Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " đánh giá ô nhiễm môi trường do việc xả các chất thải từ ao nuôi cá Tra " MS4
lượt xem 15
download
Điều tra cơ bản đã được tiến hành vào tháng 10 và tháng 11 năm 2007 ở thành phố Cần Thơ và vào tháng 2 và tháng 3 năm 2008 tại tỉnh An Giang để đánh giá ô nhiễm môi trường do việc xả các chất thải từ ao nuôi cá Tra có liên quan đến sản xuất nông nghiệp bền vững. Hai huyện của thành phố Cần Thơ là Ô Môn và Thốt Nốt và hai huyện của tỉnh An Giang là Châu Phú và Phú Tân được lựa chọn dựa trên số lượng ao hầm nuôi cá Tra có nhiều tại các nơi...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " đánh giá ô nhiễm môi trường do việc xả các chất thải từ ao nuôi cá Tra " MS4
- \ Ministry of Agriculture & Rural Development Báo cáo tiến độ CARD Project 023/06 VIE MS3: BÁO CÁO ĐIỀU TRA CƠ BẢN TẠI CẦN THƠ VÀ AN GIANG 24 tháng 4 năm, 2009 1
- Điều tra cơ bản đã được tiến hành vào tháng 10 và tháng 11 năm 2007 ở thành phố Cần Thơ và vào tháng 2 và tháng 3 năm 2008 tại tỉnh An Giang để đánh giá ô nhiễm môi trường do việc xả các chất thải từ ao nuôi cá Tra có liên quan đến sản xuất nông nghiệp bền vững. Hai huyện của thành phố Cần Thơ là Ô Môn và Thốt Nốt và hai huyện của tỉnh An Giang là Châu Phú và Phú Tân được lựa chọn dựa trên số lượng ao hầm nuôi cá Tra có nhiều tại các nơi này. Các thông tin ban đầu có liên quan đén kỹ thuật , kinh tế- xã hội và môi trường được ghi nhận bằng cách phỏng vấn nông dân và bổ sung bằng các quan sát để đánh giá hoặc kiểm chứng các số liệu. Sau đó qua các tiếp xúc với các cán bộ địa phương để thu thập các thông tin thứ cấp cần thiết. Có hai nhóm nông dân có số lượng bằng nhau được chọn để tiến hành phỏng vấn là nhóm hộ trồng lúa đơn thuần và nhóm hộ nông dân nuôi cá. Tổng số có 240 phiếu phỏng vấn được thu thập để phân tích và đánh giá số liệu. I. Khía cạnh về kinh tế - xã hội Nông dân nuôi cá ở Cần thơ đa số có tuổi đời trẻ hơn những người chuyên canh tác lúa (43 tuổi so với 49 tuổi); tuy nhiên sự chênh lệch về tuổi tác lại không thể hiện khi điều tra tại tỉnh An Giang (Bảng 1). Tại tỉnh An Giang hộ nông dân nuôi cá cũng là những người nông dân trước đây canh tác lúa, sau này họ chuyển sang nuôi cá để gia tăng thu nhập cho họ. Ngược lại hộ nông dân nuôi cá đa số là dân nhập cư, họ đến thuê mướn đất hoặc mua đất của cư dân địa phương điều này giải thích lý do tại sao họ có tuổi đời trẻ hơn và có trình độ học vấn cao hơn hộ nông dân canh tác lúa. Nghề canh tác lúa truyền thống đã có từ lâu đời ở đồng bằng sông Cửu Long. Hầu hết nông dân nơi đây có hơn 20 năm kinh nghiệm trong canh tác lúa trong khi ngành thủy sản nước ngọt chỉ mới phát triển mạnh trong những năm gần đây. Các số liệu về số năm kinh nghiệm trong việc nuôi cá đã minh chứng rõ là lĩnh vực này chỉ mới phát triển chưa đầy 10 năm. Qui mô nông hộ thì không có sự khác biệt nhau nhiều giữa 2 nhóm nông dân này. Qui mô khỏang 5 người/hộ và số lao động cỏ trong hộ biến động từ 3-4 lao động. Đất đai sở hửu của hộ trồng lúa tại cả 2 nơi Cần Thơ và An Giang đều cao hơn diện tích đất của các hộ nuôi cá. Điều này có lẻ do tổng chi phí đầu tư cho việc nuôi cá cao hơn nhiều chi phí cho việc canh tác lúa (Bảng 1). Hầu hết nông dân tại Cần Thơ và An Giang có nhà đúc hoặc nhà tường (80-90%). Số nhà lá ít hơn 10% của hộ trồng lúa nhưng có đến khỏang 15-20% của hộ nuôi cá. Do một số hộ nuôi cá là dân nhập cư họ chỉ làm chòi tạm để ở trông coi cá vì họ có nhà ở nơi khác. Đồng bằng sông Cửu Long có lượng nước mặt dồi dào vì vậy việc nuôi cá chủ yếu dựa vào nguồn nước sông, rạch. Kết quả điều tra cho thấy có khỏang 15-15% nông dân quan tâm đến việc ô nhiễm nguồn nước. Nông dân tại An Giang và Cần Thơ còn so sánh chất lượng nước ở thượng nguồn và vùng hạ lưu. Tiêu chuẩn đánh giá nước là tốt hoặc trung bình bị đảo ngược tại 2 nơi này do nước trên thượng nguồn từ Canbodia chảy sangg vẫn còn tốt cho việc nuôi cá vì ao nuôi chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nước thải được xả trực tiếp vào sông rạch bởi khỏang 70% nông dân tại An Giang và khỏang 80% tại Cần Thơ. Số nông dân có ao lắng tương đối ít chỉ khỏang 5-8% và có khỏang 15-25% nông dân sử dụng nước thải từ ao cá cho canh tác lúa. 2
