intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "MỘt số Vấn ĐỀ VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG "

Chia sẻ: Nguyễn Phương Hà Linh Halinh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

91
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cải cách đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nói chung và cán bộ chính quyền cấp cơ sở nói riêng là một trong những nội dung quan trọng của cải cách nền hành chính quốc gia.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu khoa học: "MỘt số Vấn ĐỀ VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG "

  1. MỘt số Vấn ĐỀ VỀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG NGUYỄN THỊ NHÀN ThS. Giảng viên Khoa Luật Hành chính - ĐH Luật TP.HCM Cải cách đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nói chung và cán bộ chính quyền cấp cơ sở nói riêng là một trong những nội dung quan trọng của cải cách nền hành chính quốc gia. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 nêu rõ: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng…”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng khẳng định: Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém… Trong suốt mấy chục năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức đã góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt
  2. là công cuộc xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành, tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, nhằm từng bước tạo lập, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng, vừa chuyên”. Bản thân cán bộ, công chức cũng không ngừng rèn luyện, phấn đấu để xứng đáng với chức trách được giao. Xuất phát từ vị trí của chính quyền cấp cơ sở, là cấp chính quyền gần dân nhất, giải quyết trực tiếp, hàng ngày, hàng giờ những vấn đề liên quan thiết thực tới đời sống người dân trên địa bàn, đội ngũ cán bộ xã, phường đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Họ là những người trực tiếp lắng nghe, giải quyết, đề xuất lên cấp trên những đề xuất, nhu cầu chính đáng của người dân. Cán bộ chính quyền cấp cơ sở chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới người dân mà không qua bất kỳ một
  3. cấp trung gian nào. Không có một cấp chính quyền nào có mối liên hệ mật thiết với nhân dân như chính quyền cấp xã, phường. Tuy nhiên, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp cơ sở hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Điều này đã gây không ít khó khăn cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền cấp cơ sở. Đó cũng là nguyên nhân làm giảm sút hiệu lực quản lý của Nhà nước, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chính quyền. Trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nhiều cán bộ xã, phường đã bộc lộ sự bất cập, hụt hẫng về kiến thức quản lý trong điều kiện nền kinh tế thị trường vừa có hợp tác, vừa có cạnh tranh. Một bộ phận cán bộ xã, phường sa sút về phẩm chất chính trị, thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, ý chí tổ chức, kỷ luật kém. Đã có nhiều đơn thư của quần chúng nhân dân khiếu
  4. nại, tố cáo những việc làm sai trái của cán bộ, công chức Nhà nước như ức hiếp quần chúng, quan liêu, tham nhũng… Trong số cán bộ, công chức bị khiếu nại, tố cáo, có không ít những cán bộ chính quyền cấp cơ sở. Trên cơ sở đánh giá, phân tích tình hình phát triển kinh tế – xã hội, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã kết luận: Nguyên nhân của mọi nguyên nhân là vấn đề cán bộ. Bài viết này không đề cập đến cán bộ cấp xã nói chung (như qui định tại điểm 1, mục I của Thông tư số 99/1998/TT-LTTCCP-BCT-BLĐTBXH) mà chỉ bàn về đội ngũ cán bộ thuộc UBND phường (gọi chung là cán bộ phường) qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh. 1. Về thực trạng đội ngũ cán bộ phường – Những tồn tại, bất cập cần khắc phục * Cơ cấu UBND phường được qui định trong nhiều văn bản qui phạm pháp luật như Luật Tổ chức
  5. HĐND và UBND, Nghị định 174/CP, Nghị định số 09/1998/NĐ – CP ngày 23/1/1998 sửa đổi, bổ sung Nghị định 05/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn… Ngày 19/5/1998, Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động thương binh và xã hội đã ban hành Thông tư liên tịch số 99/1998/TT – LTTCCP – BLĐTBXH để hướng dẫn thi hành Nghị định số 09/1998/NĐ-CP. Tại điểm 1, mục I của Thông tư này qui định các chức danh cán bộ xã, phường, thị trấn (gọi chung là cán bộ xã) được bố trí như sau: “1.1. Số lượng cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể: - Đảng ủy xã: 2 cán bộ - Hội đồng nhân dân xã: 2 cán bộ - Ủy ban nhân dân xã: từ 5 đến 7 cán bộ (theo Nghị định 174/CP)
