intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Tài chính công và an sinh xã hội tại Việt Nam

Chia sẻ: Quangvinhhsphg Quangvinhhsphg | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:32

399
lượt xem
80
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đối với nước ta, bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội luôn là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Xuất phát từ thực tế đó mà "Bài tiểu luận: Tài chính công và an sinh xã hội tại Việt Nam" đã được thực hiện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Tài chính công và an sinh xã hội tại Việt Nam

  1. Bài tiểu luận: Tài Chính Công Lời mở đầu C uộc sống ngày càng phát triển, ngày càng tiến bộ, con người ngày  càng có cuộc sống đầy đủ, phong phú hơn, song quy luật “sinh lão  bệnh tử” không chừa một ai, cuộc sống luôn luôn tồn tại những khó  khăn, rủi ro khó lường từ  các hoạt động của con người, từ  thiên nhiên, dịch  bệnh, các quá trình phát triển kinh tế ­ xã hội...Điều đó tác động xấu đến chất  lượng cuộc sống của con người, để  tồn tại và phát triển con người đã có  nhiều biện pháp để  khắc phục khó khăn. An sinh xã hội (ASXH) ra đời đã  ngăn chặn và hạn chế bớt những khó khăn, rủi ro trên. Truyền thống tương trợ, hỗ  trợ, san sẻ nhau đã xuất hiện từ  xa xưa lúc con   người cùng nhau săn bắt, hái lượm để  tồn tại, cùng nhau chiến đấu với thú  dữ, thiên tai, và cho đến ngày nay trước những biến cố, rủi ro của cuộc sống,   tinh thần ấy vẫn được phát huy mạnh mẽ và ngày càng có những hình thức đa  dạng như: bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội, trợ cấp gia đình, các chương trình   xoá đói giảm nghèo, các quỹ tiết kiệm xã hội...Đối với nước ta, bảo đảm ngày   càng tốt hơn an sinh xã hội luôn là một chủ  trương, nhiệm vụ  lớn của Đảng   và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ  ta và có ý nghĩa rất quan  trọng đối với sự   ổn định chính trị  ­ xã hội và phát triển bền vững của đất   nước.  Vậy an sinh xã hội (ASXH) là gì? Thực trạng ASXH  ở nước ta như thế nào?  Còn những hạn chế, tiêu cực gì trong ASXH? Vai trò của chính phủ  như  thế  nào trong việc giúp cuộc sống của người dân được nâng cao hơn, đảm bảo  công bằng hơn?...Bằng phương pháp phân tích, tổng hợp từ những tài liệu trên  sách, báo, internet...và những gì thấy được  ở  thực tế, nhóm tiểu luận sẽ  giải   đáp những câu hỏi trên, đồng thời cũng đưa ra một số  giải pháp trong việc   thực hiện an sinh xã hội được tốt hơn, công bằng hơn. Song kiến thức là bao la, thực tế lại là một bí ẩn khó có thể khám phá hết mọi  khía cạnh, những hiểu biết của chúng em lại còn hạn chế nên khó có thể tránh  Trang 1
  2. Bài tiểu luận: Tài Chính Công được thiếu sót trong quá trình viết bài này. Rất mong  thầy và các bạn góp ý  thêm để bài tiểu luận hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Phần 1: Khái quát về An Sinh Xã Hội ( ASXH) 1. Khái niệm Theo tiếng Anh, ASXH thường được gọi là Social Security.Theo nghĩa chung  nhất, Social Security là sự  đảm bảo thực hiện các quyền của con người được   sống trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến  trong khuôn khổ  luật pháp; được bảo vệ  và bình đẳng trước pháp luật; được  học tập, được có việc làm, có nhà  ở; được đảm bảo thu nhập để  thoả  mãn   những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già…. Theo nghĩa  hẹp, Social Security được hiểu là sự  bảo đảm thu nhập và một số  điều kiện  sinh sống thiết yếu khác cho người lao động và gia đình họ  khi bị  giảm hoặc   mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho   những người già cả, cô đơn, trẻ  em mồ  côi, người tàn tật, những người nghèo  đói và những người bị  thiên tai, dịch hoạ…Theo chúng tôi, ASXH mà chúng ta   đang nói tới, nên được hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm Social Security này.  Bên cạnh khái niệm này, từ  những cách tiếp cận khác nhau, một số  nhà khoa  học đưa ra những khái niệm rộng­ hẹp khác nhau về ASXH. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đang sử dụng: ASXH là sự bảo vệ của xã   hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng,   nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu   nhập, gây ra bởi  ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật,   tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế  và trợ  cấp cho các gia   đình đông con. Như vậy, về mặt bản chất, ASXH là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống   cho các công dân trong xã hội. Phương thức hoạt động là thông qua các biện   pháp công cộng. Mục đích là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội  và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Việc có một hệ  thống an sinh xã hội có thể  làm thay đổi cuộc sống của mọi   người theo chiều hướng tốt lên cũng như không có một hệ thống an sinh xã hội   cũng làm thay đổi cuộc sống của họ theo chiều hướng xấu đi. Hệ thống an sinh xã hội của mỗi nước có tác động rất lớn đến an sinh khu vực  và thậm chí là cả thế giới.      2.  Các bộ phận cấu thành của ASXH Trang 2
  3. Bài tiểu luận: Tài Chính Công           2. 1­ Bảo hiểm xã hội Đây là bộ  phận lớn nhất trong hệ  thống ASXH. Có thể  nói, không có  BHXH thì không thể có một nền ASXH vững mạnh. Theo nghĩa hẹp, cụ thể, có   thể  hiểu BHXH là sự  bảo đảm thay thế  hoặc bù đắp một phần thu nhập cho   người lao động khi họ  mất hoặc giảm khoản thu nhập từ  nghề  nghiệp do bị   mất hoặc giảm khả  năng lao động hoặc mất việc làm, thông qua việc hình   thành và sử  dụng một quỹ  tài chính do sự  đóng góp của các bên tham gia bảo   hiểm xã hội, nhằm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của người lao động và   gia đình họ; đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. BHXH có những điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi ro  giữa những người tham gia; đòi hỏi tất cả  mọi người tham gia phải đóng góp   tạo nên một quỹ chung; các thành viên được hưởng chế độ  khi họ gặp các “sự  cố” và đủ  điều kiện để  hưởng; chi phí cho các chế  độ  được chi trả  bởi quỹ  BHXH; nguồn quỹ được hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia,   thường là sự  chia sẻ  giữa chủ  sử  dụng lao động và người lao động, với một  phần tham gia của Nhà nước; đòi hỏi tham gia bắt buộc, trừ những trường hợp   ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng của Quỹ được đầu tư  tăng trưởng, nâng   cao mức hưởng cho người thụ  hưởng chế  độ  BHXH; các chế  độ  được bảo   đảm trên cơ  sở  các đóng góp BHXH, không liên quan đến tài sản của người   hưởng BHXH; các mức đóng góp và mức hưởng tỷ  lệ  với thu nhập trước khi   hưởng BHXH…          2.2­ Trợ giúp xã hội Đó là sự  giúp đỡ  của Nhà nước và xã hội về  thu nhập và các điều kiện   sinh sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường   hợp bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo được cuộc sống tối   thiểu của bản thân và gia đình. Trợ  giúp xã hội là sự  giúp đỡ  thêm của cộng đồng và xã hội bằng tiền   hoặc bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để  đối tượng được giúp đỡ  có thể  phát huy khả  năng tự  lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm hòa   nhập trở lại với cuộc sống của cộng đồng.          2.3­ Trợ cấp gia đình Trong hệ thống ASXH của nhiều nước quy định chế độ  BHXH dựa trên  những nhu cầu đặc biệt và có những chi phí bổ sung gắn với gia đình. Những phương pháp áp dụng bao gồm việc sử dụng cơ cấu thuế để gắn  với trách nhiệm gia đình. Người không có con phải nộp thuế  cao hơn những   người có con; người ít con phải nộp thuế nhiều hơn người đông con… Trang 3
  4. Bài tiểu luận: Tài Chính Công          2.4­ Các quỹ tiết kiệm xã hội Ngoài BHXH, trong hệ thống ASXH của nhiều nước có tổ chức các quỹ  tiết kiệm dựa trên đóng góp cá nhân. Những đóng góp được tích tụ  dùng để  chi trả  cho các thành viên khi sự  cố  xảy ra. Đóng góp và khoản sinh lời được chi trả  một lần theo những quy  định. Từng cá nhân nhận khoản đóng góp của mình và khoản sinh lời, không   chia sẻ rủi ro cho người khác…         2. 5. Các dịch vụ xã hội được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng Trợ  cấp cơ  bản cho mọi cư  dân, hoặc tất cả  những người đã từng làm  việc trong một khoảng thời gian nhất định. rợ  cấp này không liên quan đến tài sản trước đó của người thụ  hưởng;   các chế độ được chi trả từ ngân sách Nhà nước.          2.6.Trách nhiệm từ chủ sử dụng lao động Thường chỉ  là hệ  thống tai nạn nghề  nghiệp hoặc hệ thống đền bù cho   người lao động. Chủ yếu liên quan đến tai nạn tại nơi làm việc và bệnh nghề nghiệp. Trách nhiệm của chủ  sử  dụng lao động đối với chăm sóc y tế  và bồi  thường tuỳ theo mức độ tai nạn và bệnh nghề nghiệp. Có thể  bao gồm một phần để  chi trả  chế  độ  cho người lao động trong   thời gian ngừng việc (nằm trong chế độ BHXH).          2.7. Dịch vụ xã hội khác       3.  Bản chất và tính tất yếu khách quan của an sinh xã hội          Theo khái niệm an sinh xã hội ở trên, có thể thấy:     + ASXH trước hết đó là sự  bảo vệ  của xã hội đối với các thành viên   của mình.     + Sự bảo vệ này được thực hiện thông qua các biện pháp công cộng. Trang 4
  5. Bài tiểu luận: Tài Chính Công     + Mục đích của sự bảo vệ này nhằm giúp đỡ các thành viên của xã hội   trước những biến cố, những “ rủi ro xã hội” dẫn đến bị  giảm hoặc mất thu   nhập….        Như vậy, có thể nói, bản chất sâu xa của ASXH là góp phần đảm bảo thu  nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội với phương thức hoạt động là  thông qua các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên   trong xã hội và vì vậy mang tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Có thể thấy rõ   bản chất của ASXH từ những khía cạnh sau: 3.1 ASXH là biểu hiện rõ rệt của quyền con người đã được Liên hợp   quốc thừa nhận. Để  thấy rõ bản chất của ASXH, cần hiểu rõ mục tiêu của nó. Mục tiêu của  ASXH là tạo ra một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho tất cả  mọi thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu   nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do nhiều nguyên  nhân khác nhau, như   ốm đau, thương tật, già cả… gọi chung là những biến cố  và những “rủi ro xã hội”. Để  tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp,   ASXH dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội,  được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và các biện pháp khác nhau. ASXH, như  đã nêu, có nội dung rất rộng lớn, nhưng tập trung vào ba vấn đề  chủ yếu:   Thứ  nhất, là trụ cột cơ bản, cần thiết cho sự bảo đảm, đó là sự  BHXH.   Có thể nói BHXH là xương sống của hệ thống ASXH. Chỉ khi có một hệ thống   BHXH   hoạt   động   có   hiệu   quả   thì   mới   có   thể   có   một   nền   ASXH   vững   mạnh.Thông qua các trợ  cấp BHXH, người lao động có được một khoản thu   nhập bù đắp hoặc thay thế cho những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất trong   những trường hợp họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Thứ  hai, là sự  cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động  và các thành viên gia đình họ, nhằm bảo đảm cho họ tái tạo được sức lao động,  duy trì và phát triển nền sản xuất xã hội, đồng thời phát triển mọi mặt cuộc   sống của con người, kể cả phát triển bản thân con người. Thứ ba, là các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật…) cho những  người có rất ít hoặc không có tài sản (người nghèo khó), những người cần sự  giúp đỡ đặc biệt cho các gánh nặng gia đình… ASXH cũng khuyến khích, thậm   Trang 5
