intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Phát triển chăn nuôi bò thịt cấp xã bền vững tại Nghĩa đàn, Nghệ An - MS2 "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

149
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các hộ tiểu nông có diện tích đất rất hạn chế (trung bình 5000 m2), và vì thế việc tăng dinh dưỡng cho bò thịt và diện tích đất đai dựa trên cơ sở sử dụng các phụ phẩm mùa màng. Hiện nay công nghệ ủ si-lô cho các phụ phẩm mùa màng chưa phổ biến trong khu vực. Sự phát triển công nghệ này là cần thiết cho việc phát triển chăn nuôi bò thịt có hiệu quả trong khu vực. Đội ngũ dự án sẽ làm việc cùng các đối tác địa phương để xây dựng được thực...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Phát triển chăn nuôi bò thịt cấp xã bền vững tại Nghĩa đàn, Nghệ An - MS2 "

  1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chương trình hợp tác vì sự phát triển nông nghiệp và nông thôn (CARD) Công ty Rau Quả 19/5 Nghệ An Trường Đại học Massey New Zealand 010/06VIE: Phát triển chăn nuôi bò thịt cấp xã bền vững tại Nghĩa đàn, Nghệ An MS2: Báo cáo 6 tháng lần 1
  2. Thông tin chung Dự án khuyến nông, huấn luyện và đào tạo phát Tên dự án triển chăn nuôi bò thịt tại Nghĩa đàn, Nghệ An Công ty Rau Quả 19/5 Nghệ An Cơ quan Việt nam Ks. Nguyễn Đức Điệp Lãnh đạo dự án AusAID Cơ quan Australia Mr. Tim Harvey Lãnh đạo Australia Tháng Hai 2007 Ngày bắt đầu Tháng 12 2009 Ngày kết thúc (dự định) - Ngày kết thúc (thực tế) 6 tháng Báo cáo định kỳ Địa chỉ liên hệ Phía lãnh đạo Australia Mr Tim Harvey 00 64 6 350 5119 Tên: Điện thoại: Giám đốc 00 64 6 350 5646 Chức vụ: Fax: Đại học Masey T.G.Harvey@massey.ac.nz Cơ quan Email: Cơ quan quản lý hành chính phía Australia Mr M Peters Tên: Điện thoại: Giám đốc Chức vụ: Fax: Dịch vụ quản lý nghiên cứu Cơ quan Email: Phía Việt nam Mr Nguyễn Quốc Tỏan 0912033676 Tên: Điện thoại: Điều phối viên dự án Chức vụ: Fax: BCFRC toanhoangq@yahoo.com Cơ quan Email: 2
  3. 1. Tóm tắt dự án Kế hoạch phát triển chăn nuôi bò thịt tại Nghệ an cho tới năm 2010 (Theo quyết định số155/QD- UB Nghe An) đã được bắt đầu dtừ năm 2003. Mục tiêu của kế hoạch là tăng sản lượng bò thịt, thông qua các chương trình lai tạo giống để tạo ra các giống mới có năng suất cao và cải thiện thu nhập của người dân. Chăn nuôi bò thịt theo truyền thống ở Việt nam dựa trên cơ sở các trang trại chăn nuôi nhỏ lẻ, chăn thả ở các vùng đất trống đồi trọc; phương thức chăn nuôi này có nhược điểm là không bền vững. Dự án này hy vọng sẽ phát triển được mô hình chăn nuôi bò thịt cấp độ xã bền vững có hiệu quả kinh tế, cải thiện hệ thống cung cấp bò thịt lâu dài và nâng cao thu nhập cho nông dân. Dự án này thiết kế, thực hiện và đánh giá hệ thống chăn nuôi bò thịt cấp độ xã ở Nghĩa đàn, Nghệ an. Dự án dựa trên cơ sở các trang trại hạt nhân (trình diễn) tại 3 xã có thu nhập trung bình của nông hộ dưới mức trung bình (Nghĩa Lâm, Nghĩa Sơn và Nghĩa Quang). Các hộ tiểu nông có diện tích đất rất hạn chế (trung bình 5000 m2), và vì thế việc tăng dinh dưỡng cho bò thịt và diện tích đất đai dựa trên cơ sở sử dụng các phụ phẩm mùa màng. Hiện nay công nghệ ủ si-lô cho các phụ phẩm mùa màng chưa phổ biến trong khu vực. Sự phát triển công nghệ này là cần thiết cho việc phát triển chăn nuôi bò thịt có hiệu quả trong khu vực. Đội ngũ dự án sẽ làm việc cùng các đối tác địa phương để xây dựng được thực tiễn chăn nuôi tốt nhất cho ngành chăn nuôi bò thịt trong khu vực. 2. Tổng kết hoạt động Chất lượng thức ăn cho bò thịt ở huyện Nghĩa đàn là một trong những yếu tố hạn chế chủ yếu tới số lượng đàn bò nuôi ở nông hộ. Giá trị dinh dưỡng của cây thức ăn gia súc (đặc biệt trong mùa khô) cũng là một yếu tố hạn chế tới cả số lượng đàn bò trong mùa đông, năng suất gia súc và chất lượng thịt. Các hộ nông dân có diện tích đất canh tác trung bình là 5000m2 dao động trong khoảng 0.3 - 8ha vì vậy không có nhiều cơ hội để tăng diện tích trồng các loại cây thức ăn gia súc. Trong khi đó, các phụ phẩm mùa màngổtng vùng có thể chế biến để làm thức ăn gia súc là sẵn có. Tuy vậy, khả năng sẵn có này phụ thuộc rất lớn vào thời vụ. Khả năng phát triển chăn nuôi bò thịt ở Nghĩa đàn có thể khai thác mạnh mẽ nếu như tận dụng được các loại phụ phẩm mùa màng làm thức ăn cho gia súc đặc biệt vào mùa khô. Việc áp dụng quy trình lên men để bảo quản thức ăn gia súc đã trở nên khá phổ biến trên thế giới và có thể áp dụng cho nhiều loại phụ phẩm mùa màng khác nhau. Dự án được bắt đầu từ việc ủ cỏ si-lô trong túi ni-lông để trình diễn quy trình. Dự án đã sử dụng ngọn mía (SCT) và cỏ voi có bổ sung rỉ mật và muối để ủ si-lô. Nhiều loại phụ phẩm mùa màng trong vùng như ngọn cây ngô, áo bắp ngô, dây lạc, lá sắn, củ sắn và bã dứa đều có thêr được sử dụng để ủ si- lô. Chất lượng của hầu hết các loại cỏ nhiệt đới đều thấp trong khi đó các biện pháp thu hoạch theo truyền thống làm giảm năng lượng trao đổi ME (MJ/Kg) và tăng tỷ lệ chất xơ. Vì vậy cần phải lựa chọn các loại cây họ đậu, các giống cỏ và các loại mùa màng dễ trồng với chi phí thấp nhưng có thể tăng được ME khi cung cấp cho gia súc. Bộ NN và PTNT đã tiến hành chương trình lai tạo giống trên địa bàn huyện để tăng tầm vóc và năng suất của giống bò địa phương. Chương trình Sindhi hóa đàn bò địa phương đã có 3
  4. thành công đáng kể và hiện nay khỏang 30% đàn bò địa phương đã mang 1/4, 6/10 hoặc ½ gen di truyền của giống bò Sindhi, một giống bò sữa của Pakistan. Chương trình lai tạo giống đã góp phần làm tăng tầm vóc gia súc và năng suất sữa nhưng chất lượng của thịt bò chưa được chú trọng. Vì vậy cần phải có sự cân nhắc và thảo luận trong 6 tháng tới về việc giới thiệu giống bò mới vào khu vực này. Chuyến công tác đầu tiên đã góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết về đọi ngũ công tác của dự án và đã thành lập được cơ sở từ đó xây dựng và phát huy lợi ích cho nông dân địa phương. 3. Giới thiệu và cơ sở dự án Giới thiệu Chuyến công tác đầu tiên kéo dài từ 26 tháng Hai đến 20 tháng Ba năm 2007. Đội ngũ nhân viên dự án về phía New Zealand bao gồm Tim Harvey (Chuyên gia chăn nuôi và quản lý dự án) và Phil Rolston (Chuyên gia phát triển đồng cỏ); về phía Việt nam có ông Nguyễn Đức Điệp, giám đốc công ty rau quả 19/5, bà Hoa, ông Hướng, ông Vinh, ông Hiệp, ông Lý, ông Tâm, và ông Nguyễn Quốc Toản (điều phối viên dự án). Cơ sở dự án Dự án được tài trợ từ chương trình CARD phối hợp với Bộ NN và PTNT thông qua trường Đại học Massey New Zealand. Đối tác phía Việt nam là công ty Rau Quả 19/5 Nghệ an, nguyên là một nông trường quốc doanh được thành lập từ năm 1958 và được tái thiết lập thành công ty năm 1995. Công ty có khoảng 1100 ha đất trồng trọt với loại cây trồng chủ lực là cam, bên cạnh đó là