  6. - Đoàn thể 5 cán bộ: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, Hội trưởng Hội phụ nữ, Chủ tịch Hội nông dân, Chủ tịch Hội cựu chiến binh, Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. 1.2. Bốn chức danh chuyên môn thuộc UBND xã: Tư pháp - Hộ tịch; Tài chính – Kế toán; Văn phòng UBND; Thống kê – Tổng hợp”. Thông tư này cũng qui định: UBND Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào số dân, diện tích, khối lượng công việc, địa hình phức tạp, đi lại khó khăn, tình hình chính trị – kinh tế, đặc điểm dân tộc, tôn giáo, an ninh, trật tự an toàn xã hội để bố trí cán bộ cho phù hợp với từng loại xã, phường, thị trấn nhưng không vượt quá số lượng qui định (kể cả cán bộ trong biên chế Nhà nước đang tăng cường cho xã, phường, thị trấn). Trên cơ sở Thông tư số 99 ngày 22/11/1998, UBND TP. Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định số
  7. 6303/QĐ-UB-NC qui định chức danh cho cán bộ phường, xã, thị trấn. Theo Quyết định này, đối với phường được bố trí từ 21 đến 25 cán bộ (kể cả cán bộ Đảng, Đoàn thể, Hội đồng nhân dân), UBND Thành phố còn cho phép các phường bố trí thêm 5 chức danh: Lao động thương binh và xã hội; Sản xuất kinh doanh dịch vụ; Văn hóa xã hội (văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, y tế); Quản lý đô thị; Chỉ huy phó Ban chỉ huy quân sự phường. Quyết định này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành thêm các chức danh cần thiết thuộc UBND phường nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu quản lý rất đa dạng, phức tạp, sôi động trên địa bàn phường. Theo qui định của pháp luật, chủ tịch UBND phường do Hội đồng nhân dân phường bầu ra trong kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa Hội đồng nhân dân theo sự giới thiệu của Hội đồng nhân dân. Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phường và các ủy viên cũng được Hội
  8. đồng nhân dân phường bầu theo sự giới thiệu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường. Trừ Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân phường không nhất thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân phường. Kết quả bầu các thành viên Ủy ban nhân dân phường phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của Ủy ban nhân dân phường, trực tiếp chỉ đạo, điều hành hoạt động của Ủy ban nhân dân, chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp, đồng thời chịu trách nhiệm chính trị trước cấp ủy và Hội đồng nhân dân phường. Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường chịu trách nhiệm chung về nội chính, an ninh, đô thị. Xuất phát từ đặc thù của địa bàn phường về tình hình dân cư; tình hình trật tự, trị an; hoạt động sản xuất – thương mại – dịch vụ đa dạng… nên tập thể Ủy ban nhân dân
  9. phường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phải đảm nhận một khối lượng công việc khá nặng nề. Các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, suy cho cùng được trực tiếp tổ chức thực hiện ở cấp cơ sở và Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường là người trực tiếp lãnh đạo triển khai việc thực hiện. Trong khi đó, Nhà nước ta chưa có một văn bản nào có giá trị pháp lý cao qui định cụ thể các mối quan hệ: giữa tập thể cán bộ Ủy ban nhân dân phường với Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường; giữa Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường với Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, giữa Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường với các ủy viên… Các văn bản như Hiếp pháp 1992, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi năm 1994)… chỉ qui định chung chung: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phân công công tác cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các ủy viên; người được phân công phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Mỗi thành viên Ủy
  10. ban nhân dân chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác của mình… Do các mối quan hệ này chưa được xác định cụ thể nên trong thực tế đã xảy ra hai tình trạng đối lập nhau: Thứ nhất, nhiều Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường quá ôm đồm, có việc đã được phân công cho Phó Chủ tịch, song Chủ tịch vẫn đứng ra giải quyết mà không cần thông báo cho Phó Chủ tịch. Nhiều việc, theo nguyên tắc, khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường vắng mặt, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường được ủy quyền giải quyết. Song, nhiều Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường đã “không cho phép” Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thực hiện quyền này. Do vậy, Phó Chủ tịch thường bị động, biết mình được phân công nhưng không biết có nên làm hay không? Từ đó, không phát huy được vai trò, khả năng của Phó Chủ tịch với tư cách là người giúp việc cho Chủ tịch.
  11. Thứ hai, nhiều Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường lại quá dựa dẫm vào Phó Chủ tịch và các thành viên khác. Ở nhiều địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường đã “khoán trắng” công tác quản lý, điều hành cho Phó Chủ tịch, thậm chí còn “làm ngơ” để Phó Chủ tịch ký văn bản thay mặt (TM) Ủy ban nhân dân phường. Bản thân các Phó Chủ tịch nhiều khi cũng không tích cực thực hiện mảng công việc được phân công mà chỉ đơn thuần nghe báo cáo, đề xuất của các ủy viên. * Về trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ phường Thực tế cho thấy, nhiều Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường năng lực lãnh đạo còn yếu, chưa bao quát hết khối lượng công việc của mình, chưa có khả năng phân tích, tổng hợp nên giải quyết các yêu cầu, đề nghị của dân không thỏa đáng. Việc ban hành các quyết định hành chính trái pháp luật (về xử phạt vi
  12. phạm hành chính; về giải quyết khiếu nại, tố cáo…) vẫn là hiện tượng phổ biến. Đa số cán bộ phường tốt nghiệp phổ thông trung học. Nhiều cán bộ được đào tạo qua các lớp sơ cấp hoặc trung cấp quản lý nhà nước. Một số cán bộ phường đã và đang được đào tạo trình độ cao cấp chính trị, Đại học Luật tại chức… Tuy nhiên, trong số cán bộ giúp việc của Ủy ban nhân dân phường như đánh máy, văn thư, có người chỉ mới tốt nghiệp trung học cơ sở. Trình độ hiểu biết của cán bộ phường nói chung còn hạn chế, là điều rất đáng lo ngại hiện nay. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này: một số cán bộ không có ý thức tự giác học tập nâng cao trình độ nên kiến thức vốn đã ít ỏi lại càng mai một, không đáp ứng được yêu cầu công tác… với những cán bộ muốn đi học thì lại không sắp xếp được thời gian theo học, hoặc phải tự đóng tiền học phí, cơ quan chỉ hỗ trợ một phần kinh phí vì ngân sách có hạn. Quá
  13. trình hoạt động của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, do vậy, gặp nhiều khó khăn. Ví dụ: một mảng công tác quản lý mà phường đảm nhận là công tác hộ tịch. Tuy nhiên số cán bộ làm công tác hộ tịch lại thay đổi luôn, họ không đủ thời gian tích lũy kinh nghiệm, không được đào tạo chính qui… Về pháp lý cũng như thực tiễn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường có rất nhiều nhiệm vụ, quyền hạn về kế hoạch, ngân sách, tài chính, tiểu thủ công nghiệp, giao thông, thương mại, văn hóa – giáo dục… Công việc nhiều, năng lực cán bộ phường hạn chế, thậm chí còn kiêm nhiệm nên tình trạng cán bộ phường giải quyết các yêu cầu, đề nghị của dân không đúng nội dung, đúng trình tự pháp luật qui định, không hợp “ý Đảng, lòng dân” vẫn là điều thường gặp. Nhiều cán bộ phường khi giải quyết công việc thường dựa vào kinh nghiệm, xử lý tùy tiện, không kịp thời hoặc lúng túng, nhất là các vụ tranh chấp nhà đất, vay mượn nợ, xử lý vi phạm hành chính. Thực ra vẫn có