- Bảng 1. Tổng quan về điều kiện kinh tế -xã hội của hộ trồng lúa và nuôi cá. Cần Thơ An Giang Danh mục Hộ nuôi cá Hộ canh tác Hộ nuôi cá Hộ canh tác lúa lúa Tuổi của chủ hộ 43 49 47 47 Trình độ học vấn 7/12 5.5/12 5.7/12 5.8/12 Số năm kinh nghiệm 3.6 20 9.4 20 Số nhân khẩu/hộ 5.3 5.5 5.2 4.8 Số lao động/hộ 3.4 3.6 3.7 3.0 Diện tích sở hữu (ha) 0.6 1.2 0.58 1.50 Lọai nhà ở (%) - Kiên cố 43 23 42 48 - Gạch 42 73 39 44 - Lá 15 4 19 8 Nguồn nước Kênh rạch Kênh rạch Kênh rạch Kênh rạch hoặc sông hoặc sông hoặc sông hoặc sông Chất lượng nước (%) - Tốt 30 55 51 46 - Trung bình 52 22 25 39 - X ấu 18 23 24 15 Nơi đổ nước thải - Sông hoặc kênh 80 100 68 100 - Ruộng lúa 15 24 - Ao lắng 5 8 Biến động về chất lượng nguồn nước cũng là mối quan tâm cho nông dân (Bảng 2). Chất lượng nguồn nước thường tốt trong mùa lũ (táng 8 đến tháng 12) chủ yếu do lưu lượng lớn làm hòa tan và rữa trôi các chất ô nhiễm. Chất thải từ ao cá là nguồn ô nhiễm chính tại các vùng nông thôn ở Cần Thơ và An Giang. Hơn 50% cư dân nông thôn ở An Giang dùng nước sông cho sinh họat và tại Cần Thơ với cùng tỉ lệ này người dân sử dụng nước giếng khoan cho sinh họat. Số liệu này chỉ ra mức độ nghiêm trọng cho vấn đề ô nhiễm nguồn nước buộc dân chúng phải sử dụng nước ngầm cho sinh họat. Hiểm họa cho việc nuôi cá còn do thuốc sát trùng thải ra từ ruộng lúa. Hiểm họa càng cao hơn ở vùng hạ lưu nơi thuốc trừ sâu được tích tụ lại. Vào mùa mưa hoặc ngay sau mùa lũ chất lượng nguồn nước tưới được ghi nhận là tốt tuy nhiên chỉ có khỏang 30% nông dân được phỏng vấn chấp nhận ý kiến này. II. Hiệu quả kinh tế của canh tác lúa và nuôi cá. Kết quả điều tra minh chứng rằng nuôi cá cho lợi nhuận cao hơn canh tác lúa vào khỏang 410 triệu đồng/ha cho khi nuôi cá so với chỉ 9 triệu đồng /ha khi canh tác lúa. Tuy nhiên tổng chi phí cho canh tác 1 ha cá Tra mất khỏang 1 tỉ 894,6 triệu đồng so với 12,1 triệu cho canh tác 1 ha lúa (Bảng 3). Không có sự khác biệt lớn giữa Cần Thơ và An Giang về hiệu quả của canh tác lúa và nuôi cá. Hầu hết hộ nuôi cá đều phải vay tiền từ ngân hàng hoặc láng giềng nhưng canh tác lúa số nông dân vay tiền ít hơn 50% bởi vì tổgn chi phí đầu tư cho canh tác 1 ha lúa thấp hơn nhiều so với nuôi cá (Bảng 4). 3
- Bảng 2: Chất lượng nước tưới, dùng cho sinh họat và nước uống ở nông thôn Danh mục An Giang (%) Can Tho (%) 1. Nước dùng cho sinh họat và để uống Nước sông 57 17 Nước giếng khoan 13 57 Nước máy công cộng 30 26 2. Chất lượng nước dùng cho sinh họat Tốt 46 80 Trung bình 18 13 X ấu 36 7 3. Lý do chất lượng nước xấu Chất thải từ ao cá 91 37 Thuốc trừ sâu từ đồng ruộng 9 15 Khác 0 48 4. Thời điểm chất lượng nước tốt Lũ 62 58 Đông-Xuân 7 13 Quanh năm 7 5 Mùa mưa 28 17 Bảng 3: So sánh hiệu quả kinh tế trong canh tác lúa và nuôi cá ở Cần Thơ Danh mục Nuôi cá (X triệu Trồng lúa (X T value đồng) triệu đồng) Tổng chi/ha 1894.6 12.1 6.2** Năng suất/ha 170 6.9 6.2** Tổng thu /ha 2305 21.2 6.4** Lợi nhuận/ha 410.2 9.1 4.9** Lợi tức/hộ/năm 178 24.8 5.4** Bảng 4: Nguồn tín dụng cho sản xuất nông nghiệp. Danh mục Cantho An Giang Tỉ lệ nông dân trồng lúa vay tiền (%) 35 44 Tỉ lệ nông dân nuôi cá vay tiền (%) 89 95 Nguồn tín dụng Ngân hàng 32 63 Tư nhân 3 4 Công ty (hàng hóa) 65 33 Mức lãi suất/năm (%) Ngân hàng 14 14.6 Tư nhân 43 48 Công ty 26 27.6 4
- Tỉ lệ nông dân tại An Giang tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng cao hơn ở Cần Thơ (Bảng 4). Điều này có lẻ cơ cấu hạ tầng ở An Giang phát triển hơn ở Cần Thơ hoặc hệ thống đường xá ở An Giang thuận lợi cho việc di chuyển hơn. Tuy nhiên về giao dịch trả chậm giữa nông dân và doanh nghiệp phổ biến ở Cần Thơ hơn là tại An Giang có lẻ do công nghiệp ở Cần Thơ phát triển lâu đời hơn là ở An Giang. Thông thường lãi suất ngân hàng là 1% tháng, vay trả chậm là 2% và cho vay giữa cá nhân là 4%/tháng. III. Phương thức nông dân canh tác lúa và nuôi cá III.1 Sản xuất lúa Việc sử dụng nông dược là điều không thể thiếu trong việc canh tác lúa để kiểm sóat dịch bệnh nhưng việc lạm dụng hóa chất sẽ gây ra ô nhiễm đất, nước và trong chuỗi lương thực. Số liệu điều tra ở bảng 5 cho thấy rằng rầy nâu và cháy lá là 2 đối tượng thường gây hiểm họa cho sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long. 84% nông dân ở Cần Thơ và 77% nông dân ở An Giang dùng thuốc phòng trừ rầy nâu. Thuốc phòng trị các lọai côn trùng khác như sâu cuốn lá, sâu đục thân, bù lạch, bọ xít chỉ đứng tầm quan trọng thứ yếu sau rầy nâu và chúng được sử dụng khỏang 16% nông dân ở Cần Thơ và 23% nông dân ở tỉnh An Giang. Hơn 50% nông dân ở An Giang và Cần Thơ mua thuốc trừ nấm bệnh để phòng trừ bệnh cháy lá, các lọai bệnh khác cũng được nông dân sử dụng nông dược để phòng trị nhưng tỉ lệ này thấp hơn 59%. Kết quả điều tra cho thấy rằng 90% nông dân ở Cần Thơ áp dụng đúng liều lượng qui định nhưng con số này tại An Giang là thấp hơn chỉ có 77%. Thời điểm áp dụng thuốc cũng rất biến động tùy thuộc vào thời điểm xuất hiện dịch bệnh. Đa số nông dân tại An Giang có khuynh hướng sử dụng nông dược theo quan sát về sâu bệnh (80%) nhưng số nông dân tại Cần Thơ phun thuốc theo định kỳ là (52%). Về bảo vệ môi trường, qua kết quả điều tra cho thấy số nông dân ý thức thu gom vỏ chai đựng hóa chất và bao bì qua sử dụng để tái chế hoặc chôn lấp là 70% tại An Giang. Tuy nhiên việc đốt hoặc vất bừa bải qua kết quả điều tra cho thấy có 60% nông dân ở Cần Thơ và 16% nông dân An Giang chọn phương cách này (Bảng 5). Điều này cần nên