mía và cao su. Công ty cũng chăn nuôi bò sữa và bò thịt mà số bò này chủ yếu được chăn nuôi trong các gia đình công nhân. Phần lớn cán bộ công nhân viên của công ty là người địa phương. Công ty cũng tham gia vào việc trợ giúp kỹ thuật và đào tạo cho bà con nông dân trong vùng. Hiện nay công ty là một trong những doanh nghiệp nhà nước hàng đầu tại tỉnh Nghệ an. Nghệ an nằm ở khu vực bắc trung bộ Việt nam, cách Hà nội 300 km về phía nam, vẫn thuộc diện tỉnh nghèo của đất nước. Nhiều gia đình nông hộ chăn nuôi trâu bò và tỉnh cũng đã có những thành công nhất định trong việc lai giống bò địa phương với bò Sind. Mặc dầu việc chăn nuôi bò tạo điều kiện cho bà con nông dân đa dạng nguồn thu nhập, thức ăn thích hợp cho chăn nuôi bò vẫn là sự hạn chế chính trong sự phát triển của ngành này. Ba xã ở Nghĩa đàn đã được chọn để tham gia dự án, bao gồm các xã Nghĩa sơn, Nghĩa lâm và Nghĩa yên. Huyện Nghĩa đàn đã được chọn làm khu vực thích hợp cho sự phát triển của chăn nuôi bò thịt. Trong 5 năm qua, Bộ NN và PTNT cũng đã tiến hành chương trình tăng cường phát triển chăn nuôi bò trong vùng. Bộ đã tiến hành một số các chương trình đào tạo và tín dụng để hỗ trợ nông dân mua bò giống, giới thiệu giống bò Sind và áp dụng chính sách lai tạo giống, hỗ trợ cho việc áp dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và cải tiến đàn bò đực giống tại địa phương. 4
  5. Thực trạng và môi trường Vị trí Ba xã dự án có vị trí địa lý bao quanh công ty 19/5, gần thị trấn Nghĩa đàn ở vĩ độ 19o2’ B; kinh độ 105o4’ Đ (cách Hà nội khỏang 300 km về phía nam). Địa hình Địa hình đất đai thuộc loại đồi gò thấp, hầu hết đều có thể cấy trồng được, độ cao khoảng 60 met trên mực nước biển. Thổ nhưỡng Đất trồng phần lớn là đất đỏ bazan nhiều mùn màu mỡ, thông thường có chiều sâu khoảng 2 met. Nông dân ít dùng phân bón cho cây thức ăn gia súc nhưng lại dùng nhiều phân bón cho các loại rau quả, ví dụ trồng dưa hấu cần dùng phân chuồng 10 T/ha kết hợp với NPK (10:3:8) 1000 kg/ha. Độ pH của đất dao động từ 5.8 tới 6.5 ỉơ một số địa điểm lên tới 7.0). Hàm lượng phốt pho tự nhiên cao. Phân gia súc đóng vai trò quan trọng trong canh tác nhưng số lượng cung cấp hạn chế. Khí hậu Khu vực có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Mùa đông khô hanh kéo dài từ tháng 10 đến hết tháng 12 có thời tiết ôn hòa và không có sương muối. Có thể chịu ảnh hưởng của lũ lụt và bão lốc. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1565 mm. Mức độ phân bố lượng mưa tương tự như Hà nội với mật độ cao nhất diễn ra từ tháng 5 đến tháng 9. Nhiệt độ cũng đạt mức độ cao nhất vào giai đoạn này, dao động trung bình từ 31 đến 330 C nhưng có thể cao tới 41 C. 5
  6. 4. Tiến độ thực hiện 5.1 Trọng điểm thực hiện Mục tiêu của chuyến công tác thứ nhất cho dự án là: 1. Mục tiêu: Thành lập văn phòng dự án ở Cty 19/5 từ đó đội ngũ nhân viên dự án làm việc và xây dựng mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau tích cực với cộng đồng địa phương. Kết quả: Cty 19/5 đã xây dựng một văn phòng cho dự án; Dự án đã mua sắm bàn, ghế và tủ đựng tài liệu cho văn phòng. Cty đã bố trí một khu nhà ở nhỏ để các chuyên gia dự án có thể ở gần vùng dự án. Một số học sinh phổ thông trung học đã tham gia hoạt động một số buổi trong phạm vi dự án và một mối quan hệ tích cực đã được xây dựng giữa dự án và một giáo viên dạy tiếng