Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Báo cáo tổng quan về nguồn giống và phương pháp nhân giống cho các loài Keo phục vụ trồng rừng cung cấp gỗ xẻ ở Việt Nam "
lượt xem 9
download
Các nghiên cứu về quá trình chế biến gỗ Keo tại các xưởng chế biến gỗ ở Việt Nam đã cho thấy để cải thiện thu nhập cho người trồng rừng cần có các nghiên cứu nhằm nâng cao các tính chất gỗ sau đây thông qua việc kết hợp giữa chọn lọc loài, cải thiện giống và kỹ thuật lâm sinh. Tỷ lệ sống - tỷ lệ sống cao là rất quan trọng đảm bảo sự đồng đều của lâm phần và năng suất rừng trồng. Sinh trưởng nhanh - sinh trưởng nhanh nhằm rút ngắn luân kỳ trồng rừng sản...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Báo cáo tổng quan về nguồn giống và phương pháp nhân giống cho các loài Keo phục vụ trồng rừng cung cấp gỗ xẻ ở Việt Nam "
- Báo cáo tổng quan về nguồn giống và phương pháp nhân giống cho các loài Keo phục vụ trồng rừng cung cấp gỗ xẻ ở Việt Nam C.E. Harwood1 Lê Đình Khả2, , Hà Huy Thịnh2 and Phí Hồng Hải2 1 Ensis Genetics, Private Bag 12, Hobart 7001 Australia 2 Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng, Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam, Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
- Tóm tắt Các nghiên cứu về quá trình chế biến gỗ Keo tại các xưởng chế biến gỗ ở Việt Nam đã cho thấy để cải thiện thu nhập cho người trồng rừng cần có các nghiên cứu nhằm nâng cao các tính chất gỗ sau đây thông qua việc kết hợp giữa chọn lọc loài, cải thiện giống và kỹ thuật lâm sinh. Tỷ lệ sống - tỷ lệ sống cao là rất quan trọng đảm bảo sự đồng đều của lâm phần và năng suất rừng trồng. Sinh trưởng nhanh - sinh trưởng nhanh nhằm rút ngắn luân kỳ trồng rừng sản xuất gỗ xẻ (thỏa mãn yêu cầu chung của gỗ xẻ Keo là có chiều dài 2 m và đường kính đầu nhỏ là 15 cm) Hình dạng thân đẹp – gỗ tương đối thẳng, không bị hai thân, cành nhỏ sẽ làm tăng tối đa tỷ lệ gỗ trên cây có thể sử dụng làm gỗ xẻ. Không có hoặc ít khuyết tật gỗ - gỗ xẻ đòi hỏi phải không bị rỗng ruột, mắt chết hoạc các khuyết tật khác có thể nhìn thấy được trên bề mặt ván xẻ. Lịch sử của quá trình khảo nghiệm loài và xuất xứ, nghiên cứu cải thiện giống các loài Keo ở Việt Nam cũng như quá trình phát triển của các dòng Keo lai sẽ được đề cập trong báo cáo tổng quan. Thông qua báo cáo tổng quan này đã xác định được các vật liệu trồng rừng gỗ xẻ và phương pháp nhân giống tốt nhất tốt nhất đã được xác định. Các dòng Keo lai (Keo tai tượng x Keo lá tràm), các giống tốt nhất của Keo lá tràm (các dòng đã qua chọn lọc và hạt giống được cải thiện) và Keo tai tượng (hạt giống được cải thiện) là những vật liệu tốt nhất cho trồng rừng sản xuất gỗ xẻ và điều này đã được kiểm chứng qua công tác trồng rừng ở các vùng thấp, có lượng mưa tối thiểu là 1000 mm ở Việt Nam. Các thông tin chi tiết về giống của các loài này cũng đươc đề cập trong báo cáo. Keo lá liềm (Keo lá liềm) là loài cây cũng có nhiều triển vọng cho trồng rừng cung cấp gỗ xẻ trong các điuề kiện tương tự, tuy nhiên điều này chưa được kiểm chứng qua thực tế, đồng thời hiện cũng chưa có nguồn hạt giống được cải thiện của loài này. Chương trình phần mềm khí hậu đã cho thấy các vùng thích hợp cho trồng rừng các loài cây này ở Việt Nam, chương trình phần mềm 3-PG dự đoán sinh trưởng cũng đã được xây dựng cho loài Keo tai tượng ở Việt Nam. Keo lá tràm (Keo lá tràm) sinh trưởng rất chậm ở miền Bắc Việt Nam nên không thể coi là loài cây có triển vọng cho trồng rừng gỗ xẻ, thay vào đó là các loài Keo lai và Keo tai tượng. Keo tai tượng (Keo tai tượng) không được ưa chuộng mở miền Trung và Nam Việt Nam do chất lượng gỗ kém, đồng thời các nhà trồng rừng ở khu vực này ưa chuộng Keo lá tràm và Keo lai cho trồng rừng gỗ xẻ hơn. Mặc dù sinh trưởng của Keo đen (A. mearnsii) và một số xuất xứ của Keo melanoxylon tương đối có triển vọng trên các khảo nghiệm tại Đà Lạt, tuy nhiên còn quá sớm để khẳng định các loài này sẽ thích hợp trồng rừng gỗ xẻ ở vùng cao Việt Nam. Các loài Keo chịu hạn có thể thích ứng tốt với các điều kiện lập địa có lượng mưa dưới 1000mm tuy nhiên không phù hợp cho mục tiêu gỗ xẻ do sinh trưởng chậm và hình dạng thân cây rất kém. 2
- Các kết luận này chủ yếu dựa trên kết quả đánh giá về tỷ lệ sống và sinh trưởng của các loài Keo trong các khảo nghiệm ở Việt nam. Các thông tin về chất lượng thân cây (đa thân, độ thon, độ nhỏ cành và độ thẳng thân) của các loài này còn tương đối ít. Tuy nhiên, kết quả đánh giá dạng thân trên một số khảo nghiệm dòng vô tính và khảo nghiệm hậu thế của Keo lá tràm đã cho thấy các tính trạng này có hệ số di truyền từ trung bình đến cao và có thể cải thiện được thông qua các biện pháp chọn giống, đặc biệt là thông qua chọn lọc các dòng vô tính có dạng thân đẹp. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy việc sử dụng hạt giống được cải thiện của các loài Keo lá tràm và Keo tai tượng cũng sẽ đem lại tăng thu đáng kể về dạng thân. Cho đến nay có rất ít các thông tin về tính chất gỗ xẻ của các loài Keo. Keo lá tràm có tỷ trọng gỗ cao hơn Keo tai tượng và được ưa chuộng làm trong công nghiệp đồ mộc làm gỗ trang trí như các loại đồ gỗ trang trí hoặc làm ván sàn. Một nghiên cứu chỉ ra rằng gỗ các dòng Keo lai ở tuổi 5 có tỷ trọng cao hơn Keo lá tràm cùng tuổi. Các thông tin đầy đủ hơn về tính chất gỗ của Keo lá tràm, Keo tai tượng và Keo lai hiện đang được Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam nghiên cứu trên các khảo nghiệm hậu thế và khảo nghiệm dòng vô tính. Hiện chưa có những nghiên cứu mang tính định lượng về khả năng chống chịu các loại bệnh như rỗng ruột hay loét thân có khả năng ảnh hưởng đến tính chất gỗ. Hiện tại việc so sánh các nguồn giống (bao gồm cả dòng vô tính và các nguồn hạt giống) cho mục đích trồng rừng gỗ xẻ là rất khó có thể thực hiện do chưa có những nghiên cứu cụ thể đánh giá về giá trị kinh tế tương đối cho các tính trạng như sinh trưởng, hình dạng thân và chất lượng gỗ để tối đa hóa lợi ích kinh tế của rừng trồng và chế biến gỗ. Dự án CARD về gỗ xẻ Keo sẽ xây dựng mô hình tính toán giá trị kinh tế nhằm mục tiêu có thể chọn lọc một cách chính xác các giống phù hợp cho mục tiêu gỗ xẻ. Cho đến nay, dự án đã xác định được một số tính chất như hình dạng và kich thước khúc gỗ và khuyết tật gỗ chịu ảnh hưởng rất lớn của các biện pháp lâm sinh (chọn lập địa, mật độ ban đầu, tỉa thưa và tỉa cành, chế độ dinh dưỡng và chăm sóc) cũng như chọn lọc loài và cải thiện di truyền, do đó các biện pháp lâm sinh và chọn giống cần phải phối hợp chặt chẽ nhằm cải thiện lợi tức trồng rừng gỗ xẻ ở Việt Nam. 3
- Mục lục 1. Mục đích của tổng quan gỗ xẻ Keo....................................................................5 2. Các yêu cầu kỹ thuật của gỗ xẻ Keo..................................................................5 2.1 Kinh nghiệm trong công nghiệp chế biến gỗ Keo ở Việt nam ...................5 2.2 Kinh nghiệm trong trồng rừng và sử dụng gỗ các loài Keo nhiệt đới ở nước ngoài.............................................................................................................8 2.3 Tóm lược một số yêu cầu đối với cây và gỗ Keo cho sản xuất gỗ xẻ .........9 3. Nguồn tài nguyên di truyền của Keo và sự thích ứng với các lập địa của các loài.......................................................................................................................... 10 4. Khảo nghiệm loài và xuất xứ của các loài Keo cho mục tiêu gỗ xẻ ............. 12 4.1 Khảo nghiệm loài ......................................................................................... 12 4.2 Khảo nghiệm loài và xuất xứ các loài keo vùng thấp .................................. 13 4.3 Khảo nghiệm loài và xuất xứ Keo vùng cao tại Đà Lạt ............................... 18 5. Cải thiện di truyên các loài Keo ở Việt Nam ................................................. 20 5.1 Xây dựng các rừng giống và vườn giống các loài keo vùng thấp phục vụ trồng rừng........................................................................................................... 20 5.2 Khảo nghiệm dòng vô tính và vườn giống vô tính Keo lá tràm và Keo tai tượng................................................................................................................... 21 5.3 Phát triển các dòng vô tính Keo lai.............................................................. 24 5.4 Khảo nghiệm tăng thu di truyền các loài keo............................................... 27 6. Tóm tắt đề xuất về các loài keo và giống cho trồng rừng gỗ xẻ ở Việt Nam ................................................................................................................................ 28 7. Đề xuất biện pháp nhân giống ........................................................................ 29 8. Tài liệu tham khảo ........................................................................................... 31 4
- 1. Mục đích của tổng quan gỗ xẻ Keo Bản đánh giá tổng quan được thực hiện là hoạt động 1 của dự án CARD VIE 032/05 “Phát triển bền vững và hiệu quả kinh tế rừng trồng các loài Keo cung cấp gỗ xẻ ở Việt Nam”. Nội dung này nhằm đánh giá kiểm tra các nguồn giống hiện đang có sẵn cho trồng rừng gỗ xẻ ở Việt Nam. Các phương pháp nhân giống thích hợp cho các giống được đề xuất cũng được đề cập trong bản đánh giá này. Rất nhiều thông tin được thu thập từ các khảo nghiệm loài và xuất xứ, chương trình cải thiện giống, phương pháp nhân giống và phát triển các dòng Keo lai cho trồng rừng dòng vô tính. Tổng quan này dựa trên các các báo cáo đã được xuất bản trước đó, trong trường hợp các thông tin bị thiếu tổng quan sẽ giới thiệu kinh nghiệm từ các nước khác. Đề xuất cho chiến lược cải thiện giống trong tương lai sẽ được xây dựng theo hoạt động 4.5 của dự án, do vậy không đề cập trong bản báo cáo tổng quan này. 2. Các yêu cầu kỹ thuật của gỗ xẻ Keo Các yêu cầu đối với gỗ Keo sử dụng cho gỗ xẻ sẽ được tìm hiểu tại Việt Nam. Việc sử dụng gỗ Keo làm gỗ xẻ ở Việt Nam và các nước khác sẽ được đề cập trong phần này. 2.1 Kinh nghiệm trong công nghiệp chế biến gỗ Keo ở Việt nam Trong quá trình xây dựng dự án, các cán bộ dự án đã tiến hành điều tra một số cơ sở chế biến gỗ có quy mô nhỏ và vừa ở miền Trung và Nam Việt Nam. Trong đó