intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Công nghệ sản xuất protein (axit amin) từ vi sinh vật

Chia sẻ: Bach Thuy Diem | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:48

492
lượt xem
90
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với kết cấu nội dung gồm 4 phần, bài tiểu luận "Công nghệ sản xuất protein (axit amin) từ vi sinh vật" cung cấp cho các bạn những nội dung tổng quan về công nghệ sản xuất protein axit amin từ vi sinh vật, một số quy trình sản xuất protein đơn bào, sản xuất axit amin,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Công nghệ sản xuất protein (axit amin) từ vi sinh vật

  1. BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM KHOA CNSH­KTMT ­­­­­­­­­­ BÀI TIỂU LUẬN MÔN HỌC: CÔNG NGHỆ SINH HỌC THỰC  PHẨM ĐỀ TÀI: CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT PROTEIN  (AXIT AMIN) TỪ VI SINH VẬT GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:  Th.s TRẦN QUỐC HUY Nhóm: 9
  2. BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM KHOA CNSH­KTMT ­­­­­­­­­­ BÀI TIỂU LUẬN MÔN HỌC: CÔNG NGHỆ SINH HỌC THỰC  PHẨM ĐỀ TÀI: CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT PROTEIN  (AXIT AMIN) TỪ VI SINH VẬT GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:  Th.s TRẦN QUỐC HUY Thành viên nhóm: Nguyễn Thừa Ngọc Châu 2008120150
  3. Mục lục Danh mục hình, bảng.
  4. PHẦN 1. TỔNG QUAN 1.1. Vai trò của protein đối với con người: Cơ thể người và động vật thường xuyên đòi hỏi cung cấp các chất dinh dưỡng có  trong thức ăn để có thể tiến hành trao đổi chất, trước hết nhằm duy trì sự  sống, tăng  cường sinh trưởng và phát triển. Thức ăn, ngoài nước còn gồm những nhóm chất: protein, chất béo, gluxit, vitamin,   muối khoáng, các chất gia vị, trong đó phần lớn là protein. Protein là nguồn nitơ duy nhất cho người và động vật. Trong quá trình tiêu hoá của   người và động vật, protein phân giải thành khoảng 20 axit amin thành phần, trong đó có  8 axit amin không thay thế  (hoặc 9 đối với trẻ  em, 10 đối với lợn và 11 đối với gia   cầm) cần phải có sẵn trong thức ăn. Nếu không nhận được các axit amin này cơ thể sẽ  bị bệnh hoặc chết. Thiếu protein sẽ dẫn đến nhiều bệnh tật hết sức hiểm nghèo:  ­ Bệnh thiếu protein lần đầu tiên được phát hiện ở Châu Phi, có tên gọi quốc tế là   Kwashiokor, hiện này là bệnh phổ biến  ở nhiều vùng trên thế giới. Trẻ  em mắc bệnh  này chậm lớn, còi cọc, kém phát triển về  trí tuệ. Bệnh này có thể  điều trị  bằng cách  thêm vào khẩu phần bệnh nhân một lượng thích đáng các loại protein có phẩm chất tốt  như cazein. Tuy nhiên nhiều tài liệu cho thấy sự kém phát triển về trí tuệ vì bệnh này  không phục hồi được và ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời của bệnh nhân. ­ Về mặt sinh lý, thiếu protein dẫn đến giảm thể  trọng. Hàng ngày cơ  thể  người  trưởng thành có tới 100 tỉ  tế  bào chết và cần thay thế. Thiếu protein thì trước hết   protein của gan, máu và chất nhày niêm mạc, ruột được huy động để  bù đắp. Và như  vậy sẽ dẫn đến suy gan, số lượng kháng thể trong máu giảm đi, sức đề  kháng của cơ  thể đối với bệnh bị yếu. Về  nhu cầu protein của người, nhiều nhà nghiên cứu cho biết dao  động trong   khoảng 80 – 120g/ngày. 1.2. Các khái niệm chung . 1.2.1. Protein đơn bào Protein đơn bào (Single­cell protein – SCP) là thuật ngữ  thường dùng để  chỉ  phần   protein thu được trong sinh khối khô của các tế bào hoặc tổng lượng protein tách chiết   được từ  môi trường nuôi cấy vi sinh vật, được sử  dụng làm nguồn thức ăn cho con  người hay nguồn thức ăn chăn nuôi. Thuật ngữ  “protein đơn bào” được GS. C.L.Wilson đưa ra vào năm 1966, được  dùng thích hợp hơn đối với hầu hết các vi sinh vật đơn bào hoặc cá thể dạng sợi. Các protein đơn bào có thành phần protein cao (60­80% khối lượng khô của tế bào),  chất béo, carbohydrate, axit nucleic, vitamin và chất khoáng. Chúng cũng chứa nhiều   các axit amin thiết yếu như Lysin và Methionine. Page 4
  5. 1.2.2. Công nghệ sản xuất protein đơn bào Công nghệ sản xuất protein đơn bào là công nghệ nuôi cấy và thu sinh khối các vi  sinh vật. Nó ra đời được coi là một phương pháp hứa hẹn có thể giải quyết được vấn  đề  thiếu protein trên toàn thế  giới. Công nghệ  sản xuất protein đơn bào bao gồm cả  các quá trình chuyển vị sinh học, biến đổi các sản phẩm phụ  ít giá trị  và chi phí thấp,  thường là các chất thải, trở thành sản phẩm với giá trị dinh dưỡng và giá trị thị  trường  cao hơn. Sản xuất protein đơn bào đòi hỏi phải vận dụng các kiến thức về  lên men, công   nghệ sản xuất sinh khối, nuôi cấy vi sinh vật. Đầu thế kỉ 20, sự áp dụng rộng rãi các chương trình phát triển nông nghiệp đã làm  cho các nguồn thức ăn thực vật, như  đậu nành, ngô, lúa mì và gạo luôn  ở  trong tình   trạng sẵn có. Ngoài ra, sự phát triển về chính trị và kinh tế đã thay đổi trật tự thế giới   từ một hệ thống các khối nước trở nên toàn cầu hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc   mở cửa giao dịch các sản phẩm nông nghiệp. Các sản phẩm nông nghiệp này vượt trội  so với protein đơn bào trên cơ sở giá cả sản xuất thấp hơn. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa   việc sản xuất phức tạp với các công nghệ  chế  biến thực phẩm đã mang lại một thế  hệ  sản phẩm protein đơn bào mới, có thể  sử  dụng để  thay thế  các loại thịt hay dùng   làm chất tăng cường hương vị. Các  ứng dụng trong tương lai của việc biểu hiện   protein dị hợp thể có thể phát triển hơn nữa tiềm năng của dạng thực phẩm này, tạo ra  các sản phẩm phù hợp với yêu cầu của chế  độ  ăn uống hay tạo thành các dòng sản  phẩm có giá trị cao. Sản xuất protein đơn bào ở quy mô công nghệp có một số đặc điểm như sau: ­ Sử  dụng đa dạng các phương pháp, loại nguyên liệu thô và loại vi sinh vật khác  nhau. ­ Có hiệu quả biến đổi cơ chất ban đầu cao ­ Năng suất cao nhờ vào tốc độ tăng trưởng nhanh của các vi sinh vật. ­ Không phụ thuộc vào các yếu tố mùa hay thời tiết. 1.2.3. Đặc điểm của sản xuất Protein đơn bào: Chi phí lao động ít hơn nhiều so với sản xuất nông nghiệp. Có thể sản xuất ở bất kỳ địa điểm nào trên trái đất, không chịu ảnh hưởng của khí  hậu thời tiết,các quá trình công nghiệp , dễ cơ khí hoá và tự động hoá. Năng suất cao: vi sinh vật có tốc độ  sinh sản mạnh, khả  năng tăng trưởng nhanh.   Chỉ trong một thời gian ngắn có thể thu nhận được một khối lượng sinh khối rất lớn;   thời gian này được tính bằng giờ, còn  ở  động vật và thực vật, tính bằng tháng hoặc  hàng chục năm.  Sử dụng các nguồn nguyên liệu rẻ tiền và hiệu suất chuyển hoá cao. Các nguyên   liệu thường là phế phẩm, phụ phẩm của các ngành khác như rỉ đường, dịch kiềm sufit,  parafin dầu mỏ v..v.. , thậm chí cả nước thải của một quá trình sản xuất nào đó. Hiệu   Page 5
  6. suất chuyển hoá cao: hidrat cacbon được chuyển hoá tới 50%, cacbuahidro tới 100%   thành chất khô của tế bào. Hàm lượng protein trong tế bào rất cao: ở vi khuẩn là 60 ­70%, ở  nấm men là 40­ 50% chất khô v..v… Hàm lượng này còn phụ thuộc vào loài và chịu nhiều ảnh hưởng  của điều kiện nuôi cấy. Cần chú ý rằng hàm lượng protein  ở đây chỉ  bao hàm protein  chứ không gồm cả thành phần nitơ phi protein khi xác định theo phương pháp nitơ tổng   số của Kjeldal, như axit nucleic, các peptit của thành phần tế bào. Chất lượng protein cao: Nhiều axit amin có trong vi sinh vật với hàm lượng cao,   giống như  trong sản phẩm của thịt, sữa và hơn hẳn protein của thực vật. Protein vi   sinh vật đặc biệt giàu lizin, là một lợi thế  lớn khi bổ  sung thức ăn và chăn nuôi, vì   trong thức ăn thường thiếu axit amin này. Trái lại, hàm lượng các axit amin chứa lưu   huỳnh lại thấp. Khả  năng tiêu hoá của protein: có phần hạn chế  bởi thành phần phi protein như  axit nucleic, peptit của thành tế bào, hơn nữa, chính thành và vỏ tế bào vi sinh vật khó   cho các enzim tiêu hoá đi qua. An toàn về mặt độc tố: Trong sản xuất protien đơn bào không dùng vi sinh vật gây  bệnh cũng như loài chứa thành phần độc hoặc nghi ngờ. Vì vậy đến nay hầu như SCP   chỉ dùng trong dinh dưỡng động vật. Những vấn đề  kỹ  thuật: Sinh khối vi sinh vật phải để  tách và xử  lý. Vấn đề  này  phụ thuộc chủ yếu vào kích thước tế bào. Sinh khối nấm men dễ tách bằng li tâm hơn   vi khuẩn. Ngoài ra, vi sinh vật nào có khả năng sinh trưởng ở mật độ cao sẽ cho năng  suất cao, sinh trưởng tốt  ở nhiệt độ  cao (có tính chất ưa nhiệt và chịu nhiệt) sẽ giảm   chi phí về  làm nguội trong sản xuất, ít mẫn cảm với tạp nhiễm v..v.. sử  dụng các  nguồn cacbon rẻ  tiền, chuyển hoá càng nhiều càng tốt .. thì sẽ  được dùng trong sản   xuất. Vì vậy nấm men được sử dụng chủ yếu trong sản xuất protein đơn bào. Như vậy ưu điểm của sản xuất protein đơn bào là có thể phân lập và lựa chọn các   chủng vi sinh vật có ích và thích hợp cho các qui trình công nghệ, cho từng nguyên liệu   1 cách tương đối nhanh và dễ dàng. 1.2.4. Lịch sử nghiên cứu và sản xuất protein đơn bào Người  tiên  phong  nghiên  cứu  và  xây  dựng  công  nghệ  này  là  nhà  khoa  học  người Đức Max Delbruck và các cộng sự  của ông cách đây gần 1 thế  kỉ. Họ  là  người đầu tiên chú ý đến giá trị  của các nấm men rượu dư  thừa trong việc tạo  nguồn thức ăn cho vật nuôi. Trong chiến tranh Thế  giới thứ nhất, người Đức đã thay thế  phần nửa nguồn  protein quan trọng bằng nấm men. Vì các nấm men rượu từ công nghiệp sản xuất  bia không đủ  số lượng để đáp ứng nhu cầu protein thức ăn, một tỉ  lệ  rất lớn sinh  khối nấm men được sản xuất trong điều kiện hiếu khí trong môi trường bán tổng  hợp chứa nguồn nitơ là các muối ammonium. Phương pháp này hiệu quả hơn so  Page 6