Anh ở trường PTTH địa phương, người đã hỗ trợ dự án với vai trò phiên dịch. 2. Mục tiêu: Khẳng định ba xã dự án và làm việc với lãnh đạo các xã, Hội phụ nữ và hội nông dân để chọn lựa ba gia đình ở mỗi xã hoạt động trong dự án với tư cách là ba trang trại điển hình (KPF). Kết quả: Đội ngũ dự án đã gặp gỡ và làm việc với trạm khuyến nông huyện và các cán bộ lãnh đạo của cả ba xã. Một số các cuộc hội thảo về các vấn đề xã hội, cộng đồng và nông nghiệp đã được tổ chức. 3. Mục tiêu: Thu thập dữ liệu cơ sở từ các lãnh đạo xã và phỏng vấn hơn 20 nông dân để đánh giá thực trạng hiện tại và có được các hiểu biết về các phương pháp canh tác. Kết quả: Dữ liệu cơ sở được xây dựng theo các lĩnh vực sau: - 4. Gia đình 5. Thu nhập 6. Đất đai 7. Mùa màng 8. Tài sản 9. Cây thức ăn gia súc 10. Lao động 11. Bệnh gia súc 12. Số lượng gia súc 13. Các điều tra cơ bản về chăn nuôi bò và mùa vụ đã đợưc thực hiện ở 23 gia đình nông hộ trong thời gian một tuần. 6
  7. 4. Mục tiêu: Tiến hành các hoạt động trình diễn: a. Thu thập số liệu trọng lượng bò bằng cân đại gia súc và thước dây đo vòng ngực:- Kết quả: Các số liệu được thu thập từ bò trong các trang trại ở các xã vì khó kiểm soát được bò nếu đang chăn thả. Bò được đánh giá điểm thể trạng và 13 con bò của công ty được cân đo và tính điểm thể trạng làm bài tập ví dụ cho mọi người tham gia. b. Dùng ngọn mía và cỏ voi để ủ si lô trong túi ni lông: Kết quả: Một buổi trình diễn và một buổi hội thảo về kỹ thuật ủ cỏ đã được thực hiện thành công. c. Trồng thử nghiệm các giống cỏ Lucerne, Ruzi, TD58, đậu đen; dưới tán cây, giữa các hàng cây và trên vùng đất trống. Kết quả: Toàn bộ các khu vực thí nghiệm đã được trồng theo đúng như kế hoạch. 5. Mục tiêu: Tiến hành việc đào tạo (3 hội thảo huấn luyện đào tạo) giới thiệu các khái niệm sau: d. Dinh dưỡng gia súc e. Dự trữ thức ăn (ủ si lô) f. Tính chi phí thức ăn Kết quả: Các hoạt động này đã được thực hiện trong ba buổi hội thảo: • Một hội thảo được ttổ chức với 38 nông dân về kỹ thuật ủ cỏ và dinh dưỡng cho bò. • Một cuộc hội thảo với 18 cán bộ kỹ thuật của công ty về chủ đề lập kế hoạch cho trang trại và tính toán chi phí về thức ăn để phát triển chăn nuôi bò thịt. • Một cuộc hội thảo được tổ chức với cán bộ khuyến nông địa phương và 4 cán bộ kỹ thuật chăn nuôi về đề tài quản lý chăn nuôi ở phạm vi xã và lai tạo giống bò. 6. Mục tiêu: Bắt đầu xây dựng mối quan hệ với trường Đại học Nông nghiệp Hà nội: Kết quả: Đã thực hiện 2 chuyến đến thăm và chọn một sinh viên tham gia dự án trong phạm vi huấn luyện đào tạo của nhà trường. 7
  8. 7. Mục tiêu: Triển khai kế hoạch 6 tháng cho mỗi xã dự án và công ty. Kết quả: Các kế hoạch dự án được triển khai cùng với danh sách các hoạt động được hòan thành. 5.2 Lợi ích của các hộ tiểu nông Trước đây, nông dân địa phương chưa được hướng dẫn cách ủ cỏ si lô, một số đã dược nghe nói đến nhưng chưa hiểu biết gì về kỹ thuật. Nông dân cung có một số sự hiểu biết về cân bằng dinh dưỡng và khái niệm về việc cân bằng khẩu phần giữa protein, chất xơ và tinh bột. Ở hội thảo, nông dân được cho túi ni lông to để tự thực hiện việc thử nghiệm ủ cỏ tại gia đình. Lợi ích thực sự cho bà con nông dân sẽ được nhìn nhận rõ trong chuyến công tác tiếp theo. Có nhiều khả năng thực tế để tăng hàm lượng dinh dưỡng cung cấp cho bò thông qua việc tận dụng các phụ phẩm mùa màng