xưởng chế biến biến gỗ Hương Giang là lớn nhất với công suất 2500 m3 gỗ/năm, chủ yếu là gỗ Keo, sử dụng 300 lao động chủ yếu tham gia trong quá trình tạo tác sản phẩm. Một số xưởng xẻ sử dụng gỗ keo từ rừng trồng ở Hà Tây, Đồng Nai, Quảng Trị và Quảng Bình cũng đã được điều tra. Các xưởng xẻ nói chung ddeuf sử dụng cô g nhân có tay nghề với các máy cưa tương đối cũ điều khiển bằng tay. Các chủ xưởng xẻ đều hiểu khá rõ ràng về các yêu cầu đối với gỗ xẻ. Ở các xưởng cưa lớn như Hương Giang có sử dụng cả các hệ thống máy cưa lưỡi thẳng để xẻ những những khúc gỗ có đường kính đầu nhỏ khoảng 15 cm, các xưởng cưa sử dụng lưỡi cưa vòng như xưởng cưa Nguyễn Sĩ tại Đông hà thì yêu cầu đường kính đầu nhỏ tối thiểu phải đạt 20 cm nhằm đạt tỷ lệ thành khí cao hơn so với gỗ có kích thước nhỏ. Tại tất cả các xưởng cưa nghiên cứu đều ưa chuộng loại gỗ có kích thước lớn (đường kính đầu nhỏ lớn hơn 20 cm) nhằm đạt tỷ lệ thành khí và năng suất cao hơn. Các xưởng xẻ ở khu vực Huế thường trả tối thiểu 600.000 đến 800.000 đồng/m3 cả vỏ (đây là giá thu mua tại nhà máy, tính theo đường kính đầu nhỏ và chiều dài khúc gỗ, đường kính đầu nhỏ tối thiểu là 15 cm) cho gỗ Keo lai và Keo tai tượng, giá thu mua được biết là sẽ cao hơn cho gỗ Keo lá tràm. Một số xưởng xẻ có thể mua gỗ tại rừng với giá 1.000.000 đồng/m3 cho các loại gỗ Keo lá tràm và Keo lai có đường kính đầu nhỏ lớn 5
- hơn 20 cm. Giá thu mua gỗ xẻ luôn cao hơn giá thu mua gỗ làm giấy, giá thu mua gỗ làm giấy dao động từ 400.000 - 500.000 đồng/ ster đôi (2 m3 gỗ xếp, tương đương 1,2 m3 gỗ đặc, tương đương với giá 330.000 - 420.000 đồng/m3). Hầu hết các xưởng xẻ đều tập trung chủ yếu sản xuất các loại ván thanh có kích thước nhỏ, khoảng 1000 x 100 x 25 mm. Trước khi đưa và xưởng cưa, cây gỗ thường được cắt thành đoạn có chiều dài 2 m hoặc ngắn hơn. Trong trường hợp không có gỗ đường kính lớn, một số xưởng cưa có thể xẻ các cây gỗ nhỏ có đường kính đầu nhỏ khoảng 10 cm sử dụng các loại cưa lưỡi thẳng, tuy nhiên điều này cũng dẫn đến giảm tỷ lệ thành khí và tăng chi phí cưa xẻ. Gỗ có kích thước nhỏ (dẫn đến chi phí cưa xẻ cao và tỷ lệ thành khí giảm), mấu mắt, đặc biệt là các loại mắt chết tạo ra các khuyết tật gỗ cho ván xẻ là những vấn đề lớn nhất trong sử dụng gỗ Keo làm gỗ xẻ trong điều kiện hiện nay. Các xưởng xẻ thường tránh mua phải các khúc gỗ có tỷ lệ khuyết tật như rỗng ruột, xốp ruột, mắt chết cao. Ảnh 1. Gỗ Keo được đưa vào xẻ tại xưởng Hương Giang, Huế 6
- Ảnh 2. Xẻ gỗ Keo sử dụng cưa lưỡi thẳng ở xưởng Hương Giang, Huế Ảnh 3. Xẻ gỗ Keo lai tại xưởng xẻ Nguyễn Sĩ, tại Đông Hà sử dụng hệ thống cưa vòng 7
- Sau khi xẻ, các ván xẻ được phơi khô trong không khi trong 2 - 3 tuần đủ để cho các ván xẻ có kích thước nhỏ khô hết. Các ván xẻ dày khoảng 40 mm có thể phải phơi lâu hơn, hoặc phải sấy trong lò và sau đó xẻ lại. Theo kinh nghiệm từ các xưởng xẻ cho thấy gỗ Keo lai và Keo lá tràm ít bị hiện tượng biến dạng sau khi sấy, trong khi một số biến dạng gỗ sấy như cong vênh, gỗ nhẹ hoặc nứt đã được ghi nhận với gỗ Keo tai tượng, đặc biệt là ở khu vực phía Nam. Gỗ Keo lá tràm, Keo lai và các khúc gỗ ít bị khuyết tật của Keo tai tượng được chấp nhận trong công nghiệp đồ gỗ cả trong nhà và ngoài trời cho sử dụng trong nước và xuất khẩu. Các nhà sản xuất có thể chấp nhận cả những loại ván xẻ bao gồm cả gỗ rác và gỗ lõi, cho dù có sự sai khác rất rõ về màu giữa gỗ rác và gỗ lõi ở Keo. Đồ gỗ thông thường được sơn màu trước khi xuất xưởng. Keo lá tràm được các nhà sản xuất đánh giá cao do gỗ nặng hơn và cứng hơn so với Keo lai và Keo tai tượng, đồng thời có màu gỗ và vân đẹp. Các nghiên cứu của Lê Đinh Khả (2001) cũng cho thấy gỗ Keo lá tràm có tỷ trọng cao gỗ Keo tai tượng đồng tuổi. Gỗ có kích thước lớn của Keo lá tràm rất được các xưởng chế biến ưa chuộng do có thể sử dụng đóng đồ gỗ có chất lượng cao hoặc ván sàn. Hiện nay đã có một lượng nhỏ gỗ Keo lá liềm (Acacia crassicarpa) từ các rừng trồng, tuy nhiên các xưởng chế biến hiện chưa sẵn sàng sử dụng gỗ của loài này. Kinh nghiệm của Australia và một số nước khác cho thấy gỗ Keo lá liềm có thể sử dụng đóng đồ gỗ chất lượng cao (Doran and Turnbull 1997). Các xưởng chế biên gỗ điều tra đều khẳng định họ có thể thu mua thêm gỗ Keo từ các rừng trồng ở địa phương với giá cả hợp lý. Trong giai đoạn 2004 - 2005, một số xưởng chế biến gỗ lớn ở TP Hồ Chí Minh nhập gỗ Keo tai tượng từ Malaysia để chế biến. các yêu cầu chất lượng đối với gỗ nhập khẩu hiện chưa được điều tra, trong quá trình điều tra năm 2006 không xác định được các xưởng chế biến gỗ nhập khẩu gỗ Keo tai tượng. 2.2 Kinh nghiệm trong trồng rừng và sử dụng gỗ các loài Keo nhiệt đới ở nước ngoài Trồng rừng các loài keo vùng thấp để cung cấp gỗ xẻ hiện đang được phát triển rất mạnh ở một số nước Đông Nam Á, điển hình là Indonesia và Malaysia (Midgley and Beadle 2006, S.J. Midgley pers. comm. 2006). Keo tai tượng là loài cây quan trọng nhất ở hai nước này. Cho đến nay các biện pháp kỹ thuật lâm sinh được áp dụng trong trồng và chăm sóc rừng nhưng các biện pháp như tỉa cành và tỉa thưa rất ít được áp dụng, cho dù hiệu quả của các biện pháp này đã được thừa nhận (Srivastava 1993). Việc tỉa cành và tạo thân bằng cách loại bỏ các cành to và các cành cạnh tranh với ngọn chính đã cải thiện đáng kể hình dạng thân cây (Beadle 2006). Với mật độ trồng rừng ban đầu là 1000 cây/ha, cần có các biện pháp tỉa thưa để sản xuất gỗ có đường kính lớn (hình 4). Ở Indonesia, mật độ cuối cùng để lại dao động khoảng 300 cây/ha và tiến hành khai thác 8
