intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bàn về một số phạm trù của công nghệ giáo dục ở Việt Nam và trên thế giới

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

70
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Công nghệ giáo dục là khoa học xác lập các nguyên tắc hợp lý của phương pháp dạy học và những điều kiện thuận lợi nhất để tiến hành quá trình giáo dục, cũng như các phương pháp, phương tiện có hiệu quả nhất để đạt được mục đích đào tạo với sự tiết kiệm sức lực của giáo viên và học sinh”. Đồng thời đó còn là “tập hợp gắn bó chặt chẽ các phương pháp, phương tiện kỹ thuật, học tập và đánh giá được nhận thức và sử dụng tuỳ theo mục đích đang theo đuổi, có liên hệ với vận dụng dạy học và lợi ích của người học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bàn về một số phạm trù của công nghệ giáo dục ở Việt Nam và trên thế giới

BÀN VỀ MỘT SỐ PHẠM TRÙ CỦA CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC<br /> Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI<br /> PHẠM QUANG TIẾN*<br /> <br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Trên thế giới, tư tưởng Công nghệ giáo<br /> dục (CNGD) ra đời vào những thập kỉ đầu<br /> của thế kỉ 20 ở một số nước Tây Âu, Mỹ và<br /> Nga. Dạy học theo hướng Công nghệ giáo<br /> dục, lấy học sinh làm trung tâm là một tư<br /> tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp<br /> cận quá trình dạy học chi phối toàn bộ quá<br /> trình dạy học cả về mục tiêu, nội dung,<br /> phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh<br /> giá. Lịch sử phát triển giáo dục cho thấy,<br /> trong nhà trường một thầy dạy cho một lớp<br /> đông học trò, cùng lứa tuổi và trình độ<br /> tương đối đồng đều thì giáo viên khó có điều<br /> kiện chăm lo cho từng học sinh nên đã hình<br /> thành kiểu dạy "Thầy nói - Trò ghi". Giáo<br /> viên có nhiệm vụ truyền đạt cho hết nội<br /> dung quy định trong sách giáo khoa, cố gắng<br /> làm cho mọi học sinh hiểu và nhớ những<br /> điều giáo viên giảng. Cách dạy này khởi<br /> nguồn cho cách học tập thụ động, thiên về<br /> ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ, nên đã hạn chế<br /> chất lượng và hiệu quả dạy và học. Để khắc<br /> phục tình trạng này, các nhà sư phạm kêu<br /> gọi phải phát huy tính tích cực chủ động của<br /> học sinh, quan tâm đến nhu cầu, khả năng<br /> của mỗi cá nhân học sinh trong tập thể lớp.<br /> Không thể xem nhẹ hoạt động dạy của giáo<br /> viên, nhưng kết quả học tập có được chính<br /> là do hoạt động học của học sinh, yếu tố<br /> bên trong quyết định. Dạy học theo hướng<br /> Công nghệ giáo dục ra đời trong hoàn cảnh đó.<br /> *<br /> <br /> Cơ quan văn hoá và khoa học giáo dục<br /> của Liên hợp quốc (UNESCO) đã đưa ra<br /> định nghĩa về Công nghệ giáo dục như sau:<br /> “Công nghệ giáo dục là khoa học xác lập<br /> *<br /> <br /> TS. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam<br /> <br /> các nguyên tắc hợp lý của phương pháp dạy<br /> học và những điều kiện thuận lợi nhất để<br /> tiến hành quá trình giáo dục, cũng như các<br /> phương pháp, phương tiện có hiệu quả nhất<br /> để đạt được mục đích đào tạo với sự tiết<br /> kiệm sức lực của giáo viên và học sinh”.