sẵn có trong khu vực như ngọn mía, lá sắn, bã dứa, bã sắn và áo bắp ngô. 5.3 Xây dựng năng lực • Đội ngũ dự án đã đến thăm trường Đại học nông nghiệp Hà nội và đã chọn một sinh viên năm cuối đang chuẩn bị làm báo cáo tốt nghiệp để tham gia dự án trong 3 tháng, đồng thời với việc làm thực tập cho đề tài tốt nghiệp. Điều này đã cung cấp cơ hội tốt cho sinh viên tham gia hoạt động trong phạm vi một dự án phát triển quốc tế. • Một giáo viên dạy tiếng Anh ở trường PTTH địa phương đã tham gia dự án trong 2 tuần vào các buổi chiều làm phiên dịch cho dự án. Điều này đã giúp người giáo viên này nâng cao trình độ tiếng Anh của mình. • Các cán bộ kỹ thuật địa phương đã được tham gia thực hiện các thử nghiệm chăn nuôi và dự trữ có sử dụng các phương pháp quốc tế. • Đội ngũ nhân viên của Cty 19/5 đã có thêm hiểu biết về các cách làm việc của các chuyên gia New Zealand và có được các khái niệm về công việc phát triển quốc tế. • Chuyên gia New Zealand được nâng cao hiểu biết về văn hóa Việt nam và áp dụng tốt hơn môi trường xã hội địa phương. Lãnh đạo dự án đã được mời tới tham dự lễ kỷ niệm gia đìng tại một xã điển hình vào ngày 2 tháng Năm. 5.4 Tuyên truyền Đài truyền hình tỉnh đã tham gia một trong các cuộc hội thảo và đã phát sóng trong vòng 5 phút về thông tin của dự án. Giám đốc Sở NN và PTNT tỉnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ an và toàn thể các lãnh đạo của các xã địa phương đều đã đến thăm văn phòng dự án và thể hiện sự đồng tình ủng hộ cho dự án. Văn phòng dự án sẽ sử dụng biểu trưng của CARD (AusAid) trong chuyến công tác tiếp theo. 5.5 Quản lý dự án Dự án đã được thành lập tốt, có văn phòng và sự kết nối internet. Mô hình quản lý đã được thực hiện và các thỏa thuận đã được tiến hành trên cơ sở các chuyến công tác về việc cung cấp dịch vụ và sự hỗ trợ cần thiết. Đất đai đã được chuẩn bị sẵn sàng cho các cuộc trình diễn 8
  9. và các đối tác đã tham gia đầy đủ ở mọi mức độ của dư án. Chuyến công tác đã được tổ chức tốt và hầu hết các hoạt đông đều đã được tiến hành theo như kế hoạch. Trung tâm NC bò và đồng cỏ Ba vì đã không tham gia gì vào dự án trong chuyến công tác này, ngoài sự tham gia của ông Nguyễn Quốc Toản. Tôi hy vọng rằng trong chuyến công tác tiếp theo sắp tới, có thể sắp xếp một chuyến thăm tới Trung tâm NC bò và đồng cỏ Ba vì và tổ chức một buổi thảo luận tại Trung tâm. Ngân sách cho dự án đã được thực hiện rất chặt chẽ với chi phi đi lại quốc tế và tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền New Zealand và Australia cao. Việc thuê thêm phiên dịch cho chuyến công tác này cũng làm tăng thêm chi phí của dự án. Điều này đã được lãnh đạo dự án giải quyết kịp thời. 5. Báo cáo về các vấn đề có liên quan 6.1 Môi trường Có một số vấn đề về môi trường đã được đội ngũ dự án phát hiện: Nhà máy chế biến sắn đang tạo ra một số lượng lớn bã sắn. Dung dịch từ bã sắn chảy ra ngoài và có thể làm nhiễm bẩn các nguồn nước. Nếu bã sắn được sử dụng có hiệu quả hơn cho bò thông qua việc áp dụng kỹ thuật ủ si lô, vấn đề ô nhiễm sẽ được giải quyết. Việc ủ cỏ cũng có thể gây ra vấn đề ô nhiễm nếu như có sự dò rỉ các loại dung dịch axit vào môi trường. Điều này sẽ được kiểm tra và quản lý trong suốt dự án. Việc sử dụng các bao gói ni lông để ủ cỏ có thể gây ô nhiễm môi trường nếu như không thực hiện các biện pháp thu gom và tái chế. Sự gia tăng của số lượng gia súc thường có ý nghĩa tích cực đối với môi trường, tức là làm tăng việc sử dụng phân gia súc làm phân bón thay vì sử dụng phân bón hóa học. Nông dân ở các xã đều đánh giá cao việc sử dụng phân gia súc, hầu hết các chất thải trong chăn nuôi đều được sử dụng làm phân bón cho cây trồng và hầu như không có sự gây ô nhiễm cho các dòng nước ở địa phương. 