intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Ảnh hưởng của mật độ nuôi thả đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và năng suất của 2 cỡ ngao giống Meretrix lyrata nuôi ở các vùng bãi triều và các lưu ý trong việc sản xuất giống ngao spat "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:18

105
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài báo này chủ yếu tập trung vào việc xác định mức độ ảnh hưởng của mật độ nuôi thả ngao trong nuôi thương phẩm. Nó cũng cung cấp thong tin một cách tóm tắt về việc sản xuất giống ngao cỡ spat, một trong những kết quả đạt được góp phần hướng tới thực hành nuôi trồng thuỷ sản tốt. Thí nghiệm với 3 lần lặp lại, được bố trí trong các ô thí nghiệm có thể tích 50 m2, ngẫu nhiên ở các vùng bãi triều để đánh giá ảnh hưởng của mật độ thả đến sự sinh trưởng, tỷ lệ sống và năng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Ảnh hưởng của mật độ nuôi thả đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và năng suất của 2 cỡ ngao giống Meretrix lyrata nuôi ở các vùng bãi triều và các lưu ý trong việc sản xuất giống ngao spat "

  1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hợp tác về Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (CARD) 027/05VIE Ảnh hưởng của mật độ nuôi thả đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và năng suất của 2 cỡ ngao giống Meretrix lyrata nuôi ở các vùng bãi triều và các lưu ý trong việc sản xuất giống ngao spat Như Văn Cẩn(*)(1), Chu Chí Thiết(1) and Martin S Kumar(2) (1) Phân Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản Bắc Trung Bộ (ARSINC) (2) Viện Nghiên cứu và Phát triển Nam Úc (SARDI), Australia Báo cáo tham gia hội thảo “Better Aquaculture Practices” Nha Trang, 7/2009 1
  2. Tóm tắt Bài báo này chủ yếu tập trung vào việc xác định mức độ ảnh hưởng của mật độ nuôi thả ngao trong nuôi thương phẩm. Nó cũng cung cấp thong tin một cách tóm tắt về việc sản xuất giống ngao cỡ spat, một trong những kết quả đạt được góp phần hướng tới thực hành nuôi trồng thuỷ sản tốt. Thí nghiệm với 3 lần lặp lại, được bố trí trong các ô thí nghiệm có thể tích 50 m2, ngẫu nhiên ở các vùng bãi triều để đánh giá ảnh hưởng của mật độ thả đến sự sinh trưởng, tỷ lệ sống và năng suất ngao Meretrix lyrata (Sowerby, 1851). Hai cỡ ngao giống kích thước (chiều cao vỏ) là 1.0±0.2 và 1.7±0.1 cm được thả lần lượt với mật độ 0,05; 0,1; 0,2; 0,3 kg.m-2 và 0,34; 0,68; 1,36; 2,03 kg.m-2, được đặt tên theo thứ tự các công thức: T1, T2, T3, T4 và T5, T6, T7, T8. Kết quả chỉ ra rằng mật độ nuôi không ảnh hưởng tới tỷ lệ thịt ngao. Ngao giàu thành phần các axít béo không no, đặc biệt là axít docosahexaenoic, nhưng ở các tỷ lệ khác nhau. Ngược lại, mật độ ảnh lưởng lớn tới sự sinh trưởng và tỷ lệ sống của ngao, trong đó với mật độ nuôi thấp cho tốc độ tăng trưởng (SGR) và tỷ lệ sống cao hơn. Do đó, mặc dù sản lượng cuối cùng tăng rõ rệt thì tăng mật độ thả vẫn làm giảm sinh khối thu được. Tuy nhiên, SGR và tỷ lệ sống của ngao trong các công thức T1, T2 và T3 khác nhau không có ý nghĩa, điều này giải thích cho việc thu được lợi nhuận cao nhất và qua mức đầu tư ở công thức 3. Do đó, để tối đa hóa lợi nhuận trong nuôi ngao thì mật độ thả được khuyến cáo là 0,2 kg.m2. Việc xây dựng các trại sản xuất giống thong qua sự phát triển công nghệ sản xuất giống là mục tiêu quan trọng của dự án VIE 027/05. Nuôi ngao thương phẩm trong ao cũng là một mục tiêu của dự án. Sản xuất nhân tạo ngao giống spat sẽ góp phần vào việc giảm áp lực khai thác con giống từ tự nhiên. Điều này đóng một vai trò quan trọng của dự án nhằm hướng tới thực hành nuôi trồng thuỷ sản tốt. 2