<br /> Đồng thời đó còn là “tập hợp gắn bó chặt<br /> chẽ các phương pháp, phương tiện kỹ thuật,<br /> học tập và đánh giá được nhận thức và sử<br /> dụng tuỳ theo mục đích đang theo đuổi, có<br /> liên hệ với vận dụng dạy học và lợi ích của<br /> người học”. Công nghệ giáo dục về đến<br /> Việt Nam năm 1978, và chính thức ra đời<br /> năm 1992 cùng với việc thành lập Trung<br /> tâm Công nghệ giáo dục - thuộc Bộ Giáo<br /> dục và Đào tạo, do GS.TSKH Hồ Ngọc Đại<br /> làm giám đốc. Ở Việt Nam, từ khi ra đời cho<br /> đến nay, Công nghệ giáo dục được nhiều<br /> người ủng hộ, song cũng không ít ý kiến<br /> phản đối, nghi ngờ về sự tồn tại “có” hay<br /> “không” một Công nghệ giáo dục trong thực<br /> tế nhà trường? Câu trả lời còn đang để ngỏ,<br /> chờ đợi các nhà khoa học của tương lai.<br /> 2. Phạm trù trẻ em<br /> 2.1. Trẻ em là gì<br /> Xưa nay người ta hiểu học chỉ là việc<br /> học, hoặc học là cắp sách đến trường. Nếu<br /> chấp nhận “chân lý” đó, thì chẳng phải làm<br /> gì thêm, cũng chẳng cần đổi mới gì hết. Để<br /> đổi mới cái nếp giáo dục vẫn tiến hành như<br /> một thói quen, thì điều trước tiên phải hiểu :<br /> Trẻ em là gì?<br /> “Trẻ em là giai đoạn phát triển của đời<br /> người từ lúc sơ sinh cho đến tuổi trưởng<br /> thành. Có đặc điểm nổi bật là sự tăng trưởng<br /> và phát triển liên tục về thể chất và tâm thần.<br /> Quá trình phát triển của trẻ em trải qua các<br /> <br /> 32<br /> <br /> thời kì: sơ sinh, bú mẹ, trước khi đi học, đi<br /> học và tuổi dậy thì. Ở mỗi thời kì, có những<br /> đặc điểm sinh học khác nhau nên việc nuôi<br /> dưỡng, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ cũng<br /> khác nhau, phù hợp với những đặc điểm của<br /> mỗi thời kì”(Từ điển Bách khoa toàn thư<br /> Việt Nam).<br /> Một trong những khuynh hướng của giáo<br /> dục học Âu – Mỹ cho rằng, trẻ em là Mặt<br /> trời mà tất cả mọi biện pháp giáo dục và<br /> phương pháp dạy học (nhất là trong các<br /> trường tiểu học) nhất thiết phải do hứng thú<br /> và nhu cầu trực tiếp, tự sinh của trẻ quyết<br /> định, chứ không xuất phát từ điều kiện xã hội<br /> kinh tế cũng như nhu cầu của xã hội. Thuyết<br /> trẻ em là trung tâm đã phê phán lối truyền thụ<br /> tri thức "từ bên ngoài" và thay vào đó bằng<br /> việc tổ chức quá trình học sao cho "nhân<br /> cách của trẻ có khả năng tự thể hiện tối đa".<br /> Họ phủ nhận vai trò quyết định của thầy giáo<br /> trong việc dạy học và giáo dục trẻ. Họ gạt bỏ<br /> việc dạy học có hệ thống và thay vào đó bằng<br /> những trò chơi, những cuộc mạn đàm. Đúng<br /> là công việc dạy học và giáo dục phải xuất<br /> phát từ chính trẻ, phải làm sao cho nhân cách<br /> của trẻ được thể hiện tối đa, nhưng không thể<br /> tách rời điều kiện kinh tế - xã hội, không thể<br /> đứng ngoài yêu cầu của chính trị.<br /> 2.2. Charles Darwin(1809 - 1882) là người<br /> đầu tiên nghiên cứu và đo nghiệm trẻ em.<br /> Năm 1840, Ông ghi chép hàng ngày các<br /> thay đổi tâm lý của cậu con trai William.