  7. với lên men, nhưng vẫn có hiện tượng lên men một số  chất trong nguồn cacbon,  đồng thời năng suất sinh khối thu được là không tối ưu. Vào năm 1919, Sak (Đan Mạch) và Hayduck (Đức) đã phát minh ra một quy  trình mới, đưa dung dịch đường vào dịch huyền phù chứa nấm men thay vì đưa  thêm nấm men vào một dung dịch đường đã pha loãng. Công nghệ  này đến ngày  nay vẫn được sử dụng. Sau khi Chiến tranh Thế  giới thứ  nhất kết thúc, sự  quan tâm của người Đức  đến nấm men đã giảm xuống, nhưng đến 1936, người ta tiếp tục sử dụng nấm  men rượu và một số loài nấm men khác, đặc biệt là các loài được nuôi cấy với số  lượng lớn để làm thức ăn bổ sung cho con người và động vật. Kể từ đó, ưu điểm  của việc nuôi cấy nấm men trong môi trường giàu dinh dưỡng và điều kiện hiếu  khí đã được nhận ra một cách đầy đủ  và nhanh chóng trở  thành một phương tiện  để sản xuất thức ăn trên quy mô công nghiệp. Vào thời điểm bắt đầu Chiến tranh thế  giới thứ  II, nấm men được sử  dụng  trước hết làm thức ăn trong quân đội, sau đó áp dụng cho tất cả  các công dân.  Người ta đã hi vọng có thể  sản xuất được hơn 100,000 tấn mỗi năm, tuy nhiên  trên thực tế, sản lượng chưa bao giờ vượt quá 15,000 tấn, do việc sản xuất liên  tục bị gián đoạn bởi chiến tranh. Việc sử  dụng nấm men làm thức ăn trong giai đoạn này bắt đầu từ Đức, sau  đó được áp dụng rộng rãi  ở  nhiều nơi trên thế  giới. Phòng thí nghiệm các sản  phầm rừng của Sở  nông nghiệp Hoa Kỳ  đã tiến hành hàng loạt thí nghiệm nuôi  cấy nấm men  Candida  utilis  trên  môi  trường  chứa  sulfit  là  chất  thải  trong  quá  trình sản xuất giấy. Sau chiến tranh, vấn đề  sản xuất protein đơn bào ngày càng được chú trọng  để giải quyết các vấn đề của nhân loại trên quy mô toàn cầu. Đầu những năm 60,  một số  công ti đa quốc gia đã quyết định nghiên cứu sản xuất sinh khối vi sinh  vật để  làm nguồn protein thức ăn. Các cơ chế cơ bản quyết định sự tăng trưởng  của các sinh vật như nấm men và nấm sợi đã được lám sáng tỏ, tuy nhiên vẫn còn  nhiều khó khăn trong ứng dụng các cơ chế trên trong công nghiệp, do đó người ta  tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu. Người ta tiếp tục tìm kiếm các loại cơ chất với giá thành thấp. Các sản phẩm  phụ trong công nghiệp như sữa phomat, rỉ đường hay các cơ chất giá thành rẻ như  tinh bột, ethanol và methanol, sulfit từ quá trình sản xuất giấy đã được chọn để sử  dụng trong quá trình sản xuất protein đơn bào. Lợi ích của việc sản xuất protein  Page 7
  8. đơn bào không chỉ  dừng lại ở  việc cung cấp thêm nguồn thức ăn cho con người  nữa mà còn hạn chế  sự  lãng phí các sản phẩm phụ  trong các quá trình sản xuất  khác và bảo vệ môi trường. Vào giữa thập niên 60, người ta đã sản xuất được hàng triệu tấn nấm men  thực phẩm ở  các vùng khác nhau trên thế  giới. Liên bang Soviet đã lên kế  hoạch  sản xuất thường niên 900,000 tấn kể từ năm 1970 để bù đắp lại sự thiếu hụt của  protein nông nghiệp. Đến năm 1980, quá trình sản xuất protein đơn bào tiếp tục  được mở  rộng ở  các nước phát triển và được dự  kiến tiến hành ở  các quốc gia  đang phát triển. Từ  đó đến nay, quy trình sản xuất protein đơn bào được không  ngừng nghiên cứu phát triển hoàn thiện, tìm kiếm các cơ  chất và các loài vi sinh  vật phong phú hơn, phục vụ nhu cầu của con người ở khắp các quốc gia trên thế  giới. 1.3. Các nhóm vi sinh vật được sử dụng để sản xuất protein đơn bào 1.3.1. Yêu cầu đối với các chủng vi sinh vật sử dụng trong sản xuất. Thời gian sinh trưởng ngắn. Có khả năng tạo thành lượng protein lớn, từ 40­70% sinh khối khô của tế  bào. Có khả  năng tận dụng được tối  đa các chất dinh dưỡng trong môi   trường nuôi cấy. Không có độc tố, không có khả năng gây bệnh Có sức bền cao, ít bị nhiễm trong quá trình nuôi cấy, dễ tách khỏi dịch nuôi  cấy. Ngoài ra, phần trăm axit nucleic của tế  bào vi sinh vật cũng là  một yếu tố  quan trọng cần xem xét. Quá trình hấp thụ  axit nucleic quá mức có thể  dẫn đến  lắng đọng axit uric, gây ra một số bệnh như gout hay hình thành sỏi thận, nên đối  với người thì thành  phần  axit  nucleic  này  phải  giảm  xuống  dưới  2%.  Do  đó,  người ta đã áp dụng một vài kĩ thuật để giảm thành phần axit nucleic trong tế bào  vi sinh vật, bao gồm cả quy trình về hóa học và enzyme. 1.3.2. Các nhóm vi sinh vật sử dụng trong sản xuất protein đơn bào. Người ta sử  dụng nhiều nhóm vi sinh vật khác nhau để  sản xuất protein đơn  bào, bao gồm: ­ Các nhóm vi khuẩn: Cellulomonas, Alcaligenes,… ­ Nấm men: Candida, Saccharomyces,… Page 8