6.2 Vấn đề giới và xã hội Hiện nay ở các xã chưa có người nữ cán bộ kỹ thuật chăn nuôi nào trong khi hầu hết các công việc chăn nuôi là do chị em phụ nữ đảm nhiệm. Số lượng phụ nữ chiếm khoảng 1/3 trong các cuộc hội thảo và trình diễn là một con số đáng hài lòng. Ở chuyến công tác tiếp theo sẽ cần có sự thảo luận với các lãnh đạo hội phụ nữ ở các xã để có thể tăng thêm sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động của dự án. 6. Đánh giá sự thực hiện và tính bền vững Trong trạm khuyến nông huyện chỉ có một khuyến nông viên chuyên trách về chăn nuôi thú y, đó là ông Nguyễn Công Lý. Ông Lý là người rất hiểu biết về tình hình địa phương và tham gia nhiều khóa đào tạo cho nông dân về giống và dinh dưỡng gia súc trong vùng. Trình độ chuyên môn của các kỹ thuật viên ở các xã trong vùng nói chung khá thấp. Trong số ba xã dự án có hai xã hỗ trợ nông dân khá tốt trong việc phát triển chăn nuôi gia súc nhưng xã thứ ba chỉ mới bắt đầu thực hiện việc đào tạo cán bộ kỹ thuật từ nông dân. Khả năng áp dụng 9
  10. rộng rãi các kỹ thuật của dự án có thể khó được thực hiện ngoài vùng dự án vì thiếu cán bộ đào tạo các cán bộ kỹ thuật cấp cơ sở. Tới nay, cty 19/5 vẫn chưa bắt đầu triển khai việc chăn nuôi đàn bò thịt theo dự định. Một phần của hội thảo đầu tiên đã tập trung vào việc triển khai kế hoạch xây dựng đàn bò thịt cho công ty trong phạm vi dự án. Vào lúc này dự án chưa gặp phải sự rủi ro gì nhưng nếu cho tới tháng 9/2007 mà không có sự thay đổi gì thì cần phải có sự thảo luận với chương trình CARD. 7.1 Tồn tại và kìm hãm Sản xuất sữa VinhMilk, một công ty nhà nước, sắp sửa ký hợp đồng với Cty 19/5 để thành lập một trang trại bò sữa 2000 con trên diện tích 50 ha thuộc Cty. Việc thành lập trang trại có rủi ro vì các yếu tố sau: Đàn bò 2000 con và sau đó thêm 800 bê cái sau một năm hoạt động là một hoạt động rất lớn trong khi đó hiệu quả khai thác của giống bò lai hướng sữa HF trong diều kiện nhiệt đới không cao do đó có thể gặp nhiều rủi ro. VinhMilk có thể có đủ trình độ chuyên môn để quản lý hoạt động này kết hợp với đội quản lý mạnh mang tầm cỡ công ty, tuy vậy hoạt động sẽ có ảnh hưởng tới địa bàn huyện. Một năm sẽ cần phải cung cấp cho đàn bò khỏang 8000 tấn VCK thức ăn xơ thô. Đồng thời 2000 con bò cũng sẽ đòi hỏi một số lượng lớn phụ phẩm hay thức ăn nhập vào. Doanh nghiệp sẽ cần sử dụng đất trồng hoa màu để trồng cỏ cho bò. Điều này cũng sẽ làm giảm chất lượng các phụ phẩm sẵn có cung cấp cho nông dân địa phương, tăng giá thành chăn nuôi bò thịt, đặc biệt là chi phí thức ăn. 800 bê cái sẽ được nuôi tại doanh nghiệp hoặc hợp đồng với nông dân địa phương. 