  14. nhiều cán bộ phường có năng lực nhưng do tổ chức, quản lý kém nên không phát huy được hiệu quả. Ở nhiều phường thuộc TP. Hồ Chí Minh còn tình trạng phân công không rõ ràng giữa các chức danh, thậm chí cán bộ phường còn phải kiêm nhiệm luôn nhiệm vụ làm thành viên Ban điều hành tổ dân phố. Hơn nữa, ở nhiều địa phương, tuy đội ngũ cán bộ phường được sàng lọc, trình độ nói chung được nâng lên, song, cơ quan Nhà nước cấp trên lại không chú trọng đến việc đảm bảo ổn định cho đội ngũ cán bộ đó. Khi cần thiết, Ủy ban nhân dân cấp trên lại điều động lên cơ quan mình hoặc chuyển sang các đơn vị sản xuất – kinh doanh, đơn vị hành chính – sự nghiệp dù phường đang thiếu cán bộ. Từ đó lại buộc Ủy ban nhân dân phường phải thay đổi, bố trí lại cán bộ trong cơ quan mình. Do vậy, đội ngũ cán bộ phường xáo trộn, hiệu quả công tác giảm sút là điều không tránh khỏi.
  15. Một bộ phận cán bộ phường lợi dụng chức quyền tham nhũng, hối lộ, chi tiêu lãng phí, sử dụng các khoản thu của dân không đúng mục đích, không công khai… Sự vi phạm quy chế dân chủ ở xã, phường chưa có sự chấn chỉnh, xử lý kịp thời của các cơ quan Nhà nước hữu quan. * Về chế độ, chính sách đãi ngộ cán bộ phường Cải cách chế độ tiền lương, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức Nhà nước nói chung và cán bộ phường nói riêng là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm trong nhiều năm qua. Nhưng có thể nói rằng, về chế độ đãi ngộ, bao giờ cán bộ phường cũng chịu “thiệt thòi” so với những người cùng làm việc trong bộ máy Nhà nước. Hiện nay, ngoài số cán bộ thuộc biên chế Nhà nước tăng cường cho xã, phường thì hưởng mọi chế độ, chính sách hiện hành như đối với công chức Nhà nước (Theo Nghị định số 09), số cán bộ phường còn
  16. lại chỉ được hưởng sinh hoạt phí. Ngày 26/2/2000, Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ – Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 72/2000/TTLT – BTCCBCP – BTC quy định về mức sinh hoạt phí đối với cán bộ xã (bao gồm xã, phường, thị trấn đang công tác) như sau: - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã: từ 325.000 đồng/tháng lên 379.200đồng/tháng. - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã: từ 300.000 đồng/tháng lên 350.000đồng/tháng. - Ủy viên Ủy ban nhân dân xã: từ 287.500 đồng/tháng lên 335.400 đồng/tháng - Các chức danh khác thuộc Ủy ban nhân dân xã: từ 262.500 đồng/tháng lên 306.300 đồng/tháng. - Riêng đối với cán bộ thuộc 4 chức danh chuyên môn (Tư pháp – hộ tịch; địa chính; tài chính – kế toán; văn phòng Ủy ban nhân dân) đã được vận dụng xếp mức sinh hoạt phí theo hệ số của ngạch, bậc quy
  17. định tại Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ thì mức sinh hoạt phí bằng mức lương tối thiểu (210.000 đồng/tháng) nhân với hệ số mức sinh hoạt hiện hưởng đã được vận dụng xếp theo tiền lương công chức. Với quy định trên cho thấy đời sống của cán bộ phường cũng được cải thiện một phần. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, trong tình hình hiện nay, mức sinh hoạt phí này không đủ đáp ứng nhu cầu vật chất tối thiểu của cán bộ phường, không đủ tái tạo sản xuất giản đơn và làm hao mòn dần quá trình đào tạo mà cán bộ phường đã trải qua. Do mức sinh hoạt phí không phù hợp nên đã ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần, thái độ làm việc của cán bộ phường. Nhiều cán bộ phường có năng lực, trình độ tự đi tìm việc làm ở nơi khác có thu nhập cao hơn để ổn định cuộc sống. Hoặc nếu còn làm việc tại Ủy ban nhân dân họ đã tìm mọi cách xoay sở như: tham ô, bán đất, lạm thu lệ
