intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bàn thêm về các dấu hiệu thông dụng nhận diện hành động hỏi gián tiếp trong Tiếng Việt

Chia sẻ: Nguyễn Hồng Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

87
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Bàn thêm về các dấu hiệu thông dụng nhận diện hành động hỏi gián tiếp trong Tiếng Việt" trình bày nội dung về các dấu hiệu nhận diện hành động hỏi gián tiếp được thể hiện bằng câu hỏi có lực ngôn trung cầu khiến, bày tỏ và các phương tiện nhận diện hành động hỏi sử dụng hình thức câu khác nhau để thể hiện lực ngôn trung nghi vấn. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bàn thêm về các dấu hiệu thông dụng nhận diện hành động hỏi gián tiếp trong Tiếng Việt

BÀN THÊM VỀ CÁC DẤU HIỆU THÔNG DỤNG<br /> NHẬN DIỆN HÀNH ĐỘNG HỎI GIÁN TIẾP TRONG TIẾNG VIỆT<br /> (Trao đổi thêm về bài viết “Một số hành động hỏi gián tiếp trong thơ Tố Hữu” của tác giả Hồ<br /> Thị Phương Trang, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư, số 4- 2014)<br /> Nguyễn Thị Thanh Ngân1, Trương Thị Hoa<br /> ABSTRACT<br /> In comunication, the illocutionary force of indirect ask act is found through some words/<br /> phrases in imperative, declarative or in interrogative without requesting information. This<br /> popular and exciting speech act reflects the Vietnamese’s habit of intellect and speech.<br /> <br /> 1<br /> <br /> TS, Trường ĐH Khoa học, ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Hành động ngôn từ là loại hành động đặc<br /> biệt, dùng ngôn ngữ làm phương tiện tác<br /> động đến người nghe (Sp2 (2)), khiến Sp2 ít<br /> nhiều thay đổi trạng thái tâm lý, vật lý.<br /> Như một quy luật, mỗi hình thức phát ngôn<br /> thường ứng với một lực ngôn trung nhất<br /> định, tuy nhiên, trong những trường hợp<br /> mà Sp1 dùng hình thức của kiểu câu này<br /> để hướng đến một hiệu lực ở lời khác, thì<br /> sản phẩm được tạo ra là một hành động<br /> ngôn từ gián tiếp. Điều này đã được đề cập<br /> trong nghiên cứu của các tác giả J. Searle,<br /> Nguyễn Đức Dân, Đỗ Hữu Châu, Đặng<br /> Thị Hảo Tâm, Mai Thị Kiều Phượng…<br /> Hành động hỏi và câu hỏi- phương<br /> tiện đắc lực để thực hiện hành động này- từ<br /> lâu đã thu hút sự quan tâm của các nhà<br /> nghiên cứu. Theo đó, một hành động hỏi<br /> thường được nhận diện nhờ hình thức của<br /> câu hỏi có sử dụng các đại từ nghi vấn, các<br /> phụ từ nghi vấn, tiểu từ nghi vấn hoặc kết<br /> từ nghi vấn. Chúng tôi đồng tình với tác<br /> giả Hồ Thị Phương Trang khi nhấn mạnh:<br /> hỏi là cách để “yêu cầu cung cấp thông tin<br /> cần biết, chưa biết” (theo Lê Đông, 1996),<br /> là cách “sử dụng câu hỏi để thực hiện các<br /> mục đích giao tiếp khác nhau” (theo Đặng<br /> Thị Hảo Tâm, 2003). Từ các quan điểm về<br /> hành động ngôn từ gián tiếp và về hành<br /> động hỏi, có thể nhận thấy hành động hỏi<br /> gián tiếp có hai dạng biểu hiện: i. lực ngôn<br /> trung hỏi được biểu hiện dưới một hình<br /> thức không phải câu hỏi, và ii. hình thức<br /> câu hỏi được dùng để biểu thị một hiệu lực<br /> ở lời khác- không phải để yêu cầu cung<br /> cấp thông tin. Các công trình gần đây<br /> thường đề cập đến hành động này ở dạng<br /> (2)<br /> <br /> Trong giao tiếp, người nói và người nghe liên tục<br /> đổi vai. Người nghe trở thành người nói kế tiếp sau<br /> khi Sp1 dứt lời.<br /> <br /> biểu hiện thứ hai, chưa khai thác kỹ dạng<br /> biểu hiện thứ nhất.<br /> Bài viết của tác giả Hồ Thị Phương<br /> Trang đã cung cấp những tình huống có sự<br /> xuất hiện của hành động hỏi gián tiếp trong<br /> thơ Tố Hữu, từ đó khẳng định tài năng của<br /> nhà thơ trong việc tái hiện những chặng<br /> đường lịch sử của dân tộc [7, tr. 52]. Tuy<br /> nhiên, bài viết mới dừng lại ở việc khảo sát<br /> và nhận định, chưa cung cấp cách thức và<br /> những phương tiện thông dụng để nhận<br /> diện hành động thú vị này.<br /> 2. Các dấu hiệu nhận diện hành động<br /> hỏi gián tiếp được thể hiện bằng câu hỏi<br /> có lực ngôn trung cầu khiến, bày tỏ<br /> Như đã trình bày ở trên, dấu hiệu<br /> hình thức của câu hỏi được thể hiện ở các<br /> từ nghi vấn (đại từ, phụ từ, tiểu từ, kết<br /> từ…). Khi thực hiện hành động hỏi gián<br /> tiếp, Sp1 thường sử dụng các dấu hiệu này<br /> kết hợp với một số từ ngữ nhất định, tạo<br /> thành một tổ hợp nhất định, nhờ đó Sp2 có<br /> thể nhận ra lực ngôn trung tương ứng.<br /> Thông dụng hơn cả là hiện tượng dùng câu<br /> hỏi để thực hiện mục đích cầu khiến. Đó là<br /> khi Sp1, thông qua câu hỏi, thể hiện mong<br /> muốn Sp2 thực hiện một việc X nào đó<br /> trong tương lai. Qua khảo sát, có thể kể<br /> đến những trường hợp sau:<br /> Trước tiên, đại từ nghi vấn “sao/ tại<br /> sao” kết hợp với tổ hợp thể hiện sự tồn tại<br /> còn/ vẫn chưa/ vẫn không để tạo thành các<br /> kết cấu mang lực cầu khiến:<br /> Sao + còn/ vẫn chưa V [+ động, + chủ ý]<br /> Ví dụ:<br /> (1) Kìa sao anh không ngồi xuống? ( Nam<br /> Cao, Nửa đêm)<br /> (2) Mấy cái bát này sao chưa rửa?<br /> (Nguyễn Huy Thiệp, Không có vua)<br /> Cấu trúc nêu trên có tác dụng khá<br /> rõ trong việc thể hiện mong muốn Sp2 làm<br /> một việc X nào đó trong tương lai. Cô Nhi<br /> <br /> giục anh Đức ngồi xuống thay vì cứ đứng<br /> mãi, rất khó coi (ví dụ 1); Cấn giục Sinh<br /> rửa bát, thay vì để đống mâm bát bẩn thỉu<br /> và bề bộn (ví dụ 2). Hơn thế nữa, sử dụng<br /> cấu trúc này, Sp1 thường hàm ý rằng Sp2<br /> đã phần nào đoán/ biết được mong muốn<br /> của mình, song nếu không nói ra, thì Sp2<br /> còn dùng dằng, không thực hiện ngay. Cho<br /> nên, dùng tổ hợp này, Sp1 tuy mượn hình<br /> thức câu hỏi, nhưng vẫn thể hiện yêu cầu,<br /> đề nghị đối với Sp2 một cách giục giã, sốt<br /> sắng.<br /> Ngoài đại từ “sao”, đại từ “gì” kết<br /> hợp với phụ từ tồn tại “còn” cũng biểu thị<br /> lực ngôn trung cầu khiến trong hình thức<br /> câu hỏi. Sự kết hợp giữa các thành phần<br /> này tạo thành kết cấu:<br /> S còn V [+ động, +chủ ý] gì/ làm gì (nữa)?<br /> Ví dụ:<br /> (3) - Chưa về còn đứng đó làm gì thế?<br /> (Khái Hưng, Nửa chừng xuân)<br /> (4) - Biết chú bị oan là tụi tui thả liền, chú<br /> còn đòi gì nữa ? (Nguyễn Ngọc Tư, Đau gì<br /> như thể)<br /> Trong những trường hợp này, Sp1<br /> thường giục Sp2 dừng ngay việc thực hiện<br /> hành động Y đang làm để bắt tay vào thực<br /> hiện một hành động X. Chẳng hạn, trong ví<br /> dụ (3), ông thư ký muốn chị em Mai và<br /> Huy đừng đứng mãi ở cổng trường, hãy đi<br /> nhanh cho khuất mắt. Trong ví dụ (4), cán<br /> bộ xã yêu cầu ông Tư Nhỏ chớ đòi hỏi gì<br /> thêm nữa, hãy mau rút đơn kiện về.<br /> Lực ngôn trung của cấu trúc này<br /> cũng có nhiều nét tương đồng với cấu trúc<br /> có tiểu từ “à” kết hợp với phụ từ tồn tại<br /> “còn” hay tổ hợp “còn…. nữa” khi Sp1<br /> thể hiện mong muốn Sp2 chấm dứt ngay<br /> việc đang làm:<br /> S (vẫn) còn+ V [+ động, + chủ ý] (nữa) à?<br /> Ví dụ:<br /> <br /> (5)- Anh còn sang đây cơ à? (Dương<br /> Hướng, Bến không chồng)<br /> (6) - Còn khóc nữa à, làm em ngã còn<br /> khóc gì nữa? (Vũ Thị Xoa, Bài học cho<br /> mẹ)<br /> Trong ví dụ (5), sẵn nỗi bực tức,<br /> chú Xeng yêu cầu Nghĩa đừng bao giờ đặt<br /> chân đến nhà mình nữa. Ở ví dụ (6), người<br /> mẹ giận dữ ra lệnh cho đứa con ngừng<br /> khóc. Sp2 không khó để nhận ra lực ngôn<br /> trung cầu khiến bên trong những câu hỏi<br /> dạng này.<br /> Thực vậy, qua khảo sát, hiếm có<br /> tình huống nào mà Sp2 - khi nhận được<br /> những câu hỏi như trên- lại trả lời Sp1<br /> bằng cách cung cấp thông tin. Trong ví dụ<br /> 1, Đức không trả lời, mà “ngoẹo cái đầu về<br /> một bên, từ từ hạ người xuống, lom khom<br /> ngồi xổm…”. Ở ví dụ 3, chị em Mai và<br /> Huy không giải thích, mà lập tức rời buồng<br /> ông phó đốc, đi ra khỏi cổng trường. Ông<br /> Tư Nhỏ (ví dụ 4) không trả lời về một yêu<br /> cầu cụ thể, mà lập tức phủ nhận “Tui đâu<br /> có đòi gì…”. Người con trong ví dụ (6)<br /> không thể xác nhận nội dung mệnh đề<br /> trong câu hỏi của mẹ, mà phải cố nín khóc.<br /> Cho nên, có thể nói, cấu trúc đại từ nghi<br /> vấn “sao, gì” hoặc tiểu từ nghi vấn “à” khi<br /> kết hợp với tổ hợp chỉ sự tồn tại sẽ giúp<br /> Sp1 thể hiện lực ngôn trung cầu khiến.<br /> Bên cạnh các đại từ nghi vấn, cặp<br /> phụ từ “có… không” khi kết hợp với các<br /> phụ từ so sánh “hơn” cũng thể hiện lực<br /> cầu khiến với mong muốn Sp2 làm một<br /> việc gì đó trong tương lai:<br /> S + V [+ động, + chủ ý] có hơn không?<br /> Ví dụ:<br /> (7) Ốm quá thế thì nằm nhà đắp chiếu mà<br /> nghỉ có hơn không? (Nam Cao, Điếu văn)<br /> (8) Chỉ có muối mè thì ăn chung có hơn<br /> không? (Xuân Diệu, Cái hỏa lò)<br /> <br /> Với tổ hợp này, Sp1 mong muốn<br /> Sp2 thực hiện một công việc trong tương<br /> lai có lợi cho chính Sp2: ví dụ (8) ứng với<br /> lời khuyên “nên nằm nhà đắp chiếu mà<br /> nghỉ”; ví dụ (9) ứng với lời khuyên “nên<br /> ăn chung”. Thật vô lý khi nghe thấy những<br /> câu kiểu như “Ốm quá thế thì nằm nhà đắp<br /> chiếu mà nghỉ có hơn không, nhưng anh<br /> nghỉ hay không thì tùy anh” hoặc “Chỉ có<br /> muối mè thì ăn chung có hơn không,<br /> nhưng ăn chung hay ăn riêng đều được”.<br /> Do vậy, có thể khẳng định rằng tuy tồn tại<br /> dưới hình thức nghi vấn, song lực ngôn<br /> trung của câu nói vẫn mang bản chất cầu<br /> khiến. Qua khảo sát, có thể thấy tổ hợp này<br /> thường mang lực ngôn trung khuyên bảomột hành động thuộc nhóm cầu khiến- thể<br /> hiện mong muốn (chứ không ép buộc) Sp2<br /> nên thực hiện công việc tương lai. Vì thế,<br /> tiếp nhận câu hỏi này, Sp2 hiếm khi trả lời<br /> “có” hoặc “không” như thường lệ, mà dựa<br /> vào điều kiện thực tế để quyết định thực<br /> hiện/ không thực hiện hành động tương lai<br /> được nhắc tới trong lời của Sp1.<br /> Như vậy, thông qua câu hỏi, Sp1 có<br /> thể sử dụng những cấu trúc nhất địnhthường là cấu trúc có sự kết hợp giữa đại<br /> từ nghi vấn với thành phần chỉ sự tồn tại,<br /> hoặc tổ hợp phụ từ nghi vấn với các từ ngữ<br /> mang nghĩa đối chiếu, so sánh để thể hiện<br /> lực ngôn trung cầu khiến.<br /> Ở một khía cạnh khác, câu nghi vấn<br /> có thể được dùng để thể hiện lực ngôn<br /> trung bày tỏ. Đó là khi chủ thể muốn thể<br /> hiện thái độ, trạng thái, hoặc bày tỏ quan<br /> điểm, cách đánh giá đối với một sự vật, sự<br /> việc nào đó thông qua hình thức câu hỏi.<br /> Khi đó, câu thường có sự xuất hiện của các<br /> tiểu từ nghi vấn “à, ư” kết hợp với phụ từ<br /> “thế/ thật” tạo thành kết cấu:<br /> S+ V+ thật à/ thế ư?<br /> S + mà (lại/ cũng) A thật à/ thế ư?<br /> <br /> Các tổ hợp và kết cấu này thường<br /> thể hiện sự ngạc nhiên, bất ngờ trước quyết<br /> định đột ngột hoặc sự bày tỏ đường đột của<br /> đối tác. Ví dụ:<br /> (9) U bán con thật ư? (Ngô Tất Tố, Tắt<br /> đèn)<br /> (10) Anh Chương này, thế anh đi thật à?<br /> (Nguyễn Huy Thiệp, Con gái thủy thần)<br /> (11) - Thôi đi đừng "pha", chú mà lại "đét"<br /> thế ư? (Nguyên Hồng, Bỉ vỏ)<br /> Bàng hoàng trước quyết định cuối<br /> cùng của bố mẹ, cái Tí thốt ra lời bàng<br /> hoàng, đau đớn, chứ không còn mong xác<br /> nhận thông tin (ví dụ 9). Trước quyết tâm<br /> sắt đá của Chương, cô Phượng thảng thốt<br /> hơn là hỏi han (ví dụ 10). Không thể tin là<br /> Tư Lập- lơ nghèo đến mức không có tiền<br /> gọi xe, Tám Bính thốt lời hồ nghi, thậm chí<br /> hơi giễu cợt (ví dụ 11). Cho nên, trong<br /> những tình huống tương tự, thái độ của<br /> Sp1 được thể hiện nhiều hơn là sự mong<br /> muốn đón nhận thông tin từ phía Sp2.<br /> Nhờ những kết cấu này, Sp2-bằng<br /> khả năng suy ý - nhận ra thành phần nghĩa<br /> tình thái mà Sp1 cố ý thể hiện trong câu, từ<br /> đó có những cách tiếp nhận hoặc phản ứng<br /> phù hợp. Điều quan trọng là khi thực hiện<br /> hành động hỏi gián tiếp dùng câu hỏi mang<br /> lực ngôn trung cầu khiến hoặc bày tỏ, Sp1<br /> đã giảm thiểu nguy cơ đe dọa thể diện vốn<br /> có của hành động cầu khiến, tránh được sự<br /> ngại ngần khi bày tỏ trực tiếp.<br /> 3. Các phương tiện nhận diện hành động<br /> hỏi sử dụng hình thức câu khác nhau để<br /> thể hiện lực ngôn trung nghi vấn<br /> Ở phương diện này, xin được bàn<br /> đến hành động hỏi gián tiếp có lực ngôn<br /> trung yêu cầu/ mong muốn Sp2 cung cấp<br /> thông tin mà Sp1 cần biết bằng hình thức<br /> câu cầu khiến, câu trần thuật… Lực ngôn<br /> trung nghi vấn trong những trường hợp này<br /> mạnh đến nỗi khi trình bày lời thoại dưới<br /> <br /> dạng viết, người viết thường dễ bị nhầm<br /> lẫn khi bổ sung vào cuối câu một dấu chấm<br /> hỏi (?) - dù trong câu không có dấu hiệu<br /> nghi vấn, thay vào đó là những dấu hiệu<br /> nhận diện hành động cầu khiến (thường<br /> được thể hiện bằng câu cầu khiến), hoặc<br /> những từ ngữ nhận diện hành động xác tín<br /> (thể hiện bằng câu trần thuật). Đây là khía<br /> cạnh mà các nhà nghiên cứu đi trước chưa<br /> chú trọng khai thác.<br /> Với hình thức câu trần thuật, Sp1<br /> thể hiện mong muốn nhận thông tin bằng<br /> các dấu hiệu nhận diện hành động nhóm<br /> xác tín (assertives - một trong năm nhóm<br /> hành động ngôn từ lớn của nhân loại- theo<br /> sự phân loại của J. Searle). Đó là sự xuất<br /> hiện của các từ “băn khoăn”, “thắc mắc”,<br /> “chưa hiểu”… ngay sau chủ ngữ chỉ chủ<br /> thể nói năng ngôi thứ nhất và trước ngữ<br /> danh từ NP chỉ một sự tình/ vấn đề thuộc<br /> sự am hiểu của Sp2 trong cấu trúc:<br /> S+ (đang/ rất) băn khoăn về NP<br /> S + (vẫn) chưa hiểu về NP<br /> Tính chất trần thuật thể hiện khá rõ<br /> ở các phụ từ thời gian (đã, sẽ, đang), phụ<br /> từ mức độ (rất, quá, lắm) đi kèm các vị từ<br /> trạng thái (băn khoăn, thắc mắc), hoặc phụ<br /> từ phủ định (không, chưa, chẳng) đi kèm<br /> với các vị từ chỉ sự nhận thức (biết,<br /> hiểu…). Quan trọng nhất là, thông qua đó,<br /> Sp1 không nhằm mục đích tái hiện lại một<br /> sự tình, mà thể hiện mong muốn Sp2 giải<br /> thích rõ điều mà mình muốn biết. Ví dụ:<br /> (12) – (Bạn tôi từ Indonesia muốn gửi cho<br /> tôi 20 con gà cảnh nhỏ khoảng 1 tháng<br /> tuổi bằng máy bay). Tôi rất băn khoăn về<br /> những thủ tục hải quan và kiểm dịch mà<br /> tôi phải làm nếu muốn nhận số gà này.<br /> (http://www.customs.gov.vn<br /> ngày<br /> 06/12/2013)<br /> (13)- Tôi chưa hiểu cách sử dụng chiếc<br /> điện thoại này.<br /> <br /> Những ví dụ nêu trên đều có thể<br /> chuyển về hình thức câu nghi vấn mà<br /> nghĩa ngôn liệu không thay đổi (chẳng<br /> hạn: “Tôi cần thực hiện những thủ tục hải<br /> quan nào?”; “Chiếc điện thoại này được<br /> sử dụng như thế nào?”) v.v. Do vậy, khi<br /> tiếp nhận, Sp2 thường không có trạng thái<br /> tâm lý tương ứng là tin/ không tin sự tình<br /> được Sp1 tái hiện, mà nhanh chóng cung<br /> cấp thêm thông tin để giúp Sp1 hiểu rõ về<br /> điều được nhắc tới trong nội dung mệnh<br /> đề. Chẳng hạn, trong ví dụ (12), đại diện<br /> cho Ban Biên tập Cổng thông tin điện tử<br /> Hải quan hồi đáp: “Vướng mắc của ông<br /> (bà), chúng tôi có ý kiến trao đổi như sau:<br /> …”. Trong ví dụ (13), chuyên gia về điện<br /> thoại lập tức hướng dẫn cặn kẽ để Sp1 có<br /> thể sử dụng điện thoại hiệu quả nhất.<br /> Trên thực tế, để tường minh lực<br /> ngôn trung nghi vấn, người Việt thường bổ<br /> sung các đại từ sao/ gì/ thế nào v.v. ngay<br /> sau các từ “băn khoăn”, “thắc mắc”, “chưa/<br /> không hiểu”… Ví dụ:<br /> (14) Thỉnh thoảng tôi có nghe người ta nói<br /> nên ăn muối iod. Nhưng thực tình tôi<br /> không hiểu tại sao phải dùng muối<br /> iod…(http://suckhoedoisong.vn<br /> ngày<br /> 12/9/2014)<br /> (15) Tôi băn khoăn tại sao con trai tôi mới<br /> 6 tuổi đã có thể bị viêm loét dạ dày…<br /> (http://vnexpress.net ngày 3/1/2013)<br /> Tuy nhiên, ở những ngữ liệu này,<br /> “từ nghi vấn thuộc về kết cấu làm bổ ngữ<br /> trong câu, khi đó câu chứa nó không phải<br /> là câu nghi vấn” [4, tr.52]. Do vậy, hành<br /> động nói năng được thực hiện vẫn là hành<br /> động hỏi gián tiếp.<br /> Nhìn chung, đây chính là những ví<br /> dụ tiêu biểu của lối nói vòng- một thói<br /> quen nói năng của người Việt. Thay vì hỏi<br /> trực tiếp, Sp1 cố ý dùng lối nói tái hiện để<br /> giảm bớt (nhưng không triệt tiêu) trách<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
18=>0