800 bê đực sẽ trở thành bê thịt cung cấp cho thị trường bởi vì bò lai HF khó nuôi và đòi hỏi chi phí cao hơn so với giống bò thịt địa phương. Một câu hỏi được đặt ra đó là có thị trường cho số gia súc này hay không hay là chúng sẽ được đưa tới lò mổ vào khi được 4 ngày tuổi. Để cung cấp đủ 8000 tấn VCK thức ăn cho bò, bao gồm cỏ tươi chất lượng cao, cỏ ủ, và các phụ phẩm khác thì cần phải có diện tích đất đai từ 250 đến 300 ha, trong khi đó diện tích đất được sử dụng chỉ có 50 ha. Bệnh lở mồm long móng Bệnh lở mồm long móng xuất hiện ở địa bàn xã Nghĩa lộc, huyện Quỳnh lưu và một số địa điểm khác quanh thành phố Vinh năm 2005-2006. Bệnh đã được kiểm soát bằng cách tiêm chủng các loại vaccine tuy vậy dịch bệnh đã dẫn tới việc bán đổ bán tháo bò thịt ở các địa bàn lân cận làm cho giá bò giảm xuống. Việc tiêm chủng vaccine được Bộ NN và PTNT tiến hành, nông dân cá thể không thể tự ý tiêm chủng vaccine nếu như họ không ở trong vùng kiểm soát dịch bệnh. Mức độ rủi ro cao vì đối với nông dân, việc chăn nuôi bò cũng là một biện pháp tiết kiệm, bên cạnh các mục đích khác như làm sức kéo, lấy phân bón v.v.... 10
  11. 7.2 Giải pháp chọn lựa Cơ hội phát triển ngành chăn nuôi bò thịt và nâng cao mức độ dinh dưỡng: Việc sử dụng các loại mùa màng truyền thống để ủ si lô làm thức ăn cho gia súc là hoàn toàn có thể thực hiện được, tuy vậy có nhiều khả năng khác nhau như sau: Nhà máy chế biến dứa địa phương chế biến khoảng 30000 – 40000 tấn dứa hàng năm (công suất 200 tấn/ngày). Bã dứa có thể được nông dân sử dụng mà không phải trả chi phí gì. Không có người nông dân nào trong số được phỏng vấn đã sử dụng bã dứa làm thức ăn cho gia súc, mặc dù họ không phải trả tiền để mua bã dứa. Yếu tố này làm sáng tỏ nhu cầu cần thực hiện nhiều nghiên cứu hơn nữa vào chất lượng của loại sản phẩm phụ này, giá trị dinh dưỡng của nó, và bất cứ vấn đề gì về khẩu phần ăn cho gia súc có thể xảy ra có liên quan tới sản phẩm này. Ở New Zealand đã có một số nghiên cứu được thực hiện đề cập tới việc sử dụng bã dứa ướt để ủ si lô bằng cách đặt từng lớp bã dứa với rơm hay cỏ khô để làm giảm lượng nước trong nguyên liệu. Bã sắn cũng sẵn có từ một nhà máy chế biến sắn tươi trong huyện. Sự sử dụng và mức độ sẵn có của sản phẩm này cần được đánh giá trong 6 tháng tiếp theo. Bã sắn chưa được các nông dân phỏng vấn sử dụng; cần phải tiến hành điều tra tiếp tục để đánh giá tiềm năng sử dụng loại sản phẩm này. Lá và thân cây sắn cũng là sản phẩm phụ của vụ sắn. Trong khu vực này, hàng năm có khỏang 10 000tấn sắn được thu hoạch. Trung tâm NC bò và đồng cỏ Ba vì đã tiến hành thành công một số thí nghiệm ủ lá sắn và thân cây sắn nghiền làm thức ăn cho bò. Tuy vậy, phần lá và thân cây sắn tươi rất độc đối với gia súc, đặc biệt là bò, và con người do đó cần phải có nhiều nghiên cứu hơn nữa để có kết luận chính xác về việc sử dụng hết tiềm năng của các loại phụ phẩm này. Các phụ phẩm sẵn có khác trong khu vực là thân lá cây đậu tương, đậu xanh, đậu đen và cây lạc; tuy vậy cho đến nay vẫn có ít thông tin và hiểu biết về tiềm năng của các loại phụ phẩm này. Khoảng 20% (4:23) tổng số hộ gia đình tham gia dự án báo cáo rằng họ sử dụng đậu tương để làm thức ăn cho gia súc. Hiện nay hàng năm Cty 19/5 sản xuất được 5000 tấn cam tươi. Hầu hết toàn bộ số cam này được bán dưới dạng cam tươi trên thị trường, chỉ có một số lượng nhỏ được bảo quản trong kho lạnh và được bán sau đó. Nếu như có một nhà máy chế biến cam được xây dựng trong khu vực, có thể là một liên doanh với VinhMilk hoặc với nhà máy chế biến dứa chẳng hạn thì bã cam có thể được sử dụng như một phụ phẩm hữu ích thêm vào hỗn hợp ủ si lô phục vụ cho chăn nuôi bò. 7.3 Tính bền vững Sự thay đổi thời tiết khí hậu Sự thay đổi thời tiết khí hậu là một vấn đề. Tỉnh Nghệ an thường phải đương đầu với các cơn bão nhiệt đới mạnh, đặc biệt ở những địa phương gần biển. Lũ lụt cũng có thể là một vấn đề có thể gây hậu quả nghiêm trọng bên cạnh đó mùa khô có thể có sự sai khác rất cách biệt với thời tiết mùa xuân kho dự đoán trước. Thay đổi về sử dụng đất 11
  12. Nông dân địa phương có thu nhập chủ yếu dựa vào việc trồng cam, cà phê, mía và cao su với khoảng 60% thu nhập là được tạo ra từ các loại cây trồng này. Ngọn mía có thể được sử dụng để chăn nuôi trâu bò trong khoảng thời gian kéo dài tới 5 tháng, chiếm tới 20-60% khẩu phần của gia súc tùy thuộc vào mức độ chăn thả bò trên các sườn đồi địa phương. Nếu như diện tích trồng mía bị giảm, người nông dân sẽ phải trồng các loại cây thức ăn thay thế thích hợp khác như ngô chẳng hạn. 7. Các bước quan trọng tiếp theo Kế hoạch và các mục tiêu cần được thực hiện được nêu ra ở dưới đây gồm 2 phần, 1 phần nêu lên các bước tiếp theo và kết quả cần đạt được giữa hai chuyến công tác và sau đó là các mục tiêu và kế hoạch cho chuyến công tác thứ hai. Các mục tiêu của dự án giữa hai chuyến công tác thứ nhất và thứ hai như sau: (i) Ông Vinh, sinh viên trường ĐH Nông nhgiệp Hà nội cần thực hiện các đánh giá về các thử nghiệm trồng cỏ. (Xem báo cáo đánh giá đồng cỏ). (ii) Chuyên gia New Zealand nghiên cứu giá trị dinh dưỡng của bã dứa và bã sắn và tiến hành các thử nghiệm quốc tế về việc ủ si lô với sự sử dụng các phụ phẩm này. (iii) Chọn người quản lý dự án (Ông Điệp) và kết thúc việc lựa chọn các hộ nông dân cơ bản KPF (Xem danh sách kèm theo). Bố trí mua 9 x 3 thùng ủ si lô loại nhỏ 1.2m3 và ba thùng ủ sẽ được phát cho mỗi hộ (iv) nông dân cơ bản. Các thùng ủ này sẽ được dùng để ủ si lô cho lần công tác tới đây (Xem kế hoạch chuyến công tác thứ hai). (v) Máy băm cỏ. Mua một máy băm cỏ càng sớm càng tốt. Kiểm tra máy khi băm ngọn mía, thân cây ngô già và cỏ voi. Nếu thành công, mua tiếp 2 máy băm cỏ nữa trước khi chuyến công tác thứ hai được thực hiện. (vi) Bố trí 12 thùng ủ si lô ở tại một địa điểm của công ty để đánh giá chất lượng ủ cỏ si lô vào chuyến công tác tới. Danh sách mục tiêu của chuyến công tác thứ hai: (i) Đánh giá ba máy băm cỏ, kiểm tra và chỉnh sửa nếu cần thiết. (ii) Kiểm tra các khu vực trồng cỏ thử nghiệm, đánh giá và phân tích các mẫu. (iii) Tổ chức các cuộc hội thảo ở các địa điểm trình diễn cho bà con nông dân. (iv) Tổ chức các cuộc hội thảo cho nông dân ở trung tâm huấn luyện đào tạo về dinh dưỡng thức ăn và ủ cỏ si lô. (v) Thăm 3 xã dự án và trình diễn việc ủ cỏ trong các thùng ủ. (vi) Thăm nhà máy chế biến dứa để thảo luận về mức độ sẵn có của phụ phẩm và sự phân bố các mức độ dinh dưỡng. (vii) Thăm nhà máy chế biến sắn để thảo luận về mức độ sẵn có của phụ phẩm và các mức độ dinh dưỡng. 8. Kết luận Dự án đang tiến triển tốt với sự hỗ trợ tích cực từ phía các đối tác Việt nam. Các khái niệm mà dự án được xây dựng đã được củng cố vững chắc. Dinh dưỡng cho bò là giới hạn chủ yếu của việc phát triển chăn nuôi bò thịt tuy vậy có cơ hội để cải thiện mức độ dinh dưỡng thông 12
  13. qua việc sử dụng và bảo quản các loại phụ phẩm và phần còn lại của mùa màng. Cần thiết phải xem xét lại và phát triển một chiến lược lai tạo giống bò mới trên phạm vi toàn huyện. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2