tránh để giảm tác động ô nhiễm môi trường không khí, đất và nước. Việc phổ biến và chuyển giao kỹ thuật cho nông dân là rất cần thiết để gia tăng kiến thức quản lý canh tác lúa và nuôi cá. Công việc này được tiến hànhh thường xuyên hàng năm. Có gần 70% nông dân ở Cần Thơ được tập huấn về sản xuất nông nghiệp nhưng tại An Giang con số này ít hơn 50%. Ngòai ra nông dân còn có thể tiếp cận với kỹ thuật mới qua nghe đài và xem tivi (Bảng 6). Giống lúa là một trong những yếu tố quyết định để tăng năng suất lúa. Hầu hết nông dân tại hai nơi này đều biết phương cách tiếp cận với các giống lúa mới (qua các viện, Trung tâm nghiên cứu, nông trường hoặc trao đổi với các nông dân khác). Hiểm họa nhất đối với môi trường là việc đốt rơm rạ trong hệ thống canh tác lúa 3 vụ mặc dù nông dân đã được dạy cho các phương cách khác để làm giảm tác động này như canh tác nấm rơm, ủ phân hửu cơ, nuôi trâu bò bằng rơm rạ...). Thiếu hụt nguồn nhân công trong nông nghiệp, không có đủ không gian và thời gian xử lý rơm rạ là những nguyên nhân để không áp dụng được các phương cách quản lý bền vững trong sản xuất (Bảng 6) 5
- Bảng 5. Sử dụng hóa chất trong sản xuất lúa Danh mục Cantho (%) An Giang (%) 1. Thuốc trừ sâu Trừ rầy nâu (Bassa, Applaud, Actara, Apolo) 84 77 Khác (Karate, Furadan, Regent, Padan) 16 23 2. Thuốc trừ nấm bệnh Cháy lá (Beam, Flash, Fuan, Trizole, Kasai, 60 52 Repsai) Khác (Tilt, Anvil) 40 48 3. Liều lượng Khuyến cáo 90 77 Cao hơn mức khuyến cáo 8 26 Thấp hơn mức khuyến cáo 2 7 4. Thời điểm áp dụng Khi có xuất hiện 48 80 Định kỳ 52 20 5. Xử lý bao bì Chôn 60 16 Đốt 20 5 Vất bỏ 15 9 Tái chế (bán) 5 70 Bảng 6: Tiếp cận thông tin về kỹ thuật sản xuất lúa (%). Danh mục Cantho An Giang 1. Nguồni thông tin Qua đài, tivi 90 93 Không xem tivi hoặc nghe đài 10 7 Dự tập huấn 70 47 Chưa được tập huấn 30 53 2. Giống lúa Tự để giống 33 47 Mua từ Viện, Trường, nông trường 32 21 Trao đổi với nông dân khác 35 32 3. Sử dụng phụ phẩm nông nghiệp (rơm, rạ) Đốt 60 92 Bán cho trồng nấm 29 5 Nuôi gia súc 11 3 III.2. Nuôi cá Cá Tra được nuôi tại An Giang đã lâu nhưng việc canh tác này bị giới hạn do số cá giống vớt được ngòai tự nhiên vào mùa nước nổi vào tháng 9 hoặc tháng 10 khi cá từ biển Hồ trôi xuôi dòng đến Việt Nam . Ngành công nghiệp nuôi cá Tra chỉ phát triển nhanh từ những năm sau 2000 khi trường Đại Học Cần Thơ phát triển kỹ thuật cho đẻ nhân tạo cá Tra và một khi thị trường xuất khẩu cá Tra được thiết lập. 6
- Do ngành công nghiệp nuôi cá da trơn là khá mới mẻ đối với nông dân cho nên việc hổ trợ từ chính quyền về phổ biến kỹ thuật là rất quan trọng thông qua báo, đài, tài liệu kỹ thuật hoặc thậm chí còn cử cả cán bộ kỹ thuật xuống tận nơi. Số liệu trong bảng 7 cho thấy rắng sự giúp đở này đối với nông dân nuôi cá là rất đáng kể. An Giang là tỉnhh ở đồng bằng sông Cửu Long có diện tích và sản lượng cá da trơn lớn nhất. Nông dân nuôi cá ở An Giang quan tâm nhiều hơn đến thông tin hoặc kỹ thuật hơn là nông dân tại Cần Thơ (82% ở An Giang so với 75% ở Cần Thơ). Họ cũng nhận được sự trợ giúp về kỹ thuật nhiều hơn ở Cần Thơ (Bảng 7). Nghề nuôi cá cần thêm nhân công cho công việc thường nhật như cho ăn, bơm nước và ngay cả việc canh gác vào ban đêm và kết quả là số nhân công thuê mướn tại An Giang cao hơn ở Cần Thơ. Bảng 7: Thông tin tổng quát về nghề nuôi cá Danh mục Can Tho An Giang Tiếp cận thông tin (%) 75 82 Trợ giúp kỹ thuật (%) 42 60 Lao động làm thuê (%) 38 72 Lọai cá nuôi (%) Cá Tra(%) 86 90 Cá khác 14 10 Chu kỳ nuôi cá (month) Từ cá bột – cá hương 2.1 2.0 Từ cá hương đến cá thành phẩm 6.2 5.8 Độ sâu ao (m) Cá hương 1.7 1.5 Cá thành phẩm 3.3 3.5 2 Mật độ /m 33 35 Chỉ số biến chuyển thức ăn 1.5 1.6 Hầu như không có sự khác biệt về thời gian nuôi, độ sâu ao cũng như mật độ thả cá tại hai địa điểm này. Tuy vậy mật độ thả cá khá biến động giũa các nông dân thấp nhất là 12 con và cao nhất là 60 con/m2. Kết quả phân tích cho thấy có mối tương quan thuận giữa kích cở ao hoặc diện tích mặt nước với sản lượng cá thu họach (r = +0.842) nhưng lại có mối tương quan nghịch giữa diện tích ao và chiều sâu ao cá (r = -0.365). Do nông dân có diện tích ao lớn thì thu họach sản lượng cao hơn nông dân có diện tích ao nhỏ. Mặt khác nông dân có diện tích ao nhỏ muốn tăng sản lượng thì phải tăng mật độ và đào ao sâu hơn chính vì vậy có mối tương quan nghịch giữa mật độ và diện tích (r = -0.520). Nông dân ở Cần Thơ thích dùng thức ăn viên trong khi nông dân ở An Giang phần lớn dùng thức ăn tự chế do nguồn cá biển dồi dào từ tỉnh Kiên Giang. Kết quả là hệ số biến chuyển thức ăn cho cá Tra tại An Giang thấp hơn ở Cần Thơ (dùng nhiều thức ăn cho cá hơn tại An Giang) và con số này cũng tương tự như việc nuôi cá bằng thức ăn viên tại Đồng Tháp là 1,47 (Pham quốc Nguyên 2008). Cần Thơ và Đồng Tháp có nhiều công ty sản xuất thức ăn cho cá nằm gần khu vực các ao nuôi. Để làm thức ăn bánh (thức ăn tự chế), hầu hết nông dân phải thêm vào một số các chất bổ sung dinh dưỡng bao gồm các lọai vitamines, men và khóang ngòai các lọai vật liệu truyền thống như cám, tấm và bánh đậu nành. Hầu hết nông dân cho cá ăn 2 lần/ngày (Bảng 8) thông thường vào buổi sáng sớm và chiều tối. Trong khi đó một số người khác cho ăn 1 lần hoặc thậm chí 4 lần /ngày nhưng điều này không phổ biến lắm ở đồng bằng sông Cửu Long. Về số lượng thức ăn 7
