intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo: "giải pháp và thực trang về bảo hiểm y tế ở việt nam"

Chia sẻ: Trần Danh Quân Quân | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:16

123
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

2.3 Thành tựu và khó khăn: 2.3.1 Thành tựu: 2.3.1.1 Mở rộng sự tham gia của nhiều đối tượng-tăng số thu BHYT: Sau năm thực hiện thí điểm và nhiều năm triển khai chính thức chính sách BHYT, đến nay

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo: "giải pháp và thực trang về bảo hiểm y tế ở việt nam"

  1. 2.3 Thành tựu và khó khăn: 2.3.1 Thành tựu: 2.3.1.1 Mở rộng sự tham gia của nhiều đối tượng-tăng số thu BHYT: Sau năm thực hiện thí điểm và nhiều năm triển khai chính thức chính sách BHYT, đến nay đối tượng tham gia đã tăng đáng kể. Tổng số người tham gia các loại hình BHYT năm 1993 chỉ đạt 3.8 triệu người, chiếm 5.4% dân số cả nước; đến năm 1999 (năm đầu tiên thực hiện quản lý tập trung thống nhất toàn ngành BHYT) tổng số người tham gia hơn 9.8 triệu người, đạt tỷ lệ 13.5% dân số; cuối năm 2003, BHYT đã bao phủ được khoảng 20% dân số. Đầu năm 2003, hệ thống BHYT Việt Nam sát nhập vào Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tạo điều kiện khai thác triệt để đối tượng tham gia, mở rộng loại hình BHYT tự nguyện; năm 2004 số người tham gia đã tăng gấp 4.5 lần năm 1993, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh và những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ý thức của những người chủ sử dụng lao động đã thay đổi , không còn tránh nộp hoặc chai lì trong việc nộp tiền bảo hiểm – vì sợ đụng chạm đến quyền lợi của nhân viên từ đó ảnh Số thu về BHYT cũng tăng theo sự mở rộng đối tượng tham gia: Năm 1993 thu BHYT đạt 112 tỷ đồng, chiếm 8,6% ngân sách y tế; năm 1998 thu BHYT đạt 694 tỷ đồng, chiếm 28,4% ngân sách y tế; năm 2003 thu đạt 2069 tỷ đồng, chiếm 37,7% ngân sách y tế. 2.3.1.2 Gia tăng việc Khám chữa bệnh cho đối tượng là người nghèo: Người nghèo đã được xã hội quan tâm, chăm sóc nhiều hơn thông qua chính sách BHYT, từ đó thực hiện đầy đủ ý nghĩa nhân đạo của chính sách này. Sự ra đời của Quyết định 139/2002/ QĐ-TTg ngày 15/10/2002 về việc khám chữa bệnh cho người nghèo là một chính sách có ý nghĩa lớn, thể hiện sự ưu việt của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc chăm sóc sức khỏe cho các đối tượng chính sách xã hội. Đến năm 2003 đã có 24 tỉnh, thành phố tổ chức thực hiện theo hình thức mua thẻ BHYT cho hộ gia đình nghèo; 31 tỉnh thực hiện theo hình thức thực thanh thực chi và 9 tỉnh còn lại thực hiện cả 2 hình thức. Cuối tháng 12/2003, tổng số người cấp thẻ BHYT là 3,58 triệu và gần 7,43 triệu người được hưởng chế độ theo phương thức thực thanh thực chi. 2.3.1.3 Quyền lợi của người tham gia BHYT được đảm bảo: Việc ban hành Danh mục vật tư tiêu hao y tế được quỹ BHYT thanh toán trong BHYT đã tạo điều kiện cho người có thẻ BHYT và cơ sở khám chữa bệnh đỡ khó khăn; các trường hợp khám chữa bệnh theo yêu cầu riêng đã được thanh toán một phần chi phí, quyền lợi của người tham gia BHYT trong các tr ường hợp khám chữa bệnh ngoài tỉnh, thành phố nơi phát hành thẻ cũng được đảm bảo thuận lợi và dễ dàng hơn. Một số dịch vụ y tế kỹ thuật cao như mổ tim, sử dụng thuốc ung thư ngoài danh mục, thuộc chống ghép thải điều trị sau ghép thận, ghép tủy nay đã được thanh toán một phần. Năm 1993 mới có 2 triệu lượt người có thẻ BHYT đi khám chữa bệnh ngoại trú và 200 nghìn lượt điều trị nội trú tại tất cả các tuyến y tế; năm 1998 số lượt
  2. khám chữa bệnh ngoại trú bằng thẻ BHYT đã lên 18 triệu lượt và gần 1,6 triệu lượt điều Số chi về một phần viện phí từ quỹ BHYT cũng tăng theo số người đi khám chữa bệnh; năm 2001 tổng chi khám chữa bệnh BHYT là 813 tỷ đồng; năm 2003 là 1.179 tỷ đồng. 2.3.1.4 Thành tựu khác: Ngoài việc thúc đẩy công bằng và hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, BHYT góp phần quan trọng trong việc đảm bảo ngân sách hoạt động của các bệnh viện và từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ của các cơ sở y tế. Nhất là việc mở rộng khám chữa bệnh BHYT tại tuyến xã đã góp phần củng cố và phát triển y tế cơ sở, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đ ầu, t ạo điều kiện tiếp cận các dịch vụ y tế của người có thẻ BHYT. Chính sách BHYT góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, giúp người có thu nhập thấp, người nghèo tiếp cận được với điều kiện chăm sóc y tế hiện đại, khám chữa bệnh mà không lo phiền nhiều về tài chính…góp phần ổn định kinh tế, xã hội. BHYT tự nguyện có bước phát triển rõ nét, giúp hàng triệu học sinh được chăm sóc sức khỏe học đường, chuyên tâm học hành. Tóm lại, thông qua chính sách BHYT ba chủ thể tham gia vào guồng máy BHYT là người mua BHYT (bệnh nhân BHYT), người cung cấp dịch vụ y tế (cơ sở khám chữa bệnh) và cơ quan Bảo hiểm xã hội gắn kết chặt chẽ nhau hơn, hình thành một cơ chế quản lý mới giữa người cung cấp dịch vụ và người s ử dụng dịch vụ y tế, trong đó cơ quan Bảo hiểm xã hội giữ vai trò là người giám sát chất lượng các dịch vụ y tế, đảm bảo quyền lợi cho người bệnh khi sử dụng dịch vụ y tế. 2.3.2 Khó khăn: - Có sự tham gia của các đơn vị kinh doanh bảo hiểm khác như Bảo Minh, Viet nam care,…tăng sự cạnh tranh, trong khi công tác tuyên truyền về chính sách BHYT còn kém. - Mức thu BHYT tự nguyện không đáp ứng được với quyền lợi mở rộng và giá dịch vụ y tế. Đối tượng tham gia chủ yếu là những người mắc bệnh mãn tính, hiểm nghèo, có chi phí điều trị lớn. - Số lượt khám chữa bệnh tăng nhanh nhưng cơ sở vật chất và nhân sự của ngành y tế chưa đáp ứng được dẫn đến ùn tắc bệnh nhân, do đó người bệnh BHYT phải chờ khám, nhận thuốc. - Việc thống kê, quản lý đối tượng có thẻ BHYT tham gia khám chữa bệnh từ các cơ sở y tế gặp nhiều khó khăn. Chưa có sự thống nhất, đồng bộ về ứng dụng công nghệ thông tin giữa ngành y tế và Bảo hiểm xã hội để giảm áp lực cho cơ sở y tế và cơ quan Bảo hiểm xã hội. - Tình hình vượt chi quỹ khám chữa bệnh chậm được xử lý, gây khó khăn trong việc đảm bảo nguồn chi và tình hình tài chính của các cơ sở khám chữa bệnh. 2.4 Nguyên nhân và tồn tại
  3. 2.4.1 Tồn tại: - Chính sách BHYT hiện tại đang áp dụng chủ yếu theo phương thức BHYT cho từng cá nhân, duy chỉ có BHYT cho người nghèo, BHYT tự nguy ện cho học sinh, hộ gia đình, đoàn thể, nông dân thực hiện theo phương thức cộng đồng hộ gia đình. Do vậy, phương thức theo từng cá nhân không mang tính cộng đồng, rộng rãi không bền vững và khó tiến đến BHYT toàn dân. - Phương thức thanh toán giữa cơ quan Bảo hiểm xã hội và cơ sở khám chữa bệnh đang thực hiện theo phí dịch vụ y tế. Phương thức này không khuyến khích các bệnh viện tiết kiệm chi tiêu, không khuyến khích người bệnh sử dụng hợp lý các dịch vụ y tế, lạm dụng dịch vụ y tế; phương thức này chứa đ ựng nhiều rủi ro cho quỹ, dễ dẫn đến vỡ quỹ BHYT. - Về mức giá viện phí: BHYT thanh toán khung giá viện phí theo Thông tư số 03/2006/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 14/TTLT năm 1995, hai thông tư này thực hiện song hành, chưa thống nhất, cơ sở khám chữa bệnh ký hợp đồng với cơ quan Bảo hiểm xã hội khi thì dịch vụ này theo thông tư số 03, dịch vụ khác lại theo thông tư 14. - Sự bất bình đẳng về chăm sóc y tế tại các vùng, miền trong cả nước. Những thành phố lớn thì tập trung các cơ sở khám chữa bệnh hiện đại, đ ội ngũ bác sĩ giỏi ,miền núi thì ngược lại.
  4. - Mức đóng BHYT hiện nay còn thấp: năm 2004 bình quân mức đóng là 324.000 đồng/người/năm; năm 2006 mức đóng bình quân là 432.000 đồng/người/năm. Trong khi chi phí y tế có sự gia tăng cả về tần suất khám chữa bệnh và chi phí bình quân một lần khám và điều trị. - Công tác thông tin tuyên truyền về chính sách BHYT còn hạn chế về hình thức và nội dung. Sự nhận thức của người dân về chính sách BHYT còn thiếu hiểu biết, chưa tin vào chính sách này. - Công tác tổ chức khám chữa bệnh BHYT ở không ít các cơ sở khám chữa bệnh còn nhiều bất cập, nhất là sự phiền hà gây ra bởi nhiều thủ tục hành chính. Một số bệnh viện do muốn bảo toàn quỹ khám chữa bệnh ngoại trú tại đơn vị nên đã hạn chế tối đa việc chuyển bệnh nhân đi điều trị tại tuyến y tế trên có chuyên môn chuyên sâu hơn từ đó dẫn đến việc không ít bệnh nhân không đ ược hưởng quyền lợi mà còn phải tự trang trãi chi phí khám chữa bệnh. Việc phân biệt đối xử giữa bệnh nhân dịch vụ và bệnh nhân có thẻ BHYT, hiện tượng kê đơn thuốc để bệnh nhân tự mua, chuyển bệnh nhân đến điều trị tại các cơ sở y tế tư nhân…không còn là hiện tượng cá biệt. Điều này làm giảm niềm tin c ủa người dân vào chính sách BHYT. - Về tổ chức khám chữa bệnh cho người nghèo: + Khó khăn trong việc xác định đúng, đầy đủ đối tượng thụ hưởng; phối hợp giữa các ngành tại địa phương thiếu chặt chẽ. + Cơ chế thực hiện chưa nhất quán, nơi thực hiện qua hình thức mua BHYT, nơi thực thanh thực chi. + Việc huy động thêm nguồn ngoài từ nguồn Ngân sách nhà nước cho quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo còn hạn chế. + Việc sử dụng quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo còn hạn chế. Lấy ví dụ năm 2003 2.4.2 Nguyên nhân: - Chế tài đối với chính sách BHYT chưa rõ ràng, cần sớm ban hành Luật BHYT để có khung quy định cụ thể cho từng chủ thể tham gia - Sự phối hợp giữa cơ quan Bảo hiểm xã hội và cơ sở khám chữa bệnh chưa chặt chẽ - Nhà nước chưa có chiến lược cụ thể cho ngành BHYT, khi xảy ra tình trạng tồi tệ liên quan đến công tác BHYT thì đưa ra những Nghị định, Thông tư để bù đắp những chỗ thiếu, trống. - Cơ sở khám chữa bệnh chưa nhìn nhận đúng chính sách BHYT nên có sự phân biệt đối xử với người khám chữa bệnh bằng BHYT, thiếu trang thiết bị y tế tại tuyến cơ sở 3.1 Mục tiêu: Hiện nay đất nước đang trong giai đoạn chuyển biến tích cực, đặc biệt là sự gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), chuyến thăm của Chủ tịch nước ta đến đất nước Hoa Kỳ kể từ năm 1975 đến nay vào tháng 06/2007 đã mở ra quan hệ song phương tốt đẹp giữa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ giàu mạnh