  18. phí…. Điều này đã làm giảm sút nghiêm trọng lòng tin của dân đối với chính quyền. Trong Ủy ban nhân dân phường, trừ những người được điều động, biệt phái từ cơ quan Nhà nước cấp trên, số cán bộ phường còn lại không được coi là công chức Nhà nước. Ngay cả đối với 4 chức danh chuyên môn công tác tại phường, mặc dù tiêu chuẩn, quy chế tuyển chọn các chức danh này rất chặt chẽ, phải “căn cứ theo tiêu chuẩn nghiệp vụ của Bộ Tài chính, Ban tổ chức cán bộ Chính phủ và Tổng cục thống kê quy định”, nhưng cán bộ thuộc 4 chức danh chuyên môn này cũng không phải là công chức Nhà nước. Họ chỉ được Nhà nước vận dụng xếp mức sinh hoạt theo hệ số của ngạch, bậc quy định tại Nghị định 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ. Ngoài các thành viên Ủy ban nhân dân xã được bầu cử, các chức danh khác đều phải thông qua hợp đồng tuyển dụng (kể cả 4 chức danh chuyên môn cũng phải ký
  19. hợp đồng dài hạn với Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường sau khi có ý kiến của Sở chuyên ngành). Hiện nay, cán bộ phường khi đang còn làm việc được hưởng sinh hoạt phí theo quy định tại Nghị định số 09, khi nghỉ việc được hưởng trợ cấp hàng tháng (với điều kiện thời gian công tác và đóng bảo hiểm xã hội đủ 15 năm trở lên; khi nghỉ việc nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi) và khi chết được hưởng chế độ mai táng phí. Tuy nhiên, số chức danh được hưởng theo Thông tư số 99 còn hạn hẹp (danh sách cán bộ phường đóng bảo hiểm xã hội được Phòng Lao động thương binh và xã hội duyệt và Ban tổ chức chính quyền thành phố quyết định). Ngoài các chức danh do thông tư số 99 quy định, ở phường còn phải thêm nhiều chức danh khác mới đáp ứng yêu cầu công việc. Với Quyết định 6303 của Ủy ban nhân dân TP. HCM, 5 chức danh quy định thêm được hưởng sinh hoạt phí. Tuy nhiên, cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam từ chối
  20. công nhận quá trình làm việc từ năm 1988 trở về trước của các chức danh này. Ngày 4/4/2001, Bảo hiểm xã hội TP.HCM đã gửi công văn đề nghị Ủy ban nhân dân TP.HCM xem xét quyết định bổ sung chế độ bảo hiểm xã hội bằng ngân sách của Thành phố cho cán bộ xã, phường đã và đang làm việc nhưng không thuộc chức danh được quy định tại Nghị định số 09. Một điểm bất hợp lý khác là cán bộ phường không được hưởng chế độ bảo hiểm y tế. Để tạo điều kiện cho cán bộ phường an tâm làm việc, có quận đã tự dùng ngân sách của quận mua bảo hiểm y tế cho cán bộ phường. 2. Một số kiến nghị Công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia nói chung, cải cách đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nói riêng đang được tiến hành khẩn trương với quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước, các cấp chính
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2