- cung cấp cho cá hầu hết nông dân cho biết họ chỉ cung cấp vừa đủ thức ăn cho cá khỏang 1/10 trọng lượng cá vì thức ăn thừa có thể làm ảnh hưởng xấu chất lượng nước ao nuôi (thối nước). Cách thông thường nông dân áp dụng để phát hiện sự thay đổi chất lượng nước là quan sát màu nước. Bảng 8: Lọai thức ăn và số lần cho cá ăn/ngày Danh mục Cần Thơ An Giang 1. Lọai thức ăn (%) Thức ăn viên (công nghiệp) 55 27 Bánh (tự chế) 37 58 Hổn hợp (viên+ bánh) 8 15 Sử dụng chất dinh dưỡng bổ sung 88 66 2. Lọai chất bổ sung Vitamin 64 69 Enzyme 57 74 Khóang 23 36 3. Số lần cho cá ăn/ngày Một lần 23 12 Hai lần 43 78 Ba lần 27 10 Bốn lần 7 0 4. Quan sát ao Theo dõi thức ăn thừa 33 40 Thay đổi thức ăn 32 10 Nuôi cá Tra trong ao thường có tỉ lệ hao hụt cao. Kết quả điều tra cho thấy tỉ lệ hao hụt cá con mới nở đến cá hương vào khỏang 50% và tỉ lệ hao hụt nuôi cá thương phẩm cao hơn 20% (Bảng 9). Sự lan truyền bệnh do nguồn nước ô nhiễm và từ nguồn cá giống là những nguyên nhân gây ra tỉ lệ tử vong cao. Có nhiều lọai bệnh trên cá Tra được báo cáo (Bảng 10) chủ yếu là do ký sinh trùng và virút. Nông dân cho rằng nguồn cá giống bị nhiễm bệnh là nguyên nhân chính nhưng thực ra nguyên nhân chủ yếu là do việc vận chuyển cá giống trong bao bì chật hẹp làm cho cá bị xây xát dẫn đến nhiễm bệnh. Trong lúc vận chuyển chúng thường bị xây xát do cá Tra có ngạnh rất nhọn trên đầu. Một nguyên nhân khác nữa là do thay đổi môi trường đột ngột gây ra khi cá được thả xuống ao mới để nuôi thương phẩm. Hai lý do nêu trên gộp lại làm cho tỉ lệ tử vong cao khi thả nguồn cá mới. Cũng theo nông dân cho biết môi trường ao nuôi cũng ảnh hưởng đến tỉ lệ sức khỏe cá nhưng điều này không quan trọng bằng 2 nguyên do vừa kể trên. Các câu hỏi liên quan đến kế họach nuôi cá Tra trong thời gian tới, hầu hết nông dân tại An Giang (85%) và tại Cần Thơ (68%) nói rằng họ không có dự định gì về phát triển sản xuất cá Tra trong tương lai. Điều này cho thấy rằng nông dân không thực sự hài lòng với nghề nuôi cá Tra do có quá nhiều điều không chắc chắn liên quan đến giá bán cá thịt, giá cả vật tư đầu vào (giá thức ăn và giá hóa chất phòng trị bệnh và xử lý ao nuôi). Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nông dân có trình độ học vấn thấp cần được trợ giúp để sản xuất nhằm gia tăng thu nhập cho họ. Chỉ có khỏang 25% nông dân tại Cần Thơ và 11% nông dân tại An Giang có kế họach mở rộng sản xuất trong tương lai. Lại một lần nữa số liệu minh chứng rằng nghề nuôi cá Tra không thể thu hút nhiều người đầu tư vào lảnh vực này. Kế họach xây dựng ao lắng hầu như đa phần không được nông dân 8
- quan tâm khi được hỏi đến. Chỉ có vài nông dân miễn cưỡng trả lời trong lúc được phỏng vấn mà trong thâm tâm họ chưa bao giờ nghĩ đến điều này. Bảng 9: Tỉ lệ hao hụt phần trăm và nguyên do Danh mục Cantho An Giang Tỉ lệ chết Cá bột-cá hương 47 52 Cá hương-Cá thương phẩm 22 24 Nguyên nhân Do bệnh 50 32 Do nguồn giống 37 57 Do môi trường 13 11 Tình trạng cá hiện tại Bị bệnh 68 72 Ổn định 27 24 Không biết 5 5 Dự định sản xuất trong tương lai Chưa có 68 85 Mở rộng sản xuất 25 11 Làm ao lắng 7 4 Liên quan đến việc sử dụng hóa chất và các sản phẩm sinh học để xử lý ao nuôi trong việc nuôi cá Tra. Hầu như có đến 50% nông dân tại cả 2 địa điểm khảo sát đều dùng Vikong, BKC, Bioca, Yulai, Aquapure, Prawbac và một số các sản phẩm khác (Bảng 10). Họ cũng dùng trụ sinh để kiểm sóat các bệnh do vi khuẩn gây ra trong đường tiêu hóa của cá Tra. Một số các lọai trụ sinh thông thường như Amoxycilline, Cotrim, Penicilline, Kanamycine, Oxamet và Tetracylline đã được dùng rộng rãi chủ yếu bằng cách trộn vào thức ăn tại An Giang (96%) hoặc cho trực tiếp vào môi trường nước (40% nông dân tại Cần Thơ áp dụng theo cách này). Theo nông dân thì các lọai trụ sinh này rất hữu hiệu để trị bệnh cho cá Tra. May thay hầu như tát cả nông dân dùng kháng sinh đúng theo liều lượng được khuyến cáo nếu không thì các hóa chất này sẽ trở thành vấn đề cho môi trường nước và ngay cả đến thị trường xuất khẩu quốc tế. Vì mục đích sát trùng ao nuôi và để trừ tảo, 93% nông dân ở Cần Thơ và khỏang 66% tại tỉnh An Giang dùng copper sulphate, BKC, Vikong, Chlorine, juka và ngay cả muối ăn hoặc vôi bột (Bảng 10). Trong số các lọai này thì BKC và chlorine là 2 lọai hóa chất phổ biến được dùng tại cả 2 nơi An Giang và Cần Thơ. Quản lý chất lượng nước là việc làm thường xuyên trong suốt quá trình nuôi cá Tra. Tất cả nông dân đều rải vôi hoặc muối ăn dọc bờ và đáy ao sau khi đào ao mới hoặc sau khi sên ao củ. Liều lượng vôi và muối dùng xử lý biến động từ 300-400 kg/ ha. Ao sẽ được giữ khô khoảng 3-5 ngày trước khi bơm nước vào để nuôi vụ mới. Hơn 95% nông dân thay nước hoặc thường xuyên thêm nước vào ao (khoảng 1/3 thể tích nước trong ao) và có vào khoảng 50% nông dân tại cả 2 địa điểm thực hành việc vệ sinh đáy ao nhằm duy trì chất lượng nước trong ao được tốt bằng cách bơm bùn (chịnh) trong khi nuôi cá nhằm loại bớt chất thải rắn tích tụ ở đáy ao. Tuy nhiên tất cả nông dân đều thực hành việc bơm bùn đáy ao ra bên ngoài sau khi thu hoạch cá (Bảng 11). Việc bơm chất thải trực tiếp vào nguồn nước là tiềm năng gây ra ô nhiễm môi trường. Hầu hết nông dân 9
- đều có máy đo pH cầm tay để quan trắc chất lượng nước. Phương cách khác để biết chất lượng nước tốt hay xấu là quan sát màu nước hoặc ngửi mùi nước. Nếu ao thiếu oxy thì cá thường lên trên bề mặt vào lúc sáng sớm; bằng cách này nông dân có thể nhận biết ao có đủ oxy hay không. Bảng 10: Hoá chất dùng để xử lý nước ao cá. Danh mục Cantho An Giang 1. Hoá chất Sản phẩm sinh học (%) 48 43 Kháng sinh (%) 72 54 BKC 21 28 Vikong 43 5 Copper sulfate 7 8 Chlorine 21 10 Others 8 49 Hiệu quả xử lý 100 100 2. Cách xử lý Trộn vào thức ăn 60 96 Trực tiếp hoà vào nước 40 4 Tỉ lệ áp dụng 97 100 Bảng 11: Quản lý nước trong ao cá Tra. Danh mục Cantho An Giang Cải tạo ao (%) 100 100 Vôi (kg/ha) 425 350 Muối (kg/ha) 325 300 Sên ao (%) 100 100 Số ngày phơi ao 3.5 4 Châm thêm nước hoặc thay nước định kỳ (%) 98 100 Lượng nước thêm hoặc thay mỗi lần 1/3 1/3 Quan trắc chất lượng nước pH 95 90 Màu hoặc mùi nước 8 12 NH3 và Oxygen 62 65 Thải bùn đáy Bơm vét vệ sinh trong khi nuôi (%) 50 50 Sau khi thu hoạch (%) 60 75 Số liệu điều tra về bệnh của cá Tra được trình bày trong bảng 12. Bệnh nghiêm trọng và phổ biến trên cá da trơn làm cho cá chết phần lớn do vi khuẩn gây ra (khoảng 90%) . Triệu chứng thông thường của bệnh do vi khuẩn gây ra là xuất huyết ở miệng, vây và đuôi. Một số các bệnh khác như phù đầu và tuột nhớt nhưng chúng ít quan trọng hơn là bệnh do vi khuẩn gây ra. 10
- Bảng 12: Bệnh trên cá Tra, giai đọan xuất hiện và biện pháp phòng trị. Danh mục Cantho An Giang 1. Triệu chứng Xuất huyết 54,5 66,7 Phù đầu 10,2 6,4 Tuột nhớt 0,1 4 2. Giai đọan xuất hiện Cá dưới 1 tháng tuổi 72 88 Cá từ 1-3 tháng tuổi 17 8 Cá trên 3 tháng tuổi 11 4 3. Hiệu quả phòng trị Xuất huyết 92 82 Phù đầu 77 85 Tuột nhớt 100 95 IV. Điều tra về mô hình VAC ở thành phố Cần Thơ: Một cuộc điều tra rộng rải về thực hành mô hình vườn-ao-chuồng (VAC) được tiến hành ở vùng phụ cận thành phố Cần Thơ tại 2 quận Phong Điền và Bình Thủy nơi vườn cây ăn trái được trồng trên vùng đất cao phù sa ven sông cạnh mương vườn hoặc ao nuôi cá. Các lọai cây ăn trái trồng phổ biến nhất ở vùng này là nhãn, vú sữa, sầu riêng, chôm chôm hoặc cam, chanh. Gia cầm được nuôi nhiều nhất là vịt ngòai ra còn có gà, heo. Các lọai cá như cá rô phi, cá chép, cá mè trắng hoặc cá chép và cá tai tượng được nuôi trong ao hoặc mương vườn. Các lọai cá này được nuôi ở mật độ thấp thường dưới 30 con//m2 và cvhúng không gây ô nhiễm cho môi trường. Các lọai cá da trơn khác ngòai cá Tra như cá Trê Phi, Trê Vàng và Trê Trắng hoặc Trê lai giữa Trê Phi và Trê Vàng thường được nuôi trong ao cho tiêu dùng nội địa. Nuôi cá Trê gây ô nhiễm nghiêm trọng cho nguồn nước mặt nhiều hơn là các lòai cá Tra do nước thải từ các ao cá Trê chủ yếu thải ra sông, rạch nhỏ. Đặc điểm điển hình của nước thải từ các ao nuôi cá Trê là nước có màu đen, hàm lượng chất rắn lơ lững, BOD và COD rất cao và nước có mùi tanh (Bảng 14). Tác động môi trường lớn nhất của nước thải từ ao cá Trê gây ra là làm chết tất cả các lòai cá tự nhiên khác (giảm đa dạng sinh học). Tuy nhiên bùn đáy ao cá Trê là không đáng kể bởi vì cá Trê thường được nuôi trên ao cạn (khỏang
- thường được pha trộn chủ yếu từ tấm, cám, cá biển vụn hoặc đầu và xương cá Tra sau khi được ly trích mở. Qua kết quả điều tra cho thấy hầu như tất cả ao cá Trê đều thải nước trực tiếp ra sông rạch gây ra ô nhiễm nặng trong vùng tới mức mà các lòai cá tự nhiên khó có thể sống còn và giao thông thủy thường bị tắc nghẽn do bùn lắng làm cạn đáy sông, rạch. Mâu thuẩn phát sinh giữa các hộ nuôi cá Trê và cư dân quanh vùng thường khá gay gắt do vậy khó có thể thuyết phục họ cộng tác được với nhau. Mặc dù chính quyền địa phương đã có qui định nghiêm cấm việc thải trực tiếp ra sông rạch các chất thải từ ao nuôi cá nhưng tình trạng này dường như vượt ngòai tầm kiểm sóat. Vì hầu hết các hộ nuôi cá Trê thường không có ao lắng hoặc đất ruộng để thải vào đất cho nên vấn đề ô nhiễm nguồn nước ở các vùng này là khá nghiêm trọng Bảng 13: Thông tin tổng quát về nuôi cá Trê. Danh mục