- khi đường kính trung bình đạt đến 30 cm. Hiện tượng rỗng ruột là một vấn đề khá phổ biến với Keo tai tượng ở Indonesia. (Potter et al. 2006) Hình 4. Rwungf trồng Keo tai tượng đã tỉa thưa ở Merbau, South Sumatra, đường kính trung bình của lâm phần là 36,6 cm, chiều cao 26 m và tổng trữ lượng lâm phần đạt 228.7 m3 /ha (Hardyanto 2006) Malaysia là nước có lịch sử lâu dài về trồng rừng Keo tai tượng (Pinyopusarerk 1993) đồng thời là nhà xuất khẩu gỗ Keo tai tượng lớn nhất. Một số công ty gỗ xuất khẩu cả gỗ tròn và ván xẻ, giá gỗ tròn xuất khẩu (FOB) là 50 USD/m3 (Midgley and Beadle 2006). Năm 2003, một số công ty chế biến gỗ Việt Nam đã nhập gỗ tròn Keo tai tượng từ Malaysia với giá 85 USD/m3 tại cảng TP Hồ Chí Minh. Cho đến nay đã có nhiều thông tin về tính chất cơ lý gỗ liên quan đến công nghiệp chế biến gỗ Keo tai tượng (Abdul-Kader and Sahri 1993, CAB 2003, Hardiyanto 2006, Kumar et al. 2006). Tóm lại, gỗ Keo tai tượng có tỷ trọng trung bình (420-480 kg m-3), có thể xẻ và sấy khá dễ dàng, độ co rút gỗ trung bình (khoảng 6% tiếp tuyến và và 3% xuyên tâm), gỗ có thể cắt, đánh bóng, dán keo và sơn dễ dàng. Hiện nay các sản phẩm gỗ Keo mà chủ yếu là Keo tai tượng đã được công nhận trên thị trường quốc tế do các công ty đa quốc gia như IKEA sản xuất và cung cấp.. 2.3 Tóm lược một số yêu cầu đối với cây và gỗ Keo cho sản xuất gỗ xẻ Tóm lại, gỗ các loài Keo lá tràm, Keo lai và Keo tai tượng trồng tại Việt Nam hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến gỗ sản xuất đồ mộc. Nói chung, chiều dài đoạn gỗ tối thiểu phải đạt 2 m, với đường kính đầu nhỏ tối thiểu phải đạt 15 cm, tương đối thẳng và không bị các khuyết tật gỗ như rỗng ruột, nứt hoặc mắt chết có kích 9
- thước lớn. Khi tiến hành khai thác rừng trồng, những cây có đường kính nhỏ, cây cong queo, và những đoạn thân cây không đáp ứng yêu cầu gỗ xẻ thường dduwwocj bán làm giấy và gỗ củi. Sử dụng nhữ nguồn giống tốt nhất và tối ưu hóa các biện pháp lâm sinh sẽ giúp cho người trồng rừng tăng tối đa tỷ lệ gỗ có thể sử dụng cho gỗ xẻ, qua đó nâng cao thu nhập cho người nông dân. Như vậy để phục vụ trồng rừng gỗ xẻ Keo, các yêu cầu căn bản nhất của gỗ xẻ Keo cần được cải thiện thông qua các biện pháp chọn giống và lâm sinh: Tỷ lệ sống - tỷ lệ sống cao góp phần đồng nhất hóa lâm phần và tăng năng suất gỗ Sinh trưởng nhanh - nhằm sản xuất gỗ xẻ trong một chu kỳ kinh doanh rừng ngắn nhất Hình dạng thân đẹp – cây tương đối thẳng, không bị hai thân, cành nhỏ sẽ tăng tối đa tỷ lệ gỗ có thể sử dụng cho mục tiêu gỗ xẻ Gỗ không bị khuyết tật - các khúc gỗ phải không bị rỗng ruột, mắt chết và những khuyết tật khác có thể quan sát thấy trên bề mặt ván xẻ. 3. Nguồn tài nguyên di truyền của Keo và sự thích ứng với các lập địa của các loài Các loài Keo Acacia trở nên quan trọng trong trồng rừng ở Việt nam trong khoảng hai thập kỷ gần đây. Đây là những loài cây có sinh trưởng nhanh, thích ứng tốt trên các lập địa thoái hóa, đồng thời là loài cây cố định đạm nên có thể giảm được nhu cầu phân bón. Gỗ Keo có thể sử dụng làm giấy và đóng đồ mộc. Các loài Keo được trồng ở Việt nam hiện nay có nguồn gốc từ Australia và một số khu vực lân cận như Papua New Guinea (PNG), West Papua, Indonesia (Nguyen Hoang Nghia and Lê Đình Khả, 1998). Việc xác định các loài cay phù hợp, thu thập các nguồn gen và nhập nội trồng tại Việt nam đã được tiến hành là một phần của các chương trình khảo nghiệm loài và xuất xứ quốc tế được chính phủ Australia, FAO và CSIRO thực hiện từ những năm 1970 (Turnbull et al. 1998). Ở Việt Nam, điều kiện khí hậu có sự biến động rất lớn giữa các vùng, chủ yếu về các yếu tố nhiệt độ và lượng mưa. Do vậy, có thể chia các loài Keo trồng tại Việt Nam làm 3 nhóm: Nhóm các loài Keo vùng thấp, có lượng mưa từ trung bình đến cao Các loài có triển vọng bao gồm Keo lá tràm, Keo lá liềm và Keo tai tượng gồm các xuất xứ từ miền bắc bang Queensland, PNG và Indonesia. Keo lá tràm, Keo tai tượng và các dòng Keo lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm là những giống được trồng phổ biến nhất ở Việt nam hiện nay (Nghia and Kha 1998, Centre for International Economics 2004). 10