  5. bậc nhất Thế giới. Kinh tế phát triển, chính trị xã hội ổn định là những điều kiện thuận lợi thúc đẩy nền y học, dân trí phát triển; Song song đó, những chính sách của Đảng và Nhà nước, hệ thống Luật pháp phải ngày càng hoàn thiện hơn, có mục tiêu rõ ràng hơn, trong số đó Chính sách BHYT cũng không nằm ngoài quy trình. Thị trường BHYT ở Việt Nam khá non trẻ, đặc biệt là bảo hiểm trong lĩnh vực sức khỏe. Về chăm sóc sức khỏe thì chỉ có một số ít công ty thực hiện ở phạm vi hẹp như: bảo hiểm phẫu thuật nằm viện, bảo hiểm toàn diện cho học sinh. Với đại đa số người dân Việt Nam, bảo hiểm nói chung, BHYT nói riêng vẫn còn là lĩnh vực xa lạ. Do vậy, việc tuyên truyền giới thiệu chính sách này từ những người am hiểu là cần thiết. Đây là thách thức lớn cho đội ngũ những người làm bảo hiểm và là cơ hội để người dân được khám chữa bệnh công bằng thông qua hình thức BHYT. Hoạt động BHYT chịu sự tác động trực tiếp của thị trường lao động hay cụ thể hơn là việc làm và thu nhập của người lao động. Vì vậy, đ ể đ ạt đ ược mục tiêu BHYT toàn dân thì cần phải quan tâm đến vấn đề dân số, lực lượng lao động và thu nhập. - Dân số nước ta năm 2005 khoảng 82,1 triệu người và năm 2010 khoảng 88,4 triệu người. Tốc độ tăng dân số khoảng 1,02-1,05% năm. Dân số trong độ tuổi lao động năm 2005 đạt 51,9 triệu; năm 2010 đạt 57,2 triệu. Mức tăng dân số trong độ tuổi lao động hàng năm khoảng 1,1 triệu người (1,05% năm). - Lực lượng lao động cả nước năm 2005 đạt 42,7 triệu; năm 2010 đạt 48,2 triệu. Mức tăng lực lượng lao động hàng năm đạt từ 0,8-1,0 triệu người bằng 1,8-2%. - Tổng số người dự kiến được bố trí việc làm năm 2005 là 42,4 triệu người và năm 2010 là 47,8 triệu người. Lực lượng lao động trong nông thôn còn lớn, nhưng tỷ trọng có xu hướng giảm dần. Lực lượng lao đ ộng nông thôn năm 2005 đạt 31,4 triệu, chiếm tỷ trọng 66,5%; năm 2010 đạt 32,8 triệu người, chiếm tỷ trọng 61,5%. Cũng theo dự báo, lao động làm công ăn lương chỉ chiếm 22,8% - tương đương 9,27 triệu lao động năm 2004 và tăng lên 26,185 – tương đ ương 12,5 triệu lao động năm 2010- những người này thuộc diện tham gia BHYT bắt buộc . Trong khi đó từ năm 2004-2010 nước ta có từ 32 đến 35 triệu lao đ ộng (chiếm khoảng từ 73 đến 78% nguồn lao động xã hội) là lao đ ộng tự tạo việc làm, lao động tự do trong các ngành kinh tế khác nhau, nhất là trong nông, lâm, ngư nghiệp. + Hướng tới BHYT toàn dân: BHYT đóng vai trò quan trọng trong chăm sóc y tế, nhận thức được vấn đề này Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ “…thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe, tiến tới BHYT toàn dân”. Nghị quyết số 46- NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định “…Phát triển BHYT toàn dân, nhằm từng bước đạt tới công bằng trong chăm sóc sức khỏe, thực hiện chia sẻ giữa người khỏe và người ốm, giàu với nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già”.
  6. Đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu mà Đảng, Nhà nước và mọi người dân đều mong muốn. Mọi người đều tham gia BHYT và được chia sẻ rủi ro, tổn thất với nhau, đặc biệt là những người thuộc diện nghèo khó. Mục tiêu này làm chính sách BHYT trở thành một chính sách nhân đạo, không vì mục đích lợi nhuận. Đất nước ta hiện nay tuy đạt được những bước phát triển đáng đánh dấu mốc, nhưng so với các nước khác thì thu nhập vẫn còn khiêm tốn, sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư thể hiện rõ nét trong cuộc sống hàng ngày. Do vậy, chi phí bỏ ra để thanh toán các khoản khám chữa bệnh cũng song song với thu nhập được hưởng, người có thu nhập cao hầu hết đều không màng đến tấm thẻ BHYT, họ tập trung khám bệnh tại các bệnh viện lớn và phòng tư của các bác sĩ tiếng tăm, còn những người nghèo, chính sách, hưu trí thì tấm thẻ BHYT như là tấm bùa hộ mệnh đối với họ. Mục tiêu BHYT toàn dân không những đạt được về diện rộng mà còn phải đảm bảo tính bền vững lâu dài và phải trở thành nhu cầu thiết yếu của mọi công dân. Để thực hiện được mục tiêu đầy nhân đạo này thì sự kết hợp của Đ ảng, Nhà nước, chính quyền địa phương ;sự đổi mới tầm nhận thức của các cơ sở khám chữa bệnh, sự nhiệt tình hoạt động của cơ quan Bảo hiểm xã hội và ý thức của người dân là sức mạnh. Ví dụ như sự chi Ngân sách của Nhà nước về y tế, sự tuyên truyền trong dân sâu rộng của cơ quan Bảo hiểm xã hội kết hợp với các đoàn thể tại địa phương, nâng cao thu nhập của người dân đồng thời tăng chi phí về BHYT để người dân được hưởng những dịch vụ hiện đại, cơ sở hạ tầng về y tế cũng cần được chỉnh trang cho đúng tiến trình phát triển, không còn tình trạng quá tải tại các bệnh viện, cơ sở y tế. + Hướng tới BHYT mọi người cùng có quyền lợi thụ hưởng