Bình Thủy Phong Điền Tiếp cận thông tin (%) 82 75 Hướng dẫn kỹ thuật (%) 64 50 Thuê lao động (%) 12 8 Lọai cá nuôi (%) Cá Trê (%) 86 92 Cá khác (%) 14 8 Thời gian nuôi (tháng) 3.5-5 3.5-5 Ươm cá giống 1.2 1.3 Cá thịt 7.2 7.5 2 Diện tích ao (m ) 500-3000 1000-3000 Chiều sâu ao (m) Ươm cá giống 1.2 1.1 Nuôi cá thịt 1.8 1.6 Mật độ cá nuôi/m2 90-120 70-100 Hệ số biến chuyển thức ăn 3,5 3,6 Bảng 14: Chất lượng nước ao nuôi cá Trê. Danh mục Bình Thủy Phong Điền BOD5 (200C) 120 104 TSS (mg/L) 312 258 DO (mg/L) 0.05 0.1 COD (mg/L) 128 117 Mặc dù cá Trê có thể sống trong môi trường ô nhiễm cao, tuy nhiên chúng cũng bị một số các lọai bệnh do vi khuẩn gây ra tương tự như cá Tra nhưng mức độ thiệt hại thường thấp hơn nhiều so với cá Tra. Các hóa chất và chế phẩm sinh học dùng để nuôi cá Trê thường giống như các lọai dùng cho việc nuôi cá Tra được trình bày trong bảng 15 dưới đây 12
- Bảng 15: Hóa chất dùng để xử lý nưoiức ao nuôi và phòng trị bệnh cho cá. Danh mục Bình Thủy Phong Điền Chế phẩm sinh học: biozyme, US-zyme, 56 34 biomix (%) Chế phẩm dùng xử lý nước và vệ sinh ao 76 82 BKC, 32 24 Vikong 16 22 Copper sulfate, potassium permanganate 39 48 Chlorine, formol 7 110 Xử lý đất (zeolite, vôi bột) 62 75 Cơ hội và thách thức của hệ thống VAC: Do hệ thống VAC chủ yếu được thực hiện trên vùng đất cao ven sông. Đây là lọai đát thịt có khả năng thấm rút nước cao thích hợp cho việc canh tác các lọai rau màu và cây ăn trái. Trong mô hình VAC có nhiều cơ hội cho người dân thực hành tái chu chuyển và tái sử dụng các chất dinh dưỡng có trong chất thải để tiết kiệm chi phí trong sản xuất và đồng thời bảo vệ tốt cho môi trường. Tuy nhiên kết quả điều tra cho thấy rằng phân hóa học lại được sử dụng trong sản xuất là chính vì thế rất khó tìm thấy người nông dân nào sử dụng phân hữu cơ cho canh tác nông nghiệp mặc dù các phế phụ phẩm hữu cơ trong nông nghiệp sẳn có rất nhiều như rơm rạ, lục bình, phân heo và bùn đáy ao cá. Điều này một phần do mâu thuẩn của nông dân nuôi cá với các cư dân trong vùng như đã trình bày ở phần trên và một phần là người dân bị yếu tố giới hạn về đất đai để có thể làm ao lắng lọc nước và thu gom bùn, áp dụng chất thải trên đất canh tác hoặc ủ phân hữu cơ vì các trang trại ở đồng bằng sông Cửu Long qui mô về diện tích tương đối còn nhỏ hẹp. Kết quả điều tra trên hệ thống VAC cũng cho thấy người trồng rau màu không thích sử dụng phân trùn được sản xuất từ phân trâu bò do họ phải chi phí nhiều hơn để thuê mướn công nhân để nhổ cỏ cho dù nông dân vẫn biết lợi ích của việc sử dụng phân hữu cơ để cải tạo đất và cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng và gia tăng chất lượng nông sản nhưng việc thực hành ủ phân hoặc áp dụng phân hữu cơ chưa được chú trọng vì các lý do sau đây: - Tiêu tốn thêm nhiều thời gian; - Hiệu quả trước mắt chưa được thấy rõ; - Thiếu hụt lao động trong sản xuất nông nghiệp; - Tăng chi phí vận chuyển và bón phân; - Giá bán các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ gần như ngang bằng với các sản phẩm dùng phân hóa học; - Thiếu kiến thức để ủ phân hữu cơ. - Chất lượng phân hữu cơ được bày bán trên thị trường có chất lượng không ổn định và không đảm bảo. Bên cạnh các trở ngại trong sản xuất về sử dụng phân hữu cơ nêu trên, người nông dân cũng không biết về tác động đối với môi trường làm cho trái đất nóng lên do việc đốt rơm rạ bởi vì vùng canh tác lúa 3 vụ nông dân thường phải đốt rơm rạ để thuận tiện cho việc làm đất sau mỗi vụ thu họach lúa nhất là ở vụ Đông-Xuân và Hè-Thu. Cơ hội cho dự án tham gia vào việc bảo vệ môi trường bằng cách huấn luyện cho nông dân biết cách tái sử dụng các chất phế phụ phẩm hữu cơ từ nông nghiệp để làm phân bón và làm giảm 13
- được sự phóng thích CO2 do việc đốt rơm . Qua các lớp tập huấn và các thí nghiệm trình diễn tại chổ, nông dân sẽ nhận thức được vai trò của chất hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp đồng thời có ý thức hơn để bảo vệ tốt cho môi trường. Mục tiêu này là khả thi vì giá vật tư đầu vào cho sản xuất nông gnhiệp như phân bón và thuốc trừ sâu không ngừng gia tăng. Một cơ hội khác nữa là để khuyến khích nông dân nuôi trùn đất làm thực phẩm cho các lòai thủy sản cao cấp hoặc tôm càng xanh trong các mương vườn và phân trùn làm nguồn phân hữu cơ chất lượng cao. V. Điều tra về tình hình sản xuất và tiêu thụ phân trùn Phân trùn có mối liên quan trực tiếp đến việc nuôi trùn đất. Phân gia súc rất cần thiết để làm phân hữu cơ lót nền và nuôi trùn đất. Vì thế hầu hết các trang trại nuôi trùn đất (thông thường là nuôi trùn quế) được đặt gần nơi nuôi bò hoặc heo. Vùng đồng bằng sông Cửu Long các trang trại nuôi trùn quế thường có vị trí ở các nơi cao ráo (không bị ngập lũ) nơi mà trâu, bò hoặc heo được nuôi thuận lợi hơn. Tại thành phố Cần Thơ số trang trại nuôi trùn quế không nhiều. Tình hình này