<br /> Charles Darwin ghi chép các phản xạ lần<br /> đầu xuất hiện ở con trai. Chẳng hạn, ngày<br /> tuổi thứ 9 cậu nhìn chằm chằm vào ngọn<br /> nến, ngày tuổi thứ 49 thì cậu chú ý vào cái<br /> tua sặc sỡ, vào ngày thứ 132 thì cậu tìm cách<br /> với tay đến đồ vật. 37 năm sau Charles<br /> Darwin mới chịu công bố những ghi chép đó<br /> trên tạp chí Mind (Nga).<br /> 2.3. Jean Piaget (1896 - 1980) nhà tâm lý<br /> học, giáo dục học, triết học và lôgic học<br /> Thuỵ Sĩ, một trong những người sáng lập ra<br /> môn tâm lí học phát triển, người đề xuất<br /> quan điểm thao tác về trí khôn và trí học<br /> <br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012<br /> <br /> phát sinh, chuyên nghiên cứu về tâm lí học<br /> tư duy và tâm lí học trẻ em, tiếp tục cách ghi<br /> chép đó tiến hành thông qua những đứa con<br /> của mình là Lucienne, Jacqueline và Laurent<br /> cùng những học sinh trường mầm non thuộc<br /> Viện Jean - Jacques Rousseau ở Thụy Sĩ.<br /> Tác phẩm chính: "Tiếng nói và tư duy trẻ<br /> em" (1923). J.Piaget chia các<br /> Giai đoạn phát triển trí tuệ của trẻ em như<br /> sau:<br /> + Giai đoạn 1: cảm giác vận động (0-2<br /> tuổi). Giai đoạn này trẻ chỉ nhận thức được<br /> những cảm giác vận động, trẻ thường không<br /> có biểu tượng hoặc có ở mức tối thiểu. Trẻ<br /> trong giai đoạn này có tính ích kỷ, nghĩa là<br /> trẻ lấy mình làm trung tâm để nhận thức mọi<br /> việc.<br /> + Giai đoạn 2: tiền thao tác (2-7 tuổi).<br /> Trẻ có ít biểu tượng và biết phân loại sự vật<br /> dựa trên sự giống nhau của chúng, trẻ giải<br /> quyết mọi việc dựa vào cảm tính hơn là lý<br /> trí.<br /> + Giai đoạn 3: thao tác cụ thể (7-11 tuổi).<br /> Trẻ hiểu đươc một số khái niêm phức tạp<br /> nhưng trẻ chỉ có thể vận dụng chúng vào<br /> những vấn đề cụ thể mà có thể giải quyết<br /> trực tiếp.Trẻ chưa có nhận thức về sự bảo<br /> toàn và bài toán ngược.<br /> + Giai đoạn 4: thao tác hình thức (từ 11<br /> tuổi trở đi). Trẻ có thể giải được bài toán<br /> bảo toàn và bài toán ngược, có thể vận dụng<br /> những khái niệm phức tạp vào trong những<br /> vấn đề trừu tượng cũng như cụ thể. Ví dụ:<br /> A=B, B=C rút ra A=C<br /> 2.4. Vưgôtxki L.X. (1896 - 1934) thường<br /> được đem so sánh với Jean Piaget, đặc biệt<br /> là về lí thuyết phát triển nhận thức của trẻ.<br /> Trái ngược với quan niệm vùng phát triển<br /> gần của LX.Vưgôtxki, J.Piaget cho rằng,<br /> nguồn gốc quan trọng nhất của sự nhận thức<br /> là ở chính đứa trẻ. Tuy nhiên, LX.Vưgôtxki<br /> lại cho rằng, môi trường xã hội có thể giúp<br /> phát triển nhận thức của trẻ. Môi trường xã<br /> hội là một yếu tố quan trọng giúp cho đứa<br /> trẻ thích ứng về mặt văn hóa với tình trạng<br /> <br /> Bàn về một số phạm trù...<br /> <br /> mới khi cần. Cả LX.Vưgôtxki và J.Piaget<br /> đều có chung một mục tiêu là tìm ra sự phát<br /> triển trí tuệ ở trẻ. Lý thuyết của J.Piaget<br /> nhấn mạnh đến con đường tự nhiên của<br /> nhận thức, trong khi đó, lý thuyết của<br /> LX.Vưgôtxki quan tâm đến sự phát triển<br /> theo con đường văn hoá.