như nhau: Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam đứng thứ 187/191 về tình trạng công bằng trong chăm sóc sức khỏe, gần cuối bảng xếp loại. Mọi người dân khi tham gia BHYT đều có quyền thụ hưởng như nhau, không phụ thuộc vào thu nhập của từng cá nhân. Để thực hiện được mục tiêu này thì chỉ Nhà nước mới đảm đương nổi, mục tiêu này rất đúng, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, là mục tiêu phi lợi nhuận. Do vậy, mục tiêu này rất khó thực hiện. Việt Nam là một trong số các quốc gia đông dân trên thế giới. Đến năm 2004, dân số Việt Nam lên tới trên 82 triệu người, với dân số trẻ chiếm đa số, trong đó số người chưa có BHYT hơn 70%. Nếu tiến tới mọi người dân đều tham gia và phải đều được hưởng mọi quyền lợi như nhau khi sử dụng thẻ BHYT để khám chữa bệnh thì gánh nặng về Ngân sách Nhà nước khi chi để thực hiện việc này rất không khả thi, cũng như cơ quan Bảo hiểm xã hội không đủ điều kiện, nhân lực,..để thực hiện tốt cả hai chính sách Bảo hiểm xã hội và BHYT. Cần chăng chia sẻ với các công ty bên ngoài với hình thức đấu thầu để chia sẻ bớt một phần gánh nặng, nhưng mục tiêu phi lợi nhuận sẽ bị phá bỏ, vì không ai kinh doanh lại không vì mục tiêu lợi nhuận cả. Vì vậy, nghiên cứu mục tiêu này trong dài hạn và đưa ra
  7. trung khám bệnh tại các bệnh viện lớn và phòng tư của các bác sĩ tiếng tăm, còn những người nghèo, chính sách, hưu trí thì tấm thẻ BHYT như là tấm bùa hộ mệnh đối với họ. Mục tiêu BHYT toàn dân không những đạt được về diện rộng mà còn phải đảm bảo tính bền vững lâu dài và phải trở thành nhu cầu thiết yếu của mọi công dân. Để thực hiện được mục tiêu đầy nhân đạo này thì sự kết hợp của Đ ảng, Nhà nước, chính quyền địa phương ;sự đổi mới tầm nhận thức của các cơ sở khám chữa bệnh, sự nhiệt tình hoạt động của cơ quan Bảo hiểm xã hội và ý thức của người dân là sức mạnh. Ví dụ như sự chi Ngân sách của Nhà nước về y tế, sự tuyên truyền trong dân sâu rộng của cơ quan Bảo hiểm xã hội kết hợp với các đoàn thể tại địa phương, nâng cao thu nhập của người dân đồng thời tăng chi phí về BHYT để người dân được hưởng những dịch vụ hiện đại, cơ sở hạ tầng về y tế cũng cần được chỉnh trang cho đúng tiến trình phát triển, không còn tình trạng quá tải tại các bệnh viện, cơ sở y tế. + Hướng tới BHYT mọi người cùng có quyền lợi thụ hưởng như nhau: Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới, Việt Nam đứng thứ 187/191 về tình trạng công bằng trong chăm sóc sức khỏe, gần cuối bảng xếp loại. Mọi người dân khi tham gia BHYT đều có quyền thụ hưởng như nhau, không phụ thuộc vào thu nhập của từng cá nhân. Để thực hiện được mục tiêu này thì chỉ Nhà nước mới đảm đương nổi, mục tiêu này rất đúng, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, là mục tiêu phi lợi nhuận. Do vậy, mục tiêu này rất khó thực hiện. Việt Nam là một trong số các quốc gia đông dân trên thế giới. Đến năm 2004, dân số Việt Nam lên tới trên 82 triệu người, với dân số trẻ chiếm đa số, trong đó số người chưa có BHYT hơn 70%. Nếu tiến tới mọi người dân đều tham gia và phải đều được hưởng mọi quyền lợi như nhau khi sử dụng thẻ BHYT để khám chữa bệnh thì gánh nặng về Ngân sách Nhà nước khi chi để thực hiện việc này rất không khả thi, cũng như cơ quan Bảo hiểm xã hội không đủ điều kiện, nhân lực,..để thực hiện tốt cả hai chính sách Bảo hiểm xã hội và BHYT. Cần chăng chia sẻ với các công ty bên ngoài với hình thức đấu thầu để chia sẻ bớt một phần gánh nặng, nhưng mục tiêu phi lợi nhuận sẽ bị phá bỏ, vì không ai kinh doanh lại không vì mục tiêu lợi nhuận cả. Vì vậy, nghiên cứu mục tiêu này trong dài hạn và đưa ra 3.2.1.1 Cơ quan Bảo hiểm xã hội: Với tư cách là người đại diện cho quyền lợi và lợi ích của người tham gia BHYT, người bán sản phẩm BHYT thì phải tự cải tiến theo những giải pháp như sau: Cải cách trong nội bộ: Cơ quan Bảo hiểm xã hội phải nghiên cứu và phối hợp với các Ban, ngành khác như Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Tài chính đưa ra được những chính sách hoặc trình cấp cao hơn (Chính phủ) để đưa ra được những Nghị định, thông tư hướng dẫn rõ ràng, hợp với ý nguyện của nhân dân nhưng vẫn đảm bảo cho Quỹ khám chữa bệnh hoạt động hiệu quả, không còn tình trạng bội chi,…Muốn vậy, từ phía cơ quan Bảo hiểm xã hội phải cải cách từ bên trong, từ đội ngũ cán bộ làm công tác giám định chi như tập
  8. toán với cơ sở khám chữa bệnh. Phần mềm giám định chi phí khám chữa bệnh tại cơ sở khám chữa bệnh cần có sự kết hợp với ngành Y tế đ ể tạo sự thống nhất giữa hai cơ quan. Danh mục chi trả: Cơ quan Bảo hiểm xã hội nên thường xuyên cập nhật hóa danh mục chi trả để sát thực tế, tư vấn một cách sát thực, tránh tình trạng bội chi, không đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT. Việc nghiên cứu sản phẩm “ thẻ từ BHYT” cũng là một giải pháp cần quan tâm do thực tế số lượng bệnh nhân đông và mã thẻ, ký hiệu trên thẻ lại nhiều dễ dẫn đến sự sai sót khi nhập dữ liệu, làm báo cáo là nguyên nhân cho việc tính chi phí thanh quyết toán khám chữa bệnh sai, tổn thất xảy ra là điều khó tránh khỏi. Và tấm “thẻ từ BHYT” này phải có giá trị lưu hành trên toàn quốc, thông qua tấm thẻ từ BHYT thì chủ thẻ có thể đến khám chữa bệnh ở bất kỳ bệnh viện nào có ký hợp đồng + Thực hiện việc trích lại một phần quỹ khám chữa bệnh tại những cơ quan có số lượng lao động lớn (trên 500 lao động) (trước kia là trích lại 5% tổng số tiền nộp BHYT cả năm) và trường học để thực hiện việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh, sinh viên. + Đầu tư cho công tác tuyên truyền những căn bệnh phổ biến thông thường như cảm cúm, đau bao tử, …và vệ sinh an toàn tránh nhiễm bệnh 3.2.1.2 Cơ sở khám chữa bệnh: khi khám chữa bệnh cho bệnh nhân BHYT, cơ sở khám chữa bệnh có trách nhiệm khám, điều trị theo đúng chuyên môn và y đức ngành y, đồng thời tuân thủ các quy định về quyền lợi BHYT. Cụ thể như sau: Tập huấn cho đội ngũ y bác sĩ về chính sách BHYT , không để tình trạng bệnh nhân BHYT vào khám bệnh thì thái độ của các y bác sĩ thay đổi hoàn toàn, thi ếu sự nhiệt tình, khám qua loa, kê đơn thuốc cho có, thiếu trình độ chuyên môn (đặc biệt là các cơ sở y tế tuyến dưới), bởi vì quan hệ giữa cơ sở khám chữa bệnh và người tham gia BHYT khi đi khám chữa bệnh là quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân. Cơ sở khám chữa bệnh và cơ quan Bảo hiểm xã hội cũng cần phối hợp nhịp nhàng trong việc cung cấp số liệu giữa hai bên để việc định l ượng được số lượng thuốc, quỹ khám chữa bệnh luôn ứng phó kịp thời, tránh tình trạng bội chi,.. Tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế cho tuyến cơ sở là điều cần thiết cần tập trung bây giờ. Chấn chỉnh công tác dược bệnh viện: cần chấn chỉnh các nhà thuốc tại bệnh viện, giá thuốc cung ứng trong bệnh viện phải thấp hơn giá thị trường cùng thời điểm, không bán thuốc ở khoa, phòng khám, thực hiện nghiêm túc các quy đ ịnh sử dụng hợp lý, an toàn về thuốc, quy chế kê đơn và bán thuốc theo đơn. Các cơ sở khám chữa bệnh cần thực hiện tốt chức năng tham mưu xây dựng giá viện phí và triển khai các văn bản hướng dẫn liên quan đến chính sách BHYT, chủ động trong việc ký hợp đồng khám chữa bệnh BHYT với cơ quan Bảo hiểm xã hội. Song song đó, các cơ sở khám chữa bệnh cần có biện pháp kiểm soát việc chống lạm dụng thuốc, vật tư y tế và các dịch vụ không cần thiết, nhất là xét
  9. thức này thì phải làm thí điểm tại một số địa phương chọn lọc theo vùng trên cơ sở khảo sát hướng khám chữa bệnh của nhân dân và của các nhóm đối tượng. Phương thức tham gia cũng cần điều chỉnh mở rộng hơn trong BHYT tự nguyện, không nên khống chế phần trăm tham gia trong hộ gia đình. Vì mục tiêu là hướng tới BHYT toàn dân nên ai có nhu cầu tham gia thì nên đáp ứng. Việc này không dễ nhưng thiết nghĩ phải cố gắng thực hiện và phải thực hiện đồng bộ với việc phát hiện gian lận trong khám chữa bệnh, có bệnh thì mới chữa và cấp thuốc, không bệnh thì từ chối thẳng; vì nếu chúng ta mở rộng phương th ức tham gia, không khống chế mà nhiều người cùng tham gia thì nguy cơ gian lận trong khám chữa bệnh, lợi dụng tấm thẻ BHYT rất cao 3.2.3 Điều chỉnh mức phí BHYT cho phù hợp: Hiện nay mức phí thu từ BHYT cho người tham gia BHYT bắt buộc là 3% lương phụ cấp được hưởng (hay 3% thu nhập thường xuyên đối với lao động ngoài quốc doanh), BHYT tự nguyện thực hiện thu mức phí theo TT06/2007/TTLT- BYT-BTC ngày 30/03/2007 Mức đóng BHYT ở hai khu vực BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện chênh lệch quá lớn, chưa đáp ứng được so với nhu cầu chi phí thực tế. Điều chỉnh mức phí cho phù hợp là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho mọi người dân tham gia BHYT được hưởng những dịch vụ kỹ thuật tiên tiến trong điều kiện kỹ thuật y tế ngày một hiện đại , nâng cấp. Ta thấy sự bất hợp lý xảy ra khi mà quy ền l ợi khám chữa bệnh như nhau nhưng mức đóng BHYT tự nguyện chỉ bằng một nửa hoặc có nhóm tự nguyện chỉ bằng một phần ba mức đóng của BHYT bắt buộc, riêng người nghèo thì mức đóng chỉ bằng một phần sáu mức đóng của đối tượng bắt buộc. Vì vậy, việc tính mức phí phải dựa trên cơ sở khoa học để đảm bảo khả năng chi trả và điều kiện tham gia đủ để hạn chế hiện tượng lựa chọn ngược. Nhà nước cần hỗ trợ cho người nông dân một phần mức phí, giúp người nông dân làm quen với chính sách BHYT và giảm bớt khó khăn khi họ và gia đình tham gia BHYT tự nguyện. 3.2.4 Quyền lợi của người tham gia BHYT phải bình đẳng: Việc phân biệt đối xử của các y bác sĩ tại các cơ sở khám chữa bệnh đối với bệnh nhân BHYT khá phổ biến. Vì vậy, hiện tại và tương lai các cơ sở y tế phải huấn luyện tư tưởng cho tập thể y, bác sĩ, trách nhiệm của họ trong khám chữa bệnh làm sao cho quyền lợi của người tham gia phải được khám chữa bệnh bình đẳng theo yêu cầu của tình trạng bệnh tật, không phụ thuộc vào số tiền đóng góp. Quyền lợi bình đẳng giữa những người tham gia BHYT chính là đặc trưng cơ bản nhất để phân biệt BHYT và bảo hiểm thương mại. Để thực hiện tốt điều này thì nên chăng Quỹ BHYT chi trả chi phí khám chữa bệnh cho người tham gia các chi phí dịch vụ y tế cơ bản như thu phí thủ thuật, phẫu thuật, các chi phí trực tiếp cho người bệnh, còn các chi phí vật tư y t ế đ ắt tiền sẽ thanh toán thống nhất theo một mức trần chung cho tất cả những người tham gia BHYT; Cụ thể là điều chỉnh có hệ thống quyền lợi của người tham gia
  10. BHYT nhất là vấn đề chi trả chi phí khám chữa bệnh, xây dựng khung chế độ BHYT cơ bản, gói dịch vụ y tế cơ bản , còn các dịch vụ y tế khác sẽ được chi trả nếu tham gia các loại hình BHYT bổ sung ( khác); loại hình BHYT bổ sung này phải do tư nhân thành lập, hỗ trợ. Do vậy, để thực hiện thì phụ thuộc vào nguồn thu BHYT nên ngoài nguồn thu từ hoạt động BHYT cơ bản còn có nguồn thu từ BHYT bổ sung, tránh tình trạng “ gián tiếp bao cấp” khi quỹ khám chữa bệnh bội chi, thực hiện tốt mục tiêu xã hội hóa BHYT. Các tiêu chí để đánh giá chất lượng khám chữa bệnh công bằng: + Mọi người dân phải được tiếp cận các dịch vụ y tế + Dịch vụ y tế phải được cung cấp dựa theo nhu cầu chứ không phải theo khả năng chi trả. + Mọi người dân không phải từ bỏ các nhu cầu thiết yếu khác (ăn, học,…) để trả cho dịch vụ y tế. + Mọi sự cắt giảm trong sử dụng dịch vụ phải liên quan đến giảm “cầu không cần thiết” chứ không phải do gánh nặng về tài chính. + Người nghèo phải nhận được cùng một chất lượng dịch vụ như là người không nghèo. Tóm lại thì điều chỉnh quyền lợi BHYT phải thực hiện song hành với tăng mức đóng BHYT thông qua nhiều yếu tố liên quan về kinh tế, xã hội, ngân sách. 3.2.5 Đổi mới cơ chế tài chính bệnh viện: Mục tiêu của giải pháp này là tạo quyền chủ động về tài chính cho các cơ sở y tế theo nguyên tắc lấy thu bù chi. Ưu tiên đầu tư cho chăm sóc sức khỏe cho nhân dân từ ngân sách Nhà nước và hạn chế dần việc cấp kinh phí từ Ngân sách Nhà nước đến bệnh viện, chuyển dần nguồn kinh phí này hỗ trợ mua thẻ BHYT cho các đối tượng như người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, diện chính sách, học sinh, sinh viên, nông dân; bên cạnh đó tập trung Ngân sách Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất cho các y tế cơ sở nhất là y tế cơ sở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Cần phải sửa đổi cơ chế thu một phần viện phí, thu đủ chi phí khám chữa bệnh nhằm giảm sự bao cấp tràn lan trong chăm sóc sức khỏe; trên cơ sở đó huy động được sự đóng góp của những người có điều kiện kinh tế. Nâng giá viện phí lên sẽ tác động thúc đẩy nhiều người tham gia và người nghèo cũng sẽ ít bị ảnh hưởng do có Nhà nước hỗ trợ. Giao quyền tự chủ về tài chính cho cơ sở khám chữa bệnh trong việc phân bổ sử dụng nguồn thu để sử dụng trong chi phí quản lý, đầu tư xây dựng và mua s ắm trang thiết bị, gắn việc tăng nguồn thu với việc tăng thu nhập nhân viên ngành y tế. Việc chuyển đổi cơ chế tài chính như trên sẽ khắc phục được sự phân biệt đ ối xử trong khám chữa bệnh, cơ sở khám chữa bệnh tự chủ và năng động trong việc tính toán sử dụng hiệu quả nguồn thu , việc gắn nguồn thu với thu nhập của ngành y tế sẽ nâng cao chất lượng thái độ phục vụ của nhân viên ngành y tế, các cơ sở khám chữa bệnh sẽ chú trọng đến việc đầu tư trang thiết bị, mở rộng nâng cao chất lượng thu hút bệnh nhân đến khám chữa bệnh.
  11. 3.2.6 Nâng cao năng lực của hệ thống Bảo hiểm xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý thực hiện: Khi hai cơ quan Bảo hiểm xã hội và BHYT sáp nhập đầu năm 2003 thì gánh nặng đè lên vai một cơ quan chủ quản mới là Bảo hiểm xã hội, cùng lúc quản lý hai hình thức Bảo hiểm xã hội và BHYT, mỗi hình thức có một sự phức tạp khác nhau. Thực tế đã chứng minh sự bội chi trong thời gian qua, một phần nguyên nhân là do năng lực của hệ thống Bảo hiểm xã hội vẫn chưa rõ ràng, chưa có đủ quyền lực để điều chỉnh những vướng mắc, tồn tại phát sinh. Muốn ra một điều chỉnh nào về lĩnh vực của mình quản lý thì cơ quan Bảo hiểm xã hội phải trình Chính phủ và các Bộ ngành liên quan, nên đến khi trình được thì thời gian đã qua, sự phù hợp không còn khả thi và lúc đó lại phát sinh những vấn đề phức tạp khác. Rõ ràng cơ quan Bảo hiểm xã hội chỉ là cơ quan thực hiện, không có quyền xử phạt,..chỉ có quyền kiến nghị, hoặc tham gia đoàn kiểm tra liên ngành kiến nghị những cơ quan chức năng kiểm tra và xử phạt. Vì vậy, việc trốn đóng BHYT còn khá phổ biến ở các đơn vị ngoài quốc doanh. Ở các tỉnh, thành phố thì mối quan hệ giữa cơ quan Bảo hiểm xã hội và Sở y tế chỉ dừng lại ở một bên là đơn vị nhận cung ứng dịch vụ và một bên thanh toán một phần chi phí cho dịch vụ để đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho người tham gia thông qua Hợp đồng khám chữa bệnh, dẫn đến tình trạng còn cơ sở y tế từ chối ký hợp đồng khám chữa bệnh BHYT, nhận đăng ký khám chữa bệnh BHYT có sự lựa chọn đối tượng hoặc hạn chế nhận bệnh nhân, việc thống nhất giá dịch vụ kỹ thuật cao phục vụ bệnh nhân BHYT rất khó khăn. Trong quản lý thực hiện thì các nguồn đóng góp của BHYT được quản lý tập trung, nhưng hạch toán riêng theo từng nhóm như quỹ BHYT bắt buộc, quỹ BHYT tự nguyện, quỹ BHYT cho người nghèo nhằm kiểm tra mức đóng và khả năng chi trả chung của từng nhóm để có sự điều chỉnh mức đóng những năm tiếp theo. Tuy nhiên, sẽ có sự điều chỉnh kịp thời giữa các nhóm đối tượng tham gia BHYT khi có sự thiếu hụt quỹ của một nhóm đối tượng nào đó, không để tình trạng người bệnh của nhóm đó bị hết quỹ mà không được khám chữa bệnh. 3.2.7 Các cơ sở Khám chữa bệnh không đặt trọng tâm là lợi nhuận: Chính sách BHYT là chính sách nhằm chăm sóc sức khỏe người dân tốt nhất, không vì mục tiêu lợi nhuận, là chính sách xã hội. Vì vậy, nếu cơ sở khám chữa bệnh nào đã ký hợp đồng khám chữa bệnh với cơ quan Bảo hiểm xã hội thì mục tiêu đạt lợi nhuận từ hình thức này khó xảy ra. Thực tế đã chứng minh điều này. Như phần hai đã phân tích thì các doanh nghiệp bên ngoài kinh doanh thị phần bảo hiểm sức khỏe chiếm tỷ lệ chưa cao nhưng đa dạng về hình thức như bảo hiểm sức khỏe toàn diện, bảo hiểm sức khỏe cho giáo viên, bảo hiểm sức khỏe gia đình,…Vì vậy, cơ quan Bảo hiểm xã hội cần sớm thành lập doanh nghiệp chuyên kinh doanh về BHYT; doanh nghiệp này sẽ phải thu thập thông tin, tham khảo đối tượng tham gia bảo hiểm sức khỏe tại các đơn vị bên ngoài để đưa ra những hình thức thích hợp nhằm kéo các đối tượng này về tham gia BHYT tự nguyện bổ sung ngoài phần BHYT bắt buộc. Muốn thực hiện được thì cải tiến quy trình
  12. cấp thẻ, mức phí phù hợp, cạnh tranh công bằng, liên kết với cơ sở khám chữa bệnh thay đổi quy trình khám bệnh và thanh toán. Thành lập doanh nghiệp chuyên kinh doanh về BHYT vẫn giữ được tính chất truyền thống của BHYT là mục đích an sinh khó nhưng vẫn có thể làm được. Lý do: - Trong nhân dân có người giàu, người nghèo. Nếu thành lập được doanh nghiệp chuyên kinh doanh BHYT thì doanh nghiệp này sẽ chuyên về lĩnh vực BHYT và sẽ dùng những hình thức phù hợp để vận động được những người giàu tham gia BHYT tự nguyện, bổ sung từ đó góp phần san sẻ gánh nặng rủi ro, vì những đối tượng này nguy cơ bệnh tật không nhiều. - Doanh nghiệp này sẽ kinh doanh những dịch vụ BHYT bổ sung ngoài phần BHYT căn bản đã đề cập ở phần trên; vì cơ quan Bảo hiểm xã hội cùng lúc thực hiện nhiều công việc thì sẽ không thể chuyên môn hóa công việc nào được (ví dụ: thu BHYT, kiểm tra tình hình chi BHYT tại các bệnh viện, theo dõi danh mục thuốc, ….) nên cần thiết phải có doanh nghiệp chia bớt rủi ro, cạnh tranh cùng các đơn vị bên ngoài. - Rà soát những cá nhân sử dụng hai thẻ BHYT bắt buộc và tự nguy ện đ ể nhập thành một thẻ ( ví dụ: thẻ BHYT VIP) mang đặc điểm riêng phân biệt với thẻ BHYT có trước. Biến đổi hình thức thì phải kèm theo nội dung, chất lượng. Nghĩa là phải có những chế độ ưu tiên khi sử dụng thẻ BHYT VIP như mức thanh toán dịch vụ kỹ thuật cao tối đa hiện nay là 20 triệu đồng thì khi s ử d ụng thẻ BHYT VIP thì mức thanh toán tối đa sẽ cao hơn; hay khi điều trị nội trú thì được ưu tiên hơn, khi đi khám chữa bệnh trình thẻ thì được khám nhanh, thanh toán tận nơi,… Tựu chung lại thì doanh nghiệp chuyên kinh doanh BHYT sẽ hướng tới những đối tượng có thu nhập cao, người giàu và cung cấp những dịch vụ chuyên nghiệp, đa dạng về bảo hiểm sức khỏe vừa đảm bảo thực hiện chính sách an sinh, san sẻ rủi ro vừa làm tròn vai trò kinh doanh của mình khi cung cấp được hàng hóa tốt theo khuynh hướng “thuận mua, vừa bán”, hướng đến chất lượng phục vụ. 3.2.8 Sớm xây dựng Luật BHYT: Trên thực tế vi phạm pháp luật BHYT diễn ra phổ biến qua các hình thức: - Hành vi gian lận BHYT từ khâu tham gia đến khâu hưởng quyền lợi BHYT (như bác sĩ và bệnh nhân thông đồng lấy thuốc ra ngoài bán, một người tham gia BHYT có nhiều thẻ BHYT cùng lúc do quen biết cán bộ làm công tác cấp thẻ) - Chiếm dụng tiền đóng BHYT hoặc trốn đóng BHYT cho người lao động của các đơn vị sử dụng lao động trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. - Chậm làm các thủ tục để có thẻ kịp thời cho người mua BHYT ảnh hưởng đến sức khỏe và quyền lợi của người tham gia. Ngoài vi phạm pháp luật BHYT thì các quy định về BHYT tự nguyện còn chắp vá chưa đáp ứng mục tiêu đề ra, những bất cập trong quy định về đ ịa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật BHYT
  13. Vì vậy, muốn đạt được mục tiêu BHYT toàn dân, muốn mang lại quyền bình đẳng cho những người tham gia BHYT thì nhiệm vụ đưa ra những chế tài hay hoàn thiện pháp luật BHYT đang là vấn đề cấp bách hiện nay. Xây dựng Luật BHYT cần bổ sung và hoàn thiện những điều sau: - Trách nhiệm pháp lý của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật BHYT bao gồm: cơ quan Bảo hiểm xã hội, cơ sở khám chữa bệnh, người mua BHYT. - Quy định về chế định hợp đồng khám chữa bệnh BHYT. Vì hợp đồng khám chữa bệnh BHYT được ký kết giữa cơ quan Bảo hiểm xã hội (người bán BHYT, người đại diện cho quyền và lợi ích của người mua) và cơ sở khám chữa bệnh (đơn vị cung ứng dịch vụ y tế) vì lợi ích của bên thứ 3 (người mua BHYT). Đây là nội dung quan trọng mà pháp luật BHYT hiện hành chưa có quy định cụ thể. - Quy định chế tài áp dụng cho những hành vi vi phạm và gian lận về BHYT. Các chế tài có thể áp dụng là trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính và thậm chí cả trách nhiệm hình sự. Pháp luật nhiều nước quy định chủ doanh nghiệp trốn đóng BHYT có thể bị phong tỏa tài khoản, … thậm chí có thể bị khởi tố khi vi phạm nghĩa vụ đóng BHYT. Như vậy khi xây dựng luật BHYT cần xuất phát từ thực trạng về điều kiện và các vấn đề đặt ra trong chăm sóc y tế song hành với việc nghiên cứu, tham khảo có 3.2.9 Đổi mới công tác giám định chi: Như phần 2 về thực trạng công tác giám định chi chúng ta đã thấy công việc giám định có khâu rất phức tạp như xem bệnh án có đúng không, đối chiếu danh mục thuốc,..do đó, đổi mới công tác này cũng cần làm ngay, là một mắc xích quan trọng trong tiến tới BHYT toàn dân. Cụ thể: + Phân công cán bộ Giám định phải đảm bảo tính công bằng, ổn định; nếu người có kinh nghiệm nhiều thì nên phân công tại những bệnh viện quá tải bệnh nhân BHYT để họ có thể giải quyết công việc nhanh chóng. + Thực hiện luân chuyển Giám định viên từ bệnh viện này đến bệnh viện khác tránh tình trạng thông đồng cùng bệnh viện. + Nâng cao trình độ chuyên môn của Giám định viên thông qua những khóa đào tạo về y tế. 3.2.10 Quản lý giá thuốc: Như đã phân tích ở phần 2 thì giá thuốc ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng khám chữa bệnh cũng như quỹ BHYT, vì thế việc cần thiết là phải quản lý giá thuốc một cách chặt chẽ, việc làm này đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều bên liên quan, nhất là từ phía cơ quan công quyền, nhà nước: + Cần xóa bỏ độc quyền trong nhập khẩu thuốc, song song sản xuất thuốc theo hợp đồng và chấn chỉnh công tác xét duyệt nhập khẩu thuốc theo nguyên tắc đảm bảo thông thoáng, công khai, kịp thời và dân chủ. + Kiểm soát chặt giá thuốc trên thị trường, khu vực để từ đó đưa ra giá cả hợp lý chung cho các cơ sở kinh doanh thuốc trên phạm vi toàn quốc, thực hiện nghiêm quy chế kê bán thuốc theo đơn. + Ban hành khung giá bán lẻ thuốc thiết yếu và Nghị định quản lý giá thuốc
  14. + Sửa đổi quy chế đấu thầu cung ứng thuốc cho bệnh viện, phải thực hiện công khai, rộng rãi, không phân biệt các thành phần kinh tế. Hiện nay việc cung ứng thuốc cho bệnh viện thông qua tổ chức đấu thầu, chỉ định thầu. Do vậy, ngoài những bệnh viện lớn như Chợ Rẫy, Hữu Nghị...đảm bảo cung ứng 100% loại thuốc cho người bệnh, còn đa phần các bệnh viện, trung tâm y tế xã, phường do công ty dược phẩm tỉnh cung ứng hoặc phải đi mua thuốc với giá khác nhau tùy thuộc vào kinh tế xã hội vùng khác nhau. + Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về sử dụng thuốc an toàn, tránh lạm dụng biệt dược. + Tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm về việc nâng giá thuốc, tr ốn thuế. 3.2.11 Thực hiện BHYT bắt buộc với học sinh, sinh viên: Nhìn nhận thực tế thì loại hình BHYT học sinh là loại hình BHYT mang tính bắt buộc, vì khi nhập học thì đóng học phí bao gồm tất cả các chi phí cho học tập và sinh hoạt, các phụ huynh bắt buộc phải đóng phí BHYT chung với học phí cho con em mình. Để thực hiện được BHYT cho học sinh từ tự nguyện sang bắt buộc thì công tác tuyên truyền rất quan trọng phải chia ra từng đối tượng cụ thể: + Đối với giáo viên: phải tuyên truyền lợi ích của nhiều học sinh tham gia BHYT thì nhà trường sẽ có nhiều kinh phí để duy trì và thực hiện công tác y tế tr ường học. + Đối với phụ huynh học sinh: tuyên truyền để các phụ huynh thấy đ ược nếu đóng tiền BHYT cho con em mình thì không phải lo chi phí khám chữa bệnh cả năm. Lực lượng học sinh học nghề, sinh viên các trường chuyên nghiệp không phân biệt công lập hay dân lập đang chiếm một tỷ lệ rất lớn trong dân số. Đây là l ực lượng thanh niên trẻ, khỏe, có ý thức cao, dễ chấp hành chế độ chính sách. Rèn luyện ý thức tham gia BHYT bắt buộc cho họ, phải cho họ hiểu rằng sự đóng góp của họ ngày hôm nay, một mặt là thực hiện nghĩa vụ với bản thân và cộng đồng xã hội trong hiện tại nhưng mặt khác cũng là sự đóng góp cho tương lai khi họ về già, yếu. Để thực hiện được việc bắt buộc học sinh nghề và sinh viên cần phải có quy định rõ ràng, cụ thể như sau: + Tiêu chí bắt buộc cho sinh viên khi tham gia nhập học là phải tham gia BHYT, nếu không tham gia sẽ không được nhập học hoặc không được tiếp tục học. + Hình thức đóng thông qua thu học phí từ nhà trường và có trích tỷ lệ cho nhà trường làm công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho sinh viên.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0