cũng tương tự như ở tại An Giang do phần lớn địa hình tỉnh này bị ngập lũ hàng năm mặc dù một số nơi thuộc vùng núi của tỉnh cao nhất so với khu vực đồng bằng có nuôi số lượng bò lớn. Số liệu điều tra ở Cần Thơ trong bảng 17 còn cho thấy số nông dân sử dụng phân hữu cơ trong sản xuất lúa là không phổ biến chủ yếu bởi vì hiệu quả kinh tế thấp cho dù họ cũng đã được hướng dẫn sử dụng phân hữu cơ. Nguyên nhân chủ yếu là nguồn phân bón hữu cơ trên thị trường có chất lượng thấp và mặt khác do việc sử dụng thuần túy phân hữu cơ không đủ để cung ứng hòan tòan đầu đủ các chất dinh dưỡng cho cây trồng. Tuy nhiên số nông dân ở tại phong Điền và Bình Thủy áp dụng hệ thống VAC sử dụng phân hữu cơ cao hơn hơn các nơi khác do nơi này nông dân trồng cây ăn trái và rau màu có giá trị cao hơn lúa chính vì vậy cho dù có tốn thêm chi phí nhưng họ vẫn có lãi. Bảng 16: Tình hình sản xuất và sử dụng phân hữu cơ tại Cần Thơ. Danh mục Mô hình VAC Sản xuất lúa Bình Thủy Phong Điền Ô Môn Thốt Nốt Số trại nuôi trùn quế 5 1 2 1 Tự sản xuất phân hữu cơ - Compost 14 11 5 8 - Phân hữu cơ 2 3 1 - Phân xanh 8 6 Áp dụng phân hữu cơ 42 38 12 27 Kiến thức về NN hữu cơ 65 72 28 16 Tỉ lệ tham dự tập huấn (%) 7 4 15 18 VI. Báo cáo về bệnh tật gây ra do ô nhiễm nguồn nước: Khảo sát về các lọai bệnh do ô nhiễm nguồn nước đã hòan tất tại huyện Ô Môn và Thốt Nốt của thành phố Cần Thơ và tại 2 huyện Châu Phú và Phú Tân của tỉnh An Giang. Theo số liệu báo cáo Trung Tâm Vệ Sinh và Phòng dịch ở 2 uqận, huyện Ô môn và Thốt Nốt trong khỏang thời gian năm 2006 và 2007 cho thấy bệnh sốt xuất huyết gia tăng. Bệnh này bộc phát vào thời điểm cuối năm 2008 chủ yếu ở các tỉnh phía nam; tình trạng dịch bệnh nghiêm trọng nhất tại 2 tỉnh An Giang và Đồng Tháp (Cục Y tế Dự phòng-Bộ Y Tế, 2008). Số liệu trong bảng 17 cũng cho thấy bệnh tiêu chảy vào năm 2007 cao hơn năm 2006. 14
- Bệnh sốt thương hàn, tiêu chảy và bệnh lỵ ở huyện Phú Tân cao hơn ở huyện Châu Phú và chúng có chiều hướng gia tăng hàng năm (Bảng 18). Điều này có lẻ liên quan đến hệ thống đê bao khép kín ở Phú Tân nơi mà nước trong kênh rạch không được thóat nước tốt. Như đã trình bày ở bảng 2 cho thấy đa số dân chúng tại tỉnh An Giang còn phải dùng nước sông, rạch là nguồn cung cấp nước chính cho sự sống. Bảng 17: Số liệu về dịch bệnh năm 2006 & 2007 tại quận/huyện Ô Môn và Thốt Nốt Lọai bệnh Ô Môn Thốt Nốt 2006 2007 2006 2007 Sốt xuất huyết 179 237 246 546 Sốt thương hàn 2 0 Tiêu chảy 159 220 3210 2822 Bệnh lỵ 0 1 138 31 Bảng 18: Số liệu về dịch bệnh năm 2006 & 2007 tại huyện Phú Tân và Châu Phú Disease Phú Tân Châu Phú 2005 2006 2007 2005 2006 2007 Sốt xuất huyết 112 300 495 411 595 438 Sốt thương hàn 169 153 71 Tiêu chảy 752 957 1502 189 187 200 Bệnh lỵ 202 250 463 21 10 VI. Tác động của nước thải Tác động của nước thải vào mùa khô và mùa mưa (đặc biệt trong mùa lũ) đã được khảo sát tại cống thóat nước từ các ao cá ở các vị trí 100 mét ngược dòng chảy và 100, 200, 300, 400 và 500 mét xuôi dòng chảy mỗi 15 ngày/lần cho thấy pH nước trong kênh cao hơn mọt ít so với trị số đo được sau khi mở cống (Hình 1); tuy nhiên giữa hai trị số này không khác biệt nhau khi phân tích thống kê ở mức ý nghĩa (P
- Độ dẫn điện đo được trong kênh trước và sau khi xả thải khác biệt nhau có ý nghĩa về thống kê, điều này cho thấy hàm lượng các chất hòa tan trong kênh tăng lên sau khi mở cống xả các chất thải từ ao cá vào nguồn nước. Hình 2 cho thấy trị số EC được đo ở các thời điểm khác nhau sau khi xả thải cao hơn lúc trước khi mở cống thóat nước. 350 300 Ec (uS/cm) 250 Before 200 150 After 100 50 0 -100 0 100 200 300 400 500 m Hình 2: Độ dẫn điện của nước trong kênh trước và sau khi mở cống xả thải nước ao cá Tra trong mùa khô. Cũng tương tự như trị số pH, trị số EC đo trong mùa lũ không khác biệt nhau khi phân tích thống kê so sánh các giá trị đo trước và sau khi mở cống. Không như trường hợp của pH và EC, các trị số COD đo được trước và sau khi mở cống xả thải rất khác biệt nhau khi phân tích thống kê cho dù ngay cả trong mùa lũ. Thông thường trị số COD trong ao nuôi cá Tra vượt quá ngưỡng cho phép nước dùng cho sinh họat ( < 10 mg/L) nhưng chúng vẫn còn trong mức giới hạn cho phép về tiêu chuẩn nước nuôi trồng thủy sản được phép xả thải (35 mg/L