<br /> 2.5. Claparet (É. Claparède) là nhà tâm lí<br /> học, giáo dục học người Pháp nổi tiếng,<br /> sống tại Thụy Sĩ, tiến sĩ y khoa (1897), tiến<br /> sĩ danh dự của nhiều viện đại học, hội viên<br /> danh dự của nhiều hội khoa học ở châu Âu<br /> và châu Mỹ đã viết: "Khoa sư phạm phải<br /> dựa vào sự hiểu biết đứa trẻ" và khẳng định<br /> kết luận của Rút xô (J. J. Rousseau) "Người<br /> ta không biết gì hết về tuổi trẻ" và "các bạn<br /> nên bắt đầu nghiên cứu kĩ hơn về những học<br /> sinh của các bạn, vì chắc chắn các bạn<br /> không biết gì về chúng".<br /> 2.6. J.Locke (1632 – 1704), xem trẻ em bị<br /> ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh<br /> giống như khi sinh ra chỉ là tờ giấy trắng mà<br /> sự trải nghiệm cuộc sống tự do viết lên đó.<br /> J.Locke đã nhấn mạnh vai trò và quyền năng<br /> của giáo dục “trí tuệ của đứa trẻ cũng dễ<br /> dàng thay đổi giống như nước vậy”. Ông<br /> nhấn mạnh tới mục tiêu rộng lớn của giáo<br /> dục chính là để có những con người phù hợp<br /> với cuộc sống, với thế giới chứ không phải<br /> là để vào đại học. Mục tiêu giáo dục quan<br /> trọng chính là đào tạo tính cách.<br /> 2.7. Quan điểm của J.J. Rousseau (17121778) về trẻ em được thể hiện qua cuốn tiểu<br /> thuyết Emile hay bàn về giáo dục (5/1762).<br /> Trong đó Emile trải qua giai đoạn giáo dục<br /> đầu tiên đến năm 12 tuổi; giáo dục về bản<br /> chất là hoàn toàn tự nhiên. Giai đoạn hai từ<br /> 12 đến 15 tuổi: lí tính bắt đầu phát triển, và<br /> giai đoạn cuối cùng từ 15 tuổi trở đi: đứa trẻ<br /> tiếp tục phát triển thành người lớn. Trong<br /> tiểu thuyết này, J.J.Rousseau đã đưa ra một<br /> quan niệm mới về giáo dục: hãy để cho trẻ<br /> được phát triển theo quy luật tự nhiên, bố<br /> mẹ không nên cưỡng chế con cái theo ý<br /> mình. Quan điểm giáo dục này của ông tuy<br /> <br /> 33<br /> <br /> có đôi chỗ thái quá, nhưng nhìn chung, hoàn<br /> toàn trái ngược với nền giáo dục gò bó của<br /> chế độ phong kiến và Giáo hội đương thời.<br /> Cái bao trùm toàn bộ quan điểm giáo dục<br /> này là nêu cao tinh thần dân chủ và tự do,<br /> hướng sự nghiệp giáo dục vào việc đào tạo<br /> ra những công dân kiểu mới trong một xã<br /> hội mới. J.J. Rousseau không xem trọng sự<br /> cần thiết của giáo dục qua sách vở, cũng như<br /> việc ông nhấn mạnh sự cần thiết phải giáo<br /> dục cảm xúc cho trẻ em trước khi giáo dục lí<br /> tính đã là tiền đề cho lý thuyết giáo dục hiện<br /> đại đặt trẻ em làm trung tâm. J.J. Rousseau<br /> cho rằng cần xây dựng một nền giáo dục<br /> mới, phù hợp với thiên nhiên và bản tính<br /> vốn có của con người. Émile - người được<br /> hưởng sự giáo dục toàn diện, trong đó thầy<br /> tôn trọng nhân phẩm trò, giáo dục trò bằng<br /> sự thuyết phục. Tác phẩm thể hiện lòng yêu<br /> trẻ tha thiết, tinh thần dân chủ và chủ nghĩa<br /> nhân văn, tôn trọng tự do và nhân phẩm con<br /> người. J.J. Rousseau đã nhận xét : trẻ em có<br /> những cách nhìn, cách suy nghĩ, và cảm<br /> nhận riêng của nó. Sự khác nhau giữa người<br /> lớn và trẻ em là sự khác nhau về chất. Để<br /> đứa trẻ có thể phát triển mọi năng lực của<br /> nó, việc chăm sóc, giúp đỡ của người lớn chỉ<br /> nên dừng lại ở mức thật cần thiết và cần chú<br /> ý đừng quá nuông chiều để làm “hư” chúng.<br /> J.J. Rousseau viÕt : “Bất kỳ sự tai ác nào<br /> cũng từ sự yếu đuối mà ra; đứa trẻ chỉ tai ác<br /> vì nó yếu đuối; hãy làm cho nó mạnh, nó sẽ<br /> tốt; người nào có thể thực hiện mọi điều sẽ<br /> không bao giờ làm điều ác”.<br /> 2.8. J.Dewey(1859-1952)<br /> Là nhà triết học, tâm lý học, xã hội học,<br /> giáo dục học vĩ đại của Mỹ. Ông là người<br /> khởi xướng trào lưu Tân giáo dục ở Mỹ cuối<br /> thế kỷ XIX, đã thành lập Trường Thực<br /> nghiệm (1/1896), thuộc Đại học Chicago.<br /> Đây là trường học đầu tiên của Mỹ xác định<br /> “Trẻ em là trung tâm”. Hai khẩu hiệu:<br /> “Giáo dục là đời sống, chứ không phải<br /> chuẩn bị cho đời sống” và “Vừa làm vừa<br /> học” đã khái quát được tư tưởng dạy học của<br /> <br /> 34<br /> <br /> ông. Với J.Dewey, “giáo dục chính là bản<br /> thân cuộc sống”, giáo dục chủ yếu phải là<br /> quá trình của người học chứ không phải của<br /> người dạy . “Trường học và xã hội” (1899)<br /> và sau đó là Trẻ em và chương trình học<br /> (1902) là hai tác phẩm viết về triết lý giáo<br /> dục do ông khởi xướng. Theo John Dewey<br /> chương trình giáo dục phải được xây dựng<br /> theo những lợi ích của trẻ, và mục tiêu của<br /> nhà trường là sự trưởng thành của trẻ em<br /> trên mọi phương diện.Về sau, những ý<br /> tưởng này đã được J.Dewey nói rõ hơn trong<br /> tác phẩm “Dân chủ và giáo dục”(1916).<br /> 2.9. Ferie A.(1879 - 1960), nhà giáo dục<br /> học Thụy Sĩ đầu thế kỷ 20, thành lập trường<br /> thực nghiệm đầu tiên ở Glarixec (Thụy Sĩ).<br /> Chủ trương phát huy tính chủ động, thức<br /> tỉnh hứng thú của trẻ và chuẩn bị cho chúng<br /> tham gia hoạt động trong cuộc sống. Tác<br /> phẩm: "Chúng ta hãy biến đổi nhà trường"<br /> (1920), "Chế độ tự quản của học sinh"<br /> (1921), "Nhà trường hoạt động" (1920).<br /> 2.10. Lêôntiep A. N. (1903 - 79), nhà tâm<br /> lí học Liên Xô, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa<br /> học Giáo dục Liên Xô, tiến sĩ danh dự<br /> Trường Đại học Xoocbon (Sorbonne), Pháp.<br /> Những công trình khoa học đáng chú ý nhất<br /> gồm: "Sự phát triển chú ý có chủ định ở trẻ<br /> em" (1930), "Sự phát triển trí nhớ" (1931),<br /> "Hoạt động - Ý thức - Nhân cách". Ông là<br /> một trong những người sáng lập ra Lí thuyết<br /> hoạt động tâm lí người. Giải thưởng Lênin<br /> (1963). Các quan niệm về trẻ em của<br /> Lêôntiep dựa trên lí thuyết hoạt động, một<br /> thành tựu lớn của Tâm lí học Xô Viết và thế<br /> giới. Quan điểm tâm lý học của ông cho đến<br /> nay vẫn là kim chỉ nam cho tâm lí học Việt<br /> Nam trong những năm đầu thế kỷ 21.<br /> 2.11. Tâm lí học ngày nay có những quan<br /> niệm về trẻ em rất khác nhau:<br /> + Quan niệm thứ nhất cho rằng: trẻ em là<br /> người lớn thu nhỏ lại, sự khác nhau giữa trẻ<br /> em và người lớn về tầm cỡ, kích thước, khác<br /> nhau về lượng, không khác nhau về chất.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012<br /> <br /> Bởi vì hoạt động của người lớn không cao<br /> hơn hẳn so với hoạt động của trẻ em, cũng<br /> làm bấy nhiêu việc với những thao tác giống<br /> hệt nhau. Thời xa xưa, những thao tác lao<br /> động sản xuất không khác bao nhiêu so với<br /> thao tác sử dụng công cụ sinh hoạt. Các thao<br /> tác hoạt động còn quá thô sơ, đơn điệu,<br /> khiến cho sự khác biệt về tâm lí giữa trẻ em<br /> và người lớn coi như không đáng kể.<br /> + Quan niệm thứ hai cho rằng: xã hội<br /> càng văn minh, tuổi thơ được kéo dài hơn,<br /> công cụ lao động đòi hỏi phải có những thao<br /> tác phức tạp hơn. Nên những thao tác sử<br /> dụng các công cụ lao động cao hơn những<br /> thao tác sử dụng đồ dùng sinh hoạt. Sự khác<br /> nhau đó đã làm cho tâm lí của trẻ em và<br /> người lớn có sự khác nhau về chất.<br /> + Quan niệm thứ ba cho rằng: trẻ em vừa<br /> là trẻ em, vừa là người lớn đang hình thành.<br /> Sự khác biệt tâm, sinh lý giữa trẻ em và<br /> người lớn vừa về lượng, vừa về chất<br /> (Nguyễn Hữu Long).<br /> 2.12. Quan điểm của Hồ Ngọc Đại<br /> Trẻ em hiện đại là con đẻ rứt ruột của<br /> thời hiện đại. Sinh ra, các em đã hưởng thụ<br /> ngay tất cả những thành quả mà cha ông đã<br /> dò dẫm suốt chiều dài lịch sử. Đồng thời,<br /> chúng cũng phải đối mặt với những vấn đề<br /> mà thế hệ trước không biết đến và chưa từng<br /> trải qua. Chính vì thế, như Hegel nói, các em<br /> sẽ tự sinh thành ra chính mình với những nét<br /> độc đáo của riêng mình. Không thể áp đặt<br /> lên các em những chuẩn mực giáo dục của<br /> quá khứ.<br /> Trẻ em hiện đại sinh ra có đến 99,9% số<br /> gene giống nhau. Tận dụng sự khác biệt nhỏ<br /> nhoi chỉ 0,1%, mỗi cá nhân cũng đủ trở<br /> thành chính mình, không lẫn với kẻ thứ hai.<br /> Để có thể phát triển được, trẻ em phải sống<br /> trong xã hội loài người, sống chung với<br /> người lớn. Trẻ em là một phạm trù phát<br /> triển, phát triển cùng với Phạm trù người.<br /> Thuở nguyên sơ, tuổi thơ (thời trẻ con) rất<br /> ngắn và trừu tượng. Phạm trù người càng<br /> <br /> Bàn về một số phạm trù...<br /> <br /> phát triển, tuổi thơ càng dài ra và phân hoá.<br /> Trẻ em hiện đại đã phát triển rất xa, nên đã<br /> phân hoá thành nhiều lứa tuổi : 0 – 2; 3 – 5;<br /> 6 – 12; 13 – 17;... Trẻ em hiện đại, xét về<br /> mặt triết học, dùng phép phủ định (biện<br /> chứng) các lứa tuổi đã qua để tạo ra sự phát<br /> triển của lứa tuổi đương thời. Trẻ em là con<br /> đẻ của thời đại, nhà trường là nơi tổ chức<br /> cuộc sống thực của trẻ em. Trẻ em là nhân<br /> vật trung tâm trong nhà trường, mọi hoạt<br /> động trong nhà trường căn cứ vào trẻ em.<br /> Trẻ em chấp nhận thì có cơ may thành công,<br /> trẻ em phản đối thì thất bại.<br /> 3. Phạm trù học<br /> 3.1. Mục đích của học<br /> Theo quan điểm của UNESCO mục đích<br /> của việc học là: “Học để Hiểu, Học để Làm,<br /> Học để Hợp tác, cùng chung sống và Học để<br /> làm người”.<br /> 3.1.1. Học để Hiểu.