intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bản tin Cạnh tranh và người tiêu dùng Số 51 - 2015

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

62
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bản tin Cạnh tranh và người tiêu dùng Số 51 - 2015 giới thiệu tới các bạn những nội dung về phương pháp định giá phân biệt - công cụ tái áp dụng phương pháp Zeroing của Bộ Thương mại Hoa Kỳ trong các cuộc điều tra chống bán phá giá, cảnh báo về mua sắm qua truyền hình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bản tin Cạnh tranh và người tiêu dùng Số 51 - 2015

CẠNH TRANH<br /> & NGƯỜI TIÊU DÙNG<br /> BẢN TIN<br /> <br /> SỐ 51 - 2015<br /> <br /> Phương pháp định giá phân biệt Công cụ tái áp dụng phương pháp<br /> Zeroing của Bộ thương mại Hoa Kỳ<br /> trong các vụ việc điều tra<br /> chống bán phá giá<br /> Cảnh báo về<br /> <br /> MUA SẮM QUA TRUYỀN HÌNH<br /> <br /> Lễ ký MOU về hợp tác<br /> trong lĩnh vực bảo vệ<br /> người tiêu dùng giữa Cục Quản<br /> lý cạnh tranh và Cơ quan Bảo vệ<br /> người tiêu dùng Hàn Quốc<br /> <br /> BỘ CÔNG THƯƠNG<br /> CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH<br /> <br /> BẢN TIN<br /> CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG<br /> Của Cục Quản lý cạnh tranh<br /> <br /> BỘ CÔNG THƯƠNG<br /> <br /> “<br /> <br /> CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH<br /> <br /> Giấy phép xuất bản số 03/GP-XBBT<br /> Cấp ngày 06/01/2015<br /> <br /> Mục lục<br /> 04<br /> <br /> CHUYÊN MỤC<br /> <br /> Phòng vệ thương mại<br /> <br /> 11<br /> <br /> Phát hành vào ngày 20 hàng tháng<br /> <br /> Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập trong hệ thống tổ chức<br /> của Bộ Công Thương có nhiệm vụ thực thi Luật Cạnh tranh, Luật Bảo vệ quyền lợi<br /> người tiêu dùng, Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp và Pháp lệnh<br /> tự vệ.<br /> Với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại Quyết định số 848/QĐ-BCT<br /> ngày 05 tháng 2 năm 2013, Cục Quản lý cạnh tranh hoạt động nhằm mục tiêu thúc đẩy<br /> và duy trì môi trường cạnh tranh hiệu quả cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần<br /> kinh tế, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng.<br /> Lãnh đạo Cục Quản lý cạnh tranh gồm một Cục trưởng do Thủ tướng bổ nhiệm theo<br /> đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương và một số Phó Cục trưởng do Bộ trưởng Bộ<br /> Công Thương bổ nhiệm.<br /> <br /> ”<br /> <br /> NGƯỜI CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢN<br /> BẠCH VĂN MỪNG<br /> Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương<br /> BAN BIÊN TẬP<br /> NGUYỄN PHƯƠNG NAM, VÕ VĂN THÚY,<br /> TRẦN THỊ MINH PHƯƠNG, PHẠM CHÂU GIANG,PHẠM THỊ<br /> QUỲNH CHI, PHẠM HƯƠNG GIANG, BÙI NGUYỄN ANH<br /> TUẤN, PHAN ĐỨC QUẾ, PHÙNG VĂN THÀNH, CAO XUÂN<br /> QUẢNG, HỒ TÙNG BÁCH, TRẦN DIỆU LOAN,<br /> TẠ MẠNH CƯỜNG<br /> HỘI ĐỒNG CỐ VẤN<br /> TRƯƠNG ĐÌNH TUYỂN<br /> Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại<br /> PGS. TS. LÊ DANH VĨNH<br /> Nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương<br /> ÔNG TRẦN QUỐC KHÁNH<br /> Thứ trưởng Bộ Công Thương<br /> GS. TS. HOÀNG ĐỨC THÂN<br /> Đại học Kinh tế Quốc dân<br /> PGS. TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT<br /> Viện Nhà nước và Pháp luật<br /> TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH<br /> Viện Nhà nước và Pháp luật<br /> <br /> 24<br /> <br /> TIN TỨC - SỰ KIỆN<br /> <br /> NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI<br /> <br /> Tổ chức sản xuất và phát hành<br /> TRUNG TÂM THÔNG TIN CẠNH TRANH (CCID)<br /> 25 Ngô Quyền - Hà Nội<br /> ĐT: (04) 2220 5305 * Fax: (04) 2220 5303<br /> Email: cncbulletin@moit.gov.vn<br /> Đại diện tại TP. Hồ Chí Minh<br /> Số 12 Võ Văn Kiệt, Quận 1, TP.HCM<br /> Phát hành tại<br /> Công ty phát hành báo chí Trung ương<br /> <br /> Ban Biên tập Bản tin Cạnh tranh và Người tiêu dùng xin trân trọng cảm ơn và nghiêm túc tiếp thu ý kiến đóng góp của độc giả nhằm nâng cao chất<br /> lượng của Bản tin. Mọi ý kiến đóng góp, thư từ, tin, bài xin gửi về:<br /> Ban Biên tập Bản tin Cạnh tranh và Người tiêu dùng<br /> 25 Ngô Quyền - Hoàn Kiếm - Hà Nội<br /> ĐT: (04) 2220 5009 * Fax: (04) 2220 5303 * Email: cncbulletin@moit.gov.vn<br /> <br /> CHUYÊN MỤC<br /> <br /> CHUYÊN MỤC<br /> <br /> Phòng vệ thương mại<br /> <br /> PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ<br /> PHÂN BIỆT - CÔNG CỤ<br /> TÁI ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP<br /> ZEROING CỦA BỘ THƯƠNG<br /> MẠI HOA KỲ TRONG<br /> CÁC VỤ VIỆC ĐIỀU TRA<br /> CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ<br /> 4<br /> <br /> Phòng vệ thương mại<br /> <br /> 1. Tổng quan về Phương pháp định giá phân biệt (Differential<br /> Pricing Analysis)<br /> Sáng kiến về việc sử dụng Phương pháp định giá phân<br /> biệt được Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đưa ra sau khi DOC<br /> thông báo về việc bãi bỏ phương pháp phân tích “bán phá giá<br /> mục tiêu”1 trong các vụ việc điều tra chống bán phá giá (CBPG)<br /> trước đó vào tháng 12 năm 2008 và chính thức được bãi bỏ<br /> vào tháng 3 năm 2012.<br /> Theo pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ quy định<br /> tại 19 CFR 351.414(c)2, phương pháp so sánh bình quân gia<br /> quyền giá trị thông thường với bình quân gia quyền giá xuất<br /> khẩu (Weighted Average to Weighted Average - WA-WA) là<br /> phương pháp chuẩn khi thực hiện việc tính toán biên độ phá<br /> 1 Phương pháp này được DOC sử dụng khi DOC nhận thấy rằng có<br /> tồn tại một mẫu (gồm các giao dịch xuất khẩu) có mức giá khác biệt đáng kể<br /> giữa các nhà nhập khẩu hoặc khác biệt đáng kể giữa các khu vực địa lý hoặc<br /> khác biệt đáng kể trong các giai đoạn khác nhau.<br /> 2 <br /> 19 CFR 351.414(c) Lựa chọn phương pháp.<br /> (1) Trong một vụ việc điều tra hoặc rà soát, DOC sẽ sử dụng phương<br /> pháp bình quân gia quyền với bình quân gia quyền trừ khi DOC xác định rằng<br /> có một phương pháp khác phù hợp trong vụ việc cụ thể đó.<br /> (2) DOC sẽ sử dụng phương pháp so sánh giao dịch với giao dịch<br /> chỉ trong các trường hợp bất thường, ví dụ như khi chỉ có một số lượng rất ít<br /> hàng hóa thuộc đối tượng điều tra và hàng hóa khác được bán trên từng thị<br /> trường được xác định là tương tự, hoặc rất giống nhau hoặc được làm theo<br /> yêu cầu của người mua.<br /> <br /> C ẠNH TR ANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG | Số. 51 - 2015<br /> <br /> V C A<br /> <br /> giá. Trong trường hợp DOC nhận thấy rằng phương pháp này<br /> không thể phản ánh một cách hợp lý về mức độ bán phá giá,<br /> khi đó DOC sẽ dựa vào một trong các phương pháp so sánh<br /> khác, cụ thể là phương pháp so sánh từng giao dịch bán hàng<br /> nội địa với từng giao dịch bán hàng xuất khẩu (Transaction<br /> to Transaction T-T) hoặc phương pháp so sánh giá trị thông<br /> thường bình quân gia quyền với giá xuất khẩu của từng giao<br /> dịch (Weighted Average to Transaction - WA-T). Tuy nhiên<br /> DOC sẽ không áp dụng hai phương pháp T-T và WA-T trừ khi<br /> DOC xác định rằng các giao dịch xuất khẩu thỏa mãn một số<br /> các tiêu chí cụ thể: (i) khi tồn tại một nhóm các giao dịch xuất<br /> khẩu có mức giá khác biệt đáng kể giữa các nhà nhập khẩu<br /> với nhau hoặc (ii) sự khác biệt đáng kể giữa các khu vực địa lý<br /> hoặc (iii) sự khác biệt đáng kể trong các giai đoạn khác nhau<br /> trong giai đoạn điều tra (POI). Trước khi phương pháp định<br /> giá phân biệt được áp dụng trong các vụ việc điều tra CBPG<br /> và các giai đoạn rà soát hành chính, DOC đã sử dụng phương<br /> pháp phân tích bán phá giá mục tiêu để làm cơ sở cho việc sử<br /> dụng phương pháp so sánh WA-T khi tính toán biên độ phá giá.<br /> DOC lần đầu tiên áp dụng phương pháp định giá phân<br /> biệt (Differential pricing) vào tháng 3 năm 2013 trong vụ việc<br /> điều tra CBPG sản phẩm Xanthan Gum nhập khẩu từ Trung<br /> Quốc và Áo, và được xem là phương pháp phát triển từ Phương<br /> pháp bán giá mục tiêu (targeted dumping) trước đây. Theo đó,<br /> thay vì sử dụng “phép thử Nails” (Nails test)3để xác định có<br /> sự khác biệt đáng kể về giá, DOC đã áp dụng 2 phép thử mới<br /> gọi là “Phép thử Cohen’s d” (Cohen’s d test) và “Phép thử<br /> Ratio” (Ratio test) để xác định xem liệu rằng có tồn tại một<br /> nhóm các giao dịch xuất khẩu có sự khác biệt đáng kể về giá<br /> hay không. Để xác định điều trên, DOC sẽ sử dụng 02 phép<br /> thử theo thứ tự như sau:<br /> Bước 1: Thực hiện Phép thử Cohen’s d để so sánh