Lê Văn Tấn, KimKi Hyun / Bàn thêm về nhân vật Từ Thức trong “Truyện từ thức lấy vợ tiên”...<br />
<br />
BÀN THÊM VỀ NHÂN VẬT TỪ THỨC<br />
TRONG TRUYỆN TỪ THỨC LẤY VỢ TIÊN CỦA NGUYỄN DỮ<br />
Lê Văn Tấn (1), KimKi Hyun (2)<br />
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam<br />
2<br />
NCS Khoa Văn học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam<br />
Ngày nhận bài 22/5/2017, ngày nhận đăng 30/8/2017<br />
1<br />
<br />
Tóm tắt: Vay mượn cốt truyện trong văn học dân gian và tiếp thu sáng tạo tiên<br />
thoại Trung Hoa, Nguyễn Dữ đã thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật<br />
Từ Thức trong Truyện Từ Thức lấy vợ tiên (trích Truyền kỳ mạn lục). Trong bài viết,<br />
tác giả xuất phát từ việc phân tích nhân vật này để luận giải các nội dung: thái độ bất<br />
hợp tác với chính thể đương thời; sự lựa chọn lối sống ẩn dật mang tính chất thể<br />
nghiệm và kết quả của sự thể nghiệm này. Đây là nội dung chính được chúng tôi bàn<br />
đến trong bài báo.<br />
<br />
1. Từ việc bất hợp tác với chính thể<br />
đương thời...<br />
Mở đầu thiên truyện, Nguyễn Dữ đã<br />
có lời giới thiệu về Từ Thức như sau:<br />
“Trong năm Quang Thái đời nhà Trần,<br />
người ở Hóa Châu tên là Từ Thức, vì có<br />
phụ ấm được bổ làm tri huyện Tiên Du”<br />
[3]. Có thể khẳng định, nhân vật này là<br />
một trong những kiểu nhân vật mang hình<br />
bóng của chính tác giả. Nguyễn Dữ từng<br />
theo nghiệp khoa cử, từng đỗ cử nhân, thi<br />
Hội đỗ tam trường, cũng từng làm quan<br />
khoảng một năm, sau cáo quan về với cái<br />
cớ là để chăm sóc mẹ già, giữ trọn đạo<br />
hiếu. Trong Truyện Từ Thức lấy vợ tiên,<br />
Nguyễn Dữ kể chuyện về Từ Thức mà<br />
cũng là nói chuyện của bản thân ông. Từ<br />
Thức là một viên quan chính trực, hơn thế<br />
là một con người có tâm hồn trong sáng<br />
và cao đẹp. Biểu hiện cụ thể trong thiên<br />
truyện này là một việc làm, tuy nhỏ song<br />
rất nhân văn: chuộc lỗi và cởi trói cho<br />
người con gái xinh đẹp vì lỡ tay mà làm<br />
gãy một cành mẫu đơn. Đằng sau hành<br />
động này của Từ Thức là sự ý thức và thái<br />
độ cao ngạo của một con người tài cao<br />
học rộng và tâm huyết. Chi tiết này cũng<br />
.<br />
<br />
Email: tanlv0105@gmail.com (L. V. Tấn)<br />
<br />
50<br />
<br />
là duyên cớ để dẫn Từ Thức tới sự thể<br />
nghiệm một cuộc sống khác.<br />
Từ Thức làm quan song lại bỏ bê việc<br />
quan. Thậm chí Từ Thức còn “... vốn tính<br />
hay rượu, thích đàn, ham chơi, mến cảnh,<br />
việc sổ sách bỏ ùn cả lại...”. Lẽ thường,<br />
với một viên quan mẫn cán, việc bỏ bê<br />
công việc như thế này là khó chấp nhận.<br />
Tuy nhiên, với hoàn cảnh cụ thể và bản<br />
tính của Từ Thức, hành động này lại hoàn<br />
toàn có thể thông cảm. Đợi đến khi quan<br />
trên nhắc nhở:<br />
“- Thân phụ thầy làm đến đại thần mà<br />
thầy không làm nổi một chức tri huyện<br />
sao!<br />
Từ than rằng:<br />
- Ta không thể vì số lương năm đấu<br />
gạo mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu<br />
là một mái chèo về, nước biếc non xanh<br />
vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy!”<br />
Không chịu “buộc mình trong áng lợi<br />
danh” là tuyên bố cho lí do căn bản mà<br />
Từ Thức từ quan. Con người này đi theo<br />
tiếng gọi của thiên nhiên, vượn hạc, trăng<br />
nước mây trời - con đường của Bành<br />
Trạch, Tô Thức, Khổng Dung, Lý Bạch...<br />
hay Trần Nguyên Đán, Nguyễn Húc,<br />
Nguyễn Bỉnh Khiêm... đã đi và Ngô Thế<br />
<br />
Trường Đại học Vinh<br />
<br />
Lân, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huy Vinh,<br />
Nguyễn Khuyến... sau này sẽ đi. Nói cụ<br />
thể hơn, việc Từ Thức từ quan là do hoàn<br />
cảnh lịch sử xã hội thời bấy giờ nói<br />
chung, triều Mạc nói riêng không như ý<br />
muốn của con người này (như đã nói,<br />
nhân vật Từ Thức mang hình bóng của tác<br />
giả). Từ Thức cho rằng, đó không phải là<br />
nơi có thể hiện thực cho ước mơ và lý<br />
tưởng “trí quân trạch dân”, “tiên ưu hậu<br />
lạc” của ông. Chỗ này cần lưu ý chi tiết<br />
Từ Thức do tập ấm mà làm quan nhưng<br />
con người này lại xử thế như một danh sĩ,<br />
không chịu gập lưng hầu hạ kẻ quyền<br />
quý, không hám công danh, thích tự do tự<br />
tại, ngao du sơn thuỷ. Việc ghi niên hiệu<br />
năm Quang Thái đời Trần, tức đời vua<br />
Trần Thuận Tông - vị vua cuối cùng trước<br />
khi bị Hồ Quý Ly thoán đoạt là một tín<br />
hiệu có ý nghĩa phê phán chính sự thối<br />
nát, lòng người li tán. Theo chúng tôi, đây<br />
là chi tiết ẩn dụ cho thời đại mà Nguyễn<br />
Dữ đang chứng kiến. Có thể với hoàn<br />
cảnh đó, một cá nhân khác sẽ có một sự<br />
lựa chọn khác và có thể hết lòng với việc<br />
quan, song Từ Thức tự thấy mình không<br />
thể. Trong quan niệm của nhân vật này,<br />
triều chính, xã tắc lúc bấy giờ chỉ toàn<br />
những hôn quân bạo chúa, gian thần xiểm<br />
nịnh, vì của cải tiền bạc mà chà đạp lên<br />
quyền sống của con người. Vị trí của một<br />
tri huyện sẽ không làm được gì lớn nếu<br />
như ngay cả mạng sống cũng không được<br />
bảo toàn. Mà nếu đó là sự phát triển tất<br />
yếu của lịch sử thì không riêng gì Từ<br />
Thức mà đến quân vương cũng bất lực.<br />
Từ đó, không dùng dằng, day dứt hay<br />
lưỡng lự giữa sự ở và về, Từ Thức đã tìm<br />
đến lối sống ẩn dật bằng một thái độ khá<br />
dứt khoát. Theo chúng tôi, thái độ từ quan<br />
quy ẩn của Từ Thức ở đây là sự kết tinh<br />
tư tưởng và thái độ bất hợp tác với chính<br />
thể đương thời của Nguyễn Dữ và nhiều<br />
<br />
Tạp chí khoa học, Tập 46, Số 2B (2017), tr. 50-55<br />
<br />
kẻ sĩ Việt Nam trước ông, cùng thời với<br />
ông và sau ông.<br />
2. ... đến một lối sống ẩn dật mang<br />
tính chất thể nghiệm<br />
Về với chốn lâm tuyền, Từ Thức như<br />
tìm lại được con người mình, gắn bó chặt<br />
chẽ với thiên nhiên, cảnh vật. Dưới ngòi<br />
bút lãng mạn và đầy phóng khoáng, môi<br />
trường sống của Từ Thức ở trần giới được<br />
hiện lên khá đẹp: “Một hôm Từ Thức dậy<br />
sớm trông ra bể Thần Phù ở phía ngoài<br />
xa vài chục dặm, thấy có đám mây ngũ<br />
sắc đùn đùn kết lại như một đoá hoa sen<br />
mọc lên vội chèo thuyền ra thì thấy một<br />
trái núi rất đẹp. Từ Thức kinh ngạc bảo<br />
lái thuyền rằng: - Ta đã từng lênh đênh<br />
trên áng giang hồ, các thắng cảnh miền<br />
đông nam, không biết trái núi này từ đâu<br />
mọc ra trước mắt, ý giả là non tiên rụng<br />
xuống, vết thần hiện ra đây chăng? Sao<br />
trước không mà nay lại có?…”. Rồi đó là:<br />
“Tôi là một kẻ dật dân ở Tống Sơn. Một<br />
cánh buồm gió, một lá thuyền nan, phóng<br />
lãng giang hồ thích đâu đến đấy…”.<br />
Tuy nhiên, nếu ở các thiên truyện<br />
như: Chuyện đối đáp của người tiều phu ở<br />
núi Na, Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà giang,<br />
Nguyễn Dữ đề cập nhiều tới lối sống ẩn<br />
dật “phóng lãng giang hồ” cùng non xanh<br />
nước biếc nơi trần thế của các nhân vật thì<br />
ở Truyện Từ Thức lấy vợ tiên, Nguyễn Dữ<br />
muốn để cho nhân vật của mình vươn tới<br />
một sự thể nghiệm khác về lối sống ẩn<br />
dật: cho Từ Thức lên cõi tiên, sống trong<br />
không gian - thời gian tiên giới. Điều này<br />
thể hiện một bước phát triển cao nhất<br />
(một số nhà nghiên cứu cho đó là tiêu<br />
cực) của quá trình Nguyễn Dữ muốn tạo<br />
ra một sự phân biệt rạch ròi giữa chốn lợi<br />
danh phàm tục với chốn thanh cao mà chỉ<br />
có những nho sĩ ẩn dật mới có thể vươn<br />
tới được. Hãy xem sự miêu tả của nhà<br />
văn: “... Buộc thuyền lên bờ thì thấy<br />
51<br />
<br />
Lê Văn Tấn, KimKi Hyun / Bàn thêm về nhân vật Từ Thức trong “Truyện từ thức lấy vợ tiên”...<br />
<br />
những vách đá cao vút nghìn trượng,<br />
sừng sững đứng thẳng, nếu không có cánh<br />
thì vị tất đã trèo lên thăm cảnh đó được...<br />
Chợt thấy ở trên vách đá nứt toác ra một<br />
cái hang, hình tròn mà rộng độ một<br />
trượng. Vén áo đi vào, vừa được mấy<br />
bước thì cửa hang đã đóng sập lại tối tăm<br />
mù mịt như sa vào cái vực đen tối...”. Ở<br />
một phương diện nào đó mà đánh giá, quả<br />
tư tưởng này có tính chất không tưởng,<br />
hơi hướng tiêu cực song xét ở hoàn cảnh<br />
đó, ở cá nhân con người Nguyễn Dữ,<br />
chúng tôi cho đây là một sự tìm tòi, một<br />
sự thể nghiệm táo bạo mà không phải nho<br />
sĩ nào cũng có thể vươn tới được. Trong<br />
tư tưởng Nguyễn Dữ, với sự hạn chế của<br />
lịch sử, ông chỉ nhận thức và thể nghiệm<br />
được tới đó. Tức là ở chỗ này, nhà văn đã<br />
đi hết, đi đến tận cùng khả năng mình. Đó<br />
là một phẩm chất đáng trân trọng.<br />
Từ Thức đến với cõi tiên với đầy sự<br />
bất ngờ, ngỡ ngàng: “Lên đến ngọn núi thì<br />
bầu trời sáng sủa. Chung quanh toàn là<br />
những lâu đài nguy nga, mây xanh ráng<br />
đỏ bám ở lan can, cỏ lạ hoa kì nở đầy<br />
trước cửa”. Sau đó, do mối lương duyên<br />
với Giáng Hương mà Từ Thức đã thành<br />
đôi lứa với người con gái này. Họ sống<br />
bên nhau trong những ngày tháng khá<br />
hạnh phúc. Họ cùng nhau ngâm vịnh thơ<br />
ca, thưởng thức các món ăn vô cùng kì lạ<br />
mà ở hạ giới không thể nào có được.<br />
Cuộc sống tiên giới trong thiên truyện<br />
được Nguyễn Dữ khắc họa thật ra cũng là<br />
hoa thông, trăng núi, trăng sao, vượn hạc<br />
mà thôi... Tức là ở đây, theo chúng tôi,<br />
điểm nhìn nghệ thuật là hiện thực trần<br />
giới, được bắt đầu từ hiện thực trần giới.<br />
Hãy xem một số bài thơ của Từ Thức:<br />
Nhãn để yên hà cước để vân,<br />
Thanh quang sái sái bức Tam Thần.<br />
Tùng hoa bán lão hương phong động,<br />
Mỗi dẫn Thương Lương điếu đĩnh<br />
nhân.<br />
.<br />
<br />
52<br />
<br />
(Khói rợp mây che khắp bốn trời,<br />
Non Thần trong sáng đó là nơi.<br />
Hoa thông theo gió đưa hương ngát,<br />
Dắt dẫn thuyền câu khách một người.)<br />
Khước hàn liêm phóng nguyệt trùng<br />
trùng,<br />
Khiếp đối suy nhan bả kính dung.<br />
Cách trúc hoán lai tiên chẩm mộng,<br />
Ngũ canh vô nại viễn sơn chung.<br />
(Rèm buông cản lạnh nguyệt lung linh<br />
Gương võ vàng soi luống thẹn thùng<br />
Cách trúc gối tiên vừa khẽ chợp<br />
Non xa đưa rộn tiếng chuông đồng.)<br />
Tuy nhiên, niềm vui của cuộc sống<br />
nơi tiên giới chỉ thoáng chốc. Ngay khi ở<br />
cõi tiên, Từ Thức đã bộc lộ sự thất bại<br />
của mình. Đầu tiên là cái nhìn quá tỉnh<br />
táo về cuộc sống của quần tiên: “Nay<br />
quần tiên ai về chỗ nấy, sống trong cảnh<br />
quạnh quẽ cô liêu, đó là vì lòng vật dục<br />
không nảy sinh, hay là cũng có nhưng<br />
phải gượng đè nén?”. Rồi tiếp đó là tâm<br />
trạng ngóng về trần tục bàng bạc trong<br />
các bài thơ đề vịnh của Từ Thức. Qua lời<br />
thơ ta dễ dàng bắt gặp ở đó một dòng cảm<br />
xúc da diết, khôn khuây về cố hương của<br />
con người này:<br />
Phù phù thụy ái nhiễu kim khuê,<br />
Phương trượng huề nam Nhược thủy<br />
tê.<br />
Xướng bãi đã canh thiên dục thự,<br />
Hương tâm hà xứ nhất thanh kê.<br />
(Khí lành quanh quất phủ buồng xuân,<br />
Phương trượng non xa, Nhược thủy<br />
gần.<br />
Dứt tiếng canh đà trời sắp sáng,<br />
Lòng quê theo dõi áng mây Tần.)<br />
Hay cảm giác về thân phận “nương náu”,<br />
gửi nhờ cũng luôn choán lấy tâm trí kẻ sĩ:<br />
Tứ diện ba đào nhất kế sơn,<br />
Dạ lai hà xứ mộng hương quan.<br />
Mang mang trần giới hồi đầu viễn,<br />
Thân tại hồng vân bích thủy gian.<br />
.<br />
<br />
.<br />
<br />
Trường Đại học Vinh<br />
<br />
(Sóng nước bao quanh núi một vùng,<br />
Mộng về quê cũ lối không thông.<br />
Mây vàng nước biếc thân nương đậu,<br />
Trần giới xa coi ngút mịt mùng.)<br />
Với tâm trạng đó, chắc chắn Từ Thức<br />
không thể sống mãi ở cõi tiên được. Sự<br />
thể nghiệm lối sống nơi cõi tiên của con<br />
người này diễn ra chỉ đúng một năm, để<br />
nhường lại cho tấm lòng vời vợi cố<br />
hương: “Từ khi bỏ nhà đi thấm thoắt đã<br />
được một năm, ao sen đã đổi thay màu<br />
biếc. Những đêm gió thổi, những sáng<br />
sương sa, bóng trăng sáng nhòm qua cửa<br />
sổ, tiếng thuỷ triều nghe vẳng đầu giường,<br />
đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng<br />
khuâng, quấy nhiễu không sao ngủ được”.<br />
Tấm lòng vời vợi cố hương đã thôi thúc<br />
Từ Thức tìm cách trở về trần giới. Từ việc<br />
vin vào hoàn cảnh cá nhân: “Tôi bước<br />
khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa<br />
thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể<br />
tình mà cho được tạm về ...” đến việc<br />
động viên an ủi Giáng Hương: “Tôi xin<br />
hẹn trong một thời kỳ bao nhiêu lâu, để về<br />
cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà<br />
cho yên, sẽ lại đến đây để với nàng cùng<br />
già ở chốn làng mây bến nước”. Những<br />
lời nói hết sức tha thiết của tấm chân tình<br />
đến như thế của họ Từ hẳn nhiên Giáng<br />
Hương không thể cầm lòng, vả có giữ<br />
cũng khó. Mà có giữ được thì cũng chỉ<br />
giữ được thân xác của Từ Thức mà thôi<br />
nên nàng đành ngậm ngùi mà rằng:<br />
“Thiếp chẳng dám vì tình phụ mà ngăn<br />
cản mối lòng quê hương của chàng. Song<br />
cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù<br />
nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa<br />
vườn, không còn đâu cảnh tượng như<br />
ngày trước nữa...”. Từ Thức đã quay trở<br />
lại cõi trần khá dứt khoát. Dứt khoát như<br />
chính lúc ra đi vậy, mặc cho lời cảnh báo<br />
của Giáng Hương mà khi hối lại thì mọi<br />
việc đã an bài.<br />
<br />
Tạp chí khoa học, Tập 46, Số 2B (2017), tr. 50-55<br />
<br />
3. Và kết quả của sự thể nghiệm<br />
Điều gì sẽ diễn ra khi Từ Thức quay<br />
trở lại trần giới sau một năm ở tiên giới?<br />
Đó là sự thay đổi của tất cả, từ con người<br />
đến cảnh vật: “Chàng đi chỉ thoắt chốc đã<br />
về đến nhà, thì thấy vật đổi sao rời, thành<br />
quách nhân gian, hết thảy đều không như<br />
trước nữa, duy có cảnh núi khe là vẫn<br />
không thay đổi sắc biếc màu xanh thuở<br />
nọ”. Gặp một người già cả để hỏi thăm thì<br />
Từ Thức mới ngỡ ngàng biết rằng: một<br />
năm tiên giới bằng hơn cả 80 năm trần<br />
giới. Lời nói của “trẻ thơ” mà ngỡ ở cõi<br />
nào: “- Thuở bé tôi nghe nói ông cụ tam<br />
đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi<br />
vào núi mất đến nay đã hơn 80 năm, nay<br />
đã là năm thứ năm niên hiệu Diên Ninh là<br />
đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi”. Từ<br />
Thức về quê cũ mà bỗng trở thành một<br />
người xa lạ, lạc lõng? Thể hiện một chung<br />
cục như vậy, Nguyễn Dữ gửi gắm tư<br />
tưởng gì? Cần biết rằng: lên tiên, lấy vợ<br />
tiên là một thể nghiệm lối sống ẩn dật của<br />
Từ Thức. Nếu làng quê nơi Từ Thức trở<br />
lại cũng là nơi mà Từ Thức đã ở ẩn (Từ<br />
Thức từ quan, chọn lối sống ẩn dật nơi<br />
sơn thủy rồi mới lên tiên) thì rõ ràng,<br />
thiên truyện này bộc lộ sự không yên tâm<br />
về lựa chọn lối sống ẩn dật của nhà văn.<br />
Vì vậy nên, Nguyễn Dữ đã để cho nhân<br />
vật của mình di chuyển từ môi trường ẩn<br />
dật này (trần giới) tới môi trường ẩn dật<br />
khác (tiên giới) để ông thể nghiệm, tìm<br />
tòi, với ao ước tìm được một môi trường<br />
tối ưu. Nhân vật khao khát đi tìm cuộc<br />
sống mới, một cuộc sống khác, một cuộc<br />
sống tốt đẹp hơn. Nhưng sự quay trở lại<br />
trần giới của Từ Thức cho thấy, hạnh<br />
phúc đích thực của con người không gì<br />
khác, không đâu xa mà chính là cuộc sống<br />
nơi trần thế. Cuộc sống đau khổ mà có<br />
thực còn hơn hạnh phúc mà siêu hình.<br />
Với một nhận thức cấp tiến như thế nên<br />
Nguyễn Dữ đã để cho nhân vật của mình<br />
53<br />
<br />
Lê Văn Tấn, KimKi Hyun / Bàn thêm về nhân vật Từ Thức trong “Truyện từ thức lấy vợ tiên”...<br />
<br />
đi tìm và thể nghiệm lối sống ẩn dật<br />
nhưng cuối cùng cũng quay trở lại cuộc<br />
sống hiện thực dù cho khi quay trở lại, Từ<br />
Thức cũng không tìm được một cuộc sống<br />
như ý muốn. Còn nếu hiểu, nơi trở về của<br />
Từ Thức ở một nghĩa rộng là xã hội khác<br />
với xã hội đương thời trong sự tiệm tiến<br />
thời gian 80 năm (con số có tính chất ước<br />
lệ) thì rõ ràng ta thấy ở nho sĩ Nguyễn Dữ<br />
một khát vọng cải hoá hiện thực, đồng<br />
thời là ước mơ của ông về một xã hội<br />
khác với xã hội Việt Nam thế kỷ XVI mà<br />
bản thân ông lại vô cùng lúng túng trong<br />
việc vẽ nó ra sao vì dường như mọi ngả<br />
đường dẫn tới hạnh phúc đích thực của<br />
con người đã bị ngăn chặn, hiện thực xã<br />
hội không đánh lừa được một trái tim<br />
nhiệt tình và ham sống là Từ Thức?! Đó<br />
còn được hiểu như là sự bế tắc, bất lực<br />
của tư tưởng và hành động nhân vật, của<br />
danh nho Nguyễn Dữ. Vì lẽ này mà<br />
Nguyễn Dữ để Từ Thức trở về, rồi lại để<br />
Từ Thức ra đi: “Chàng bèn mặc áo cừu<br />
nhẹ, đội nón lỏ ngắn, vào núi Hoành Sơn,<br />
rồi sau không biết đi đâu mất”. Đằng sau<br />
hình tượng Từ Thức chính là sự biện hộ<br />
cho lẽ xuất xử của Nguyễn Dữ. Không<br />
phải là ông không muốn trở lại với xã hội,<br />
với triều chính để phục vụ. Vấn đề là, nơi<br />
ấy không có chỗ cho ông, ông có trở lại<br />
cũng chỉ trở thành một người lạc lõng, xa<br />
lạ, vô ích mà thôi. Phải chăng đây là một<br />
trong nhiều lí do khiến Nguyễn Dữ đã<br />
không chọn quê cũ, làng cũ của mình để<br />
trở về ẩn dật mà lại đến với một môi<br />
trường mới - rừng núi Thanh Hoá? Thái<br />
độ dứt khoát từ quan của Từ Thức, sự<br />
mau lẹ lên với tiên giới, rồi lại nhanh<br />
chóng trở về, rồi cuối cùng lại “biến đi<br />
đâu mất” của nhân vật, theo suy nghĩ của<br />
người viết bài này không hẳn đã là tất cả<br />
con người tác giả? Đó hẳn vẫn là một sự<br />
bùi ngùi, một cảm giác xót xa, vừa như<br />
níu kéo, nuối tiếc, lại vừa như một sự phủ<br />
định hiện tại, chối từ thế tục mà lòng ông<br />
54<br />
<br />
vẫn mãi ngóng trông... Đúng như đánh giá<br />
của Nguyễn Phạm Hùng “hoặc là tìm<br />
kiếm khôn nguôi về lẽ sống, hạnh phúc, lí<br />
tưởng như Truyện Từ Thức lấy vợ<br />
tiên...” [4, tr. 117]. Hay nhận xét của Bùi<br />
Duy Tân: “Rõ ràng ở ẩn chẳng qua là bất<br />
đắc dĩ, và khi bất đắc dĩ chọn con đường<br />
lánh đục về trong đó, hình như Nguyễn<br />
Dữ vẫn coi vị trí của mình là ở giữa cuộc<br />
đời. Cũng chính vì vậy mà tuy có lúc bi<br />
quan, yếm thế nhưng Nguyễn Dữ không<br />
tuyệt vọng” [6, tr. 391]. Đúng là Nguyễn<br />
Dữ đã không tuyệt vọng, không bao giờ<br />
tuyệt vọng, dù đây chỉ là một thể nghiệm.<br />
Qua thiên truyện, ông đã để lại một tư<br />
tưởng, một lối sống, một cách thế sống đẹp<br />
đẽ, thanh cao và tràn ngập tính nhân bản.<br />
Hơn thế là một khát vọng khôn khuây về<br />
thế tục, về nhân tình thế thái cho hậu sinh<br />
ngẫm nghiệm. Và chắc chắn, con đường,<br />
sự lựa chọn mà Từ Thức hay Nguyễn Dữ<br />
đã đi, đã chiêm nghiệm và thể nghiệm, đã<br />
đánh đổi bằng cả một đời người lại tiếp tục<br />
được mở ra mênh mông với nhiều danh sĩ<br />
sau này. Bảng danh sách người ẩn dật thời<br />
trung đại sau Nguyễn Dữ còn có thể kể tới<br />
nhiều tên tuổi nổi tiếng như Ngô Thế Lân,<br />
Lê Hữu Trác, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huy<br />
Vinh, Nguyễn Khuyến...<br />
4. Kết luận<br />
Trở lên, có thể đánh giá rằng, Truyện<br />
Từ Thức lấy vợ tiên là một thiên truyện<br />
khá độc đáo, mang tính đa nghĩa trong<br />
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (một<br />
số hướng lí giải khác về hình tượng Từ<br />
Thức trong văn học dân gian cũng như<br />
trong tác phẩm của Nguyễn Dữ chúng tôi<br />
không nhắc lại ở đây). Với một bút pháp<br />
lãng mạn và phóng túng, Nguyễn Dữ đã<br />
xây dựng thành công hình tượng người ẩn<br />
dật là Từ Thức: cốt cách trong sáng, lối<br />
sống tự do, ẩn dật mà vẫn ngóng trông về<br />
cõi tục, về cuộc đời trần thế. Mượn cốt<br />
<br />