<br /> Ngày nay, học không thể dừng lại ở trình<br /> độ nhận biết, ghi nhớ, tái hiện, mà phải đạt<br /> trình độ thông hiểu. Học - Hiểu là đi sâu<br /> nắm được bản chất sự vật, hiện tượng, nhận<br /> thức được quy luật của hiện thực khách<br /> quan, hiểu được chính bản thân mình để có<br /> thể tự biến đổi mình. Học - Hiểu là phát<br /> hiện, khai thác, phân tích, lý giải, xử lí được<br /> thông tin, giải quyết vấn đề một cách có<br /> hiệu quả. Học - Hiểu là học cách tư duy, để<br /> tạo ra cho mình năng lực tư duy. Học - Hiểu<br /> là học cách học, cách tự học, tự nghiên cứu,<br /> tự mình tìm ra kiến thức bằng hành động và<br /> thao tác tư duy của chính mình. “Hãy học<br /> phương pháp chứ đừng học dữ liệu”<br /> (Thierry Gaudin). Học - Hiểu là học cách<br /> học để tạo ra cho mình năng lực tự học và<br /> thói quen tự học suốt đời. Học để Hiểu, Hiểu<br /> để Học. Hiểu vừa là mục đích vừa là cách<br /> học. Học là đi từ cái đã hiểu đến cái chưa<br /> hiểu, liên kết những cái đã hiểu, tạo ra các<br /> cầu nối nhận thức. Học - Hiểu là phát huy<br /> đồng thời cả hai tố chất chính là tư duy và trí<br /> nhớ, học cách tư duy và cách nhớ, làm cho<br /> <br /> 35<br /> <br /> trí nhớ ngày càng bền vững, tư duy ngày<br /> càng sắc bén. Hiểu để nhớ. Nhớ để hiểu.<br /> Hiểu để học.<br /> 3.1.2. Học để Làm<br /> Học không chỉ để hiểu mà còn để ứng<br /> dụng, học để làm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã<br /> nói: “Học với hành phải đi đôi. Học mà<br /> không hành thì học vô ích. Hành mà không<br /> học thì hành không trôi chảy”. “Cách tốt<br /> nhất để hiểu là làm” (Kant). Học để Làm.<br /> Làm để Học. Làm vừa là mục đích vừa là<br /> cách học. Hành để Học. Vừa làm vừa học,<br /> hay vừa học vừa làm, học xen kẽ với làm,<br /> học lý thuyết kết hợp với lao động thực tiễn,<br /> đó là một đặc trưng cơ bản của việc học suốt<br /> đời, một xã hội Học - Hành. “Học đi đôi với<br /> hành, giáo dục kết hợp với lao động sản<br /> xuất, nhà trường gắn liền với xã hội”.<br /> (Nguyên lí giáo dục)<br /> 3.1.3. Học để hợp tác, cùng chung sống.<br /> Học để hợp tác. Hợp tác để học. Hợp tác<br /> vừa là mục đích vừa là cách học. Học cá<br /> nhân phải kết hợp với học nhóm. Học Hiểu, Học - Làm, Học - Hợp tác là 3 mặt<br /> của một tổng thể, đan xen lẫn nhau, quyện<br /> vào nhau nhằm tạo ra những năng lực cơ<br /> bản như: năng lực tư duy, năng lực phát<br /> hiện, hợp tác và giải quyết vấn đề, năng lực<br /> tự học... và tổng hoà các năng lực đó thành<br /> nhân cách: Học để làm người.<br /> 3.1.4. Học để làm người. Làm người phải<br /> học.“Học, học nữa, học mãi” (V.I. Lê Nin).<br /> 3.2. Phong cách học (theo David A.Kolb<br /> Mỹ 1939).<br /> Ông là tác giả của phương pháp học đổi<br /> mới. Sau nhiều năm nghiên cứu đã xuất bản<br /> cuốn : The Kolb learning Style Inventory,<br /> 1975. Theo David A.Kolb, có thể chia cách<br /> học của học sinh thành 4 nhóm khác nhau.<br /> 3.2.1. Học bằng cách quan sát người khác<br /> Những học sinh có phong cách học này<br /> có thể nhìn sự vật từ nhiều hướng khác<br /> nhau. Các em thích quan sát nhiều hơn hành<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2