  6. Bài tiểu luận: Tài Chính Công chí bao quát cả những loại trợ giúp như miễn giảm thuế, trợ cấp về ăn, ở, dịch  vụ đi lại… Hệ thống ASXH hiện đại phân phối lại tiền bạc, của cải và các dịch vụ xã hội  có lợi cho những nhóm người “yếu thế” hơn (hiểu một cách tương đối, biện   chứng nhất – TG) trong cộng đồng xã hội. Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo vệ cho các   thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi. 3.2 ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp. Mỗi người trong xã hội từ những địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo khác nhau…   là những hiểu hiện khác nhau của một hệ thống giá trị  xã hội. Nhưng vượt lên  trên tất cả, với tư  cách là một công dân, họ  phải được bảo đảm mọi mặt để  phát huy đầy đủ những khả năng của mình, không phân biệt địa vị xã hội, chủng  tộc, tôn giáo… ASXH tạo cho những người bất hạnh, những người kém may  mắn hơn những người bình thường khác có thêm những điều kiện, những lực   đẩy cần thiết để khắc phục những “biến cố”, những “rủi ro xã hội”, có cơ hội   để  phát triển, hoà nhập vào cộng đồng. ASXH kích thích tính tích cực xã hội   trong mỗi con người, kể cả những người giàu và người nghèo; người may mắn  và người kém may mắn, giúp họ hướng tới những chuẩn mực của Chân – Thiện   – Mỹ. Nhờ  đó, một mặt có thể  chống thói  ỷ  lại vào xã hội; mặt khác, có thể  chống lại được tư tưởng mạnh ai nấy lo, “đèn nhà ai nhà ấy rạng”… ASXH là   yếu tố  tạo nên sự  hòa đồng mọi người không phân biệt chính kiến, tôn giáo,  chủng tộc, vị trí xã hội… Đồng thời, giúp mọi người hướng tới một xã hội nhân  ái, góp phần tạo nên một cuộc sống công bằng, bình yên. 3.3 ASXH thể  hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ  lẫn nhau, tương   thân tương ái của cộng đồng. Sự  đoàn kết, giúp đỡ  lẫn nhau trong cộng   đồng là một trong những nhân tố để ổn định và phát triển xã hội. Sự san sẻ   trong   cộng   đồng,   giúp   đỡ   những   người   bất   hạnh   là   nhằm   hoàn   thiện   những giá trị  nhân bản của con người, bảo đảm cho một xã hội phát triển   lành mạnh.       3.3.1. ASXH thực hiện một phần công bằng và tiến bộ  xã hội. Trên   bình diện xã hội, ASXH là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các  tầng lớp dân cư. Trên bình diện kinh tế, ASXH là một công cụ phân phối lại thu  nhập giữa các thành viên trong cộng đồng, được thực hiện theo hai chiều ngang  và dọc. Sự  phân phối lại thu nhập theo chiều ngang là sự  phân phối lại giữa   Trang 6
  7. Bài tiểu luận: Tài Chính Công những người khoẻ mạnh và người ốm đau, giữa người đang làm việc và người  đã nghỉ  việc…. Một bên là những người đóng góp đều đặn vào các loại quỹ  ASXH hoặc đóng thế, còn bên kia là những người được hưởng trong các trường  hợp với các điều kiện xác định. Thông thường, sự  phân phối lại theo chiều  ngang chỉ  xảy ra trong nội bộ những nhóm người được quyền hưởng trợ  cấp   (một “tập hợp đóng” tương đối). Sự phân phối lại thu nhập theo chiều dọc là sự chuyển giao tài sản và sức mua  của những người có thu nhập cao cho những người có thu nhập quá thấp, cho  những nhóm người “yếu thế”. Phân phối lại theo chiều dọc được thực hiện   bằng nhiều kỹ  thuật khác nhau: trực tiếp (thuế  trực thu, kiểm soát giá cả, thu   nhập và lợi nhuận…) hoặc gián tiếp (trợ  cấp thực phẩm, cung cấp hiện vật   hoặc các dịch vụ  công cộng như  giáo dục, y tế, nhà  ở, giúp đỡ  và bảo vệ  trẻ  em…). Việc phân phối lại theo chiều dọc có ý nghĩa xã hội rất lớn (thực hiện   cho một “tập hợp mở” tương đối).        3.3.2. ASXH góp phần thúc đẩy tiến bộ  xã hội. Bảo đảm phân phối  công bằng hơn về  thu nhập và của cải, tiến tới công bằng xã hội; đạt được   hiệu quả  sản xuất, bảo đảm việc làm, mở  rộng và cải thiện về  thu nhập giáo  dục và y tế  cộng đồng; giữ  gìn và bảo vệ  môi trường… Đáp  ứng những nhu   cầu tối cần thiết cho những người gặp khó khăn, bất hạnh là vấn đề  được ưu   tiên trong chiến lược phát triển của thế giới. Những lưới đầu tiên của ASXH đã  bảo vệ, giảm bớt sự  khó khăn cho họ. Sự  phát triển sau này của những lưới  khác tạo ra sự đa dạng trong ASXH, giải quyết được những nhu cầu khác nhau  của nhiều nhóm người trong những trường hợp “rủi ro xã hội”. Tuy nhiên, phải  thấy rằng, ASXH không loại trừ  được sự  nghèo túng mà chỉ  có tác dụng góp  phần đẩy lùi nghèo túng, góp phần vào việc thúc đẩy tiến bộ xã hội.        3.3.3. ASXH là một tất yếu khách quan trong cuộc sống xã hội loài   người. Trong bất kỳ xã hội nào, ở  bất cứ  giai đoạn phát triển nào cũng đều có  những nhóm dân cư, những đối tượng rơi vào tình trạng không thể  tự  lo liệu   được cuộc sống, hoặc trong cảnh gặp sự cố nào đó trở thành những người “yếu  thế” trong xã hội. Nếu trong xã hội có những nhóm người “yếu thế”, những   người gặp rủi ro, bất hạnh thì cũng chính trong xã hội đó lại nẩy sinh những cơ  chế  hoặc tự  phát, hoặc tự  giác, thích  ứng để  giúp đỡ  họ. Đây là cơ  sở  để  hệ  thống ASXH hình thành và phát triển. Tất nhiên, ASXH là một quá trình phát   triển toàn diện, từ đơn giản đến phức tạp và ngày càng phong phú, đa dạng.   Trang 7
  8. Bài tiểu luận: Tài Chính Công Phần 2: Tìm hiểu và phân tích An Sinh Xã Hội ở Việt Nam ( ASXH) 1. Các vấn đề chung về ASXH ở Việt Nam 1.1 Khái niệm theo quan điểm ở Việt Nam An sinh xã hội chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của  mình, bằng một loạt những biện pháp công cộng, chống đỡ  sự  hẫng hụt về  kinh tế  và xã hội do bị  mất hoặc bị  giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau,   thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và   chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ          1.2 Các bộ phận cấu thành chủ yếu của ASXH ở Việt Nam Bảo hiểm xã hội. Trợ giúp xã hội. Trợ cấp gia đình. Các quỹ tiết kiệm xã hội. Các dịch vụ xã hội khác được tài trợ bằng nguồn vốn công cộng… Các tổ chức chính liên quan đến ASXH ở Việt Nam    Bô lao đông ­thương binh và xã hội Bộ Y tế Hội chữ thập đỏ Ngân hàng chính sách xã hội           1.4 Vai trò và tầm quan trọng của ASXH ở Việt Nam.                 1.4.1 Vai tro cua an sinh xa hôi: ̀ ̉ ̃ ̣ Hệ  thống an sinh xã hội có vai tro là qu ̀ ản lý và đối phó với rủi ro,  bao  gồm ba nấc:      Một là, phòng ngừa rủi ro thông qua hệ thống các chính sách bảo hiểm   xã hội. Bảo hiểm xã hội là bộ phận quan trọng nhất, có ý nghĩa vô cùng to lớn   và thiết thực đối với đời sống của người lao động trong hệ  thống an sinh xã  hội. Với việc mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội đến mọi người dân dưới hai  Trang 8
  9. Bài tiểu luận: Tài Chính Công hình thức tham gia bắt buộc và tự  nguyện; với chế  độ  bảo hiểm xã hội bằng  các khoản trợ  cấp dài hạn, trợ cấp ngắn hạn và bảo hiểm y tế; với việc quản   lý và thực hiện bảo hiểm xã hội tập trung thống nhất, và với việc quỹ  bảo   hiểm xã hội được thanh toán độc lập dưới sự  bảo trợ  và điều hành của Nhà   nước, thì hệ thống an sinh xã hội sẽ  hoàn toàn có thể  làm tốt chức năng phòng  ngừa rủi ro. Trong cuộc sống hầu như không ai không một lần gặp rủi ro, bất hạnh.   Có những rủi ro đột xuất không thể  dự  đoán được, như  tai nạn nghề  nghiệp,  thất nghiệp, nhưng cũng có những rủi ro không ai có thể  tránh được như  bệnh  tật, tuổi già. Bởi vậy, phòng ngừa rủi ro là nhiệm vụ  của mỗi người, của toàn   dân mà Nhà nước là người đứng ra tổ chức, điều hành. Phòng ngừa rủi ro phải  phòng ngừa từ  xa. Từ lúc con người còn trẻ  khỏe, làm việc, sống bình thường,   phải lo tích lũy một số vốn nào đó trong quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y  tế… để  khi đã già, yếu không còn sức lao động nữa họ  vẫn có thể  sống được  nhờ  vào lương hưu, tiền bảo hiểm tuổi già, tiền bảo hiểm y tế  tại các bệnh  viện. Thực tế cho thấy, chi phí cho phòng ngừa rủi ro sẽ thấp hơn rất nhiều so  với chi phí để khắc phục rủi ro.       Hai là, giảm thiểu rủi ro. Rủi ro xảy ra có thể  rất nặng nề, gây nên  những mất mát rất lớn về vật chất và tinh thần, nhưng với hệ thống các chính   sách an sinh xã hội, hậu quả của các rủi ro đó hoàn toàn có thể được giảm nhẹ,   được khống chế   ở  mức độ  có thể  chấp nhận được. Để  có thể  giảm thiểu rủi  ro,  một mặt, Nhà nước phải có một hệ  thống tổ  chức, điều hành chặt chẽ,   nhưng linh hoạt hệ thống an sinh xã hội; mặt khác, mọi thành viên trong xã hội  cũng cần phải có ý thức tự  giác tham gia vào các quỹ  bảo hiểm xã hội, bảo  hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quỹ phòng chống thiên tai, quỹ an sinh xã hội   v.v.. trước hết vì cuộc sống của bản thân và gia đình của mỗi người, sau nữa là  vì cộng đồng, sự   ổn định và phát triển của xã hội. Việc giảm thiểu rủi ro này   chủ  yếu thuộc về các chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các  chính sách trợ giúp xã hội có liên quan đến giáo dục, dạy nghề, tạo việc làm.       Ba là, khắc phục rủi ro được thực hiện chủ  yếu thông qua các chính  sách trợ giúp xã hội (trợ  cấp xã hội, tương trợ xã hội và cứu tế  xã hội). Có hai  chế  độ  trợ  giúp: thường xuyên (áp dụng đối với các đối tượng người già cô  đơn, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người tàn tật nặng…) và trợ giúp đột   xuất đối với những đối tượng chẳng may gặp rủi ro, hoạn nạn. Hệ thống an   sinh xã hội phải có trách nhiệm chủ  đạo trong việc khắc phục các rủi ro đó   nhằm giúp cho mọi thành viên trong xã hội mau chóng ổn định cuộc sống.         1.4.2 Tầm quan trọng của ASXH: Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, với hơn 100 năm đô hộ  của thực   dân đế  quốc. Đến năm 2009, thu nhập trung bình của Việt nam là 1000 USD   Trang 9
  10. Bài tiểu luận: Tài Chính Công thuộc tốt thu nhập trung bình thấp của Thế Giới. Vì vậy, phúc lợi xã hội là vô  cùng cần thiết khi đại bộ  phận người là người nghèo khổ. Vậy, ASXH là vô  cùng quan trọng cho đời sống người dân. Hệ thống bảo hiểm xã hội: BHXH đảm bảo quyền lợi cho người lao động trên cơ sở đóng góp  của người sử dụng lao động và người lao động. Bản chất của BHXH là bảo đãm bù đắp một phần hoặc thay thế  thu nhập của người lao động khi bị  giảm hoặc mật thu nhập do  ốm đau, thai   sản, tai nạn giao thông, bệnh nghề nghiệp… Thực hiện BHXH,BHYT nhằm  ổn định cuộc sống người dân, trợ  giúp người lao động khi họ  gặp rủi ro đau ốm … đối với Doanh nghiệp thì nó  giúp cho doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh  nghiệp khi gặp sự cố để họ yên tâm sản xuất kinh doanh. Chính sách BHXH là một bộ  phận quan trọng của chính sách xã  hội, giúp nhà nước điều tiết mối quan hệ  giữa kinh tế  và xã hội trên phương  diện vĩ mô. Bảo đảm cho nền kinh tế liên tục phát triển nhưng vẫn giữ  vững  ổn định xã hội trong từng thời kì cũng như trong xuốt quá trình. Với   quyền   lợi   mà   người   lao   động   được   hưởng   khi   tham   gia  BHXH, BHYT đã góp phần thu hút lực lượng lao động vào sản xuất. Việc được   tham gia bảo hiểm khi đang làm việc và được hưởng lương hưu khiến ngừoi  lao đông hứng khởi trong công việc, tâm lý ổn định hơn. BHXH là một công cụ quan trọng góp phần điều tiết thu nhập một  cách công bằng và hợp lý giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. 1.4.2.2 Hệ thống trợ cấp Hệ thống này hoàn toàn dựa vào các chế độ phúc lợi từ ngân sách   nhà nước. người nhận được các quyền lợi mà không cần phải đóng góp. Chính   sách này giúp người co công với cách mạng, những người gặp khó khăn như  người già neo đơn, bị  thiệt hại do thiên tai lũ lụt … có thể  cải thiện đời sống  của mình, lạc quan tin tưởng vào tương lai. Qua đó, giúp giữ  vững và  ổn định   chính trị xã hội. 1.4.2.3 Hệ thống các chương trình xã hội khác Trang  10