- Nhóm các loài cho vùng khô hạn Vùng ven biển các tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận có khí hậu rất khô, lượng mưa trung bình hàng năm dưới 1000 mm, với các cồn cát ven biển. Các loài Keo vùng khô ừ miền bắc Úc đã được thử nghiệm tại Tuy Phong, Bình Thuận từ những năm 1990 (Harwood et al. 1998). Các loài có triển vọng nhất là A. difficilis, A. tumida và A. torulosa, các loài này cũng đã được trồng thử nghiệm để chống cát di động ở các tỉnh khác như Quảng Bình. Tuy nhiên, khong loài nào trong số này có chiều cao tối đa đạt 10 - 12 m, cây thường có hai thân và chia cành rất sớm do đó không thể sử dụng để sản xuất gỗ xẻ. Sinh trưởng của chúng ở các vùng cát là rất chậm, thí dụ tại Tuy Phong sau 6 năm loài A. difficilis có sinh trưởng nhanh nhất cũng chỉ đạt chiều cao là 7,5 m và đường kính đạt 15 cm. Trên các lập địa ẩm hơn chugns cũng có sinh trưởng chậm hơn các loài Keo lá tràm, Keo tai tượng và Keo lá liềm. Những điều này cho thấy các loài Keo chịu hạn không thích hợp cho sản xuất đồ mộc, do đó trong bản báo cáo này sẽ không đề cập đến nhóm loài cây này. Các loài Keo vùng cao Có một diện tích rất lớn ở miền bắc và miền trung Việt Nam có độ cao trên 1000 m và có nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ tối ưu cho các loài Keo vùng thấp. Khảo nghiệm loài và xuất xứ được xây dựng trong những năm 1990 nhằm xác định các loài thíh hợp cho điều kiện vùng cao ở Việt nam. Trong số loài được khảo nghiệm thì A. mearnsii và A. melanoxylon có sinh trưởng nhanh nhất, kết quả này cũng đã được khẳng địnhở nhiều nước như Ấn độ, Trugn Quốc, Nam Mỹ và châu Phi (CAB 2003). Keo A. melanoxylon là loài cây rất được ưa chuộng làm đồ mộc tại Úc (CAB 2003, Doran and Turnbull 1997). Các yêu cầu về khí hậu cho các loài Keo quan trọng cho sản xuất gỗ xẻ đã được tổng hợp ở bảng 1. Một chương trình xác định các vùng khí hậu phù hợp cho các loài cây đã được xây dựng cho Việt Nam do TS T.H. Booth thuộc khoa lâm nghiệp và sản phẩm rừng xây dựng. Chương trình này đã được Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam ứng dụng để xác định các vùng khí hậu phù hợp cho các loài Keo lá tràm và Keo tai tượng. 11
- Bảng 1. yêu cầu về khí hậu cho một số loài Keo quan trọng ở Việt Nam Các loài keo vùng thấp Keo vùng cao auriculiformis1 crassicarpa2 mangium1 mearnsii3 melanoxylon4 Yếu tố khí hậu Nhiệt độ trung bình 22-30 22-28 22-28 10-20 Not available năm (oC) Nhiệt độ cao nhất trung 25-37 25-35 25-35 21-30 bình của tháng nóng nhất (oC) Nhiệt độ thấp nhất 10-22 10-22 8-22 0-15 trung bình của tháng lạnh nhất (oC) Tổng lượng mưa (mm) 1000-2500 1000-2500 1300-2500 700-2300 Số tháng khô (có tổng 0-6 0-6 0-5 0-6 lượng mưa dưới 40 mm) 1 Theo Nghia (1996). ở miền bắc Việt Nam, keo tai tượng có thể chịu được nhiệt độ lạnh hơn keo lá tràm. Keo tai tượng có thể trồng ở độ cao đến 300 m ở các tỉnh miền núi phía bắc, trong khi keo lá tràm chỉ có thể trồng đến độ cao 100 m. Yêu cầu về các yếu tố khí hậu cho keo lai có thể là trung bình của hai loài này. 2 T. Jovanovic 2006 3 Jovanovic and Booth (2002) 4 Keo melanoxylon có phân bố khá rộng ở Úc, do vậy yêu cầu khí hậu của từng xuất xứ cụ thể sẽ rất khác nhau 4. Khảo nghiệm loài và xuất xứ của các loài Keo cho mục tiêu gỗ xẻ 4.1 Khảo nghiệm loài Keo lá tràm được nhập vào Việt nam từ những năm 1960, từ nhũng năm 1980 các khảo nghiệm hệ thống cho loài và xuất xứ mới được tiến hành do Viện khoa học lâm nghiệp Việt nam thực hiện phối hợp với CSIRO Úc. Các khảo nghiệm loài và xuất xứ đã được xây dựng trên nhiều lập địa ở Việt Nam. Chi tiết về các khảo nghiệm được cho ở bảng 2. Các kết quả đánh giá đến năm 2003 đã được Lê Đình Khả tổng hợp. 12
- Bảng 2. Các địa điểm khảo nghiệm loài và xuất xứ Keo ở Việt Nam Địa điểm Tỉnh Vĩ độ (N) Kinh độ Độ cao Lượng mưa Đất đai (S) (m) (mm) 21o07 105o26 Da Chong Hà Tây 60 1680 Đất ferralitic có độ sâu trên 50 cm phát triển trên đá cát. 21o07 105o26 Cẩm Quỳ Hà Tây 60 1680 Đất ferralitic có độ sâu trên 50 cm phát triển trên đá cát. 21o10 105o17 Đại Lải Vinh Phuc 50 1500 16o50 107o05 Đông Hà Quảng Trị 2370 Đất ferralitic phát tiển trên đá phiến thạch 13o59 108o10 Mangyang Gia Lai 800 2270 Đất phát triển trên đá granite 11o05' 107o06 Sông Mây Đồng Nai 50 1640 Đất đỏ vàng phát triển trên phù sa cổ 11o32 105o56 Bầu Bàng Bình 50 Đất đỏ vàng phát triển Dương trên phù sa cổ 11o57 108o26 Đà Lạt Lam Dong 1600 1730 Đất ferralitic phát triển trên đá magma pH 4.5-5.0 4.2 Khảo nghiệm loài và xuất xứ các loài keo vùng thấp Khảo nghiệm loài - xuất xứ Vào những năm 1980, các loài Keo lá tràm, Keo tai tượng, keo lá liềm và Keo aulacocarpa đã được đưa vào trồng thử tại Ba Vì (Hà Tây), Hóa Thượng (Thái nguyên) và Trảng Bom (Đồng Nai). Kết quả đánh giá năm 1991 cho thấy các loài có triển vọng nhất là Keo lá tràm, Keo tai tượng và Keo lá liềm (Lê Đình Khả and Nguyen Hoang Nghia, 1991). Từ năm 1990 - 1991, trong khuôn khổ một dự án do UNDP tài trợ đã xây dựng khảo nghiệm của 39 xuất xứ thuộc 5 loài Keo vùng thấp tại Đá Chông (Hà Tây), Đông Hà (Quảng Trị) và Đại Lải (Vĩnh Phúc). Khảo nghiệm tại Đá Chông và Đông Hà bao gồm 13 xuất xứ Keo lá tràm, 9 xuất xứ Keo tai tượng, 9 xuất xứ Keo lá liềm, 5 xuất xứ Keo A. aulacocarpa và 5 xuất xứ Keo A. cincinnata, do CSIRO cung cấp. Caccs xuất xứ được lấy chủ yếu ở vùng Queensland (Qld) và Northern Territory (NT) của Úc; Papua New Guinea (PNG) và Indonesia (Ind). Các lô hạt đối chứng là nòi địa phương của Đồng Nai cho các loài Keo lá tràm và Keo tai tượng. 13