  9. ­ Nấm sợi: Trichoderma, Fusarium, Rhizopus,… ­ Các nhóm tảo: Spirulina, Chlorella,… Giá trị dinh dưỡng của chúng được trình bày trong Bảng 1 [1]: Thành phần Nấm Tảo Nấm men Vi khuẩn Protein 30­45 40­60 45­55 50­65 Chất béo 2­8 7­20 2­6 1­3 Các chất vô cơ 9­14 8­10 5­10 3­7 Axit nucleic 7­10 3­8 6­12 8­12 Bảng 1. Trung bình các thành phần trong tế bào ở các nhóm vi sinh vật chính (%  khối lượng khô) theo Miller and Litsky (1976) Người ta đã  ước tính rằng, 100 pound nấm men có thể  sản xuất ra 250 tấn  protein trong vòng 24h. Đối với tảo nuôi cấy trong ao thì năng suất protein thu được  là 20 tấn sinh khối khô/acre/năm. Vi khuẩn thì cho lượng protein cao, có thể lên đến  80% và có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn, tuy nhiên lại có nhiều nhược điểm. Nấm men là loài có nhiều  ưu điểm, ví dụ  như  kích thước lớn, dễ  thu sinh  khối, hàm lượng axit nucleic trong tế  bào thấp, hàm lượng lysine cao, có khả  năng  sinh trưởng ở pH axit. Tuy nhiên, đặc điểm quan trọng nhất là nó rất phổ biến và  được  chấp nhận rộng rãi vì đã được sử  dụng từ  rất lâu trong công nghệ  lên men  truyền thống. Nhược điểm của nấm men bao gồm tốc độ sinh sản chậm, hàm lượng  protein cũng như  methionine thấp hơn so với vi khuẩn. Nấm sợi cũng có những  ưu  điểm tương tự, dễ thu hoạch, tuy nhiên hạn chế  về  tốc độ sinh trưởng, hàm lượng  protein và ít được chấp nhận hơn so với nấm men. Một nhóm vi sinh vật khác là tảo thì lại có nhược điểm là thành tế  bào cấu  tạo từ  cellulose – loại phân tử  mà con người không tiêu hóa được, bên cạnh đó nó  còn chứa nhiều kim loại nặng. Ngoài ra, cần nhấn mạnh rằn, vì lý do kĩ thuật và  kinh tế thì người ta thường thu cả sinh khối tảo chứ không tách riêng protein của nó,  do vậy đôi lúc thuật ngữ protein đơn bào ở đây chưa hoàn toàn chính xác. Protein của  tảo thường có chất lượng cao, có thể sánh được với protein từ thực vật. Sản xuất protein đơn bào từ  các vi sinh vật khác nhau, cụ thể là từ nấm và vi  khuẩn đã nhận được sự  quan tâm đáng  kể, ngược lại nghiên cứu sản xuất và sử  Page 9
  10. dụng thành công protein trên tảo hiện nay còn chưa nhiều, do giá thành sản xuất cao  hơn và khó khăn hơn về mặt kĩ thuật. Một vài loài tảo, nấm sợi, nấm men và vi khuẩn được sử  dụng làm protein  đơn  bào và hiện đang được sản xuất thương mại, cùng với nguồn carbon của nó  được thể hiện trong Bảng: Tên loại tảo Nguồn cơ chất Chondrus   crispus,   Scenedesmus   sp,   CO2  dùng cho quang hợp Spirulina   sp.,   Porphyrium   sp,   Chlorella     pyrenoidosa, Chlorella sorokiana. Bảng 1. Một số loài vi sinh vật sử dụng trong sản xuất protein đơn bào và nguồn  carbon của chúng theo Bhalla và cộng sự (2007) Tên nấm sợi Loại cơ chất Scytalidium   aciduphlium,   Thricoderma Cellulose, pentose   viridae,Thricoderma alba Rhizopus  chinensis Glucose, maltose Penicillium  cyclopium Glucose, lactose, Galactose Aspergillus   niger,   A.oryzae,Cephalosporium Cellulose, hemicellulose   eichhorniae, Chaetomium cellulolyticum   Aspergillus  fumigatus Maltose, glucose     Bảng 1. Một số loài vi sinh vật sử dụng trong sản xuất protein đơn bào và nguồn  carbon của chúng theo Bhalla và cộng sự (2007) Page 10
  11. Tên nấm men Loại cơ chất Saccharomyces  cereviciae Lactose, pentose, maltose Candida  intermedia Lactose Candida  novellas  n­alkan.  Candida  utilis Glucose Candida  tropicalis Maltose, glucose Amoco  torula Ethanol Bảng 1. Một số loài vi sinh vật sử dụng trong sản xuất protein đơn bào và nguồn  carbon của chúng theo Bhalla và cộng sự (2007) 1.4. Các nguồn nguyên liệu dùng để sản xuất protein đơn bào Các nguồn nguyên liệu hiện đang được sử  dụng để  sản xuất protein đơn  bào rất phong phú và đa dạng, có thể liệt kê một số loại chính như sau: 1.4.1. Các sản phẩm thải trong nông nghiệp Cellulose từ  nguồn nông nghiệp và lâm nghiệp là nguồn nhiên liệu tái tạo  nhiều nhất trên hành tinh này, đồng thời là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho sản  xuất protein  đơn bào. Trong tự  nhiên, cellulose thường  ở  dạng phức hợp với  lignin, hemicellulose, tinh bột và có cấu tạo phức tạp, do vậy, để  sử  dụng dưới  dạng cơ  chất nó phải được xử  lý hóa học (phân giải bằng axit hay kiềm) hoặc  bằng các enzyme (cellulase) để  phân giải cellulose thành các đường mà tế bào vi  sinh vật sử dụng được. Lignocellulose là nguồn nguyên liệu từ  gỗ, đòi hỏi phải xử  lý trước khi sử  dụng làm cơ chất cho sản xuất protein đơn bào. Có nhiều cách xử lý khác nhau, ví  dụ  như  phân giải bằng axit hay kiềm, bằng hơi nước hay thậm chí dùng phóng  xạ  tia X [2]. Người ta có thể  nấu gỗ  trong dung dịch chứa Canxi sulfit. Đến ngày  nay, để  tận dụng các nguồn lignocellulose là sản phẩm thải người ta dùng các  Page 11