- được theo thông tư 02 của Bộ Thủy Sản về tiêu chuẩn của nước thủy sản xả thải ra nguồn nước. Nồng độ cao của ammonium góp phần làm cho hiện tượng phú dưỡng nguồn nước trong sông rạch ở các khu vực xung quanh các ao nuôi cá là hiện tượng thường thấy được trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. 0.0800 Ammonia (mg/L) 0.0600 After 0.0400 Before 0.0200 0.0000 0 100 200 300 400 500 Distance (m) Hình 4: Nồng độ ammonium trong kênh đo được trước và sau khi mở cống xả chất thải ao nuôi cá Tra. Trong trường hợp của nitrite và nitrate, nồng độ đo được tại các vị trí trên kênh ở các thời điểm vào mùa khô thấp hơn nồng độ cho phép về tiêu chuẩn của nước sinh họat mặc dù trong mùa khô nồng độ các chất này thường tích tụ cao. Riêng trị số TSS trong nước kênh sau khi nhạn nước xả thải khá cao (261± 64 mg/l) trị số này cao gấp 5 lần con số trước khi xả thải (54 ± 20 mg/l). Hình 5 cho thấy hầu hết các trị số đo TSS ở nước kênh thường cao gấp 10-13 lần tiêu chuẩn cho phép về nước sinh họat TCVN 5942-1995 (cột A- TSS nhỏ hơn 20 mg/l) và trị số đo thực tế cũng cao hơn mức cho phép về nước thải thủy sản (dưới 80 mg/L) theo Thông Tư 02 của Bộ Thủy Sản qui định. 300 250 TSS (mg/L) 200 After 150 Before 100 50 0 -100 0 100 200 300 400 500 Distance (m) Hình 5: Tổng chất rắn lơ lững trong kênh trước và sau khi xả chất thải ao nuôi vào nguồn nước mặt. 17
- VII. Kết luận Nguồn lợi từ nuôi cá cao hơn tcanh tác lúa gấp nhiều lần nhưng rủi ro và các yếu tố không lường trước cũng cao hơn nhiều. Tuy nhiên có dấu hiệu về ô nhiễm nguồn nước ở nông thôn chủ yếu do chất thải ao nuôi cá được xả trực tiếp vào nguồn nước. Để giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ sức khỏe cho con người, các lớp tập huấn về sử dụng hợp lý chất thải bằng các phương thức xử lý hiệu quả và thiết thực là rất cần thiết nhằm gia tăng thu nhập nông dân và nâng cao ý thức bảo vệ cho môi trường. Sự hổ trợ từ phía chính quyền là rất cần thiết về phương diện kỹ thuật và tín dụng cho nông dân do họ có trình độ thấp và đa số còn nghèo nên rất dễ bị tổn thương do các rủi ro và đặc biệt là tình hình khủng hỏang kinh tế hiện nay. Nông nghiệp hữu cơ cần được chú trọng để cải thiện chất lượng sản phẩm nông nghiệp đồng thời giảm oo nhiễm nguồn nước bằng cách giảm lượng hóa chất sử dụng. Cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn cần phải được cải thiện cũng như điều kiện vệ sinh để đảm bảo cho sản xuất bền vững và cuộc sống tốt đẹp cho người nông dân. 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp: Bón phân cho lúa vùng đồng bằng Sông Cửu Long - Phạm Sỹ Tân, Chu Văn Hách
14 p | 371 | 54
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Chuồng trại chăn nuôi dê "
51 p | 168 | 46
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp: Cây điều Việt Nam hiện trạng và giải pháp phát triển
10 p | 353 | 36
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Quy trình nông nghiệp an toàn GAP ... chìa khóa thành công cho rau quả tươi Việt Nam "
7 p | 128 | 26
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CÁC HOẠT ĐỘNG VỀ TRỒNG CỎ, CHẾ BIẾN, DỰ TRỮ THỨC ĂN CHO DÊ TRONG CÁC HỘ DỰ ÁN - PHẦN 1 "
48 p | 132 | 23
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " SẢN XUẤT XOÀI RẢI VỤ THEO HƯỚNG GAP TẠI HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP "
11 p | 132 | 21
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Giới thiệu giống keo lai - quản lý, xây dựng vườn cây đầu dòng và nhân giống "
15 p | 120 | 16
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp: Nghiên cứu biện pháp quản lý tính kháng sâu hại (rầy nâu, sâu cuốn lá) một cách bền vững cho các giống lúa chất lượng cao ở đồng bằng Sông Cửu Long
5 p | 135 | 15
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Nghiên cứu tham dò khả năng trồng cà chua, dựa chuột dựa trên giá cụ thể trong nhà màng Polyethylene tại Lâm Đồng "
3 p | 126 | 14
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Lên men, sấy và đánh giá chất lượng ca cao ở Việt Nam - MS6 "
11 p | 94 | 12
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " DỰ ÁN NUÔI THÂM CANH CÁ BIỂN TRONG AO BẰNG MƯƠNG NỔI - MS7 "
10 p | 106 | 11
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Xây dựng chiến lược nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi ngành hàng nông sản: trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi " MS7
13 p | 105 | 9
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CHẨN ĐOÁN VÀ KHỐNG CHẾ BỆNH TIÊU CHẢY Ở LỢN CON TRƯỚC CAI SỮA "
18 p | 107 | 8
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " TIẾN ĐỘ CÁC THỬ NGHIỆM LÊN MEN VÀ SẤY CHƯƠNG TRÌNH CARD 05VIE013 - THÁNG 02/2007 ĐÍNH KÈM BÁO CÁO GIAI ĐOẠN 3 "
5 p | 76 | 7
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CHẨN ĐOÁN VÀ KHỐNG CHẾ BỆNH TIÊU CHẢY Ở LỢN CON TRƯỚC CAI SỮA - MS4 Thiết lập và thực hành hệ thống quản lý theo dõi dữ liệu tại trang trại "
8 p | 88 | 6
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CHẨN ĐOÁN VÀ KHỐNG CHẾ BỆNH TIÊU CHẢY Ở LỢN CON TRƯỚC CAI SỮA - MS5: Chế tạo vacxin và kiểm tra hiệu lực của vacxin "
8 p | 90 | 6
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " DỊCH TẢ HEO (DTH): PHÁT TRIỂN VẮC XIN DỊCH TẢ HEO MỚI - MS8 "
6 p | 119 | 6
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " DỰ ÁN NUÔI THÂM CANH CÁ BIỂN TRONG AO BẰNG MƯƠNG NỔI - MS10 "
10 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn