Ngày nay ngân hàng cung cấp tiền cho lưu thông chủ yếu được thực hiện thông qua con đường tín dụng. Đây là cơ sở đảm bảo cho lưu thông tiền tệ ổn định, đồng thời đảm bảo đủ phương tiện phục vụ cho lưu thông. Như vậy, nhờ hoạt động của tín dụng mà ngân hàng tạo ra tiền phục vụ cho sản xuất và lưu thông hàng hoá. Tiền tệ do ngân hàng tạo ra gồm: - Tiền tệ: Tiền giấy và tiền kim loại không đủ giá trị. - Bút tệ (chúng ta sẽ đề cập ở phần sau). Nhờ vào công cụ nói trên mà tốc độ lưu thông hàng hoá nhanh hơn và do vậy, hàng hoá đi từ hình thái tiền tệ vào sản xuất và ngược lại được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Nói cách khác, tín dụng thúc đẩy lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. 1.3. Vai trò của tín dụng Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, tín dụng có các vai trò sau: + Thứ nhất: Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. Tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Nó là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển. Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn vốn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp, vì vậy tín dụng đã góp phần động viên vật tư hàng hoá đi vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội. + Thứ hai: Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất. Hoạt động của ngân hàng là tập trung vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế. Mặt khác quá trình đầu tư tín dụng được thực hiện một cách tập trung, chủ yếu là cho các xí nghiệp lớn, những xí nghiệp kinh doanh hiệu quả. + Thứ ba: Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn. Trong thời gian tập trung phát triển nông nghiệp và ưu tiên cho xuất khẩu Nhà nước đã tập trung tín dụng để tài trợ phát triển các ngành đó, từ đó tạo điều kiện phát triển các ngành khác. 7
  9. + Thứ tư: Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp. Đặc trưng cơ bản của vốn tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức, nhờ vậy mà hoạt động của tín dụng đã kích thích sử dụng vốn có hiệu quả. Bằng cách tác động như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng vốn tín dụng phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn, tạo điều kiện nâng cao doanh lợi của doanh nghiệp. + Thứ năm: Tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài. Trong điều kiện kinh tế "mở", tín dụng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền các nền kinh tế các nước với nhau. 2. Các hình thức tín dụng 2.1. Tín dụng thương mại Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Mua bán chịu hàng hoá là hình thức tín dụng, vì: Người bán chuyển giao cho người mua để sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định. Đến thời hạn được thoả thuận, người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi suất. Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là giấy nợ một dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền cho người bán và nghĩa vụ phải thanh toán nợ của người mua. GIẤY NỢ trong quan hệ tín dụng thương mại được gọi là kỳ phiếu thương mại (thương phiếu), với 2 loại: hối phiếu và lệnh phiếu. Hối phiếu là một thương phiếu do chủ nợ lập ra để ra lệnh cho người thiếu nợ trả một số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn. Người hưởng thụ có thể là người phát hành, cũng có thể là thứ ba. Lệnh phiếu là một thương phiếu do người thiếu nợ lập ra để cam kết trả một số tiền nợ nhất định khi đến hạn cho chủ nợ. Về hình thức, thương phiếu được chia ra ba loại: (1) Thương phiếu vô danh, không ghi tên người thụ hưởng; (2) Thương phiếu ký danh; có ghi tên người thụ hưởng và (3) Thương phiếu định danh, có ghi tên như thương phiếu ký danh nhưng không chuyển nhượng cho người khác. Vai trò của tín dụng thương mại trong nền kinh tế thị trường: Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng nhu cầu vốn của những nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình. Mặt khác sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp chủ động khai thác được nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy vậy tín dụng thương mại vẫn có những hạn chế về qui mô tín dụng, về thời hạn cho vay, và về phương hướng (giới hạn đối với những xí nghiệp cần hàng 8
  10. 2.2. Tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức trung gian, trong quan hệ tín dụng nó vừa là người cho vay đồng thời là người đi vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Với tư cách là người cho vay, nó cung cấp tín dụng cho các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Khác với tín dụng thương mại, được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, tín dụng ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ - bao gồm tiền mặt và bút tệ. Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân hàng, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang trải các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ, mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư XDCB và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín dụng tiêu dùng cá nhân. 2.3. Tín dụng Nhà nước Tín dụng Nhà nước là quan hệ tín dụng trong đó Nhà nước là người đi vay. Chủ thể trong quan hệ tín dụng Nhà nước bao gồm: Người đi vay là Nhà nước Trung ương và Nhà nước địa phương, người cho vay là dân chúng, các tổ chức kinh tế, ngân hàng và nước ngoài. Mục đích đi vay của tín dụng Nhà nước là bù đắp khoản bội chi Ngân sách. Tín dụng Nhà nước bao gồm: tín dụng ngắn hạn và tín dụng dài hạn. Tín dụng ngắn hạn: là khoản vay ngắn hạn của Kho bạc Nhà nước để bù đắp các khoản bội chi tạm thời, thời hạn dưới 1 năm. Tín dụng ngắn hạn của Nhà nước được thực hiện bằng cách phát hành kỳ phiếu kho bạc (còn gọi là tín phiếu). Việc phát hành được thực hiện bằng hai cách: (1) Phát hành để vay vốn Ngân hàng Trung ương và (2) Phát hành để vay vốn cá nhân và nhà doanhnghiệp. Tín dụng dài hạn: Là các khoản vay dài hạn của kho bạc Nhà nước, thường từ 5 năm trở lên. Tín dụng Nhà nước dài hạn được thực hiện bằng cách phát hành công trái (trái phiếu). Theo thời gian công trái chia ra hai loại: Trái phiếu thời hạn 5 năm hoặc 10 năm và trái phiếu vĩnh viễn. Theo phạm vi phát hành, công trái cũng chia ra hai loại: Trái phiếu quốc nội và trái phiếu quốc tế. Lãi suất công trái được Nhà nước qui định lúc phát hành và chi trả hàng năm 2.4. Tín dụng tiêu dùng Tín dụng tiêu dung là hình thức cấp phát tín dụng cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng: Như mua sắm nhà cửa, xe cộ, các hàng hoá bền chắc và cả những nhu cầu hàng ngày. Tín dụng tiêu dùng có thể được cấp phát dưới hình thức bằng tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hoá. 3. Lãi suất tín dụng 3.1. Định nghĩa Lãi suất là tỷ lệ mà theo đó tiền lãi được người vay trả cho việc sử dụng tiền mà họ vay từ một người cho vay. Cụ thể, lãi suất (I/m) là phần trăm tiền gốc (P) phải trả cho một số lượng nhất định của thời gian (m) mỗi thời kỳ (thường được tính theo năm) 3.2. Nguyên tắc xác định lãi suất 9
  11. - Căn cứ vào quan hệ cung - cầu tiền vay Cung tiền vay chịu tác động của các yếu tố: Mức thu nhập:sự gia tăng thu nhập trong nền kinh tế sẽ làm tăng các khoản tiền dư thừa ngoài chi tiêu dẫn đến sự tăng lêncủa cung tiền vay qua đó kéo lãi suất hạ xuống. Mức lạm phát: sự gia tăng lạm phát làm cho giá trị thực tế của các khoản tiền giảm xuống làm cho giá trị các khoản tiền thu về khi cho vay giảm,cung tiền giảm , đảy lãi suất tăng lên. Mức rủi ro của việc cho vay: khi mức rủi ro trong cho vay tăng lên,làm giảm bớt việc cho vay,cung về tiền vay giảm đẩy lãi suất lên cao. Những yếu tố tác động đến cầu tiền vay: Mức lợi tức dự tính của các cơ hội đầu tư: Khi mức lợi tức này tăng làm tăng nhu cầu về vốn đầu tư,cầu tiền vay tăng đẩy lãi lên suất lên cao. Mức lạm phát: Sự gia tăng lạm phát làm giảm chi phí thực tế của việc sử dụng tiền vay,cầu về tiền vay tăng đẩy lãi suất lên cao. Mức bội chi ngân sách nhà nước: ngân sách nhà nước bội chi làm tăng cầu tiền vay dẫn đến lãi suất tăng. Khi cung tiền vay nhỏ hơn cầu tiền vay thì lãi suất tăng và ngược lại.Khi cung tiền vay bằng cầu tiền vay thì lãi suất ổn định. - Căn cứ vào thời hạn cho vay Lãi suất Lãi suất Lãi suất tín dụng ngắn hạn < tín dụng trung hạn < tín dụng dài hạn - Căn cứ vào cơ chế lãi suất dương Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất huy động < Lãi suất cho vay ≤ Tỷ suất lợi nhuận bình quân vốn bình quân bình quân bình quân. 3.3. Các loại lãi suất Lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa: - Lãi suất danh nghĩa. Lãi suất này còn gọi là lãi suất bề ngoài hay lãi suất danh định, là lãi suất thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa người đi vay và người cho vay về một số vốn nào đó. - Lãi suất thực thường được hiểu là lãi suất trong điều kiện không có bất cứ loại rủi ro nào (rủi ro lạm phát, rủi ro sai hẹn...). Hai yếu tố quyết định lãi suất thực: (1) Cơ hội kinh doanh được thể hiện bằng tỉ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư kỳ vọng bình quân. Nếu tỉ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư bình quân càng cao thì lãi suất thực càng cao và ngược lại. Lãi suất cơ bản của ngân hàng là lãi suất hàng năm do ngân hàng quy định, để trên cơ sở đó tính lãi suất cho các khoản cho vay khác nhau. Những khoản tín dụng không có bảo lãnh, được tính trên cơ sở lãi suất cơ bản cộng thêm một tỷ lệ, ví dụ ở Pháp là 1,55%; nếu lãi suất cơ bản là 12,25% một năm (năm hiện hành), thì lãi suất ứng với các khoản tín dụng không có bảo lãnh là 13,80%. 10
  12. Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất được Ngân hàng Trung ương áp dụng để tái chiết khấu đối với các ngân hàng thương mại về thương phiếu hoặc những giấy tờ có giá khác. Việc định ra lãi suất tái chiết khấu được coi là một công cụ quan trọng của Ngân hàng trung ương trong việc thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài chính. Thông thường mỗi khi lãi suất tái chiết khấu tăng lên hay giảm xuống, kéo theo nâng hoặc giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất thị trường tiền tệ là lãi suất được thực hiện giữa các ngân hàng trên thị trường tiền tệ, thông thường được ấn định hàng ngày. Trong hoạt động đi vay và cho vay có thời hạn, mức lãi suất này được ấn định theo quy luật cung cầu theo các kỳ hoàn trả khác nhau và theo dự đoán tăng giảm lãi suất trên thị trường. Lãi suất trung bình tháng của thị trường tiền tệ là lãi suất cuối cùng của tháng được tính trên cơ sở trung bình lãi suất hàng ngày của thị trường tiền tệ trong tháng đó. Lãi suất này được sử dụng như lãi suất hướng dẫn cho việc mua bán cổ phiếu hoặc cho các hợp đồng tín dụng tại ngân hàng, hay xác lập lãi suất tiền gửi của ngân hàng. Lãi suất trung bình của trái phiếu: Lãi suất này có thể sử dụng như lãi suất hướng dẫn cho các trái phiếu và đồng thời là lãi suất hướng dẫn cho các hợp đồng tín dụng tại ngân hàng. Lãi suất này được tính mỗi tháng từ lãi suất hiện hành trên các đợt phát hành trái phiếu với lãi suất cố định gia quyền, căn cứ vào số tiền của mỗi đợt phát hành trong tháng đó. Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng và các doanh nghiệp có thể tiến hành bất cứ việc gì nếu họ muốn, trong khuôn khổ của pháp luật, miễn là họ có tiền để thanh toán. Vì vậy, bằng cách kiểm soát giá bán và mua quyền sử dụng tiền tệ tức lãi suất, Ngân hàng Trung ương ở bất kỳ quốc gia nào cũng có thể chi phối được sự tăng trưởng kinh tế. 3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước đóng vai trò trung tâm trong hầu hết tất cả các hoạt động kinh tế xã hội trong đó có thị trường tài chính. Vì lẽ đó, lãi suất trong các nước đó đều do Nhà nước qui định, thậm chí một số nước còn quy định đến cả mức chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng. Sự biến động của lãi suất trong các điều kiện như vậy phần lớn phụ thuộc vào ý chí của chính phủ và không vận động theo bất cứ một quy luật nào. Trái lại, trong các nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ đóng vai trò là người điều tiết vĩ mô, thị trường tài chính hoạt động theo cơ chế tự do hoá, cơ chế hình thành lãi suất là cơ chế thị trường. Lãi suất vì vậy mà chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố kinh tế vĩ mô cũng như nhiều các nhân tố khác. - Ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ Lãi suất là giá cả sử dụng vốn vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung và cầu hoặc cả cung và cầu tiền tệ không cùng một tỷ lệ đều sẽ là thay đổi mức lãi suất trên thị trường. Tuy mức biến động của lãi suất ít nhiều phụ thuộc vào các quy định của chính phủ và NHTƯ, song đa số các nước có nền kinh tế thị trường đều dựa vào nguyên lý này để xác định lãi suất. Do vậy, có thể tác động vào cung cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu, chiến lược trong từng thời kỳ chẳng hạn như thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, tập trung vốn cho các dự án trọng điểm. Mặt khác, muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thì sự ổn định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc. 11
  13. - Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng Khi lạm phát được dự đoán tăng trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng. Điều này là xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa và để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. Mặt khác, công chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc những dạng thức phi tài sản khác như vàng, ngoại tệ mạnh hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài nếu có thể. Tất cả những điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất trên thị trường. Từ mối quan hệ này cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc khắc phục tâm lý lạm phát đối với việc ổn định lãi suất, sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. - Ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân Tỷ suất lợi nhuận bình quân của các dự án đầu tư phải cao hơn lãi suất các khoản vay tài trợ cho dự án. Có như vậy các nhà đầu tư mới có lợi nhuận từ các dự án đầu tư và phấn khởi mở rộng đầu tư. Do đó, cách đánh giá, lựa chọn chính sách lãi suất phù hợp sẽ dựa trên cơ sở ước lượng tỷ suất lợi tức trung bình của nền kinh tế. - Ảnh hưởng của bội chi ngân sách Bội chi ngân sách ở trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu tiền tăng và làm tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công chúng về gia tăng mức lạm phát và sẽ gây áp lực tăng lạm phát. Thông thường, Chính phủ thường tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu. Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm và lãi suất thị trường có xu hướng tăng. Mặt khác, do tài sản có của NHTM tăng ở khoản mục trái phiếu chính phủ, dự trữ vượt mức giảm nên lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng. Những thay đổi trong thuế: Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp luôn có tác động đến lãi suất. Khi các hình thức thuế này tăng sẽ điều tiết đi một phần thu nhập của các cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh doanh chứng khoán. Mọi người đều quan tâm đến thu nhập thực tế hơn là thu nhập danh nghĩa. Do vậy, để duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định, họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi của thuế. - Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái kỳ vọng Khi đồng nội tệ yếu, bị những sức ép lớn do những dao động của các đồng ngoại tệ mạnh thì tâm lý phổ biến của người dân là coi ngoại tệ mạnh như một trong những loại tài sản tiết kiệm an toàn. Chẳng hạn, khi hiện tượng đô la hoá xảy ra, người dân sẽ ồ ạt chuyển sang tiết kiệm bằng ngoại tệ cụ thể là đô la Mỹ. Làm như vậy người gửi hưởng lợi kép gồm lãi suất tiền gửi và sự lên giá của đồng đô la Mỹ. Sự chuyển dịch này tạo ra sự khan hiếm nội tệ ở các NHTM và buộc các ngân hàng này phải tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ để huy động cho vay nền kinh tế. Như vậy, khi xây dựng chính sách lãi suất cần phải xem xét đến khía cạnh tỷ giá để giảm bớt mức chênh lệch giữa lợi tức lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ hay lãi suất cho vay nội tệ và ngoại tệ. Điều này giúp giảm bớt sự dịch chuyển không mong đợi từ tiền gửi nội tệ sang đô la khi đồng đô la lên giá. Những thay đổi trong đời sống xã hội: 12
  14. Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về đời sống xã hội khác như tình hình về kinh tế, chính trị cũng như những biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới, các luồng vốn đầu tư ra vào đối với các nước... Tất cả những điều này gợi ý cho những nhà nghiên cứu, soạn thảo và điều hành chính sách lãi suất phải có một cách nhìn và đánh giá một cách tổng thể trước khi đưa ra bất cứ một kết luận hay một quyết định nào có liên quan đến lãi suất. 3.5. Ý nghĩa của lãi suất tín dụng Lãi suất tín dụng là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng của nền kinh tế thị trường .Nó tác động đến tất cả các doanh nghiệp có sử dụng vốn tín dụng nói riêng và do đó đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân nói chung .tác dụng của lãi suất được thể hiện ở những nội dung sau đây: - Lãi suất tín dụng là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô Tăng hay giảm lãi suất cho vay,sẽ làm vốn của doanh nghiệp giảm xuống hay tăng lên.Như vậy quyết định đến việc thu hẹp hay mở rộng sản suất.Tình trạng này sẽ dẫn đến số lượng công việc làm trong xã hội tăng lên hay giảm xuống. Điều đó có nghĩa rằng,lãi suất tín dụng đã có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết tình trạng thất nghiệp trong xã hội Mặt khác, tăng hay giảm lãi suất tiền gửi,đặc biệt là lãi suất tái chiết khấu sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng ngoại tệ đi vào trong nước .do đó sẽ ảnh hưởng đén cung cầu ngoại tệ dẫn đến sự thay đổi tỷ giá và quan hệ xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ. Như vậy,có thể khẳng định lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. - Lãi suất tín dụng là công cụ điều chỉnh kinh tế vi mô Trong nền kinh tế,thường xảy ra những đột biến ở từng khu vực hay trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân do những nguyên nhân không lường trước được. khi xảy ra những hiện tượng như vậy chính phủ thường sử dụng nhữnh công cụ kinh tế trong đó có lãi suất tín dụng để điều chỉnh lại những quan hệ tạo điều kiện cho kinh tế khu vực,ngành hay toàn bộ nền kinh tế phát triển .Chẳng hạn,trong điều kiện lạm phát,chính phủ có thể tăng lãi suất tiền gửi để rút bớt tiền trong lưu thông về, hoặc có thể áp dụng mức lãi suất khác nhau giữa các khu vực , để điều hoà lưu thông tạo mặt bằng giá cả hợp lý, đảm bảo cho sản suất và lưu thông hàng hoá phát triển. Là công cụ điều chỉnh kinh tế vi mô, lãi suất tín dụng phải được xử lý kịp thời và chính xác. Điều đó đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải nắm vững thông tin kinh tế, biết xử lý thông tin, để có những quyết định chính xác trong việc thực hiện chính sách lãi suất. - Lãi suất tín dụng là công cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại: Trong khung lãi suất cho phép, để tăng khối lượng nguồn vốn huy động đồng thời để mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, các NHTM có thể nâng lãi suất tiền gửi và hạ lãi suất cho vay . Đây chính là hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại. Thực chất của quá trình này là phân chia khối lượng tiền gửi và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của ngaan hàng ra thị trường. Để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, 13
  15. mỗi ngân hàng thương mại đều có chiến lược khách hàng của mình.Chiến lược này được thực hiện bằng lãi suất ưu đãi. Muốn vậy các ngân hàng thương mại đều tìm mọi biện pháp giảm thấp chi phí kinh doanh và chi phí quản lý. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Lãi suất tín dụng là công cụ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư: Theo lý thuyết tài chính, chúng ta có thể đưa ra một phương trình đơn giản về thu nhập. Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm Phương trình này không những đúng với đặc điểm tài chính của các hộ gia đình, các doanh nghiệp mà cả đói với nền tài chính quốc gia. Giả sử , trong điều kiện của mộy nền kinh tế bình thường, tỷ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm là hợp lý. Để tăng tỷ lệ tiết kiệm,khuyến đầu tư,tức là tăng khả năng tài chính cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân,thì biện pháp có hiệu quả nhất là tăng lãi suất huy động vốn. Khi lãi suất huy động vốn tăng lên, thì trước hết các hộ gia đình phải xem xét lại các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên,có thể giảm chi hoặc hoãn một số khoản chi này , để tăng thêm tỷ lệ tiết kiệm trong tổng thu nhạp. Sau đó từ khoản tiết kiệm này, họ sẽ chọn hướng đầu tư : Gửi vào ngân hàng , vào quĩ bảo hiểm , hay đầu tư vào thị trường chứng khoán... khi thấy có lợi hơn. Như vậy có thể khẳng định lãi suất là công cụ can thiệp có hiệu lực để phân chia giữa quỹ tiêu dùng và tiết kiệm.Nhưng nâng lãi suất huy động vốn đến mức độ nào,thì cần phải cân nhắc thận trọng để đảm bảo sự phát triển hài hoà của nền kinh tế quốc dân. CÂU HỎI Câu 1. Trình bày khái niệm và đặc điểm của tín dụng. Câu 2. Trình bày vai trò của tín dụng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội. Câu 3. Trình bày các hình thức của tín dụng. 14
  16. Chương 3. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Mục tiêu: - Trình bày được nội dung vốn cố định, tài sản cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp. - Trình bày được nội dung các phương pháp tính khấu khao tài sản cố định của doanh nghiệp. - Trình bày được nội dung chi phí, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. - Xác định được nguyên giá tài sản cố định và tính được khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp. - Phân biệt dược các loại doanh thu, lợi nhuận và tính được doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. - Chủ động nghiên cứu, tiếp nhận những kiến thực mới để áp dụng vào công việc trong thực tiễn với trách nhiệm cao nhất. 1. Tài sản cố định và vốn cố định của doanh nghiệp 1.1. Tài sản cố định 1.1.1. Khái niệm Để tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh, các doanh nghiệp phải có các yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Các tư liệu lao động như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải… là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, biến đổi nó theo mục đích của mình. Bộ phận quan trọng nhất trong các tư liệu lao động sử dụng trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp là tài sản cố định. Theo thông tư số 45/2013/TT-BTC ngày 25/04/2013 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định, tiêu chuẩn và nhận biết tài sản cố định được quy định như sau: a. Tiêu chuẩn và nhận biết tài sản cố định hữu hình Tư liệu lao động là những tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào thì cả hệ thống không thể hoạt động được, nếu thoả mãn đồng thời cả ba tiêu chuẩn dưới đây thì được coi là tài sản cố định: - Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó; - Có thời gian sử dụng trên 1 năm trở lên; - Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy và có giá trị từ 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) trở lên. Trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau, trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận nào đó mà cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó 15
  17. nhưng do yêu cầu quản lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận tài sản thì mỗi bộ phận tài sản đó nếu cùng thoả mãn đồng thời ba tiêu chuẩn của tài sản cố định được coi là một tài sản cố định hữu hình độc lập. Đối với súc vật làm việc và/hoặc cho sản phẩm, thì từng con súc vật thoả mãn đồng thời ba tiêu chuẩn của tài sản cố định được coi là một TSCĐ hữu hình. Đối với vườn cây lâu năm thì từng mảnh vườn cây, hoặc cây thoả mãn đồng thời ba tiêu chuẩn của TSCĐ được coi là một TSCĐ hữu hình. b. Tiêu chuẩn và nhận biết tài sản cố định vô hình Mọi khoản chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra thoả mãn đồng thời cả ba tiêu chuẩn quy định tại điểm 1 ở trên, mà không hình thành TSCĐ hữu hình được coi là TSCĐ vô hình. Những khoản chi phí không đồng thời thoả mãn cả ba tiêu chuẩn nêu trên thì được hạch toán trực tiếp hoặc được phân bổ dần vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm chung của các tài sản cố định trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm. Trong quá trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của tài sản cố định là không thay đổi. Song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ. Từ những nội dung trình bày trên, có thể rút ra khái niệm về tài sản cố định trong doanh nghiệp như sau: Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu và những tài sản khác có giá trị lớn, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó và nguyên giá phải được xác định một cách tin cậy 1.1.2. Phân loại và kết cấu tài sản cố định 1.1.2.1. Phân loại tài sản cố định a. Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện Theo phương pháp phân loại này toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành hai loại: - Tài sản cố định hữu hình: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn… - Tài sản cố định vô hình: Quyền sử dụng đất, quyền phát hành, bản quyền, bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, phần mềm máy vi tính… Cách phân loại này giúp cho người quản lý thấy được cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định hữu hình và vô hình. Từ đó lựa chọn các quyết định đầu tư đúng đắn hoặc điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất. b. Phân loại tài sản cố định theo công dụng kinh tế Theo phương pháp phân loại này toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành hai loại: 16
  18. - Tài sản cố định dùng trong sản xuất – kinh doanh. - Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất – kinh doanh. Cách phân loại này giúp cho người quản lý thấy rõ kết cấu tài sản cố định và vai trò, tác dụng của tài sản cố định trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý sử dụng tài sản cố định và tính toán khấu hao chính xác. c. Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng Căn cứ vào tình hình sử dụng tài sản cố định của từng thời kỳ, có thể chia tài sản cố định trong doanh nghiệp thành các loại: - Tài sản cố định đang sử dụng. - Tài sản cố định chưa cần dùng. - Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh lý. Dựa vào cách phân loại này giúp cho người quản lý thấy mức độ sử dụng có hiệu quả các tài sản cố định của doanh nghiệp như thế nào, từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng của chúng. d. Phân loại tài sản cố định theo mục đích sử dụng Theo tiêu thức này toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành ba loại sau: - Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh + Đối với tài sản cố định hữu hình: Loại 1: Nhà cửa, vật kiến trúc. Loại 2: Máy móc, thiết bị. Loại 3: Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn. Loại 4: Thiết bị dụng cụ quản lý. Loại 5: Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và/hoặc cho sản phẩm. Loại 6: Các loại tài sản cố định khác. - Đối với tài sản cố định vô hình: + Quyền sử dụng đất + Quyền phát hành + Bằng sáng chế phát minh + Nhãn hiệu thương mại… - Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng. - Tài sản cố định bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ nhà nước. Phương pháp phân loại này giúp cho người quản lý thấy được cơ cấu tài sản cố định theo mục đích sử dụng của nó. Từ đó có biện pháp quản lý tài sản cố định theo mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả nhất. e. Phân loại tài sản cố định theo quyền sở hữu 17
  19. - Tài sản cố định tự có - Tài sản cố định đi thuê Phân loại theo cách này giúp cho người quản lý thấy kết cấu tài sản cố định thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và tài sản cố định thuộc sở hữu của người khác mà khai thác, sử dụng hợp lý tài sản cố định của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả đồng vốn. f. Phân loại tài sản cố định theo nguồn hình thành Căn cứ vào nguồn hình thành tài sản cố định, có thể chia tài sản cố định trong doanh nghiệp thành hai loại: - Tài sản cố định hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu - Tài sản cố định hình thành từ các khoản nợ phải trả Cách phân loại này giúp cho người quản lý thấy được nguồn hình thành tài sản cố định của doanh nghiệp mình, từ đó có biện pháp theo dõi quản lý và sử dụng sao cho có hiệu quả cao nhất. 1.1.2.2. Kết cấu tài sản cố định Kết cấu tài sản cố định là tỷ trọng giữa nguyên giá từng loại tài sản cố định trong tổng nguyên giá tài sản cố định của doanh nghiệp trong một thời điểm nhất định. Kết cấu tài sản cố định giữa các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất khác nhau hoặc thậm chí trong cùng một ngành sản xuất cũng không hoàn toàn giống nhau. Sự khác biệt hoặc biến động của kết cấu tài sản cố định trong từng ngành sản xuất và trong từng doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh trong các thời kỳ khác nhau chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: - Tính chất sản xuất và đặc điểm quy trình công nghệ. - Trình độ trang bị kỹ thuật và hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản - Phương thức tổ chức sản xuất Nghiên cứu kết cấu tài sản cố định có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kiểm tra vốn đầu tư xây dựng cơ bản và là căn cứ để ra quyết định đầu tư trong từng ngành sản xuất. 1.2. Vốn cố định 1.2.1. Khái niệm vốn cố định Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. 1.2.2. Đặc điểm luân chuyển của vốn cố định - Vốn cố định luân chuyển và vận động theo đặc điểm của tài sản cố định được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ sản xuất quyết định. - Vốn cố định được luân chuyển dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất. - Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. 1.3. Khấu hao tài sản cố định 18
  20. 1.3.1. Hao mòn tài sản cố định Hao mòn tài sản cố định là sự giảm dần giá trị sử dụng và giá trị của tài sản cố định do tham gia vào hoạt động kinh doanh, do bào mòn tự nhiên, do tiến bộ kỹ thuật…trong quá trình hoạt động của tài sản cố định. 1.3.1.1. Hao mòn hữu hình của tài sản cố định Hao mòn hữu hình của tài sản cố định là sự hao mòn về vật chất, giá trị sử dụng và giá trị của tài sản cố định trong quá trình sử dụng. Nguyên nhân và mức độ hao mòn hữu hình trước hết phụ thuộc vào các nhân tố trong quá trình sử dụng tài sản cố định như thời gian, cường độ sử dụng, việc chấp hành các quy phạm kỹ thuật trong sử dụng và bảo dưỡng tài sản cố định. Tiếp đến là các nhân tố về tự nhiên và môi trường sử dụng tài sản cố định, ví dụ như độ ẩm, nhiệt độ môi trường, tác động của các hoá chất hoá học… Ngoài ra mức độ hao mòn hữu hình cũng còn phụ thuộc vào chất lượng chế tạo tài sản cố định, ví dụ như chất lượng nguyên vật liệu được sử dụng, trình độ kỹ thuật, công nghệ chế tạo… 1.3.1.2. Hao mòn vô hình Hao mòn vô hình của tài sản cố định là sự hao mòn về giá trị của tài sản cố định do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nguyên nhân cơ bản của hao mòn vô hình là sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật. 1.3.2. Khấu hao tài sản cố định Khấu hao tài sản cố định là việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá của tài sản cố định vào chi phí kinh doanh qua thời gian sử dụng của tài sản cố định. Mục đích của khấu hao tài sản cố định là nhằm tích lũy vốn để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng tài sản cố định. Bộ phận giá trị hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm được coi là một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền khấu hao tài sản cố định. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được tích lũy lại hình thành quỹ khấu hao tài sản cố định của doanh nghiệp. Về nguyên tắc, việc tính khấu hao tài sản cố định phải phù hợp với mức độ hao mòn của tài sản cố định và đảm bảo thu hồi đầy đủ giá trị vốn đầu tư ban đầu. Thực hiện khấu hao tài sản cố định một cách hợp lý có ý nghĩa kinh tế lớn đối với doanh nghiệp: - Khấu hao hợp lý là biện pháp quan trọng để thực hiện bảo toàn vốn cố định, khiến cho doanh nghiệp có thể thu hồi được đầy đủ vốn cố định khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. - Khấu hao hợp lý giúp cho doanh nghiệp có thể tập trung được vốn từ tiền khấu hao để có thể thực hiện kịp thời việc đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ. - Khấu hao tài sản cố định là một yếu tố chi phí, việc xác định khấu hao hợp lý là một nhân tố quan trọng để xác định đúng đắn giá thành sản phẩm và đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3.3. Các phương pháp khấu hao tài sản cố định 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1