  12. nhóm nấm, trong đó được biết rõ nhất là Agaricus bisporus và một số  các nhóm  khác chứa enzyme phân giải lignocellulose. 1.4.2. Các sản phẩm phụ của các quá trình lên men công nghiệp. Dịch kiềm sulfit  –  sản phẩm phụ  của quá trình sản xuất giấy  đã được sử  dụng làm cơ chất để  lên men kể  từ  nawmg 1909 ở  Thụy Điển và sau đó ở  nhiều  nơi trên thế  giới. Dạng vi sinh vật đầu tiên được sử  dụng trong quá trình này là  Saccharomyces cerevisiae, mặc dù loài vi sinh vât này không có khả năng chuyển  háo pentose – loại hợp chất có mặt với lượng lớn trong sản phẩm thải này. Sau  đó, người ta tìm ra các loài vi sinh vật thích hợp hơn như Candida tropicalis hay  Candida utilis. Rỉ  đường là một sản phẩm phụ  của quá trình lên men đường. Dịch đường  nồng độ cao thu được từ quá trình xay xát mía hay củ cải đường được làm lạnh  để  đường  kêt tinh.  Khi  đường  không  kết  tinh  nữa  thì  người  ta  thu  được  phần  dung dịch còn lại, đó là rỉ đường. Đối với 100kg thực vật có thể thu được 3.5 đến  4.5 kg rỉ  đường. Bên cạnh nồng  độ  đường  cao,  rỉ  đường  còn  chứa  các  chất  khoáng,  các  hợp  chất  hữu  cơ  và  vitamin có giá trị  cao trong công nghiệp lên  men. Tuy nhiên, sản xuất sinh khối vi sinh vật từ  rỉ  đường đòi hỏi phải bổ  sung  thêm   nguồn   nitơ   và   photpho   phù   hợp.   Nguồn   nitơ  truyền  thống  là  các  muối  amonium, nguồn photpho thêm vào thường ở dạng muối. 1.4.3. Các sản phẩm, dịch chiết và dịch thủy phân từ nguyên liệu thực vật. Tinh bột thu được từ  các loài thực vật có củ ở các nước nhiệt đới và ôn đới,  từ  gạo, ngô và ngũ cốc là nguồn nguyên liệu để  sản xuất protein đơn bào. Ở các  nước nhiệt đới, người ta còn sử  dụng sắn như một nguồn nguyên liệu sản xuất  protein  đơn  bào.   Quy  trình   sản  xuất  này  sử  dụng  một  số  loài  vi   sinh  vật  có  enzyme amylase như  Endomycosis fibuligira, sau đó đưa dịch nuôi cấy sau khi  phân hủy tinh bột qua nồi  lên men  có  chứa  một  loại  vi  sinh  vật  có  tốc  độ  sinh  trưởng nhanh như Candida utilis.  Dịch chiết của một số loại quả như đủ đủ, dứa, chuối cũng là nguồn cơ chất  để  tổng hợp  protein đơn bào.  Dịch chiết đu đủ  có hàm lượng chất dinh dưỡng  cao: saccharride chiếm 9.6%, protein, protein chiếm 0.2%, đường hòa tan chiếm  khoảng 7%; đường hòa tan trong đu đủ ở  dạng glucose, fructose và sucrose, đồng  thời đây là loài thực vật có năng suất cao, sinh trưởng tương đối nhanh. Một loại  Page 12
  13. quả  khác là chuối cũng là nguyên liệu để  sản xuất protein đơn bào. Điều này có  rất có ích trong việc tận dụng nguồn sản phẩm dư thừa do không đủ  chất lượng  xuất khẩu ở các quốc gia có trồng nhiều loại cây ăn quả này. 1.4.4. Các   nguồn   nhiên   liệu   có   giá   trị   thương   mại   cao   như   khí   đốt,   methan,  methanol và các n­alkan. Các vi sinh vật liên quan đến quá trình sản xuất protein đơn bào từ  nguồn cơ  chất trên chủ  yếu là các vi khuẩn và nấm men. Nhiều quá trình hiện nay đang  trong giai đoạn nghiên cứu. Việc sử  dụng nguồn hợp chất nhiên liệu trên để  sản  xuất thức ăn từ lâu đã được nhiều nhà khoa học đặt ra. Công ti dầu mỏ  của Anh  đã sử  dụng hai loại nấm men  Candida lipolytica  và  C. tropicalis  với nguồn cơ  chất là các alkan có mạch Carbon từ 12 đến 20 nguyên tử  có trong phần dẻo của  khí gas. Một vài loại dầu thô có chứa phần này chiếm khoảng 15%. Sản phẩm  thu được từ quá trình này còn gọi là TOPRINA, đã được kiểm tra độc tính và khả  năng gây ung thư trong vòng 12 năm, sau đó đã được sử  dụng làm nguồn thức ăn  thay thế  có hàm lượng protein cao cho cá hoặc dùng làm bột sữa không béo. Tuy  nhiên, do giá dầu mỏ ngày càng cao, nhiều nước đã ngừng sử dụng nguồn nguyên  liệu này để  sản xuất protein đơn bào. Thay vào đó, người ta tăng cường nghiên  cứu sử  dụng methane làm nguồn cơ chất. Vi sinh vật phù hợp với nguồn cơ chất  này mà đã được nghiên cứu kĩ  là  Methylomonas methanica, nuôi  cấy  trong  môi  trường có chứa muối nitrat hay muối ammonium làm nguồn nitơ. Mặt khác, methanol cũng là một nguồn chất được quan tâm. Lên men trên quy  mô lớn để  thu sinh khối của  Methylophilus methtlotrophus  từ  nguồn cơ  chất là  methanol là phương pháp được xây dựng để  sản xuất protein đơn bào từ  nguồn  này,  và sản phẩm của quy trình này được sử  dụng làm thức ăn cho vật nuôi.  Methanol với vai trò là nguồn carbon để  sản xuất protein đơn bào có nhiều  ưu  điểm vượt trội hơn so với n­paraffin, khí metan hay thậm chí một số  hợp chất  carbohydrate. 1.5. Quy trình sản xuất protein đơn bào Quá trình lên men tạo sinh khối yêu cầu lựa chọn loại vi sinh vật được có giai  đoạn sinh lý phù hợp, khử trùng môi trường nuôi cấy và các thiết bị dùng để  giữ  môi trường nuôi ở trạng thái sẵn sàng, tách tế bào, thu các tế bào ở phần dịch nổi,  tinh chế  và xử  lý, bộ ổn nhiệt để điều hòa nhiệt độ, dụng cụ xác định pH và các  thiết bị  điều khiến khác để điều hòa các yếu tố cần thiết cho sự sinh trưởng ở  mức ổn định. Page 13
  14. Sau khi chuẩn bị, nuôi cấy vi sinh vật ở điều kiện thích hợp trong môi trường  đã  chuẩn bị.  Quá trình này đòi hỏi phải kiểm soát nồng độ  carbon  ở  mức thích  hợp cũng như  cung cấp đủ  oxy  để  duy trì điều kiện hiếu khí cần cho sự  sinh  trưởng của vi sinh vật. Vì đây là một quá trình phụ  thuộc vào thời gian, nên việc  biến đổi liên tục các yếu tố của môi trường sẽ ảnh hưởng đến sinh lý của tế bào,  trong đó nồng độ  cơ  chất có  ảnh hưởng lớn nhất. Vì thế, người ta sử  dụng  phương pháp nuôi cấy  liên tục để  có thể  kiểm soát nguồn Carbon đưa vào môi  trường, đồng thời lấy ra một lượng vi sinh vật nhất định để  đảm bảo cung cấp  đủ  oxy cho lượng vi sinh vật ở  trong thùng nuôi cấy. Các phương pháp thường  được áp dụng bao gồm: lên men nổi, lên men chìm và lên men trên pha rắn. Sau khi nuôi cấy, cần thu sinh khối vi sinh vật. Hiện nay có nhiều phương  pháp để  cô đặc dịch nuôi cấy như  lọc, để  lắng, li tâm và dùng các màng bán  thấm. Người ta thường thu sinh khối nấm men bằng cách li tâm, còn đối với nấm  sợi thường thu bằng cách lọc. Tuy nhiên, các thiết bị  cần thiết tường đắt và  không phù hợp với sản xuất ở quy mô nhỏ cũng như mở rộng sản xuất. Việc loại  bỏ  lượng  nước  là  rất  cần  thiết  để  giữ  các chất  ổn định để  lưu trữ  nhưng lại  không dễ  thực hiện.  Protein đơn bào cần phải được sấy đến độ   ẩm 10% hoặc  phải làm cô đặc lại và biến tính để đề phòng chúng bị hỏng. 1.6. Chế biến protein đơn bào thành thực phẩm Để  sử  dụng hiệu quả  các protein vi sinh vật làm thức ăn cho người, cần các  điều kiện sau: ­ Giải phóng protein tế bào bằng cách phá hủy hay phân hủy thành tế bào. ­ Làm giảm hàm lượng axit nucleic trong tế bào. 1.6.1. Phá hủy thành tế bào: Có thể phá hủy thành tế bào vi sinh vật bằng nhiều cách: ép, bẻ vụn, nghiền,  dùng  áp  lực  hay  phá  hủy  bằng  sóng  âm.  Ngoài  ra  người  ta  còn  sử  dụng  các  enzyme hay hỗn hợp enzyme để phân hủy từng phần hoặc hoàn toàn thành tế bào.  Thủy phân thành tế  bào nhờ  enzyme có hiệu quả  cao hơn do tác động đặc hiệu.  Phương pháp enzyme có thể dùng để thay thế phá hủy cơ học, đặc biệt là đối với  các nguyên liệu có thể  bị  bất hoạt do yếu tố  cơ  học, người ta sử  dụng cả  các  enzyme nội bào và ngoại bào do các vi sinh vật khác tiết ra. Tuy nhiên, quá trình  này diễn ra chậm hơn  so với dùng phương pháp cơ  học hoặc hóa học, do vậy,  người ta thường sử dụng phối hợp nhiều phương pháp để có hiệu quả cao hơn. Page 14
  15. Phương pháp phi­cơ học Phương pháp cơ học Xử  lý hóa học: dùng axit, bazơ, các chất  Dùng áp lực cao hòa tan, chất tẩy rửa Phân   giải   bằng   enzyme:   enzyme   thủy  Nghiền   ướt,   sử   dụng   các   hạt   nghiền  phân, dùng phage, tự phân hủy Dùng sóng âm để  phá hủy tế  bào Nén tế  bào Dùng các phương pháp vật lý: làm đông  Dùng áp suất cao ở nhiệt độ thấp lạnh­để tan, sốc thẩm thấu, dùng nhiệt và  sấy khô Bảng 1. Một số phương pháp thường sử dụng để phá hủy thành tế bào vi sinh  vật 1.6.2. Loại bỏ axit nucleic Các phương pháp dùng để  loại bỏ  axit nucleic trong tế  bào bao gồm phương  pháp xử lý hóa học và xử lý bằng enzyme. Mỗi phương pháp đều có nhược điểm  là giá thành đắt và có thể ảnh hưởng đến thành phần dinh dưỡng trong tế bào. Một số phương pháp: ­ Tách axit nucleic bằng các rượu, muối, acid và kiềm. ­ Tách axit nucleic khỏi sinh khối vi sinh vật bằng kiềm  ở nhi ệt độ  cao, tuy  nhiên phương pháp này có thể tạo ra các chất độc, ví dụ như lysinoalanine. ­ Xử lý bằng anhydrid để biến đổi cấu trúc nucleoprotein ở nấm men. ­ Sử dụng các enzyme nuclease để phân giải axit nucleic. 1.7. Ưu nhược điểm của protein đơn bào. 1.7.1. Ưu điểm: Page 15
  16. ­ Vi sinh vật có tốc độ nhân đôi và tăng trưởng nhanh, thu sinh khối trong  thời gian ngắn. ­ Vi sinh vật có hàm lượng protein tương đối cao. ­ Các vi sinh vật có khả năng sử dụng một số lượng nguồn carbon phong phú để  tạo thành năng lượng, trong đó có một số nguyên liệu được tái sử dụng từ nguồn chất  thải nông nghiệp hay công nghiệp. ­ Các chủng vi sinh vật với năng suất cao cũng như thành phần chất dinh dưỡng  phù hợp có thể được chọn lọc và nuôi cấy với số lượng lớn trong điều kiện phòng thí   nghiệm, đồng thời cũng có tiềm năng áp dụng ở quy mô công nghiệp. ­ Sinh khối viinh vật dùng để thu protein đơn bào không phụ thuộc vào mùa cũng   như biến đổi khí hậu. 1.7.2. Nhược điểm: Bên cạnh các ưu điểm trên, việc sử dụng các nguồn vi sinh vật hay sinh khối  vi sinh vật làm thức ăn hay sản xuất protein đơn bào cũng có nhiều nhược điểm  cần phải khắc phục, bao gồm: ­ Nhiều loài vi sinh vật có thể tạo ra các chất gây độc cho cơ thể người và cơ  thể  động vật, Vì vậy, khi chọn lựa một loài vi sinh vật để  tiến hành sản xuất  phải đảm bảo nó không chứa bất kì chất độc nào. ­ Đôi khi sử dụng sinh khối vi sinh vật để làm nguồn thức ăn bổ  sung có thể  dẫn đến khó tiêu hoặc không tiêu hóa được, thậm chí gây phản  ứng dị   ứng cho   người. ­ Hàm lượng axit nucleic cao trong sinh khối khô của nhiều loài vi sinh vật   cũng là một yếu tố gây ảnh hưởng không mong muốn cho con người. Đôi khi hàm  lượng axit nucleic cao này có thể dẫn đến sự hình thành sỏi thận hay bệnh gout. ­ Khả năng chứa các hợp chất gây độc hay gây ung thư cho con người. PHẦN 2. MỘT SỐ QUY TRÌNH SẢN XUẤT  PROTEIN ĐƠN BÀO 2.1. Sản xuất sinh khối nấm men từ nguồn nguyên liệu thông thường 2.1.1. Nguyên liệu và xử lý nguyên  liệu Các dạng nguyên liệu chứa hydrat cacbon thường là các phụ phẩm và phế phẩm sau: Page 16
  17. ­ Các sản phẩm chứa sacaroza của công nghiệp chế biến đường (rỉ đường mía,   rỉ  đường củ cải, bã mía, cặn rỉ đường, nước rửa thô ..) ­ Nước thải của nhà máy sữa còn chứa nhiều lactoza ­ Dịch kiềm sunfit có chứa nhiều pentoza, hexoza, dịch thuỷ phân gỗ. ­ Các nguyên liệu chứa tinh bột và xenluluza khác. Điểm chung nhất dễ nhận thấy ở các dạng nguyên liệu trên là ngoài đường, chúng  còn chứa nhiều axit hữu cơ, N.P,S và các chất khác. Sự  phức tạp này nảy sinh hiện  tượng sinh trưởng kép làm cản trở  sử  dụng chúng trong nuôi cấy liên tục một giai  đoạn. 2.1.2. Rỉ đường Về  lý thuyết: Từ  1g C H O có thể  thu  được 0,5 g sinh khối nấm men khô  6 12 6   (theo nghiên cứu của  A.J.Forage): C H O (1g)  +  O (0,4g) CO (0,67g) + H O (0,27g) 6 12 6   2  2    2 + NH (0.05g) Q(1,25kcal)   Sinh   khối   nấm   men  khô  3   0,5g Hoặc theo nghiên cứu C.L  Cooorey C H O (2kg)  +  O (0,7g) Sinh khối nấm men khô  (1kg) 6 12 6   2  + N,P,K,  Mg,  S(0,1kg) + CO (1,1g) + H O (0,7g) 2   2 Các nguyên liệu chứa sacaroza (rỉ đường..) là dạng nguyên liệu lý tưởng nhất đến  sản xuất protein  đơn bào, vì các nguyên liệu này chứa nhiều yếu tố  kích thích sinh  trưởng, khí,biotin và sản phẩm protein thu được hầu như sạch, không độc. Rỉ đường được dùng làm các cơ chất cho nhiều quá trình lên men vì: ­ Giá thành rẻ hơn các nguyên liệu chứa đường khác. ­ Ngoài đường sacaroza, rỉ đường còn chứa một số chất vô cơ, hữu cơ và  vitamin   có giá  trị. Thành phần của rỉ đường mía và rỉ đường củ cải có sự khác nhau được ở bàng 2.1. Thành phần Rỉ   đường   củ  Rỉ   đường  Đường tổng số % 48 – 52 48 – 56 Chất hữu cơ  không   phải  đường 12 – 17 9 – 12 Protein   (Nx6,25) % % 6 – 10 2 – 4 K % 2,0 ­ 7,0 1,5 ­ 5,0 Ca % 0,1 ­ 0,5 0,4 ­ 0,8 Mg % 0,09 0,06 Page 17
  18. P % 0,02 ­ 0,07 0,6 ­ 2,0 Biotin mg/kg 0,02 ­ 0,15 1,0 ­ 3,0 Axit   pantothenic mg/kg 50 – 110 15 – 55 Inozitol mg/kg 5000 – 8000 2500 – 6000 Tiamin mg/kg khoảng 1,3 1,8 Bảng 2. Thành phần của rỉ đường củ cải và rỉ đường mía chứa 75% chất  khô Sự khác biệt cơ bản giữa 2 loại nguyên liệu này là: ­ Rỉ đường mía nói chung có pH thấp hơn (5,5 – 6,5) do sự có mặt của các axit  béo và pH thấp dùng trong quá trình làm trong. ­ Rỉ  đường mía có màu tối hơn đường củ  cải nên khi dùng không trộn với rỉ  đường củ cải thì nấm men thu được sẽ có màu tối hơn. ­ Rỉ  đường củ  cải chứa nhiều đường sacaroza hơn rỉ   đường mía vì trong rỉ  đường củ  cải hầu như  không có một loại đường chuyển hoá nào (có khi chỉ  có   khoảng 1%) trong khi rỉ  đường mía có thể  chứa tới 15­25% hidrat cacbon của nó  dưới dạng đường chuyển  hoá. ­ Nói chung, rỉ  đường củ  cải chứa nitơ hữu cơ năm lần cao hơn rỉ  đường mía,   nhưng một nửa là betain, một thành phần không được Saccharomyces đồng hoá,   trong khi đó betain không có mặt trong rỉ đường mía. ­ Sự  khác biệt về hàm lượng vitamin trong rỉ đường mía và đưòng củ  cải cũng   là tiêu chuẩn quan  trọng: + Các chất sinh trưởng có mặt trong rỉ  đường mía với hàm lượng lớn: rỉ  đường mía chứa khoảng 2,5 µg biotin/g gấp 20 lần hơn rỉ đường củ cải. + Trong khi đó rỉ đường mía nghèo các chất khoáng và axit amin: rỉ đường  củ  cải chứa axit pantothenic gấp 2­4 lần so với rỉ đường mía. Như  vậy, rỉ  đường dùng nuôi cấy nấm men không những là nguồn đường mà  còn  cung  cấp  các  hợp  chất hữu  cơ  khác,  các  muối  khoáng  cần  thiết và  các  nhân  tố  sinh trưởng. Tuy nhiên, ngoài các thành phần có ích cho sự  sinh trưởng của nấm men, rì  đường cũng có thể  chứa các hợp chất có hại có thể làm hư hỏng quá trình lên men:  Hàm lượng canxi cao nói lên chất lượng thấp của rỉ đường và có thể gây nên những  khó khăn trong việc sản xuất nấm men. Rỉ đường cũng có thể dễ dàng nhiễm các vi  sinh vật và gây nên những vấn đề không có lợi trong lên men. Xử lý rỉ đường: Rỉ  đường cần được xử  lý chút ít trước khi nuôi cấy. Thông thường nó được axit  0 hoá bằng axit sunfuric tới pH = 4 và đun nóng tới 120­150 C trong 1 phút để  kết tủa  một số  chất vô cơ  và chất lơ  lửng. Cần phải loại bỏ  một phần các chất sinh trưởng,  Page 18
  19. đồng thời bổ  sung các muối khoáng cần thiết (như  urê 0,15%, KH PO 0,35%, Mg,  2 4  Ca) và có thể phải thêm hỗn hợp các axit amin dạng protein thủy phân (dịch nấm men  tự phân, dịch thải trong sản xuất nước chấm, dịch bã rượu ở giai đoạn nhân giống). Khi chuẩn bị  phối trộn, rỉ  đường củ  cải và rỉ  đường mía phải  được xử  lý tách  biệt trong các khâu pha loãng, điều chỉnh pH, đun nóng, làm trong, khử  trùng rồi mới  được phối trộn. Thường pha loãng đến nồng độ đường khoảng 5­6%. Sau khi  chuẩn  bị  xong  môi  trường  dinh dưỡng,  tiến  hành thanh trùng  ở  nhiệt  độ  0 120 C. 2.1.3. Các nguyên liệu  khác: Dịch kiềm sufit: Nước thải các nhà máy giấy xenluloza theo phương pháp sunfit  gọi là dịch kiềm sunfit (SWL­Sunfit Waste Liquors) cũng là nguồn nguyên liệu tốt để  sản xuất nấm men. Thành phần hydrocacbon của nó chủ  yếu là đường pentoza, một  loại đường chỉ có nấm men mới chuyển hoá tốt. Ngoài ra còn có linhin, phi xenluloza,  một số axit hữu cơ  … Khi  sử  dụng  dịch  kiềm  sunfit  cần  phải  được  làm  nóng  và  thông  khí  trước  khi  nuôi nấm men để  loại bảo các yếu tố  kiềm hãm (SO và furfurol). Bổ  sung chất dinh  2  +  ­­ dưỡng vào dịch thải trên (như  NH và PO ), điều chỉnh pH về  khoảng 5 sẽ  được  4 4 môi trường nuôi cấy nấm men khá tốt và lượng sinh khối nấm men sinh ra sau quá  trình   lên men có chất lượng đáng kể  với các thành phần như  sau: protein (46% chất khô),  lipit (7­8%), photpho (1,8%), axit nucleic (10%)… Người ta tính rằng khoảng 5 tấn bột xenluloza để  sản xuất giấy sẽ  thải ra một  lượng dịch kiềm sunfit chứa tới 180 kg đường. Dịch này hấp phụ  nhiều O nên khi  2  nuôi cấy nấm men có thể giảm mức cung cấp oxi tới 60% so với bình thường. Các nguồn xenluloza thực vật (gỗ, rơm, rạ bã mía, lõi ngô..) được chú ý nhiều  trong sản xuất nấm men. Trước hết cần phải thuỷ  phân xenluloza bằng axit hoặc  bằng enzim. Nếu dùng gỗ thì thường phải thuỷ phân bằng axit sunfuric. Nước thải của nhà máy chế  biến sữa, còn gọi là nhũ thanh (lactoserum): trong  quá trình lên men lactic để chế biến phomat, sau khi kết tủa cazein ra khỏi s ữa, ph ần   còn lại gọi là nhủ thanh có chứa lactoza, protein, axit lactic, axit béo, một số vitamin và   muối khoáng. Người ta chọn chủng nấm men thích hợp để có thể thuỷ phân được liên  kết  ­galactozidaza và thu được sinh khối nấm men dạng khô có thành phần protein  thô   khoảng   32%,   lipit   4­5%,   lacto   khoảng   23%.   Chủng   nấm   men   C.utilis  và  C.pseudotropical rất thích hợp trong môi trường trên đây.  Page 19
  20. Bột ngũ cốc: là nguồn sản xuất sinh khối nấm men rất tốt. Bột hoặc tinh bột  dùng vào mục  đích này trước tiên phải tiến hành thuỷ  phân bằng axit hoặc bằng  enzim của mầm mạ  hoặc enzim của vi sinh vật  để  biến các polysacarit thành các  dạng đường mà nấm men có thể đồng hoá  được. Trong trường hợp dùng nấm men  Saccharomysces cerevisiae  thì có thể  kết hơp  chưng cất thu lấy cồn từ  dịch thải sau khi tách sinh khối. Như  vậy trong dây chuyền  công nghệ cần phải trang bị thêm bộ phận chưng cất. Dịch ly tâm được đưa vào hệ li  tâm tách (separator) và dịch thải sau khi được tách ra được chuyển đến khâu chưng  cất. 2.1.4. Chủng nấm  men: Tuỳ  theo từng loại nguyên liệu khác nhau, chúng ta có thể  sử  dụng những  chủng nấm men phù hợp để tạo sinh khối có hiệu quả nhất. Đối  với  nguyên  liệu  là  rỉ  đường,  dung  dịch  đường,  nấm  men  thường  dùng  là Saccharomysces cerevisiae, Candidas tropicalis, Candidas utilis. Đối với nguyên liệu tinh bột hay nước thải tinh bột, dùng chủng nấm men  tương   ứng   là  Endomycopis   fibuligera  hoặc   phối   hợp   giữa  Endomycopis  với  Candidas tropicalis. Nếu nguyên liện là bã rượu, chủng nấm men là Candidas utilis. Nếu sử  dụng lactoserum (nhũ thanh sữa) thì chủng nấm men đặc chủng là  Torula cremoris, T. lactosa. Nguyên   liệu   là   kiềm   sunfit,   chủng   nấm   men   sử   dụng   là  Cryptococus   diffluens, Candidas tropicalis, Candidas  utilis. Tuy   nhiên   trong   trường   hợp   không   có   những   chủng   nấm   men   phù   hợp,  chúng ta có thể thay thế một trong các chủng trên đây. 2.2. Sản xuất sinh khối nấm men từ rỉ đường Page 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1