giá của<br /> các nhóm giao dịch giữa (i) các nhà nhập khẩu với nhau, hoặc<br /> (ii) các khu vực địa lý khác nhau hoặc (iii) các khoảng thời<br /> gian khác nhau trong giai đoạn điều tra (theo tháng, quý). Nếu<br /> DOC xác định rằng các giao dịch xuất khẩu của doanh nghiệp<br /> bị điều tra có hệ số Cohen’s d cao chiếm tỷ lệ lớn thì có tồn tại<br /> nhóm giao dịch xuất khẩu có sự khác biệt đáng kể về giá của<br /> doanh nghiệp đó. (Nội dung phép thử Cohen’s d được phân<br /> tích kỹ trong mục tiếp theo)<br /> Tiếp đó, DOC sử dụng phép thử tỷ lệ “ratio test” để đánh<br /> giá sự khác biệt đáng kể về giá đối với tất cả các giao dịch đã<br /> qua phép thử Cohen’s d và làm cơ sở để DOC quyết định phương<br /> pháp so sánh được sử dụng để tính toán biên độ bán phá giá.<br /> Nếu giá trị của các giao dịch tới người mua, khu vực và trong<br /> thời gian khác nhau vượt qua phép thử Cohen’s d chiếm bằng<br /> hoặc lớn hơn 66% giá trị tổng các giao dịch, thì DOC có thể<br /> sử dụng phương pháp so sánh WA -T (một hình thức tái sử<br /> dụng zeroing). Nếu giá trị giao dịch tới người mua, khu vực<br /> và trong thời gian khác nhau vượt qua phép thử Cohen chiếm<br /> cao hơn 33% nhưng nhỏ hơn 66% giá trị tổng các giao dịch,<br /> 3 Phép thử Nails test (phép thử đinh ốc) là phương pháp sử dụng thống<br /> kê để xác định có tồn tại hay không một mẫu giá có sự khác biệt đáng kể<br /> giữa các nhà nhập khẩu (người mua), giữa các khu vực địa lý hoặc khoảng<br /> thời gian được DOC sử dụng lần đầu tiên trong vụ việc đinh ốc (Nails) của<br /> Trung Quốc năm 2008. Nội dung phép thử gồm 2 bước để xác định có tồn<br /> tại sự khác biệt đáng kể về giá hay không. Cụ thể về phương pháp, xem tại:<br /> Proposed methodology for Indentifying and Analyzing Target dumping in<br /> Antidumping Investigations: Request for Comment, 73 Fed. Reg. 26371,<br /> 26372, (May 9, 2008) - https://www.federalregister.gov/articles/2008/05/09/<br /> E8-10528/proposed-methodology-for-identifying-and-analyzing-targeteddumping-in-antidumping-investigations<br /> <br /> V C A<br /> <br /> thì DOC có thể áp dụng phương pháp WA- T cho các giao dịch<br /> vượt qua phép thử Cohen’s d và không áp dụng WA-T cho các<br /> giao dịch không vượt qua phép thử Cohen. Nếu 33% trở xuống<br /> giá trị tổng các giao dịch vượt qua phép thử Cohen’s d, thì kết<br /> quả của phép thử Cohen’s d cho thấy DOC không cần sử dụng<br /> phương pháp WA-T.<br /> Kết quả phép thử được minh họa trong bảng dưới đây:<br /> Tỷ lệ mẫu khác<br /> biệt giá<br /> Kết<br /> Phương pháp Áp dụng phương<br /> dựa theo kết<br /> quả<br /> so sánh<br /> pháp Zeroing?<br /> quả phép thử<br /> Cohen’s d<br /> Không áp dụng<br /> < 33%<br /> WA–WA<br /> 1<br /> Zeroing<br /> WA-T<br /> Áp dụng Zeroing<br /> (nếu có sự cho các mẫu khác<br /> khác biệt giá) biệt giá<br /> 2<br /> 33%-66%<br /> WA –WA<br /> Không áp dụng<br /> (nếu không có Zeroing cho các<br /> sự khác biệt mẫu không có sự<br /> giá)<br /> khác biệt giá<br /> Áp dụng zeroing<br /> cho toàn bộ các<br /> 3 > 66%<br /> WA- T<br /> mẫu (toàn bộ giao<br /> dịch của công ty)<br /> Bước 2: Nếu cả hai phép thử Cohen’s d và ratio cho thấy<br /> sự tồn tại của việc định giá phân biệt, DOC sẽ tiếp tục xác định<br /> liệu phương pháp WA-WA có hợp lý để giải quyết sự khác biệt<br /> này hay không. Theo đó, DOC sẽ tính toán liệu biên độ phá<br /> giá bình quân gia quyền từ phương pháp WA-T có tạo ra sự<br /> khác biệt “đáng kể” (meaningful difference) so với biên độ bán<br /> phá giá được xác định theo phương pháp WA-WA hay không.<br /> Nếu sự khác biệt là “đáng kể”, DOC sẽ sử dụng phương pháp<br /> WA-T. Sự khác biệt được coi là “đáng kể” nếu thỏa mãn một<br /> trong hai điều kiện:<br /> (1) có 25% thay đổi trong biên độ bán phá giá bình quân<br /> gia quyền giữa phương pháp WA-WA và phương pháp WA-T<br /> khi cả hai biên độ này đều lớn hơn mức không đáng kể, hoặc<br /> (2) biên độ bán phá giá xác định theo phương pháp này<br /> lớn hơn ngưỡng biên độ phá giá tối thiểu (2%).<br /> 2. Sự quay trở lại của phương pháp Zeroing?<br /> Kể từ khi áp dụng lần đầu tiên phương pháp định giá phân<br /> biệt trong vụ việc điều tra chống bán phá giá sản phẩm Xanthan<br /> Gum của Trung Quốc và Áo (năm 2013), tính đến hết tháng 6<br /> năm 2014, đã có tổng cộng 126 vụ việc điều tra/rà soát hành<br /> chính4 mà DOC sử dụng phương pháp định giá phân biệt để<br /> tính toán biên độ phá giá.<br /> Trong 126 vụ việc này có thể thấy DOC kết luận có sự<br /> khác biệt giá trong hầu hết các vụ việc và có trên 80% vụ việc<br /> (103 vụ việc) điều tra/rà soát xác định sự khác biệt giá “có ý<br /> nghĩa”. Tuy nhiên, trong tổng số 103 vụ việc này, có đến 65 vụ<br /> việc điều tra/rà soát hành chính mà DOC xác định có sự khác<br /> biệt giá và sự khác biệt giá này là “đáng kể” nhưng lại không<br /> áp dụng phương pháp zeroing, trong khi chỉ có 17 vụ áp dụng<br /> kết hợp zeroing và 21 vụ áp dụng hoàn toàn zeroing.<br /> <br /> 4 <br /> <br /> Xem danh sách gửi kèm<br /> <br /> C ẠNH TR ANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG | Số. 51 - 2015<br /> <br /> 5<br /> <br /> CHUYÊN MỤC<br /> <br /> CHUYÊN MỤC<br /> <br /> Phòng vệ thương mại<br /> <br /> (Nguồn: Tổng hợp và phân tích từ bảng phụ lục gửi<br /> kèm) <br /> Số liệu từ đồ thị cho thấy, trong tổng số 126 vụ việc sử<br /> dụng định giá phân biệt, đã có 21 vụ việc DOC hoàn toàn sử<br /> dụng phương pháp zeroing để tính toán biên độ bán phá giá<br /> và 17 vụ việc sử dụng kết hợp zeroing (cho các mẫu thỏa mãn<br /> Cohen’s d test) với phương pháp thông thường (cho các giao<br /> dịch không thỏa mãn Cohen’s d test), tương ứng tỷ lệ lần lượt<br /> là 17% và 13%. Như vậy có thể thấy rằng Hoa Kỳ đã chính<br /> thức quay lại với phương pháp zeroing đã từng gây tranh cãi<br /> và tốn không biết bao nhiêu giấy mực của giới học giả, luật<br /> sư trong lĩnh vực thương mại quốc tế với một “cơ sở” cũng<br /> đang gây tranh cãi về tính hợp lý và hợp luật của phương pháp<br /> định giá phân biệt.<br /> Chính vì vậy, sau hơn 1 năm áp dụng, ngày 9 tháng 5 năm<br /> 2014, DOC đã đăng công báo để thu thập ý kiến bình luận liên<br /> quan đến phương pháp định giá phân biệt làm cơ sở xác định<br /> xem liệu có hay không áp dụng phương pháp phân tích này<br /> khi tính toán biên độ phá giá trong các vụ việc điều tra/rà soát<br /> <br /> Phòng vệ thương mại<br /> <br /> chống bán phá giá. Tính tranh cãi của phép thử Cohen’s d sẽ<br /> được phân tích trong mục tiếp theo.<br /> 3. Phép thử COHEN’S D có thực sự phù hợp?<br /> Việc phân tích phương pháp định giá phân biệt phụ thuộc<br /> vào việc đo lường hệ số ảnh hưởng (effect size) của mức chênh<br /> lệch giữa giá trị trung bình của hai nhóm mẫu. Việc sử dụng<br /> phép thử Conhen’s d để tính hệ số đo ảnh hưởng ấy và nó phụ<br /> thuộc vào phạm vi hai nhóm mẫu. Phép thử này được nhà tâm lý<br /> học Jacob Cohen giới thiệu trong cuốn sách “Statistical Power<br /> Analysis for the Behavior Sciences (1969,1988), nêu rằng khi<br /> không có sự dao động trong 2 nhóm mẫu, Cohen’s d chính là<br /> tỷ lệ giữa mức chênh lệch giá trị trung bình 2 mẫu và độ lệch<br /> chuẩn5. Ví dụ như, độ lệch chuẩn của điểm số trong bài thi<br /> toán là 15, nếu một phương pháp dạy mới được cho là tốt hơn<br /> phương pháp dạy hiện tại, thì sau 1 năm sinh viên theo phương<br /> pháp mới sẽ đạt được điểm trung bình là 80, trong khi sinh viên<br /> được dạy theo phương pháp cũ có điểm số trung bình là 75. Do<br /> đó mức độ ảnh hưởng là tỷ lệ giữa mức chênh 2 điểm trung<br /> bình (85-75 =5) chia cho độ lệch chuẩn (15), do đó tỷ lệ là 1/3.<br /> Như vậy, kết quả của phép thử Cohen’s d là một ngưỡng<br /> cho phép đánh giá mức độ chênh lệch (khác biệt) giữa hai<br /> nhóm hoặc hai mẫu. Ngưỡng càng lớn thì thể hiện độ chênh<br /> lệch càng lớn và ngược lại.<br /> Công thức tính:<br /> <br /> Trong đó: <br /> <br /> M1 (mean of sample 1): Trung bình Mẫu 1<br /> <br /> 5 Trong thống kê, độ lệch chuẩn xác định mức độ ổn định của số liệu<br /> thống kê xoay quanh giá trị trung bình. Giá trị của độ lệch chuẩn càng thấp<br /> thì mức độ ổn định của số liệu càng lớn, dao động quanh giá trị trung bình<br /> càng nhỏ và ngược lại<br /> <br /> <br /> M2 (mean of sample 2): Trung bình Mẫu 2<br /> <br /> PSD (pooled standard deviation): Độ lệch<br /> chuẩn của mẫu 1 và mẫu 2<br /> Tuy nhiên, ngưỡng này có đánh giá được một cách tổng<br /> thể về sự khác biệt của hai nhóm hay không thì còn phụ thuộc<br /> vào nhiều yếu tố và cách thức nhìn nhận từ các góc độ khác<br /> nhau. Theo lập luận của DOC, khi ngưỡng khác biệt của phép<br /> thử Cohen’s d giữa hai nhóm giá của giao dịch xuất khẩu là<br /> lớn hơn hoặc bằng 0,8 thì DOC xác định là có sự khác biệt<br /> đáng kể giữa hai nhóm mẫu. Tuy nhiên liệu rằng giả thiết này<br /> có phù hợp không sau khi xem xét ví dụ về giá của các giao<br /> dịch xuất khẩu trong các trường hợp sau:<br /> <br /> Các giá trị thống<br /> kê<br /> Giá trị trung bình<br /> mẫu (M)<br /> Chênh lệch giá trị<br /> trung bình (A-B)<br /> Tỷ lệ khác biệt của<br /> Mức chênh lệch<br /> của M =(A-B)/B<br /> Độ lệch chuẩn<br /> chung (PSD)<br /> Kết quả hệ số<br /> Cohen’s d = (A-B)/<br /> PSD<br /> <br /> Trường hợp 1<br /> Mẫu đối<br /> Mẫu so sánh<br /> chứng<br /> A1<br /> B1<br /> 6,5<br /> <br /> 7<br /> <br /> Trường hợp 2<br /> Mẫu đối<br /> Mẫu so sánh<br /> chứng<br /> A2<br /> B2<br /> 16,5<br /> <br /> V C A<br /> <br /> Trường hợp 3<br /> Mẫu<br /> Mẫu<br /> cần so<br /> đối<br /> sánh<br /> chứng<br /> 116<br /> 117<br /> 116<br /> 117<br /> 117<br /> 117<br /> 117<br /> 117<br /> <br /> V C A<br /> <br /> 17<br /> <br /> Trường hợp 3<br /> Mẫu đối<br /> Mẫu so sánh<br /> chứng<br /> A3<br /> B3<br /> 116,5<br /> <br /> 0,5<br /> <br /> 0,5<br /> <br /> 7,1%<br /> <br /> 2,9%<br /> <br /> 0,4%<br /> <br /> 0,577<br /> <br /> 0,577<br /> <br /> 0,577<br /> <br /> -0,866<br /> <br /> -0,866<br /> <br /> 117<br /> <br /> 0,5<br /> <br /> -0,866<br /> <br /> 6 Xem bản ghi nhớ gửi kèm Kết luận rà soát hành chính lần thứ 8<br /> (POR8) ngày 07/10/2014 – Decision memorandum - http://enforcement.trade.<br /> gov/frn/summary/vietnam/2014-23962-1.pdf , trang 24-27<br /> <br /> C ẠNH TR ANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG | Số. 51 - 2015<br /> <br /> Trường hợp 2<br /> Mẫu<br /> Mẫu<br /> cần so<br /> đối<br /> sánh<br /> chứng<br /> 16<br /> 17<br /> 16<br /> 17<br /> 17<br /> 17<br /> 17<br /> 17<br /> <br /> Giả sử rằng Độ lệch chuẩn chung (Pooled standard deviation) cho cả 3 trường hợp là 0,577,<br /> khi đó kết quả phân tích Cohen’s d như sau:<br /> <br /> Cả 3 Nhóm đều cho kết quả chung là hệ số Cohen’s d đều<br /> là 0,866 và thỏa mãn ngưỡng do DOC quy định là 0,8 (tức là có<br /> sự khác biệt đáng kể giữa hai mẫu), tuy nhiên từ số liệu phân<br /> tích nêu trên cho thấy trong các trường hợp khác nhau thì tỷ<br /> lệ khác biệt của mức chênh khác nhau. Chẳng hạn như trường<br /> hợp 3 thì tỷ lệ khác biệt là 0,4% thấp hơn nhiều so với trường<br /> hợp 1 (7,1%) nhưng cũng có thể bị Hoa Kỳ kết luận là có sự<br /> khác biệt đáng kể và áp dụng zeroing như mục 1 đã phân tích.<br /> Chính vì thế, phương pháp này phải chăng cho thấy kẽ hở và<br /> sự thiếu chính xác của phép thử Cohen’s d khi đánh giá về sự<br /> khác biệt đáng kể giữa các mẫu trên thực tế. Phép thử Cohen’s<br /> d chỉ tập trung vào sự khác biệt giữa mẫu cần so sánh và mẫu<br /> đối chứng mà không chỉ ra được sự khác biệt về mặt tuyệt đối<br /> trên khía cạnh giá trị.<br /> Trên thực tế, việc áp dụng phương pháp này đã gặp nhiều<br /> sự phản đối từ các doanh nghiệp bị đơn6. Trong vụ việc Rà<br /> soát hành chính Tôm lần thứ 8 (POR8) của Việt Nam, một số<br /> các doanh nghiệp xuất khẩu lớn của Việt Nam như Minh Phú,<br /> Stapimex, Quốc Việt cũng đã có những ý kiến bình luận và<br /> phản đối mạnh mẽ với phương pháp này của Hoa Kỳ. Theo các<br /> doanh nghiệp này, phương pháp định giá phân biệt mà Hoa Kỳ<br /> <br /> 6<br /> <br /> Trường hợp 1<br /> Mẫu<br /> Mẫu<br /> cần so<br /> đối<br /> sánh<br /> chứng<br /> 6<br /> 7<br /> 6<br /> 7<br /> 7<br /> 7<br /> 7<br /> 7<br /> <br /> sử dụng trong các giai đoạn rà soát hành chính là không có cơ<br /> sở pháp lý đồng thời cũng vi phạm với quy định trong pháp<br /> luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ. Phương pháp này cũng dẫn<br /> đến sự thiếu minh bạch và khả năng dự đoán được biên độ phá<br /> giá của doanh nghiệp khi nó cho phép tăng thẩm quyền xem<br /> xét, tìm kiếm và lựa chọn mẫu so sánh của DOC.<br /> Đây là một vấn đề lớn mà DOC cần xem xét kỹ lưỡng trước<br /> khi đưa ra quyết định cuối cùng về việc áp dụng định giá phân<br /> biệt như một thông lệ chính thức được quy định trong pháp luật<br /> chống bán phá giá Hoa Kỳ thay thế cho các phương pháp hiện<br /> hành của DOC liên quan đến việc tính toán biên độ phá giá.<br /> Với việc Hoa Kỳ đã, đang và sẽ tiếp tục áp dụng phương<br /> pháp này trong các vụ việc điều tra, rà soát chống bán phá giá<br /> sẽ tiếp tục tạo ra những cuộc chiến về mặt pháp lý kéo dài,<br /> tốn kém, không chỉ trên lãnh thổ Hoa Kỳ (tòa thương mại<br /> quốc tế Hoa Kỳ - ITC, tòa phúc thẩm lưu động liên bang Hoa<br /> Kỳ - CAFC) mà còn cả trên cả cơ chế giải quyết tranh chấp<br /> WTO, giống như những gì đã từng diễn ra với phương pháp<br /> ZEROING mà Hoa Ky đã áp dụng trong suốt hơn 1 thập kỷ<br /> qua, kể từ năm 2002 cho đến 2013.<br /> THÁI NINH<br /> (Phòng Điều tra vụ kiện phòng vệ thương mại của doanh<br /> nghiệp trong nước)<br /> <br /> C ẠNH TR ANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG | Số. 51 - 2015<br /> <br /> 7<br /> <br /> CHUYÊN MỤC<br /> <br /> CHUYÊN MỤC<br /> <br /> Phòng vệ thương mại<br /> <br /> Phòng vệ thương mại<br /> <br /> INDONESIA TĂNG CƯỜNG ÁP THUẾ CHỐNG BÁN<br /> PHÁ GIÁ ĐỂ CỦNG CỐ SỨC MẠNH CỦA ĐỒNG<br /> RUPIAH<br /> <br /> B<br /> <br /> H<br /> <br /> iện nay, xu hướng điều tra và áp<br /> dụng các biện pháp Phòng vệ<br /> thương mại (PVTM) trong các<br /> thành viên ASEAN đang gia tăng bởi<br /> các cam kết cắt giảm thuế theo Hiệp định<br /> ATIGA, trong đó đứng đầu là Indonesia<br /> với 136 vụ khởi xướng và áp dụng 68 biên<br /> pháp, trong đó có 23 biện pháp áp dụng đối<br /> với các thành viên ASEAN; Malaysia với<br /> 70 vụ khởi xướng, áp dụng 38 biện pháp<br /> trong đó 15 biện pháp áp dụng với thành<br /> viên ASEAN, Thái Lan đứng thứ 3 với 65<br /> vụ khởi xướng, áp dụng 49 biện pháp.<br /> Hình 1: Thống kê số lượng các vụ việc phòng vệ thương<br /> mại do Indonesia khởi xướng<br /> <br /> Nguồn: wto.org <br /> Thực tiễn trên cho thấy rằng các nước như Indonesia,<br /> Malaysia và một số quốc gia khác rất ưa chuộng sử dụng<br /> biện pháp này nhằm bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất trong<br /> nước. Xu hướng này càng được củng cố khi Bộ trưởng Bộ Tài<br /> chính Indonesia ngày 10 tháng 3 năm 2015 đã tuyên bộ rằng:<br /> “Indonesia sẽ tăng cường đánh thuế bằng việc đưa ra một loạt<br /> các quy định trong đó có quy định thuế chống bán phá (CBPG)<br /> tạm thời nhằm giúp thu hẹp thâm hụt cán cân thương mại và<br /> hỗ trợ sự suy yếu của đồng Rupiah so với đồng tiền các nền<br /> kinh tế lớn trong khu vực Đông Nam Á”.<br /> Đồng Rupiah đã trượt xuống mức thấp nhất kể từ thời điểm<br /> diễn ra cuộc khủng khoảng tài chính năm 1997 – 1998. Cùng<br /> với đồng Ringit của Malaysia, đồng Rupiah đã xuống mức thấp<br /> nhất so với các nền kinh tế lớn khu vực châu Á trong năm nay,<br /> với mức giảm 5,2% so với đồng Đô la Mỹ. Bộ trưởng Bộ Tài<br /> chính Indonesia cho biết “mặc dù các chỉ số kinh tế hiện nay<br /> là tương đối ổn định, tuy nhiên chính phủ luôn luôn theo dõi<br /> sự biến động của đồng Rupiah để từ đó có những chính sách<br /> tăng cường sức mạnh của đồng Rupiah, thêm vào đó các quy<br /> định cũng nhằm khắc phục vấn đề thâm hụt cán cân thương<br /> mại hiện nay của Indonesia”.<br /> Tháng 3 vừa qua, tổng thống Indonesia, Joko Widodo đã<br /> thông qua Bản đề xuất của Bộ Tài chính và một số bộ ngành liên<br /> quan về các chính sách miễn giảm thuế và phi thuế nhằm giúp<br /> Indonesia giảm được ảnh hưởng của sự sụt giảm đồng Rupiah<br /> <br /> 8<br /> <br /> so với Đồng Đô la Mỹ. Một số đề xuất nổi bật gồm có Trợ cấp<br /> thuế (tax allowance) và áp dụng thuế Chống bán phá giá tạm<br /> thời. Về vấn đề trợ cấp thuế, Chính phủ Indonesia có kế hoạch<br /> miễn giảm thuế cho nhiều công ty, trong đó có những công ty<br /> xuất khẩu hơn 30% lượng sản xuất của mình và những công<br /> ty tái đầu tư tại Indonesia thay vì chuyển vốn về nước.<br /> Liên quan đến vấn đề áp dụng thuế tạm thời chống bán phá<br /> giá, Indonesia đang nghiên cứu và thay đổi quy định liên quan<br /> đến việc áp dụng thuế CBPG tạm thời theo đó Bộ Tài chính<br /> có quyền ra quyết định áp thuế tạm thời đối với các hàng hóa<br /> nhập khẩu dựa trên nghi ngờ có hành vi bán phá giá. Theo quy<br /> định hiện nay của Indonesia, Bộ Tài chính ra quyết định áp<br /> thuế tạm thời chỉ sau khi dựa trên Báo cáo đầy đủ của Cơ quan<br /> điều tra CBPG của Indonesia (KADI). Tuy nhiên, Indonesia<br /> đang tìm kiếm đến khả năng áp thuế tạm thời ngay khi có dấu<br /> hiệu bán phá giá chứ không chờ cơ quan điều tra kết thúc quá<br /> trình điều tra của mình.<br /> Bộ Thương mại Indonesia hiện nay đang điều tra về việc<br /> có dấu hiệu bán phá giá sản phẩm thép không gỉ cán nguội<br /> nhập khẩu từ Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan và<br /> Singapore. Bộ Thương mại cũng đang điều tra việc bán phá giá<br /> sản phẩm nhựa polyethynene từ Trung Quốc, Ấn Độ và Thái<br /> Lan. Có thể thấy, đề xuất thay đổi này của Bộ Tài chính nhằm<br /> giải quyết sức ép của sự gia tăng hàng hóa nhập khẩu và thâm<br /> hụt cán cân thương mại của Indonesia trong thời gian qua. Với<br /> thuế CBPG được áp dụng sẽ khiến cho giá nhập khẩu hàng<br /> hóa tăng dẫn đến giảm cầu về hàng nhập khẩu bán phá giá, từ<br /> đó dẫn đến giảm cầu về đồng Rupiah so với USD khi các nhà<br /> nhập khẩu giảm nhập khẩu hàng hóa bị điều tra.<br /> (Tổng hợp từ: http://www.thejakartapost.com/<br /> news/2015/03/14/jokowi-oks-moves-prop-rupiah.html)<br /> TRƯỜNG HƯNG<br /> (Phòng Điều tra vụ kiện phòng vệ thương mại của doanh<br /> nghiệp trong nước)<br /> <br /> C ẠNH TR ANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG | Số. 51 - 2015<br /> <br /> V C A<br /> <br /> LẨN TRÁNH THUẾ CBPG<br /> - NGUY CƠ ĐE ĐỌA HIỆU QUẢ<br /> CỦA CÁC BIỆN PHÁP CBPG HIỆN NAY<br /> <br /> iện pháp Chống bán phá giá<br /> (CBPG) đang được coi là một<br /> phần quan trọng trong hệ thống<br /> luật thương mại quốc tế và thu hút sự<br /> quan tâm trong cộng đồng doanh nghiệp<br /> trong những năm gần đây. Hiệp định<br /> chung về Thương mại và Thuế quan 1994<br /> (GATT 1994) đã cung cấp các quy định<br /> chung về xác định hành vi bán phá giá tại<br /> Điều VI và diễn giải chi tiết trong Hiệp<br /> định Chống bán phá giá (ADA) của Tổ<br /> chức Thương mại Thế giới WTO. Tuy<br /> nhiên, công cụ này chưa thể giải quyết<br /> triệt để các vấn đề về phá giá, đặc biệt là<br /> các hành vi lẩn tránh biện pháp CBPG.<br /> 1. Các hành vi lẩn tránh thuế<br /> CBPG hiện nay<br /> Lẩn tránh thuế chống bán phá giá<br /> (Anti-circumvention) là hành vi lẩn<br /> tránh nguồn gốc hàng hóa đang bị nước<br /> nhập khẩu áp dụng thuế chống phá giá<br /> nhằm gây trở ngại trong việc truy thu<br /> thuế CBPG đối với cơ quan hải quan<br /> của nước nhập khẩu. Hành vi lẩn tránh<br /> thuế có thể thông qua việc thay đổi hàng<br /> hóa thuộc đối tượng áp dụng thuế CBPG<br /> hoặc chuyển toàn bộ hay một phần quá<br /> trình sản xuất/gia công của sản phẩm đó<br /> từ nước đang bị áp thuế CBPG.<br /> 4 trường hợp sau đây được xem là<br /> các hình thức lẩn tránh thuế CBPG:<br /> Các nhà xuất khẩu (đang bị áp thuế<br /> CBPG) chuyển/xuất khẩu từng linh phụ<br /> kiện rời của hàng hóa thuộc đối tượng<br /> áp thuế sang nước thứ ba và tiến hành<br /> gia công tại đây, sau đó xuất khẩu vào<br /> nước nhập khẩu đang áp thuế. Ví dụ,<br /> nước nhập khẩu A đang áp thuế CBPG<br /> đối với mặt hàng X có xuất xứ từ nước<br /> B, các nhà sản xuất xuất khẩu nước B đã<br /> chuyển/xuất khẩu linh phụ kiện rời của<br /> mặt hàng X sang nước C và tiến hành<br /> gia công tại đây, sau đó xuất khẩu vào<br /> nước A. Trong trường hợp này, nước<br /> nhập khẩu A không thể áp thuế CBPG<br /> với mặt hàng này do hàng hóa được sản<br /> xuất tại nước thứ ba, không thuộc nhóm<br /> các quốc gia/vùng lãnh thổ bị áp thuế<br /> của vụ việc điều tra;<br /> Các nhà xuất khẩu đang bị áp thuế<br /> CBPG chuyển/xuất khẩu linh phụ kiện<br /> rời của hàng hóa thuộc đối tượng áp thuế<br /> sang chính nước nhập khẩu và tiếp tục<br /> <br /> V C A<br /> <br /> tiến hành gia công tại đây. Ví dụ, nước<br /> nhập khẩu A đang áp thuế CBPG đối với<br /> mặt hàng X có xuất xứ từ nước B, các nhà<br /> sản xuất xuất khẩu nước B đã chuyển/<br /> xuất khẩu linh phụ kiện rời của mặt hàng<br /> X sang nước nhập khẩu A và tiến hành<br /> gia công tại đây, sau đó bán cho người<br /> tiêu dùng trong nước A. Trong trường<br /> hợp này, A không thể áp dụng thuế CBPG<br /> đối với linh phụ kiện lắp ráp hàng hóa<br /> X vì linh phụ kiện không thể được xem<br /> là sản phẩm tương tự (like products) với<br /> sản phẩm bị áp thuế có các đặc điểm, tính<br /> chất vật lý khác nhau;<br /> Các nhà xuất khẩu đang bị áp thuế<br /> CBPG chuyển một phần hoặc toàn bộ quá<br /> trình sản xuất hàng hóa phá giá từ nước<br /> bán phá giá sang nước nhập khẩu hoặc<br /> nước thứ ba để bán tại thị trường nội địa<br /> hoặc xuất khẩu sang Việt Nam. Khác với<br /> 2 trường hợp trên, trường hợp này phức<br /> tạp hơn do các nhà sản xuất xuất khẩu<br /> lẩn tránh thuế thông qua di chuyển dây<br /> chuyền sản xuất nhằm thay đổi nguồn<br /> gốc xuất khẩu của hàng hóa bán phá giá,<br /> do đó nước nhập khẩu không thể áp thuế<br /> CBPG đối với nước thứ ba hoặc sản phẩm<br /> được sản xuất tại thị trường nội địa. Ví dụ<br /> như trong vụ việc Hoa Kỳ áp dụng thuế<br /> CBPG đối với một số sản phẩm ống nối<br /> hàn thép các-bon (Carbon steel butt-weld<br /> pipe fittings) xuất khẩu từ Trung Quốc1,<br /> Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã kết<br /> luận rằng các ống nối nhập khẩu vào Hoa<br /> Kỳ được hoàn thiện tại Thái Lan từ các<br /> ống nối chưa hoàn thiện của Trung Quốc<br /> đã tạo thành hành vi lẩn tránh Lệnh áp<br /> thuế CBPG nêu trên.<br /> Các nhà xuất khẩu đang bị áp thuế<br /> CBPG đã thay đổi một vài đặc tính không<br /> đáng kể của hàng hóa bán phá giá (minor<br /> alteration circumvention), nhằm tạo ra<br /> một mặt hàng mới nhưng thực chất là biến<br /> thể của hàng hóa thuộc đối tượng điều<br /> tra nhằm lẩn tránh thuế CBPG. Chẳng<br /> hạn như trong vụ việc Hoa Kỳ áp thuế<br /> CBPG đối với một số mặt hàng mỳ pasta<br /> từ Ý2, DOC phát hiện ra rằng việc nhập<br /> <br /> khẩu mỳ Ý đóng gói lớn hơn loại đang bị<br /> áp thuế CBPG là một hành vi lẩn tránh<br /> thuế đang có hiệu lực.<br /> Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng<br /> các hành vi lẩn tránh thuế CBPG nêu<br /> trên đã là giảm hoặc triệt tiêu hiệu quả<br /> của việc áp dụng biện pháp CBPG nhằm<br /> bảo vệ ngành sản xuất trong nước nhập<br /> khẩu. Do đó, các nước điều tra và áp<br /> dụng biện pháp CBPG thông thường sẽ<br /> khuyến khích việc áp dụng thuế và ngăn<br /> chặn các hành vi lẩn tránh thuế có thể xảy<br /> ra như phân tích trên. Tuy nhiên, thực tế<br /> cho thấy các thành viên WTO đã không<br /> thống nhất được việc đưa quy định về<br /> hành vi lẩn tránh thuế trong đàm phán<br /> Hiệp định ADA. Trước đây, các điều<br /> khoản về lẩn tránh thuế CBPG dự kiến<br /> được đưa vào bản dự thảo cuối cùng của<br /> ADA, quy định rằng trong một số trường<br /> hợp đặc biệt, thuế CBPG có thể được mở<br /> rộng đối với hành vi lẩn tránh thuế thông<br /> qua lắp ráp hoặc hoàn thiện sản phẩm<br /> tương tự tại nước nhập khẩu3. Hoa Kỳ là<br /> thành viên tích cực ủng hộ việc quy định<br /> chặt chẽ hành vi này, tuy nhiên đại đa số<br /> các thành viên khác không chấp nhận dự<br /> thảo vấn đề này do không có nhưng lợi<br /> ích chính trị mạnh mẽ từ điều khoản này<br /> tại các vòng đàm phán trước kia. Do đó,<br /> quy định về hành vi lẩn tránh thuế đã bị<br /> loại ra khỏi ADA.<br /> Tuy không đạt được đồng thuận<br /> trong quy định chung về lẩn tránh thuế,<br /> nhiều thành viên WTO đã đưa vào nội<br /> luật CBPG của mình để giải quyết hành<br /> vi này như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu<br /> (EU), Úc, Canada, Mê-hi-cô, Nhật Bản.<br /> Phần tiếp theo sẽ đưa ra một số nghiên<br /> cứu về quy định của EU và Hoa Kỳ để<br /> làm rõ hơn vấn đề này.<br /> 2. Thực tiễn quốc tế về vấn đề<br /> chống lẩn tránh thuế CBPG<br /> 2.1. Quy định chống lẩn tránh<br /> CBPG của Liên minh Châu Âu (EU)<br /> Chống lẩn tránh thuế được quy<br /> định tại Điều 13 Quy định Hội đồng số<br /> 1225/2009 ngày 30 tháng 11 năm 2009<br /> <br /> 1 Certain Carbon Steel Butt-Weld Pipe<br /> Fittings From the People’s Republic of China, 59<br /> Fed. Reg. 62-01 (Dep’t Commerce Jan. 3, 1994)<br /> (affirmative preliminary determination)<br /> 2 Certain Pasta From Italy, 63 Fed. Reg.<br /> 54672-01 (Dep’t Commerce Oct. 13, 1998)<br /> <br /> (affirmative final determination).<br /> 3 Điều 12.1, GATT Secretariat, Draft Final<br /> Act Embodying the Results of the Uruguay Round<br /> of Multilateral Trade Negotiations, MTN.TNC/W/<br /> FA/F-21 (ngày 20 tháng 12 năm 1991) (còn gọi là<br /> Dự thảo Dunkel)<br /> <br /> C ẠNH TR ANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG | Số. 51 - 2015<br /> <br /> 9<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0