  3. Ảnh hưởng của mật độ nuôi thả đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và năng suất của 2 cỡ ngao giống Meretrix lyrata nuôi ở các vùng bãi triều. Giới thiệu Trong 2 thập kỷ vừa qua, sản lượng động vật thân mềm đã tăng một cách đáng kể (Gibbs, 2004) và đạt tổng sản lượng là 13.25 triệu tấn, chiếm khoảng 23.3% tổng sản lượng thủy sản thế giới năm 2004 (Tacon và Halwart, 2006). Trong số các loại động vật thân mềm, thì loài 2 mảnh vỏ không chỉ là sản phẩm hải sản được ưu thích, mà còn mang lại hiệu quả kinh tế đối với loại hình nuôi sinh thái này. Bên cạnh đó, các loài 2 mảnh vỏ là một loài ăn lọc nước, vì thế có thể được sử dụng chúng như là một hệ thống lọc sinh học để cải thiện chất lượng nước (Mazzola and Sara, 2001; Shpigel and Blaylock, 1991; Shpigel et al., 1997; Shpigel et al., 1993), do đó chúng đóng góp vào phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững. Ngao thuộc loài 2 mảnh vỏ, nhưng chúng khác những loại khác bởi vì chúng sống ở đáy. Các nghiên cứu nuôi thương phẩm các loài ngao khác nhau đã được tiến hành (Cigarrıa và Fernandez, 2000; Shpigel và Spencer, 1996; Zhang và Yan, 2006) và đã sử dụng ngao là sinh vật cải thiện chất lượng nước (Jara-Jara et al., 1997; Shpigel và Fridman, 1990). Ở Việt Nam, ngao nước lợ địa phương Meretrix lyrata là một loài nuôi phổ biến cho nuôi trồng thủy sản ven biển, do chúng là loại hải sản ưa thích ở cả thị trường trong và ngoài nước. M. lyrata phân bố tự nhiên ở các vùng bãi triều thuộc các bờ biển phía Nam, được biết đến như “Ngao Bến Tre” bởi vì sản lượng đánh bắt hầu như có nguồn gốc từ Bến Tre, phía Nam của Việt nam. Gần đây, vì nhu cầu tiêu thụ ngao tăng cao, M. lyrata đã đang được nuôi và mở rộng đến các tỉnh phía Bắc như Nam định, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Tuy nhiên, sản lượng ngao vẫn chưa ổn định và khó dự đoán do thiếu năng lực quản lý, các thông tin kỹ thuật về nuôi ngao vẫn còn hạn chế. Do đó, nghiên cứu để thiết lập các quy trình nuôi chuẩn để nâng cao sản lượng và lợi nhuận trong nuôi ngao là cần thiết. Trong số các yếu tố ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và sản lượng thì thức ăn và phương thức ăn là một trong các yếu tố quan trọng. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng tỷ lệ ăn sạch thức ăn có ảnh hưởng tỷ lệ thuận tới kích thước cơ thể và trong một phạm vi tập trung thức ăn thì nền đáy (Zhuang và Wang, 2004), độ mặn và nhịp điệu có ảnh hưởng tới phương thức ăn của ngao (Zhuang, 2006). Để tối đa hóa sản lượng và lợi nhuận, Zhang và Yan (2006) đã mô tả một phương pháp nuôi 3 giai đoạn cho trang trại nuôi ngao Manila ở Trung quốc. Trong phương pháp này, giống được sản xuất nhân tạo trong trại sản xuất và nuôi qua mùa đông. Giai đoạn nuôi lớn được bố trí ở vùng bãi triều với mật độ, kich cỡ giống và nền đáy phù hợp. Ở các vùng bãi triều phụ thuộc vào thức ăn tự 3
  4. nhiên, khó kiểm soát và hay thay đổi, thì mật độ nuôi trở thành yếu tố quan trọng để tăng sự sinh trưởng và sản lượng của ngao. Mục đích của nghiên cứu này là để đánh giá ảnh hưởng của mật độ thả giống của 2 cỡ ngao M. lyrata khác nhau đến sự sinh trưởng và tỷ lệ sống để nâng cao sản lượng và lợi nhuận trong nuôi ngao. Các yếu tố khác trong hệ thông nuôi không bị thay đổi vì hệ thống nuôi là một hệ sinh thái tự nhiên giống như điều kiện đánh bắt ở ngoài tự nhiên. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu Thí nghiệm được bố ở các vùng bãi triều thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Thí nghiệm bao gồm 8 công thức với 3 lần lặp lại và được bố trí ở 24 ô, diện tích mỗi ô 50 m2 . Ngao giống nhỏ với kích cỡ 1.0±0.2 cm được rải ở 4 mật độ khác: 0.05, 0.10, 0.20 và 0.30 kg.m-2 và theo thứ tự là các công thức T1, T2, T3 và T4. Ngao giống với kích cỡ lớn hơn 1.7±0.1 cm được nuôi ở 4 mật độ khác nhau 0.34, 0.68, 1.36 và 2.03 kg.m2, theo thứ tự là các công thức T5, T6, T7 và T8. Thí nghiệm được thực hiện trong thời gian165 ngày. Các yếu tố như nhiệt độ (nhiệt kế), DO, pH và độ đục (đĩa sechi), độ muối (khúc xạ kế) của nước trong các ô thí nghiệm được đo hàng ngày ở 3 điểm thí nghiệm khác nhau trong cùng một khu vực thí nghiệm. Sự tăng trưởng của ngao, được thể hiện bằng trung bình cao của vỏ (cm) và trọng lượng tươi trung bình (g), được đo 2 tuần một lần bằng cách lấy ngẫu nhiên 30 con ngao. Tỷ lệ tăng trưởng (SGR) được tính toán dựa theo công thức của Jara-Jara et al., (1997). SGR(%.ngày-1) = 100*(LnWf-LnWi)/t Trong đó: Wi and Wf theo thứ tự là trọng lượng ban đầu và trong lượng cuối cùng, t là số lượng ngày thí nghiệm. Sự thay đổi kích cỡ của ngao được đánh giá theo Wang et al. (1998) trong đó hệ số tương quan trung bình (CV) của 3 lần lặp lại được sử dụng để kiểm tra sự khác nhau giữa các cá thể ngao ở mỗi công thức: CV(%)=100*SD/M, trong đó M là trọng lượng tươi trung bình, SD là độ lệch chuẩn của ngao ở mỗi công thức Tỷ lệ thịt (% trọng lượng thịt trên tổng trọng lượng tươi) của ngao được tính bằng cách tách riêng ngẫu nhiên trọng lượng thịt của 20 con ngao. Sử dụng khăn giấy để loại bỏ nước. Kết thúc thí nghiệm, lấy mẫu ngao ngẫu nhiên và được bảo quản trong dung dịch nitơ (YDS-3, -196%) để phân tích axít béo. Hàm lượng axít béo (mg.g-1 trọng lượng khô) được triết xuất bằng cách đặt mẫu ngao trong ống thí nghiêm 35 mL có nút Teflon, sau đó thêm 5 mL hỗn hợp methanol/toluene (3:2 v/v) và thêm chính xác 0.1 mL dung dịch tiêu chuẩn có chứa 4.78 mg.mL-1 20:2(n-6) axít béo hòa tan trong iso-octane. Sau đó thêm hỗn hợp acetylchloride/methanol (1:20 v/v) đã chuẩn bị cho mỗi lần phân tích như 4
  5. là hóa chất este. Ống thí nghiệm chứa đầy khí nitơ và được đậy chặt trước khi khuấy đều và đun cách thủy ở nhiệt độ 100oC. Sau 1 giờ, để cho ống thí nghiệm nguội, thêm vào 5 mL nước cất và 5 mL hexane và sau đó tiến hành ly tâm mẫu. Hỗn hợp hexane được làm khô bằng cách lọc qua natri sulphate khan rất nhanh và các FAME được hòa tan trong 0.5 mL iso octane và chuyển sang lọ thủy tinh nhỏ để đưa vào Finnigan Trace GC untra bằng ống dẫn BP-70 (50m x 0.32mm x 0.25µm) Số liệu của các công thức được kiểm tra về sự khác nhau bằng Turky test trong phân tích một nhân tố ANOVA để so sánh các trung bình ở mức ý nghĩa p < 0.05. Các số liệu được thể hiện bằng TB ± SD (độ lệch chuẩn) và phân tích thống kê được tính toán bằng cách sử dụng phần mềm GraphPad Prism 4.0 và Microsoft Office EXCEL cho Window Kết quả và thảo luận Điều kiện môi trường của thí nghiệm Thí nghiệm được bố trí ở các vùng bãi triều gần cửa sông nơi mà ngao được nuôi nhiều trong những năm gần đây. Các yếu tố môi trường như DO, nhiệt độ, pH và độ măn (Bảng 1) nằm trong điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của ngao. Sự biến đổi nồng độ muối cao là đặc trưng cho các vùng sinh thái cửa sông. Nhiệt độ trung bình là từ 23.59±2.40oC, nhiệt độ này thấp hơn so với nhiệt độ nước bình thường ở miền Nam, Việt nam, nơi mà M. lyrata phân bố tự nhiên. Điều này có nghĩa là ngao không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố đó, vẫn tăng trưởng tốt và tỷ lê sống bình thường. Tuy nhiên, nhiệt độ thấp có thể ảnh hưởng tới sinh trưởng, và sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của M. lyrata có thể không cao như là M. lyrata nuôi ở miền Nam. Soudanta et al. (2004) đã mô tả, ngao Manila được thí nghiệm ở 4 địa điểm nuôi với các đặc điểm sinh thái khác nhau, nhận thấy các điều kiện môi trường đã ảnh hưởng tới các yếu tố sinh lý và miễn dịch học. Sự tăng trưởng Sự tăng trưởng của cả 2 cỡ giống ngao M. lyrata ở các mật độ nuôi khác nhau được thể hiện bằng tỷ lệ tăng trưởng SGR, trong lượng vỏ cuối cùng và trọng lượng tươi cuối cùng cũng như sự khác nhau về kích cỡ được tổng hợp trong Bảng 2 và 3. Đối với nhóm cỡ giống nhỏ, không có sự khác nhau về tỷ lệ tằng trưởng SGR và trong lượng cuối cùng giữa các công thức T1, T2 và T3 (Bảng 2), điều này chỉ ra rằng mật độ nuôi dưới 0.2 kg.m-2 không ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của ngao. Kích cỡ cuối cùng của ngao M. lyrata khác nhau nhiều ở công thức có mật độ thấp (T1) và mật độ cao (T4) so với các công thức có mật độ trung bình (T3 và T4). Sản lượng thịt được thể hiện bằng tỷ lệ phần trăm lượng thịt trên tổng trong lượng ngao, yếu tố này được xem như là phần quan trọng nhất của ngao và không khác nhau có ý nghĩa (p > 0.05) giữa các công thức. Sự tăng trưởng của ngao M. lyrata ở cỡ giống 1.7 cm giảm khi mật độ nuôi tăng (Bảng 3). Ở mật độ nuôi cao (T7 và T8), tỷ lệ tăng trưởng SGR là thấp và khác nhau 5
  6. không có ý nghĩa. Kích thước và trọng lượng cuối cùng của ngao ở công thức T8 thấp hơn có ý nghĩa so với các công thức khác. Tuy nhiên, mật độ nuôi khác nhau không ảnh hưởng đến sự biện đổi về kích cỡ của ngao. Nhìn chung, ở giai đoạn nhỏ, các loài động vật có tỷ lệ tăng trưởng tốt hơn. Trong trường hợp của ngao, với cùng một mật độ, ngao giống cỡ nhỏ (1.0 cm) sinh trưởng tốt hơn ngao giống cỡ lớn (1.7 cm). Ở các vùng bãi triều, điều kiện môi trường và thức ăn tự nhiên không được kiểm soát và hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. Sự thay đổi thủy triều, sóng tạo ra nguồn tảo sẵn có và các vật chất hữu cơ làm thức ăn cho ngao. Tuy nhiên, vì ngao là loài ăn lọc và sống thụ động ở đáy, nên khi trọng lượng của ngao tăng đến một mức độ nhất định, nguồn thức ăn tự nhiên sẽ không đủ cung cấp cho sự tăng trưởng. Hơn thế nữa, ở các công thức có cùng một cỡ giống, việc tăng về trọng lượng dẫn tới tăng sự canh tranh của các yếu tố môi trường khác như môi trường sống, DO và tăng quá trình thải các chất thải tích tụ như phân, những yếu tố này cản trở sự sinh trưởng của ngao (Yan et al., 2006). Đồng thời thí nghiệm ở cùng một điều kiện nhiệt độ, thì tỷ lệ làm sạch thức ăn và tỷ lệ tiêu hóa tăng theo cấp số mũ so với việc tăng kích cỡ (Zhuang and Wang, 2004). Kết quả tăng trưởng (Bảng 3) chỉ ra rằng ở mật độ nuôi cao (hơn 0.3 kg.m-2), thì sự tăng trưởng của ngao có thể bị cản trở và tỷ lệ tăng trưởng giảm theo sự tăng của trọng lượng. Cần chú ý rằng mùa đông, nhiệt độ thường thấp, không thích hợp cho sự tăng trưởng của M. lyrata, một loài ngao nhiệt đới. Tỷ lệ sống Tổng trọng lượng giống thả ảnh hưởng tới tỷ lệ sống ở cả hai cỡ ngao giống. Tỷ lệ sống đạt cao ở công thức có trọng lượng thả giống nuôi thấp (T1) và gần như giống nhau ở các công thức T2 và T3. Tỷ lệ sống ở công thức T1 khác nhau có ý nghĩa (p < 0.05) so với công thức 4 (Đồ thị 1). Ở nhóm với cỡ giống lớn, tỷ lệ sống của ngao ở công thức T5 là cao nhất, tiếp theo là công thức T6. Tỷ lệ sống ở công thức T7 và T8 là rất thấp và khác nhau không có ý nghĩa (Đồ thị 2). Mặt khác, kết quả trong đồ thị 1 và 2 chỉ ra rằng tỷ lệ sống của ngao không chi bị ảnh hưởng khối lượng thả giống mà còn bị ảnh hưởng bởi mật độ thả giống. Điều kiện môi trường và nguồi thức ăn sẵn có được xem như là những lý do chính cho sự ảnh hưởng của khối lượng thả giống lên tỷ lệ sống. Kích cỡ giống thả được nhận thấy là có ảnh hưởng tới sự sống sót của ngao Manila, trong đó, cỡ giống nhỏ thì tỷ lệ chết cao, không chỉ bởi vì do nền đáy hoặc địch hại (Cigarrıa and Fernandez, 2000), mà bởi vì kích cỡ giống của các loài này khi nuôi ở bãi triều là nhỏ 1.0 cm (Zhang and Yan, 2006). Trong thí nghiệm của chúng tôi, ở cùng một mật độ thả giống (0.30 and 0.34 kg.m-2), tỷ lệ sống của công thức T4 (1.0 cm) là rất thấp (55%) so với công thức T5 (1.7 cm) có tỷ lệ sống 90%. Trong cùng một kích cỡ giống 1.7 cm, công thức T7 và T8 có tỷ lệ sống thấp hơn so với công thức T5 và T6, điều này có nghĩa là các mật độ thả giống là quá cao để ngao phát triển. 6
  7. Sản lượng và chất lượng Sản lượng của ngao xuất phát từ cả sự tăng trưởng và tỷ lệ sống. Sản lượng ngao tỷ lệ thuận với mật độ thả giống, mặc dù sự tăng trưởng và tỷ lệ sống bị ảnh hưởng không tốt. Trong nhóm ngao giống cỡ nhỏ, sản lượng tăng theo sự tăng sinh khối và khác nhau không có ý nghĩa (p > 0.05) giữa các công thức T1 và T2 hoặc T3 và T4 (Bảng 4). Ngược lại, tỷ lệ phần trăm tăng sinh khối có xu hướng giảm khi tăng mật độ thả giống. Không có sự khác nhau giữa các công thức T1 và T4. Thực tế thì việc tăng sinh khối có ảnh hưởng tiêu cực tới sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của ngao. Ở nhóm ngao giống cỡ lớn (1.7 cm), sản lượng cuối cùng của ngao tăng có ý nghĩa (p < 0.05) khi tăng trọng lượng thả giống. Ngược lại, tỷ lệ phần trăm tăng sinh khối giảm khi tăng mật độ thả giống ở các công thức T5, T6 và T7 (Bảng 5). Tuy nhiên, sự khác nhau không có ý nghĩa (p > 0.05) về tăng sinh khối ở công thức T5 và T6 hay ở các công thức T7 va T8. Trong cả 2 cỡ ngao giống, việc tăng mật độ thả giống đã ảnh hưởng không tốt đến sản lượng ngao. Tỷ lệ sinh khối thu được cao đã khăng định rằng mật độ thả giống là một yếu tố cản trở đến sự phát triển của ngao. Tuy nhiên, sự tăng về sinh khối cũng nhu sản lượng chỉ ra rằng lợi nhuận có thể đạt được nếu xác định được mật độ thả giống hợp lý. Do đó hiệu quả kinh tế là yếu tố cơ bản để tối đa hóa lợi nhuận đầu tư. Thành phần axít béo Thành phần axít béo khác nhau ở các công thức có mật độ thả giống khác nhau. FAME tổng số biến đổi từ 134.4 đến 193.7 mg.g-1 trọng lượng khô (Bảng 6). Tuy nhiên, hoàm lượng HUFA cao, đặc biệt là DHA (29.00 - 62.77 mg.g-1 trọng lượng khô) chỉ ra giá trị của ngao là một sản phẩm thủy sản. Tỷ lệ axít béo khác nhau của ngao có thể liên quan đến sự phát triển buồng trứng và/hoặc giai đoạn sinh trưởng tích lũy axít béo. Kết quả của chúng tôi đã xác định sự khác nhau về hàm lượng axít béo của ngao Ruditapes decussates ương trong nước biển và nước thải từ trang trại nuôi cá ở Galicia (Jara-Jara et al., 1997). Sự khác nhau về thành phần axít béo và các yếu tố ảnh hưởng đến nó cần được nghiên cứu hơn nữa. Đánh giá hiệu quả kinh tế Ước tính lợi nhuận kinh tế trong nuôi ngao ở bãi triều được chỉ ra ở Bảng 7. Lợi nhuận thực được tính toán dựa trên tổng chi phí và tổng thu nhập và giá của ngao. Chi phí chính cho nuôi ngao M. lyrata là mua giống. Chi phí cho giống chiếm khoảng 46-81% đối với ngao cỡ nhỏ (1.0 cm) ở 4 công thức (T1, T2, T3 & T4). Các chi phí khác không đổi. Mạc dù tổng sản lượng tăng khi tăng mật độ thả giống, phân tích kinh tế rõ rang chỉ ra rằng lợi nhuận thực tế giảm hơn ở mật độ thả giống 2 tấn.ha-1 (T3). Công thức T4 với mật độ thả 3 tấn.ha-1 có sản lượng ít hơn lợi nhuận thực tế so với công thức T3. Điều này có thể được giải thích là do tỷ lệ chí phí cho viêc mua giống cao trong khi sinh 7
  8. khối đạt được thấp hơn bởi vì sự tăng trưởng và tỷ lệ sống thấp. Do đó, mật độ nuôi 2 tấn.ha-1 được khuyến cáo cho nuôi ngao M. lyrata ở cỡ giống 1.0 cm. Đối với các công thức T5, T6, T7 và T8, chi phí cho giống tăng từ 73.8% đến 92.9%. Bởi vì giá mua giống cao hơn giá bán ngao sản phẩm, trong khi sinh khối thu được giảm khi tăng mật độ nuôi, lợi nhuận thực tế bị giảm và thấp hơn so với các công thức ương ngao với cỡ giống 1 cm. Chúng tôi khuyến cáo rằng ngao giống cỡ 1.7 cm không nên ương ở mật độ hơn 6.8 tấn.ha-1 Kết luận Kết quả của thí nghiệm này chỉ ra rằng M. lyrata tăng trưởng rất tốt ở các vùng bãi triều ở bờ biển miền Bắc của Việt nam trong mùa đông với nhiệt độ 23.59±2.40oC. Mật độ nuôi ảnh hưởng lớn tới sự sinh trưởng và tỷ lệ sống của ngao. Đối với ngao giống với chiều dài vỏ 1.7 cm, trong số 4 mật độ nuôi khác nhau 0.34, 0.68, 1.36 and 2,04 kg.m-2, thí mật độ cao hơn thì tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn cũng như tỷ lệ sống thấp hơn, kết quả là làm giảm lợi nhuận thực, thậm trí cho dù sinh khối cuối cùng tăng lên. Đối với ngao giống cỡ nhỏ với chiều dài vỏ là 1.0 cm, trong các mật độ nuôi 0.05, 0.1, 0.2 and 0.3 kg.m-2, tỷ lệ tăng trưởng tốt hơn ở mật độ nuôi thấp hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ sống ở mật độ nuôi 0.3 kg.m-2 thấp hơn có ý nghĩa so với các công thức khác. Do đó lợi nhuận thực tế cao nhất cũng như sự hoàn vốn đạt được ở mật độ nuôi 0.2 kg.m-2. Vì thế chúng tôi khuyến cáo sử dụng mật độ nuôi 0.2 kg.m-2 để tối đa hóa lợi nhuận trong nuôi ngao. Chất lượng ngao được thể hiện qua tỷ lệ thịt ngao và giống nhau ở các kích thước và mật độ nuôi khác nhau. Thêm vào đó, thành phần axít béo của ngao giàu HUFA, đặc biệt là DHA và EPA và đồng thời khác nhau ở những công thức thí nghiệm khác nhau. Điều này có lẽ liên quan tới nguồn thức ăn tự nhiên sẵn có hoặc ở những giai đoạn phát triển khác nhau của giai đoạn thành thục và nghiên cứu trên các vấn đề này cần được giải quyết. 8
  9. Các lưu ý trong việc sản xuất giống ngao spat. Phát triển công nghệ sản xuất giống Trước khi triển khai dự án ngao (năm 2005), ngao Bến Tre Meretrix lyrata chỉ giới hạn được nuôi trên các vùng bãi triều miền Nam và miền Bắc Việt Nam. Thực tế việc nuôi bãi triều chủ yếu dựa vào con giống tự nhiên; bởi vì không có trại sản xuất giống ngao nào ở Việt Nam trong thời điểm này. Công nghệ sản xuất giống ngao (sản xuất giống thương mại) chưa được phát triển Việt Nam. Việc thiếu con giống là một trở ngại chính trong việc phát triển nghề nuôi ngao ở Việt Nam. Chi phí chính của nghề nuôi ngao là con giống. Một trong những mục tiêu chính của dự án này là phát triển công nghệ sản xuất giống ngao và xây dựng tài liệu về quy trình sản xuất giống ngao thương mại. Nghiên cứu thành công đã được tiến hành tại trại sản xuất giống hải sản của ARSINC ở Cửa Lò, tỉnh Nghệ An, xác định được điều kiện thích hợp, đặc biệt là nhiệt độ và chất lượng nước (ngưỡng độ mặn), nhu cầu thức ăn, mật độ phù hợp của ấu trùng trong ương nuôi giai đoạn bơi tự do và chuyển giai đoạn sống đáy. Các thiết bị, cơ sở vật chất cho việc thanh công trong sản xuất và ương con giống cũng đã được xác định. Dựa vào các nhân tố đã thử nghiệm thì độ mặn là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ngao. Kết quả chỉ ra rằng ấu trùng ngao có thể chịu đựng được độ mặn trong khoảng từ 10ppt đến 30ppt. Ở độ mặn 35ppt, tất cả ấu trùng bị chết trong ngày thứ 6 sau khi nở. Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng ương ở thí nghiệm độ mặn 20ppt và 25ppt cao hơn có ý nghĩa thống kê (p
  10. giống và các nhu cầu về nguồn lực trong việc vận hành trại giống. Các yếu tố quan trọng dưới đây được xem xét để lựa chọn vị trí và xây dựng trại sản xuất giống. • Nguồn nước và việc kiểm soát chất lượng nguồn nước • Cơ sở hạ tầng thiết bị để sản xuất đại trà ít nhất cho 3 loài tảo biển đơn bào • Thiết bị và diện tích đủ cho việc nuôi vỗ và kích thích sinh sản ngao bố mẹ • Trang thiết bị cho ương ấu trùng bơi tự do và ấu trùng sống đáy • Thiết bị và diện tích phù hợn cho ương nuôi con giống spat Một hội thảo đã được tổ chức tại Nghệ An ngày 23 và 24 tháng 9 năm 2007 nhằm giới thiệu kết quả của việc nuôi ngao. Các thanh viên tham gia từ 6 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ đã bày tỏ quan tâm của họ về công nghệ sản xuất ngao giống nhân tạo, là một nhu cầu cao về con giống cho nuôi trồng. Một mô hình trại sản xuất giống ngao (M. lyrata) spat đã được xây dựng tại Phân viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản Bắc Trung Bộ (ARSINC) với đầy đủ trang thiết bị và cơ cở hạ tầng đầy đủ. Một vài mẻ sản xuất ngao giống spat đã thanh công bằng việc sử dụng các thiết bị này. Trại giống này được sử dụng cho cả hai mục địch là sản xuất đại trà và nghiên cứu phát triển. Một trại giống ở Thanh Hoá (một trong tỉnh được lựa chọn cho dự án) đã được xây dựng dựa trên việc nâng cấp các trang thiết bị phù hợp đề sản xuất giống đại trà ngao M. lyrata spat. Việc sản xuất ngao giống ở trại này cũng đang được bắt đầu triển khai. Nằm trong một phần hoạt động của dự án, ARSINC đã liên kết với một vài trại sản xuất giống tư nhân ở Thanh Hoá, Hồ Chí Minh và Ninh Bình để trình diễn sản xuất ngao giống. Việc liên kết không những chỉ sản xuất mà còn được ARSINC/SARDI chuyển giao công nghệ sản xuất ngao giống tới các địa phương này. Các trại giống này và trại giống của ARSINC sẽ cung cấp ngao giống cho các mô hình trình diễn. Việc việc gia tăng về công suất thì nhu cầu về ngao giống sẽ được đáp ứng một phần. Thêm nữa, theo yêu cầu của một số địa phương đối với công nghệ sản xuất giống ngao do nhu cầu cao từ cộng đồng nuôi, trung tâm Khuyến Nông Khuyến Ngư Quốc Gia đã cam kết hỗ trợ sản xuất giống ngao tại Thanh Hoá và Huế. Kết luận Sự phát triển công nghệ sản xuất giống ngao nhân tạo và xây dựng các trại sản xuất giống đại trà là các mục tiêu quan trọng đối với kết quả mà dự án VIE 027/05 đạt được. Việc sản xuất ngao giống trong ao là một mục tiêu quan trọng khác cần phải đạt. Sản xuất nhân tạo ngao giống spat sẽ góp phần giảm áp lực lên việc khai thác nguồn giống từ tự nhiên. Đây là một trong những đóng góp quan trọng của dự án đối với việc thực hành nuôi trồng thuỷ sản tốt hơn. 10
  11. Lời cảm ơn Nghiên cứu này là một phần của dự án hợp tác VIE 027/05 “Phát triển nghề nuôi ngao nhằm cải thiện và đa dạng hoá sinh kế cho cộng đồng cư dân nghèo ven biển miền Trung Việt Nam” giữa Phân Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản Bắc Trung Bộ (ARSINC) và Viện Nghiên cứu và Phát triển Nam Úc (SARDI), Australia. Dự án được AusAIDs tài trợ thông qua chương trình hợp tác phát triển nông nghiệp và nông thôn. Tài liệu tham khảo Cigarrıa, J., Fernandez, J.M., 2000. Management of Manila clam beds I. Influence of seed size, type of substratum and protection on initial mortality. Aquaculture 182, 173- 182. Gibbs, M.T., 2004. Interactions between bivalve shellfish farms and fishery resources. Aquaculture 240, 267-296. Jara-Jara, R., Pazos, A.J., Abad, M., Garcia-Martin, L.O., Sanchez, J.L., 1997. Growth of clam seed (Ruditapes decussatus) reared in the wastewater effluent from a fish farm in Galicia (N. W. Spain). Aquaculture 158, 247-262. Mazzola, A., Sara, G., 2001. The effect of fish farming organic waste on food availability for bivalve molluscs (Gaeta Gulf, Central Tyrrhenian, MED): stable carbon isotopic analysis. Aquaculture 192, 361-379. Shpigel, M., Fridman, R., 1990. Propagation of the Manila clam (Tapes semidecussatus) in the effluent of fish aquaculture ponds in Eilat, Israel. Aquaculture 90, 113-122. Shpigel, M., Blaylock, R.A., 1991. The Pacific oyster Crassostrea gigas as a biological filter for a marine fish aquaculture pond. Aquaculture 92, 187-197. Shpigel, M., Spencer, B., 1996. Performance of diploid and triploid Manila clams (Tapes philippinarum, Adams and Reeve) at various levels of tidal exposure in the UK and in water from fish ponds at Eilat, Israel. Aquaculture 141, 159-171. Shpigel, M., Gasith, A., Kimmel, E., 1997. A biomechanical filter for treating fish-pond effluents. Aquaculture 152, 103-117. Shpigel, M., Neori, A., Popper, D.M., Gordin, H., 1993. A proposed model for "environmentally clean" land-based culture of fish, bivalves and seaweeds. Aquaculture 17, 115-128. Soudanta, P., Paillarda, C., Choqueta, G., Lamberta, C., H.I. Reidb, Marhica, A., Donaghya, L., Birkbeck, T.H., 2004. Impact of season and rearing site on the 11
  12. physiological and immunological parameters of the Manila clam Venerupis (=Tapes, =Ruditapes) philippinarum. Aquaculture 229, 401-418. Tacon, A.G.J., Halwart, M., 2006. Cage culture: a global overview, Second International Symposium on Cage Aquaculture in Asia, Hangzhau, P. R. China. Wang, N., Hayward, R.S., Noltie, D.B., 1998. Effect of feeding frequency on food consumption, growth, size variation, and feeding pattern of age-0 hybrid sunfish. Aquaculture 165, 261-267. Yan, X., Zhang, G., Yang, F., 2006. Effects of diet, stocking density, and environmental factors on growth, survival, and metamorphosis of Manila clam Ruditapes philippinarum larvae. Aquaculture 253, 350-358. Zhang, G., Yan, X., 2006. A new three-phase culture method for Manila clam, Ruditapes philippinarum, farming in northern China. Aquaculture 258, 452-461. Zhuang, S., 2006. The influence of salinity, diurnal rhythm and daylength on feeding behavior in Meretrix meretrix Linnaeus. Aquaculture 252, 584-590. Zhuang, S.H., Wang, Z.Q., 2004. Influence of size, habitat and food concentration on the feeding ecology of the bivalve, Meretrix meretrix Linnaeus. Aquaculture 241, 689-699. 12
  13. Phụ lục - Các bảng biểu Bảng 1. Điều kiện môi trường ở các địa điểm thí nghiệm Nhiệt độ (oC) Yếu tố DO (ppm) pH Độ muối Độ đục (ppt) (cm) TB±SD 6.25±0.42 23.59±2.40 25.65±2.84 9.05±3.13 Lớn nhất 7.66 31.00 8.99 31.00 20.00 Nhỏ nhất 5.50 19.50 7.21 20.00 5.00 Bảng 2. Sự tăng trưởng của ngao ở cỡ giống nuôi là 1.0 cm Công thức T1 T2 T3 T4 1.25±0.05a 1.13±0.05a 1.08±0.10ab 0.94±0.37b Tỷ lệ tăng trưởng (SGR) 2.04±0.13a 2.01±0.09ab 1.95±0.10b 1.95±0.11b Chiều dài cuối cùng (cm) 5.92±1.08a 5.76±0.81ab 5.46±0.76ab 5.30±0.85b Trọng lượng cuối cùng (g) 15.87±1.00a 15.48±2.72a 15.53±1.02a 15.15±5.47a % of thịt.tổng trọng lượng 28.72±2.55a 23.07±0.24b 23.73±1.55b 27.78±2.11ab CV% (trọng lượng) Giá trị (TB±SD) được kèm theo với các chữ khác nhau là khác nhau có ý nghĩa (p < 0.05). T1, T2, T3, T4 là các công thức nuôi ngao ở mật độ 0.05, 0.1, 0.2 và 0.3 kg.m-2. SGR = tỷ lệ tăng trưởng hàng ngày; CV = Hệ số tương quan 13
  14. Bảng 3. Sự tăng trưởng của ngao ở cỡ giống nuôi là 1.7 cm Công thức T1 T2 T3 T4 0.62±0.04a 0.46±0.03b 0.33±0.02c 0.32±0.02cd Tỷ lệ tăng trưởng (SGR) 2.36±0.17ab 2.32±0.11bc 2.27±0.10c Chiều dài cuối cùng (cm) 2.40±0.10 9.24±1.20a 9.33±0.95a 8.90±1.12a 8.21±1.01b Trọng lượng cuối cùng (g) 14.53±1.89a 15.78±2.35a 16.53±0.62a 15.48±1.31a % of thịt.tổng trọng lượng 22.3±0.45a 19.05±5.16a 18.69±3.36a 22.73±4.16a CV% (trọng lượng) Giá trị (TB±SD) được kèm theo với các chữ khác nhau là khác nhau có ý nghĩa (p < 0.05). T5, T6, T7 and T8 là các công thức nuôi ngao ở mật độ 0.34, 0.68, 1.36 and 2.06 kg.m-2. SGR = tỷ lệ tăng trưởng hàng ngày; CV = Hệ số tương quan Bảng 4. Sản lượng ngao khi nuôi ở cỡ giống 1.0cm Công thức T1 T2 T3 T4 Sản lượng cuối cùng (tấn.ha-1) 4.14±0.57a 6.82±0.56a 12.62±2.16b 14.84±0.91b Sinh khối đạt được (tấn.ha-1) 3.62±0.57a 5.78±0.56a 10.54±2.16b 11.72±0.91b 697.1±109.4a 555.8±53.6ab 506.9±104.0ab 375.8±29.3b % sinh khối đạt được Giá trị (TB±SD) được kèm theo với các chữ khác nhau là khác nhau có ý nghĩa (p < 0.05). T1, T2, T3, T4 là các công thức nuôi ngao ở mật độ 0.05, 0.1, 0.2 và 0.3 kg.m-2. 14
  15. Bảng 5. Sản lượng ngao khi nuôi ở cỡ giống 1.7cm T4 Công thức T1 T2 T3 Sản lượng cuối cùng (tấn.ha-1) 9.49±0.68a 14.46±0.69b 23.58±0.68c 34.80±1.00d Sinh khối đạt được (tấn.ha-1) 6.10±0.68a 7.68±0.69a 10.02±0.69b 14.46±0.99c 180.0±20.0a 113.3±10.1b 73.9±5.1c 71.1±4.8c % sinh khối đạt được Giá trị (TB±SD) được kèm theo với các chữ khác nhau là khác nhau có ý nghĩa (p < 0.05). T5, T6, T7 và T8 là các công thức nuôi ngao ở mật độ 0.34, 0.68, 1.36 và 2.06 kg.m-2. 15
  16. Bảng 6. Thành phần axít béo của ngao nuôi ở các kích cỡ ngao giống khác nhau và mật độ nuôi khác nhau Axít béo T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 14:00 0.58 - - 1.07 - 0.59 2.52 6.35 16:00 44.26 42.67 78.27 21.63 47.07 84.63 33.54 33.94 16:1(n-7) 9.85 - 3.53 7.88 - 0.75 10.94 11.71 17:00 0.19 - - 0.89 - - 1.94 1.22 17:1(n-7) - - - - - - 3.39 7.71 18:00 4.63 15.63 22 23.98 16.82 7.84 10.08 10.72 18:1(n-9) 63.02 39.79 26.83 29.68 49.38 33.41 27.18 31.94 18:1(n-7) - - - 5.31 6.33 - - - 18:2(n-6)t 0.41 8.19 - 1.06 - - 2.35 13.74 18:3(n-3) - - - 0.54 - - 1.1 5.16 20:1(n-9) - 7.83 - 0.52 8.18 - - - 20:4(n-6) 1.11 - 7.72 2.98 5.06 2.72 3.54 8.9 20:4(n-3) - - - 0.31 - - - - 20:5(n-3) 4.45 3.11 - 5.95 6.2 0.97 7.96 3.29 24:00:00 - - - 1.17 - - - - 22:5(n-6) - - - - - - 1.56 - 22:5(n-3) - 3 4.96 1.85 - - 2.46 - 22:6(n-3) 45.78 29 33.62 29.65 27.58 62.77 30.4 30.0 Sum (n-3) 50.23 35.11 38.58 37.76 33.78 63.74 40.82 30.29 Sum (n-6) 0.11 0 7.72 2.98 5.06 2.72 5.1 8.9 Sum HUFA 50.34 35.11 46.3 40.74 38.84 66.46 45.92 42.19 Total FAME 174.3 149.2 176.9 134.4 166.6 193.7 139 166.1 Giá trị = mg.g-1 trọng lượng khô; T1, T2, T3 và T4 là các công thức nuôi ngao với cỡ giống 1.0 cm ở các mật độ 0.05, 0.1, 0.2 and 0.3 kg.m-2; T5, T6, T7 và T8 là các công thức nuôi ngao ở cỡ giống 1.7cm với các mật độ 0.34, 0.68, 1.36 và 2.06 kg.m-2. 16
  17. Bảng 7. Giá trị kinh tế của 2 cỡ giống ngao khác nhau ở các mật độ nuôi khác nhau Kích cỡ giống Chiều dài vỏ 1.0 cm Chiều dài vỏ 1.7 cm Công thức T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 Mật độ nuôi (tấn.ha-1) 0.50 1.00 2.00 3.00 3.40 6.80 13.60 20.40 Sản lượng (tấn.ha-1) 4.14 6.82 12.62 14.84 9.49 14.46 23.58 34.80 Đầu tư (* triệu VND.ha-1) Chi phí mua giống (1) 17.50 35.00 70.00 105.00 61.20 122.40 244.80 367.20 Lưới và hàng rào 3.30 3.30 3.30 3.30 3.30 3.30 3.30 3.30 Chi phí lao động 7.20 7.20 7.20 7.20 7.20 7.20 7.20 7.20 Lều để canh 5.00 5.00 5.00 5.00 5.00 5.00 5.00 5.00 Thêu đất 4.00 4.00 4.00 4.00 4.00 4.00 4.00 4.00 Chi phí cho thu hoạch 0.99 1.64 3.03 3.56 2.28 3.47 5.66 8.35 (B*2%) Tổng chi phí (A) 37.99 56.14 92.53 128.06 82.98 145.37 269.96 395.05 Tổng thu (* triệu VND.ha-1 với giá trung là 12 triệu VND.tấn-1 cho tất cả ngao thu hoạch) Tổng thu (B) 49.72 81.82 151.44 178.08 113.90 173.52 282.96 417.60 Lợi nhuận thực (A - B) 11.72 25.68 58.91 50.02 30.93 28.15 13.00 22.55 Tỷ lệ hoàn vốn (%) 30.85 45.75 63.67 39.06 37.27 19.36 4.82 5.71 (1) Giá giống là 0.035 triệu VND.kg-1 với cỡ 1.0 cm và 0.018 triệu VND.kg-1 cỡ 1.7 cm 17
  18. - Đồ thị 110 a 100 ab Survival (%) 90 ab 80 70 b 60 50 T1 T2 T3 T4 Clam at stocking size of 1.0 cm Đồ thị 1. Tỷ lệ sống của ngao cỡ 1.0 cm nuôi ở các mật độ nuôi khác nhau. Giá trị (TB±SD) được kèm theo với các chữ khác nhau là khác nhau có ý nghĩa (p < 0.05). T1, T2, T3 và T4 là các công thức nuôi ngao ở mật độ 0,05; 0,1; 0,2 and 0;3kg.m-2. 110 a 100 Survival (%) 90 80 b 70 c c 60 50 T5 T6 T7 T8 Clam at stocking size of 1.7 cm Đồ thị 2. Tỷ lệ sống của ngao cỡ 1.0 cm nuôi ở các mật độ nuôi khác nhau. Giá trị (TB±SD) được kèm theo với các chữ khác nhau là khác nhau có ý nghĩa (p < 0.05). T5, T6, T7 và T8 là các công thức nuôi ngao ở mật độ 0.34, 0.68, 1.36 and 2.06 kg.m-2. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1