  11. Bài tiểu luận: Tài Chính Công Đây cũng là kênh phân phối dựa vào ngân sách nhà nước, nó giúp  phân phối lại thu nhập theo từng đối tượng. Chính sách này giúp có ý nghĩa ổn   định kinh tế một cách bền vững khi cứu trợ và giúp người dân thoát nghèo.     2.Phân tích thực trạng ASXH ở Việt Nam 2.1 Thực trạng chung hiện nay Hiện nay, khả  năng tạo việc làm của nền kinh tế  còn thấp, tỉ  lệ  thất  nghiệp của thanh niên còn cao, tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế ( BHYT) bắt buộc   của lao động làm việc ngoài nhà nước còn thấp, số  lượng người được hưởng   trợ  cấp xã hội còn thấp… . Đây là   một số  đặc điểm chính trong thực trạng   ASXH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, ASXH  ở  nước ta hiện nay vẫn có những   thành tựu của nó.   Nhìn vào thực trạng ASXH hiện nay ta phải tìm ra cách phát huy những thành   tựu, mặt tốt của nó. Đồng thời khắc phục những bất cập, thiếu sót của ASXH  hiện nay. Hệ  thống các chính sách ASXH của Việt Nam hiện nay gồm nhiều vấn   đề. Có thể chia thành 3 nhóm sau đây:       1/ Nhóm các chế độ về Bảo hiểm xã hội: gồm Bảo hiểm xã hội bắt   buộc và bảo hiểm xã hội tự  nguyện trên nguyên tắc đóng thị  được hưởng và   cùng chia sẽ  rủi ro. Đối tượng tham gia là Lao động theo quy định, các mức   đóng góp tạo thành quỹ chung. Các thành viên được nhận Bảo hiểm khi gặp sự  cố. Mọi chi phí lấy từ nguồn quỹ chung.       2/ Nhóm các chế độ trợ cấp xã hội: bao gồm các chế độ trợ cấp cho   các đối tượng gặp hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do gặp phải rủi ro không may  trong cuộc sống. Nguồn chi trả lấy từ Ngân sách nhà nước.        3/ Nhóm các chương trình xã hội khác: Chương trình xóa đói giảm  nghèo, chương trình y tế, gồm các loại quỹ  tiết kiệm và các loại bảo hiểm   khác. Sau đây là thực trạng của các vấn đề đó hiện nay:       1/ Nhóm các chế độ bảo hiểm xã hội:  Mặc dù được tạo điểu kiện nhưng thực tế cho thấy vẫn còn một   bộ  phận người lao động chưa tham gia BHXH bắt buộc, đặc biệt là khu vực  Trang  11
  12. Bài tiểu luận: Tài Chính Công ngoài nhà nước. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng này là do công  tác tổ  chức thực hiện các chế  độ  của BHXH còn nhiều bất cập dẫn đến việc  thực thi các qui định của Luật bảo hiểm còn nhiều hạn chế.       Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành gồm 03 loại bảo hiểm, gồm BHXH  bắt buộc, BHXH tự nguyện, và bảo hiểm thất nghiệp đã tạo cơ hội cho người   lao động tham gia bảo hiểm.       Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tăng nhanh cả về quy mô và tốc   độ. Từ 4,8 triệu người năm 2001 tăng lên 9,4 triệu người năm 2009, chiếm 18%   tổng số lực lượng lao động. Nguồn thu quỹ BHXH bắt buộc tăng nhanh từ 6348   tỷ  đồng vào năm 2001 lên 36,8 nghìn tỷ  đồng năm 2009. Tổng chi BHXH bắt  buộc cũng tăng nhanh, từ  1856 tỷ  đồng năm 2001 lên 54,9 nghìn tỷ  đồng năm   2009 ( trong đó chi từ ngân sách Nhà nước là 26,8 nghìn tỷ).       Sau một năm triển khai thực hiện BHXH tự nguyện, số người tham   gia đạt gần 50000 người. Nguồn thu quỹ BHXH tự nguyện ước tính đạt 69,5 tỷ  đồng và chi khoảng 10,9 tỷ đồng năm 2009.       Năm 2009, có khoảng 9% dân số từ 50 tuổi trở lên sống bằng lương   hưu.            Công tác quản lý ngày càng đi vào nề  nếp, công tác giám sát ngày   càng tăng cường, mạng lưới thu chi ngày càng mở rộng.       Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận chưa tham gia BHXH bắt buộc, Nói   về  bảo hiểm thất nghiệp, luật chỉ  cho phép đơn vị  sử  dụng lao động   có sử  dụng từ 10 lao động trở lên mới được tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Điều này  làm hạn chế khả năng tham gia bảo hiểm thất nghiệp của người lao động làm   cho doanh nghiệp nhỏ.       Một bộ phận lớn người lao động không có khả năng tham gia BHXH   tự  nguyện do không có cơ  hội được hưởng lương hưu khi đến tuổi về  hưu vì  điều kiện phải có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội.            2/ Nhóm các chế độ trợ cấp xã hội:       Cứu trợ xã hội đối với những người nghèo, người không may bị  rủi   ro trong cuộc sống gồm chế độ  trợ  cấp tai nạn lao động – bệnh nghề  nghiệp:   cách xác định tai nạn lao động như  hiện nay là chưa rõ ràng. Có khả  năng phát  sinh tiêu cực trong thực hiện trợ cấp này. Trang  12
  13. Bài tiểu luận: Tài Chính Công        Trợ  cấp  ưu đãi người có công đã đạt hiệu quả  tích cực. Đã chi trả  chế độ trợ  cấp 1 lần cho khoảng 3,5 triệu người hoạt động kháng chiến được  nhà   nước   khen   tặng   Huy   chương.   Hoàn   thành   trợ   cấp   ưu   đãi   một   lần   cho   khoảng 4 triệu người  và khoảng 1,7 triệu thương binh, thân nhân liệt sỹ, lão  thành cách mạng, bà mẹ  Việt Nam anh hùng … tiếp tục hưởng trợ cấp  ưu đãi  hàng tháng.            Ngoài chế  độ  trợ  cấp thường xuyên, người có công được  ưu đãi  nhiều mặt của đời sống xã hội. Một số chế độ ưu đãi được hướng dẫn và thực   hiện như BHYT, giáo dục đào tạo và một phần của chế độ ưu đãi nhà, đất.          Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế  như  người nhận trợ  cấp chậm   được nhận tiền gây khó khăn cho cuộc sống của họ, các cán bộ  xã phường có  tình trạng tham nhũng của công, hoặc sử dụng sai mục đích.            Đặc biệt, nghị  định 13/2010/NĐ­CP ngày 27/2/2010 về  sửa đổi bổ  sung một số  điều của nghị  định 67/2007NĐ­CP ngày 13/4/2007 về  chính sách  trợ  giúp các đối tượng bảo trợ  xã hội đã mở  rộng đến các đối tượng tàn tật   nặng không có khả năng lao động không chỉ ở các hộ nghèo.       Theo  ước tính số đối tượng bảo trợ xã hội năm 2010 sẽ tăng lên 1,6   triệu. Cuộc sống các đối tượng được cải thiện do mức chuẩn tính trợ cấp tăng.       3/ Nhóm các chương trình xã hội khác:       Xóa đói giảm nghèo: Các chính sách, chương trình giảm nghèo trong  thời gian qua đã đóng góp vai trò quan trọng trong bảo đảm ASXH cho người  nghèo, hộ  nghèo, địa bàn nghèo. Hệ  thống chính sách giảm nghèo tương đối  toàn diện , tập trung vào các vùng đặc thù, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc,  miền núi.            Giảm nghèo được thực hiện đồng thời trên 3 phương diện: Tăng  cường tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề.. – Hỗ trợ chính sách phát   triển thông qua các chính sách tín dụng ưu đãi.. – Phát triển cơ sở hạ tầng thiết   yếu cho xã đặc biệt khó khăn.        Kết quả  tỉ  lệ nghèo đã giảm nhanh, từ  29% năm 2002 giảm xuống   còn 15,9% năm 2006, và 11,3 % vào cuối năm 2009. Hộ nghèo được tăng cường  tiếp cận chính sách. Trong 3 năm 2006­2008, gần 4,2 triệu hộ  được vay vốn;   gần 2,1 triệu lượt người nghèo được hướng dẫn làm ăn, chuyển đổi kỷ  thuật.  60 nghìn người nghèo được miễn giãm học phí nghề; mỗi năm hỗ  trợ  được   Trang  13
  14. Bài tiểu luận: Tài Chính Công 30nghìn người  học  nghề; khoảng  7,8 triệu  lượt  học  sinh nghèo  được   miễn  giảm học phí và các khoản đóng góp cho trường; 99,54% người nghèo được cấp  BHYT năm 2008; 340 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ xóa nhà tạm. Hệ thống cơ sở  hạ tầng ở những địa bàn khó khăn đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, một số hộ nghèo vẫn không được hưởng các chính sách do bị  hạn chế  điều kiện tham gia.Các chính sách thiên về  hỗ  trợ  bằng tiền và hiện  vật hơn là tạo cơ  hội việc làm cho người nghèo tự  vương lên. Tuy đã có các   chính sách miễn giảm học phí, tặng sách tập cho con em hộ nghèo, nhưng nhìn  chung chi phí còn lại họ phải chịu còn cao vượt mức khả năng chi trả. Nên một   bộ  phận con em hộ nghèo vẫn chưa hoàn thành phổ  cập giáo dục. Hỗ  trợ  y tế  còn nhiều bất cập.       Hệ thống dịch vụ xã hội:       Về y tế: song song với phát triển dịch vụ khám chửa bệnh, các dịch   vụ chăm sóc sức khỏe tại các vùng nghèo, đối vơi hộ nghèo ngày càng phát triển   dưới nhiều hình thức như việc thiết lập các tổ, đội y tế lưu động đi khám, chữa   bệnh, thực hiện các hoạt động phòng bệnh theo định kỳ ở  nông thôn, bản. Tuy  vậy, Các trạm y tế  ở các xã chất lượng còn thấp, mới có 46% xã có trạm y tế  đạt chuẩn quốc gia. Đội ngũ y bác sĩ còn thiếu, các trang thiết bị còn thô sơ, lạc   hậu không đãm bảo chất lượng.       Về giáo dục: các mô hình giao dục tập trung, trường bán trú dân nuôi,  giáo dục từ xa, từng bước được mở rộng dưới nhiều hình thức với sự tham gia   của nhiều đôi1 tượng xã hội. Tuy nhiên, phòng học cho học sinh các cấp nhất là   ở vùng cao còn tạm bợ.        Về  điện sinh hoạt: Hệ  thống điện  ở  vùng sâu, vùng xa từng bước   được nâng cấp, đồng thời được mở  rộng phạm vi bao phủ. Tuy nhiên, vẫn còn  30% số  hộ  gia đình người dân tộc vẫn chưa có điện so với 12% và 3% của  người kinh và người Hoa.       Về nước sạch và vệ sinh môi trường: Hệ thống cung cấp nước sinh   hoạt cho người dân, nhất là người dân nông thôn vùng sâu, vùng xa được cải  thiện thông qua các chương trình nước sạch quốc gia, của UNICEF. Tuy nhiên,   vẫn còn 45% hộ dân tộc thiểu số chưa có nước sinh hoạt. Đại bộ  phận dân cư  nông thôn vẫn còn phải sử dụng các nguồn nước không đảm bảo và sống trong   điều kiện vệ sinh thấp kém.     2.2 Những việc đã làm được của ASXH Trang  14
  15. Bài tiểu luận: Tài Chính Công Cho hộ nghèo vay vốn sản xuất, kinh doanh. Đã giúp nhìều hộ gia đình tự  thoát nghèo và không bị tái nghèo. Xây dựng trường học, trường dạy nghề  giúp tăng trình độ tri thức, nhận   thức của người dân. Xây dựng nhiều bệnh viện, trạm xá kể cả ở những vùng nông thôn, núi, … Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, giảm khỏang cách  giàu, nghèo trong nước. Hội chữ thập đỏ họat động khá mạnh, đi tới những vùng khó khăn hỗ trợ  về nhiều mặt. Hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật, thành lập quỹ dành cho ngưởi tàn  tật. Xây dựng những chương trình di dân, xóa đói giảm nghèo đã đáp ứng về  phân bố nguồn nhân lực, ổn định đởi sống cho đồng bào dân tộc thiểu số và  bảo vệ an ninh quốc phòng Tái thành lập Tổng cục dạy nghề để tạo điều kiện nâng cao chất lượng  việc làm của người lao động thông qua nâng cao chất lượng nguồn lao động. Mở rộng phạm vi đối tượng tham gia các hình thức BHXH và BHYT. Hàng năm cứu trợ đồng bào miền trung gặp thiên tai ( bão tố, lũ lụt,..) Thành lập quỹ bảo trợ nạn nhân chất độc da cam, … Đưa ra chính sách  ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, những người   tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc da cam, chính sách   ưu đãi đối với gia đình liệt sỹ, gia đình có công Cách mạng. Chính sách đối với người cao tuổi, đối với bà mẹ và trẻ em. Các chính sách trợ cấp đối với hộ nghèo, ngưởi thất nghiệp,…       2.3 Những việc chưa làm được của ASXH Hệ  thống ASXH phát triển chưa đầy đủ, toàn diện, thiếu sự  liên kết và  hỗ trợ nhau.  Một số chính sách ASXH còn tồn tại những bất hợp lý. Chưa có các chính sách ASXH đặc thù và phù hợp với dân cư  nông thôn  và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn. Trang  15
  16. Bài tiểu luận: Tài Chính Công Diện bao phủ  của hệ  thống còn chưa cao, tập trung vào các thành phố  lớn và các tỉnh đồng bằng nơi có hoàn cảnh sống thuận lợi, chưa mở rộng đối  với những đối tượng nông thôn, miền núi vùng khó khăn. Chất lượng cung cấp các dịch vụ  ASXH, đặc biệt là dịch vụ  y tế, còn  hạn chế Năng lực tổ chức và quản lý còn hạn chế đối với các loại hình ASXH. Nguồn lực đầu tư cho ASXH của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu   ngày càng tăng của ASXH. Hệ thống an sinh xã hội không tác động ngang nhau lên toàn bộ dân số     + Người giàu hưởng nhiều, người nghèo hưởng ít.      + Các hộ  trong nhóm thu nhập cao nhất ­ nhóm 20% giàu nhất nhận  được khoảng gần 40% lợi ích an sinh xã hội. Trong khi đó, nhóm nghèo nhất chỉ  nhận chưa tới 7%.    + Người sống ở đô thị có cơ hội hưởng nhiều chính sách an sinh xã hội   hơn người sống ở nông thôn.   + Người dân tộc Kinh, Hoa hưởng lợi nhiều hơn dân tộc thiểu số.       + Sống ở miền Bắc hưởng nhiều an sinh xã hội hơn miền Nam.      2.4 Các vấn đề tiêu cực trong ASXH tại Việt Nam. Tuy   nhà   nước   đã   có   rất  nhiều  chủ   trương,   chính  sách  trong   công  tác  ASXH. Nhưng nhìn chung muốn chúng trở  nên hoàn thiện, phát huy được còn  phụ  thuộc rất nhiều vào công tác lãnh đạo từ  Trung  ương xuống địa phương.   Thành thật mà nói, công tác kiểm tra, giám sát của chúng ta còn yếu.Trong quá   trình thực hiện đã xảy ra nhiều tiêu cực làm hạn chế những hiệu quả của việc   thực hiện ASXH nước ta, hoặc có tác động ngược lại gây bức xúc, bất bình  trong dư luận. Sau đây là một số trong rất nhiều vấn đề  tiêu cực mà nhóm đưa  ra để phần nào thấy được những bất cập trong việc thực hiện ASXH ở nước ta.   Và những suy nghĩ của nhóm chúng tôi xoay quanh vấn đề này Một trong những vấn đề đáng quan tâm là bảo hiểm xã hội. Đối với mọi  người trong xã hội mà nói, thì những rủi ro thường xuyên đối mặt là: Tai nạn,  ốm đau, thất nghiệp, hoặc đơn thuần là già yếu hết khả  năng lao động... Và  điều mà họ  gặp phải khi các vấn đề  trên phát sinh là hạn chế  hoặc không có   Trang  16
  17. Bài tiểu luận: Tài Chính Công tiền chi phí cho cuộc sống. Đây chính là mục tiêu chính của bảo hiểm xã hội,   nhưng trong quá trinh thực hiện thì còn nhiều vấn đề  nan giải. Một số  bệnh   nhân đã không ngần ngại lạm dụng khám chữa bệnh để  lấy thuốc bằng cách   khám nhiều lần, khám nhiều chuyên khoa, khám bất cứ  khi nào...rảnh. Những  bệnh nhân tham lam đó không phải chỉ  là những người bệnh nghèo khổ  muốn   kiếm thêm chút tiền mà chính là những y bác sĩ nhà nước tại cơ quan y tế tham   gia bảo hiểm y tế  (BHYT). Nhiều hình thức lạm dụng và gian lận đã xảy ra  như  kê nhiều chỉ  định cận lâm sàng, kỹ  thuật cao để  mau thu hồi vốn đầu tư  thiết bị cận lâm sàng hoặc để kiếm lời nhiều hơn khi hợp tác với đơn vị thứ ba.   Có không ít đơn vị y tế kê khống số lượng, giả mạo chữ ký bệnh nhân để nhận  nhiều tiến chi trả BHYT. Có nơi báo cáo quyết toán chỉ căn cứ vào chỉ định của   bác sĩ chứ không kiểm tra chỉ định đó có được thực hiện hay không. Việc kiểm   tra đối chiếu quyết toán hoàn toàn dựa vào báo cáo của bệnh viện đưa lên chứ  không căn cứ vào thực tế. Điều đó tạo kẻ hở cho một số bác sĩ lợi dụng nhiệm   vụ  tham gia khám BHYT để  giả  mạo hồ  sơ  bệnh nhân BHYT rút tiền hàng  chục tỷ đồng. Hay như  việc chậm chi trả bảo hiểm cho bệnh nhân, hoặc người khám  bảo hiểm thì phải chờ lâu hơn người khám không bảo hiểm. Không nói đâu xa,  những người già  ốm đau, sinh viên, học sinh...mặc dù đến trước nhưng vẫn  phải ngồi chờ hàng giờ để được khám bệnh. Như, Tất cả sinh viên các trường   Đại Học, Cao Đẳng đều mua BHYT và BHTN đây là các bảo hiểm bắt buộc   theo qui định mới của chính phủ. Tuy nhiên, nhìn chung không phải chỉ có riêng  bản thân tôi chán nản với BHYT.Chúng tôi tin tưởng vào chính sách của nhà  nước.Nhưng chúng tôi lại rất ít khi dùng đến nó, không phải chúng tôi không bị  bệnh mà là chúng tôi chấp nhận khám không cần Bảo hiểm. Vì sao? Một câu   hỏi mà ai cũng rõ. Vì hiện nay vẫn còn tồn tại khá nhiều bệnh viện khám bệnh,  khi bệnh nhân khám theo BHYT thì thái độ của các cán bộ, y bác sĩ là không tốt.  Đôi khi bệnh nhân phải chờ rất lâu mới tới lượt, khám qua loa, sự thờ ơ với nỗi   đau của bệnh nhân khiến tôi nãn lòng. Điển hình: Nhiều sản phụ  khó sanh,  nhưng vẫn không được mỗ. Bác sĩ nói để  sanh tự  nhiên cho tốt, nên cứ  nằm   chờ. Biết là sanh tự  nhiên là tốt nhưng thử  hỏi làm sao sanh được khi đứa trẻ  năng 4,2 kg. Khi họ  đau nằm chờ  cũng không có người quan tâm, hỏi han. Chỉ  mỗ khi người me ngất đi. Đứa trẻ ra đời nhưng thân thể tím tái, phải nằm lồng   ấp, phải thở ôxi, được chuẩn đoán là bị ngạt, và cũng có những đứa trẻ bị chết .   Sau khi sanh, người nhà đều biếu “phong bì” cho bác sĩ, y tá, hộ lý để họ  quan  tâm chăm sóc hơn. Thái độ của họ cũng thay đổi theo, từ sự lạnh nhạt, thờ ơ trở  nên quan tâm,chăm sóc. Thử hỏi, sao chúng ta có thể trách người dân đã tiếp tay   cho tệ nạn, khi sinh mạng người thân họ đang nằm trong tay người khác. Trang  17
  18. Bài tiểu luận: Tài Chính Công Bên cạnh đó, một số   doanh nghiệp chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã  hội của người lao động để tư lợi. Trong đó có những doanh nghiệp lớn, có “tên  tuổi”  nợ  đọng  tiền bảo hiểm xã hội lên đến hàng tỷ  đồng. Nguyên nhân của   tình trạng nợ  đọng cao là do nhiều doanh nghiệp đã đến kỳ  quyết toán nhưng  không chịu dồn tiền trả  nợ  bảo hiểm xã hội cho người lao động, tháng sau   chồng lên tháng trước. Nhưng thực chất là người sử  dụng lao động luôn tìm  cách đối phó, trốn tránh hoặc chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội của người  lao động.  Người nghèo là đối tượng dễ  tổn thương cần được chính quyền vá toàn  xã hội quan tâm. Và thực tế  là đã có những khoản trợ  cấp, những quỹ   ủng hộ  cho người nghèo và những đối tượng khó khăn khác. Nhưng thực tế đã không ít  cán bộ, tổ chức lợi dụng chức quyền chiếm đoạt phần trợ cấp, hỗ trợ đó. Tình   trạng cán bộ  cơ sở ăn chặn, địa phương khấu trừ, đưa ra những chiêu bớt xén  tiền Chính phủ  hỗ  trợ  người nghèo ăn tết, trong đó có nơi trừ  vào các quỹ, có   nơi trừ vào tiền điện... không còn xa lạ gì. Tết Nguyên đán 2009, Ở các xã Đức  Tùng, Đức Yên (Đức Thọ, Hà Tĩnh), xã và xóm giữ  lại tiền mà không cấp đủ  cho hộ  nghèo. Thậm chí tại xã Thạch Tiến (Thạch Hà), tiền hỗ  trợ  được cấp   “nhầm” cho người... không nghèo để  mua điện thoại di động, trong khi một số  hộ  thực sự  nghèo lại không được đồng nào. Một số  xã như  Hương Bình, Hòa  Hải, Phú Gia (Hương Khê) thì mỗi hộ  nghèo chỉ  được cấp từ  100.000 đồng ­  110.000 đồng/khẩu; số tiền còn lại trưởng xóm tự quyết chia đều cho những hộ  khác từ  47.000 ­ 50.000 đồng/khẩu, kể  cả  hộ  giàu. Tại xã Thanh Khê (Thanh  Chương, Nghệ An)  nhiều hộ dân cho biết, sau khi có thông báo nhận tiền của  Chính phủ hỗ trợ người nghèo ăn tết nhưng khi nhận bị cán bộ xóm trừ vào tiền  đóng góp quỹ khuyến học của địa phương.  Nói về tiền trợ cấp, cũng có nhiều điều cần bàn. “Chuyện lạ  ở xã Gia Tân 1, huyện Thống  Nhất, tỉnh Đồng Nai: Không ít người chết đã 2 ­ 3 năm, nhưng hàng  tháng,   họ   vẫn  đều  đặn  có  tên  trong   danh  sách  Bà   Nguyễn   Thị   Xuân   đã  nhận   tiền   trợ   cấp   thường   xuyên.   Thậm   chí,  chết, nhưng danh sách nhận  tiền trợ cấp vẫn còn đến quý  những người đã chết này còn ký tên, hoặc điểm  III/2006 chỉ vân tay trên danh sách nhận tiền.  Trang  18
  19. Bài tiểu luận: Tài Chính Công Như  bà Lại Thị  Vui cũng đã chết, nhưng tiền trợ  cấp vẫn còn đến quý  III/2006. Qua điều tra, một nguồn tin khác cho chúng tôi biết, ông Phạm Tiến  Hưng ­ cán bộ phụ trách chi trả tiền xã hội, thuộc UBND xã Gia Tân 1 ­ cũng xà  xẻo, bớt xén tiền trợ  cấp của 20 người đang còn sống. Thí dụ: Quý III năm  2006, thay vì bà Phạm Thị  Liễu được hưởng 590.000 đồng, thì ông Hưng chỉ  đưa bà Liễu 500.000 đồng.                                   Tỉnh Hà Tĩnh sai phạm liên quan đến vụ  việc sử  dụng tiền cứu trợ  lũ   quét năm 2002 tại huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Tháng 9/2002, huyện Hương Sơn xảy ra trận lũ quét lịch sử, gây thiệt hại  nặng về người và tài sản.  Ước tính thiệt hại vật chất hơn 200 tỷ đồng. Ngoài  lương thực, Hương Sơn được trợ  cấp, tiền tiếp nhận quản lý, sử  dụng là 24,4  tỷ đồng.  Tổng số tiền hỗ trợ nhân dân là 5,3 tỷ đồng được giao cho hai phòng chức năng  là LĐ­TBXH và Kế hoạch­tài chính trực tiếp cấp phát cho các xã. Tuy nhiên, hai   phòng này chuyển cho các xã chỉ vỏn vẹn gần 1,6 tỷ đồng. Số còn lại,được chi  tuỳ tiện vào những mục đích không có trong danh mục cứu trợ. Trong gần 1,6 tỷ  đồng mà hai phòng chức năng của UBND huyện phân bổ  cho các xã cũng phát   sinh những vấn đề nghiêm trọng.Thị trấn Phố Châu và 4 xã lân cận được "chia"  688 triệu đồng, nhưng theo danh sách, nhân dân tại các địa phương này chỉ nhận  được gần 200 triệu đồng, số tiền còn lại, chính quyền các xã lại tiếp tục chi sai   nguyên tắc. Không dừng lại ở đó, hơn hai tỷ đồng trong số 3,8 tỷ còn lại được  Phòng LĐ­TBXH chia cho cơ sở theo kiểu "ai quý thì được nhiều", tất cả  đều   được giao theo kiểm “trao tay” mà không có bất cứ một loại chứng từ nào.  Tham nhũng không phải chỉ là vấn nạn của riêng quốc gia nào, mà nó có  trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy, nhà nước ta cần phải quản láy chặt chẻ  hơn   nguồn quỹ ASXH, nguồn quỹ này để nâng cao chất lượng cuộc sống của người   dân, đặc biệt là người nghèo khổ. Dù các chinh sách là toán diện,qui mô…  nhưng nếu quản lý không tốt thì tiền cứu trợ sẽ không đến được tay người cần  nó, mà chỉ chui vào túi những kẻ tham lam. Như vậy, dù cho có nhiều chính sách   Trang  19
  20. Bài tiểu luận: Tài Chính Công tới đâu người đáng được hưởng vẫn không được hưởng, còn ngân sách nhà  nước thì lại cạn đi.   3. Các chính sách và vai trò của chính phủ trong thực hiện ASXH để đảm   bảo công bằng xã hội.          3.1 Các chính sách của chính phủ trong việc thực hiện ASXH để đảm  bảo công bằng xã hội :    3.1.1 Cứu trợ xã hội :        Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường xuyên có  thiên tai (bão tố, lũ lụt, …), hơn nữa, liên miên trải qua chiến tranh chống xâm   lược, vì vậy một bộ  phận không nhỏ  người dân luôn sống trong tình trạng  nghèo túng, khó khăn. Tinh thần tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam  sớm nảy nở và phát huy cao độ.Do đó từ khi thực hiện đổi mới kinh tế theo cơ  chế  thị  trường theo định hướng xã hội chủ  nghĩa, nhà nước ta càng quan tâm  thực hiện các chính sách cứu trợ, bảo trợ  xã hội đối với những người nghèo   khó, tàn tật . Cụ thể :  • Chính sách cứu trợ đối với trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa:   bao gồm trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất; • Chính sách đối với người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các  dân tộc thiểu số: Thành lập Ngân hàng phục vụ  người nghèo, Thành lập tổ  chức trợ  giúp pháp lý cho người nghèo, quan tâm đến người lao động nghèo  trong quá trình chuyển đổi DNNN thành công ti cổ  phần, Thành lập Ban chủ  nhiệm   chương   trình   mục   tiêu   XĐGN,   Thành   lập   Ban   chỉ   đạo   thực   hiện  chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và  vùng sâu, vùng xa; • Chính sách đối với người tàn tật: Ban hành pháp lệnh người tàn tật,  Khuyến khích thành lập và hỗ  trợ  Hội bảo trợ  người tàn tật (Hội người mù, …); • Chính sách đối với nạn nhân chất độc da cam: Thành lập quỹ  bảo trợ  nạn nhân chất độc da cam, … • Chính sách cứu trợ  xã hội đối với công chức nhà nuớc, người hưởng   lương trong lực lượng vũ trang qua hình thức trợ  cấp khó khăn đột xuất và  thường xuyên. Trang  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0