- Khảo nghiệm tại Đá Chông được xây dựng năm 1990, gồm 3 lần lặp và 49 cây/ô. Khảo nghiệm tại Đông Hà xây dựng năm 1991, chỉ có 1 lần lặp với 49 cây/ô. Khảo nghiệm tại Đại Lải bao gồm 13 xuất xứ của Keo lá tràm. Kết quả khảo nghiệm tại Đá Chông ở giai đoạn 9 năm tuổi, đánh gía thể tích thân cây cả vỏ của các loài như sau: Keo lá liềm: 221 Keo tai tượng: 191 Keo als tràm: 192 Keo A. aulacocarpa: 103 Keo A. cincinnata: 94 Một khảo nghiệm loài và xuất xứ các loài Keo do Trung tâm nghiên cứu cây nguyên liệu giấy xây dựng tại Mang yang, Gia Lai (Mai Dinh Hong et al. 1996). Kết quả đánh giá sau 4 năm cho thấy các loài Keo lá liềm, Keo tai tượng, Keo lá tràm là những loài tốt nhất. Các xuất xứ Bloomfield (Qld) và Pongaki (PNG) của keo tai tượng, Coen River (Qld) và Kings Plain (Qld) của keo lá tràm và một số xuất xứ của Keo lá liềm có sinh trưởng nhanh nhất, A. cincinnata là loài có sinh trưởng kém nhất. Tóm lại, trong các loài Keo vùng thấp được khảo nghiệm, thì các loài keo lá liềm, keo tai tượng, keo lá tràm có sinh trưởng tốt nhất, keo A. aulacocarpa và A. cincinnata có sinh trưởng chậm hơn và ít có triển vọng cho trồng rừng (Lê Đình Khả 2003). Kết quả đánh giá khảo nghiệm loài và xuất xứ các loài Keo tại Ba Vì, Đông Hà và Đại Lải cho thấy sau 9-12 năm, các xuất xứ có triển vọng nhất ở miền bác và miền trung Việt Nam là: Keo lá tràm: Mibini (PNG), Coen River and Kings Plains (Qld) và Manton River (NT) Keo tai tượng: Pongaki (PNG), Iron Range (Qld), Ingham (Qld) và Mossman (Qld). Keo lá liềm: Mata (PNG), Gubam (PNG), Dimisisi (PNG) và Deri-Deri (PNG). 14
- Khảo nghiệm xuất xứ Keo lá tràm Năm 1990, một khảo nghiệm xuất xứ của Keo lá tràm được xây dựng tại Đại Lải. Kết quả sinh trưởng sau 9 năm cho thấy xuất xứ Coen River (Qld) có sinh trưởng tốt nhất. Số liệu thu thập tại Ba Vì và Đại Lải sau 12 năm (Bảng 3) cho thấy các xuất xứ Mibini (PNG), Coen River (Qld) and Kings Plains (Qld) có triển vọng nhất trên cả hai lập địa. Một hệ thống khảo nghiệm xuất xứ của Keo lá tràm được xây dựng tại Cẩm Quỳ (Hà Tây), Đông Hà (Quảng Trị) và Sông Mây (Đồng Nai) trong khuôn khổ dự án ACIAR 9310. Một lô hạt nòi địa phương Đồng Nai được sử dụng làm đối chứng. Tại Sông Mây kết quả sau 5 năm cho thấy các xuất xứ tốt nhất là Wenlock R. (Qld), Halroyed (Qld) và Morehead (PNG), trong khi tại Cẩm Quỳ các xuất xứ Halroyed (Qld) và Rifle Creek (Qld) có sinh trưởng tốt nhất. Tại Sông Mây thể tích trung bình của 16 xuất xứ sau 5 năm tuổi là 90.0 dm3, trong khi ở Đông Hà là 30.1 dm3, và ở Ba Vì chỉ đạt 20.4 dm3. Các khảo nghiệm đều được trồng với mật độ 3m x 2m. Kết quả này cho thấy khác biệt về điều kiện khí hậu và đất đai ở Việt Nam có ảnh hưởng rõ rệt đến sinh trưởng của Keo lá tràm. Bảng 3. Sinh trưởng của các xuất xứ Keo lá tràm tại Đại Lải và Ba Vì (1990-2002) Ba Vì Đại Lải Lô hạt Xuất xứ Ht Dbh Ht Dbh (m) (cm) (m) (cm) 16148 Manton R. NT 17.3 21.4 12.9 14.3 16106 Mibini PNG 17.7 21.2 13.6 14.2 16142 Coen R. Qld 17.5 20.8 14.1 14.8 16485 Kings Plains Qld 17.8 20. 6 13.4 14.4 16163 Elizabeth R. NT 17.3 19.6 10.5 12.6 16152 Alligator R. NT 16.1 19.4 13.2 14.8 16684 Bensbach PNG 17.4 19.4 12.7 12.5 16158 Gerowie Ck. NT 14.8 18.0 10.4 10.4 16484 Morehead Qld 15.9 18.0 13.3 14.5 16683 Morehead PNG 15.5 17.6 * * 16107 Old Tonda PNG 15.6 17.3 10.9 10.8 16154 Goomadeer NT 15.9 16.2 13.2 14.3 16151 Mary River NT 13.4 13.9 12.4 13.6 Khảo nghiệm xuất xứ Keo tai tượng Trong giai đoạn 1989 - 1990, Trung tâm KHSX lâm nghiệp Đông nam Bộ xây dựng các khảo nghiệm xuất xứ Keo tai tượng tại Bầu Bàng and Sông Mây. Kết quả đánh giá sau 8,5 năm tuổi cho thấy có sụ sai khác về sinh trưởng giữa hai lập địa (Bảng 4). Điều kiện đất bị ngập nước tại Bầu Bàng có thể là nguyên nhân chính dẫn đến sinh truwognr chậm của Keo tai tượng ở đây. 15
- Trong các khảo nghiệm này, chỉ có một xuất xứ duy nhất là Deri-Deri của PNG tham gia cho thấy có sinh trưởng tốt nhất, xuất xứ Olive River và Pascoe River ở vùng bắc Queensland cũng có sinh trưởng tốt tại Sông Mây. Kết quả này cũng tương đồng với các kết quả từ các nước khác (Harwood và Williams 1992). Các khảo nghiệm xuất xứ được xây dựng trong giai đoạn đầu ở Việt nam các xuất xứ của PNG không tham gia trong khảo nghiệm do đó khó có thể đưa ra những kết luận chính xác. Bảng 4. Sinh trưởng của các xuất xứ Keo tai tượng tại Bầu Bàng và Sông Mây Bầu Bàng Sông Mây 1 Sông Mây 2 Lô hạt Xuất xứ (10.5 năm) (10.5năm) (9.5 năm) Ht (m) Dbh Ht Dbh Ht (m) Dbh (cm) (m) (cm) (cm) 16591 Deri-Deri PNG 17.9 19.2 * * 18.0 24.6 0517 Herbert Valley Qld 17.0 18.6 18.0 22.0 * * 15700 Cardwell Qld 16.8 18.3 17.9 23.3 17.0 21.5 0554 Tully Region Qld 17.3 18.0 18.6 22.4 * * 1667 Bloomfield Qld 15.1 13.9 18.1 19.4 17.8 20.3 0523 Gap Creek Qld 12.6 13.8 19.1 19.1 * * 16589 Olive River Qld * * * * 18.0 23.3 0535 Pascoe River Qld * * * * 18.0 23.0 0579 Innisfail Qld * * * * 15.3 18.5 Trung bình 16.1 17.0 18.4 21.2 17.4 21.9 Khảo nghiệm xuất xứ Keo lá liềm Tháng 9/1991, một khảo nghiệm xuất xứ Keo lá liềm dduwwocj xây dựng tại Bầu Bàng, kết quả đánh gái sau 8,5 năm cho thấy các xuất xứ Dimisisi, Deri -Deri, Morehead và Bensbach từ PNG có sinh trưởng tốt nhất (Bảng 5). Các xuất xứ có sinh trưởng chậm nhất là từ Indonesia và Queensland. 16
- Bảng 5. Sinh trưởng của các xuât xứ Keo lá liềm tại Bầu Bàng (1991-1999) Lô hạt Xuất xứ Nước Ht (m) Dbh (cm) 16602 Dimisisi PNG 19.7 21.4 16993 Deri-Deri PNG 19.6 21.4 17869 Morehead PNG 19.7 21.0 17552 Bensbach PNG 19.3 20.8 13682 Oriomo PNG 18.9 19.6 13680 Wemenever PNG 18.7 19.0 17561 Limal PNG 17.2 19.3 16598 Bimadebum PNG 17.6 19.2 17944 Claudie R. Qld 15.0 18.6 17849 Samlenberr Indo 18.0 17.6 16128 Jardine R. Qld 12.4 16.6 Keo lá tràm Vietnam 8.7 8.4 Đồng Nai Keo lá liềm có sinh trưởng tốt hơn các loài Keo khác ở vùng cát nội đồng ven biển miền trung Việt Nam, đây là những vùng có điều kiện đất đai nghèo dinh dưỡng, bị ngập nước theo mùa. Đã có hàng ngàn hectare Keo lá liềm được trồng tại vùng này, và diện tích sẽ tăng nhiều trong tương lai. Tuy nhiên, trong điều kiện đất đai nghèo dinh dưỡng sẽ rất khó có thể sản xuất được gỗ lớn phục vụ cho công nghiệp gỗ xẻ. Các xuất xứ keo vùng thấp được Bộ nông nghiệp và PTNT công nhận Căn cứ vào kết quả khảo nghiệm loài và xuất xứ tại Việt Nam, năm 2000 Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ra quyết định số 4260/KHCN-NNTT để công nhận các xuất xứ sau đây là giống tiến bộ kỹ thuật cho trồng rừng trên diện rộng. Keo lá tràm: Coen River (Qld), Morehead River (Qld) và Mibini (PNG). Keo lá liềm: Mata province (PNG), Deri-Deri (PNG) và Dimisisi (PNG). Keo tai tượng: Iron Range (Qld), Cardwell (Qld) và Pongaki (PNG). Kết quả nghiên cứu từ các nước khác cũng cho thấy kết quả gần như tương tự ngoại trừ trường hợp xuất xứ Cardwell của keo tai tượng. Kết quả khảo nghiệm xuất xứ và hậu thế keo tai tượng trên rất nhiều nước bao gồm Australia, Trung Quốc, Indonesia và Malaysia (Harwood và Williams 1992), và Philippines (Arnold và Cuevas 2003) cho thấy xuát xứ Cardwell không phải là xuất xứ sinh trưởng nhanh so với các xuất xứ từ PNG hoặc bắc Queensland (Claudie River/Iron Range, Olive River và Pascoe River). Chúng tôi khuyến nghị rằng xuất xứ Cardwell không nên đưa vào danh sách các xuất xứ tốt của keo tai tượng. 17
- 4.3 Khảo nghiệm loài và xuất xứ Keo vùng cao tại Đà Lạt Năm 1996, thông qua một dự án do ACIAR tài trợ và hợp tác với CSIRO, Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng đã xây dựng một hệ thống khảo nghiệm loài và xuất xứ cho một số loài Keo vùng cao trên một số lập địa bao gồm Đà Lạt (độ cao 1600 m), Tam Đảo (1000 m), Mộc Châu (1000 m) và Ba Vì (600 m). Kết quả đánh giá bước đầu cho thấy tỷ lệ sống và sinh trưởng ở khảo nghiệm tại Đà Lạt là tốt nhất (Ha Huy Thinh et al., 1998), do đó việc đánh giá sinh trưởng của các loài và xuất xứ chủ yếu tiến ành tại Đà Lạt (Bảng 6). Tại Đà Lạt có nhiệt độ trung bình là 18.3oC, nhiệt độ trung bình nóng nhất của tháng nóng nhất đạt 23.3oC, nhiệt đo trung bình lạnh nhất của tháng lạnh nhất là 14.3oC. Lượng mưa trung bình năm là 1700 mm, tập trung chủ yếu và mùa hè từ tháng 4 đến tháng 10, chủ yếu trong tháng 9 và 10 (Nguyen Trong Hieu, 1990). Bảng 6. Tỷ lệ sống và sinh trưởng của các loài Keo vùng cao ở giai đoạn 4 năm tuổi tại Đà Lạt Loài Xuất xứ Tỷ lệ Ht Dbh sống (%) (m) (cm) A. mearnsii 6 67.9 10.0 8.6 A. mearnsii nòi Đà Lạt 1 47.5 7.0 7.1 A. binervata 1 68.7 7.9 7.7 A. chrysotricha 1 21.3 6.6 5.2 A. cincinnata 4 13.1 3.5 2.2 A. dealbata 4 50.6 7.0 6.5 A. decurrens 2 15.0 6.0 4.7 A. elata 3 35.8 5.8 5.4 A. fulva 2 59.4 8.8 6.3 A. glaucocarpa 3 25.0 7.6 5.5 A. implexa 3 54.2 4.9 3.1 A. irrorata 3 66.5 7.3 7.5 A. melanoxylon 6 56.3 5.3 4.6 A. parramattensis 2 56.3 6.4 5.4 A. silvestris 1 46.3 8.6 7.6 Khảo nghiệm được xây dựng vào tháng 5 năm 1996, tại Mang Linh, Đà Lạt, ở độ cao 1600 m, trên đất ferralitic đỏ vàng phát triển trên đá magma có pH 4.5 - 5.0. Khảo nghiệm bao gồm 42 xuất xứ của 14 loài keo vùng cao do CSIRO cung cấp, thí nghiệm được thiết kế theo khối ngẫu nhiên đầy đủ, với 4 lần lặp, 20 cây/ô và mật độ 2 x 1,5 m. Sau 48 tháng khảo nghiệm, các loài A. mearnsii (67.9%), A. binervata (68.7%), và A. irrorata (66.5%) có tỷ lệ sống cao nhất (Bảng 6). Loài A. mearnsii có sinh trưởng tốt 18
- nhất, sinh trưởng và tỷ lệ sống của 6 xuất xứ của loài này đều tốt hơn so với nòi địa phương Đà Lạt. Trong số các loài khác, chỉ có một số xuất xứ của A. melanoxylon, A. dealbata và A. irrorata có sinh trưởng tốt. Đánh giá sinh trưởng của các xuất xứ A. mearnsii và A. melanoxylon tại Đà Lạt Kết quả đánh giá sinh trưởng của các xuất xứ keo A. mearnsii và A. melanoxylon ở giai đoạn t năm tuổi cho thấy các xuất xứ Keo A. mearnsii đều có sinh trưởng vượt trội so với nòi địa phương Đà Lạt. Trong số 4 xuất xứ A. melanoxylon, xuất xứ Mt Mee (Queensland) có sinh trưởng tốt hơn rõ rệt so với các xuất xứ đến từ New South Wales và Tasmania (Bảng 7). Bảng 7. Sinh trưởng của các xuất xứ keo A. mearnsii và A. melanoxylon 7 năm tuổi tại Đà Lạt Lô hạt Loài/ Ht (m) Dbh xuất xứ (cm A. mearnsii 16246 Nowra NSW 13.5 12.2 16621 Bodalla NSW 13.6 12.1 16380 Nowa Nowa VIC 12.3 11.3 18607 Berrima NSW 12.6 10.5 18979 Blackhill VIC 12.5 11.0 18975 Bungendore NSW 11.7 10.6 Đà Lạt VN 10.4 10.8 A. melanoxylon 17263 Mt. Mee Qld 10.7 11.2 15821 Raveshoe Qld 9.6 8.7 19001 Mt. Linsay NSW 8.5 7.3 19494 Kannunah Tas 8.4 7.0 Năm 2000, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã có quyết định số 4260/KHCN- NNTT công nhận các xuất xứ Bodalla và Nowa Nowa của Keo A. mearnsii và Mount Mee của A. melanoxylon là giống tiến bộ kỹ thuật cho trồng rừng thí điểm ở các vùng núi cao ở Việt nam. 19
- 5. Cải thiện di truyên các loài Keo ở Việt Nam Tiếp theo giai đoạn khảo nghiệm loài và xuất xứ, Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu cải thiện giống các loài keo cùng với sự hợp tác với các viện nghiên cứu và CSIRO nhằm mục tiêu tạo ra các giống keo được cải thiện di truyền. 5.1 Xây dựng các rừng giống và vườn giống các loài keo vùng thấp phục vụ trồng rừng Trong giai đoạn 1996 - 1998, trong khuôn khổ dự án UNDP FORTIP do trung tâm nghiên cứu giống cây rừng tiến hành với sự phối hợp với CSIRO và do AusAID tài trợ đã xây dựng các rừng giống và vườn giống của Keo lá tràm và keo tai tượng từ hạt tại Cẩm Quỳ và tại Chơn Thành, Bình Phước. Trong giai đoạn 2000 - 2002, trong khuôn khổ 1 dự án do chương trình khí nhà kính của Australia tài trợ và phối hợp với CSIRO đã xây dựng 2 vườn giống cây hạt Keo lá liềm tại Đông Hà và Hàm Thuận Nam, Bình Thuận. Trong năm 2002, trong khuôn khổ dự án giống do chính phủ Việt nam đầu tư đã xây dựng 4 ha vườn giống Keo lá liềm tại Phong Điền, Thừa Thiên - Huế. Chi tiết về các rừng giống và vườn giống được thể hiện ở bảng 8. Các vườn giống được xây dựng sử dụng hậu thế thụ phấn tự do của các cây trội thuộc các xuất xứ tốt nhất đã qua khảo nghiệm, và các cây trội tốt nhất trong các vườn giống ở Australia, Trung Quốc và Thái lan. Hầu hết các vườn giống được thiết kế theo kiểu khảo nghiệm hậu thế gồm 8 lần lặp, với 4 cây/ô. Các rừng giống được xây dựng sử dụng một lô hạt hỗn hợp của một xuất xứ tốt hoặc hỗn hợp các gia đình tốt nhất từ các vườn giống ở các nước khác. Các khảo nghiệm hậu thế được đánh giá ở giai đoạn 3 năm tuổi và sau đó được tiến hành tỉa thưa di truyền loại bỏ những cây và gia đình có sinh trưởng kém. Các cây để lại được chọn lọc sử dụng chỉ số chọn lọc kết hợp giữa sinh trưởng và hình dạng thân cây, trên mỗi ô để lại 1 cây tốt nhất. Khảo nghiệm hậu thế sau khi tỉa thưa có thể cung cấp hạt giống được cải thiện cho trồng rừng cũng như cho quần thể chọn giống thế hệ mới. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp: Bón phân cho lúa vùng đồng bằng Sông Cửu Long - Phạm Sỹ Tân, Chu Văn Hách
14 p | 371 | 54
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Chuồng trại chăn nuôi dê "
51 p | 168 | 46
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp: Cây điều Việt Nam hiện trạng và giải pháp phát triển
10 p | 353 | 36
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Quy trình nông nghiệp an toàn GAP ... chìa khóa thành công cho rau quả tươi Việt Nam "
7 p | 129 | 26
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CÁC HOẠT ĐỘNG VỀ TRỒNG CỎ, CHẾ BIẾN, DỰ TRỮ THỨC ĂN CHO DÊ TRONG CÁC HỘ DỰ ÁN - PHẦN 1 "
48 p | 133 | 23
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " SẢN XUẤT XOÀI RẢI VỤ THEO HƯỚNG GAP TẠI HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP "
11 p | 132 | 21
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Giới thiệu giống keo lai - quản lý, xây dựng vườn cây đầu dòng và nhân giống "
15 p | 120 | 16
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp: Nghiên cứu biện pháp quản lý tính kháng sâu hại (rầy nâu, sâu cuốn lá) một cách bền vững cho các giống lúa chất lượng cao ở đồng bằng Sông Cửu Long
5 p | 136 | 15
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Nghiên cứu tham dò khả năng trồng cà chua, dựa chuột dựa trên giá cụ thể trong nhà màng Polyethylene tại Lâm Đồng "
3 p | 126 | 14
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Lên men, sấy và đánh giá chất lượng ca cao ở Việt Nam - MS6 "
11 p | 94 | 12
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " DỰ ÁN NUÔI THÂM CANH CÁ BIỂN TRONG AO BẰNG MƯƠNG NỔI - MS7 "
10 p | 107 | 11
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Xây dựng chiến lược nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi ngành hàng nông sản: trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi " MS7
13 p | 105 | 9
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CHẨN ĐOÁN VÀ KHỐNG CHẾ BỆNH TIÊU CHẢY Ở LỢN CON TRƯỚC CAI SỮA "
18 p | 108 | 8
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " TIẾN ĐỘ CÁC THỬ NGHIỆM LÊN MEN VÀ SẤY CHƯƠNG TRÌNH CARD 05VIE013 - THÁNG 02/2007 ĐÍNH KÈM BÁO CÁO GIAI ĐOẠN 3 "
5 p | 76 | 7
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CHẨN ĐOÁN VÀ KHỐNG CHẾ BỆNH TIÊU CHẢY Ở LỢN CON TRƯỚC CAI SỮA - MS4 Thiết lập và thực hành hệ thống quản lý theo dõi dữ liệu tại trang trại "
8 p | 88 | 6
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CHẨN ĐOÁN VÀ KHỐNG CHẾ BỆNH TIÊU CHẢY Ở LỢN CON TRƯỚC CAI SỮA - MS5: Chế tạo vacxin và kiểm tra hiệu lực của vacxin "
8 p | 90 | 6
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " DỊCH TẢ HEO (DTH): PHÁT TRIỂN VẮC XIN DỊCH TẢ HEO MỚI - MS8 "
6 p | 119 | 6
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " DỰ ÁN NUÔI THÂM CANH CÁ BIỂN TRONG AO BẰNG MƯƠNG NỔI - MS10 "
10 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn