Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Thay thế phân bón hoá học N bằng chế phẩm vi sinh cố định đạm cho cây họ đậu để tăng thu nhập cho nông dân và bảo vệ môi trường - MS9 "
lượt xem 17
download
Mục tiêu chung của dự án là giảm sử dụng phân bón hoá học N cho cây họ đậu, đậu tương và lạc tại Việt nam thông qua tăng cường áp dụng chế phẩm vi khuẩn cố định đạm. Thay thế phân bón hoá học N bằng chế phẩm rhizobium sẽ mang tới hai lợi ích kinh tế và môi trường cho nông dân và giảm áp lực về tài chính cho nông dân nghèo bằng cách giảm chi phí sản xuất đầu vào.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Thay thế phân bón hoá học N bằng chế phẩm vi sinh cố định đạm cho cây họ đậu để tăng thu nhập cho nông dân và bảo vệ môi trường - MS9 "
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hợp tác Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (CARD) MS9: Báo cáo tổng kết 013/06VIE Thay thế phân bón hoá học N bằng chế phẩm vi sinh cố định đạm cho cây họ đậu để tăng thu nhập cho nông dân và bảo vệ môi trường Tháng 8 năm 2010
- Mục lục 1. Thông tin dự án _______________________________________________________ 1 2. Tóm tắt dự án __________________________________ Error! Bookmark not defined. 3. Tóm tắt kết quả đạt được ________________________________________________ 2 4. Giới thiệu và nền tảng của dự án ________________________________________ 12 5. Tiến trình ___________________________________________________________ 14 Các điểm nối bật _______________________________________________________ 15 5.1 5.2 Lợi ích đối với nông hộ nhỏ _______________________________________________ 31 5.3 Xây dựng năng lực ______________________________________________________ 31 5.4 Xuất bản_______________________________________________________________ 32 5.5 Quản lý dự án __________________________________________________________ 32 6. Các vấn đề về môi trường, giới và xã hội __________________________________ 32 Môi trường ____________________________________________________________ 32 6.1 Giới và xã hội _________________________________________________________ 33 6.2 7. Các vần đề nẩy sinh, sự bền vững của dự án _______________________________ 33 Các khó khăn, tồn tại __________________________________________________ 33 7.1 7.2 Giải quyết______________________________________________________________ 33 7.3 Sự bền vững ____________________________________________________________ 33 8. Kế hoạch sắp tới ______________________________________________________ 33 9. Kết luận _____________________________________________________________ 33 10. Công bố __________________________________________________________ 34 11. Báo cáo tổng kết so với mục tiêu ban đầu, kết quả, hoạt động và đầu vào ________ 37 12. Phụ lục ______________________________________________________________ 38 2
- 1. Thông tin các cơ quan tham gia dự án Thay thế phân bón N hóa học bằng chế phẩm vi Tên dự án: sinh cố định đạm cho cây họ đậu tại Việt nam để tăng thu nhập cho nông dân và cải thiện môi trường Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu (IOOP) Cơ quan Việt nam chủ trì dự án Ths. Trần Yên Thảo Chủ nhiệm dự án Việt nam NSW Department of Primary Industries Cơ quan Úc Đại học Sydney Prof. David Herridge Nhân sự phía Úc Dr Rosalind Deaker Elizabeth Hartley Greg Gemell 3/ 2007 Thời gian bắt đầu 3/2009 Thời gian hòan tất (đầu tiên) 8/2010 Thời gian hòan tất (sửa đổi) 3/2007-8/2010 Giai đoạn Cán bộ liên lạc Tại Úc: trưởng nhóm Dr David Herridge Telephone: 02 67631143 Tên: Nhà Khoa học cao cấp 02 67631222 Chức vụ: Fax: Sở các nghành Công nghiệp david.herridge@dpi.nsw.gov.au Cơ quan Email: cơ bản NSW Tại Úc: cán bộ quản lý Mr Graham Denney 02 63913219 Tên: Telephone: Chức vụ: Quản lý Tài chính Fax: 02 63913327 Sở các nghành Công graham.denney@dpi.nsw.gov.au Cơ quan Email: nghiệp cơ bản NSW Tại Việt nam Ths. Trần Yên Thảo 08 9143024 – Tên: Telephone: 8297336 Cán bộ nghiên cứu 08 8243528 Chúc vụ: Fax: Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có yenthao@ioop.org.vn Cơ quan Email: dầu (IOOP) yenthao9@yahoo.com
- 2. Tóm tắt dự án Nông dân Việt nam hiện nay bón phân đạm cho cây họ đậu như đậu tương và lạc mà không nhiễm chế phẩm vi sinh cố định đạm rhizobia. Thay thế phân đạm hoá học bằng chế phẩm vi sinh sẽ tiết kiệm cho nông dân Việt nam khoảng 50-60 triệu đô la Úc/năm dùng vào đầu tư phân N hoá học, và cùng lúc, thúc đẩy mở rộng diện tích sản xuất cây họ đậu. Cũng có các lợi ích về môi trường khi sử dụng chế phẩm này. Dự án này có mục tiêu là tăng sản xuất chế phẩm vi sinh cố định đạm rhizobium thông qua tăng cường năng lực sản xuất, thực hiện chương trình bảo đảm chất lượng sản phẩm ở mức độ quốc gia (QA) và tăng cường nghiên cứu và phát triển R&D. Tham gia trong dự án này là Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu (OPI), Viện Khoa học Nông nghiệp Miền nam (IAS) và Viện Quốc gia Nông hoá Thổ nhưỡng (NISF; hiện nay đổi tên là Viện Nông hoá Thổ nhưỡng (SFI)). Cơ quan Úc tham gia trong dự án là Sở Các nghành Công nghiệp cơ bản NSW và Trường Đại học Sydney. Sử dụng chế phẩm vi sinh cố định đạm bởi nông dân sẽ tăng lên thông qua sự phát triển và thực hiện một chương trình khuyến nông hiệu quả và chương trình đào tạo ho cán bộ nghiên cứu, cán bộ khuyến nông của MARD và nông dân. Lợi ích của chế phẩm và cố định đạm sinh học sẽ được trình diễn trên đồng ruộng và thảo luận trong các hội thảo, hội nghị đầu bờ và các ấn bản khuyến nông. Để chắc chắn tính ổn định của sản xuất và sử dụng, dự án này có sự tham gia của các công ty tư nhân trong việc marketing và “sản xuất thử” với mục đích là các công ty này sẽ mở rộng sản xuất và việc cung cấp chế phẩm sẽ tăng dần lên cùng lúc khi công nghệ và thị trường 1phát triển. . Executive Summary 3. Tóm tắt thực hiện dự án Mục tiêu chung của dự án là giảm sử dụng phân bón hoá học N cho cây họ đậu, đậu tương và lạc tại Việt nam thông qua tăng cường áp dụng chế phẩm vi khuẩn cố định đạm. Thay thế phân bón hoá học N bằng chế phẩm rhizobium sẽ mang tới hai lợi ích kinh tế và môi trường cho nông dân và giảm áp lực về tài chính cho nông dân nghèo bằng cách giảm chi phí sản xuất đầu vào. Cách tiếp cận giải quyết vấn đề là tăng cường hiểu biết và nhu cầu đối với chế phẩm thông qua một chương trình khuyến nông bao gồm các trình diễn trực tiếp về lợi ích của chế phẩm và đào tạo về chức năng của nó và cách sử dụng. Cùng lúc, một chương trình hướng đến tăng năng lực sản xuất chế phẩm có chất lượng cao tại Việt nam được thực hiện. Nội dung này bao gồm phát triển sản xuất chế phẩm phù hợp với điều kiện của Việt nam, hệ thống kiểm tra chất lượng để bảo đảm nông dân tiếp cận được với sản phẩm có chất lượng cao và chuyển giao công nghệ cho đơn vị kinh doanh để tăng sản xuất đáp ứng nhu cầu. Dự án này đã thành công trong việc đạt được mục tiêu của nó. Điều tra ban đầu dự án và sau dự án nông dân và cán bộ khuyến nông chỉ ra rằng đã có sự thay đổi rõ rệt hiểu biết về lợi ích của việc sử dụng chế phẩm và tăng nhu cầu đối với chế phẩm trên thị trường. Trong hơn hai năm dự án, công nghệ sản xuất chế phẩm đã đạt được ở mức mà ở đó chế phẩm sản xuất dựa trên nền chất mang than bùn với chất lượng cao và ổn định bởi các viện nghiên cứu tham gia trong dự án. Nghiên cứu và phát triển tiếp theo sẽ tiếp tục cải thiện công nghệ, đáp ứng đòi hỏi sản xuất qui mô lớn. 2
- Kéo theo các khoá đào tạo và đầu tư, một phòng thí nghiệm kiểm tra chất lượng chế phẩm đã được thành lập tại IOOP và tiêu chuẩn quốc gia đã được sửa đổi phù hợp liên quan đến chất lượng chế phẩm cho cây họ đậu. Tiêu chuẩn và phương pháp kiểm tra chất lượng chế phẩm đã được xác định. Các công ty tư nhân đã tham gia trong sản xuất chế phẩm, phân phối và mở rộng trong suốt quá trình của dự án và nền tảng đã được đặt để tăng cường sự tham gia này. Các viện nghiên cứu đã có mối liên hệ rất chặt chẽ với các công ty tư nhân và thấy trước rằng mối quan hệ hiệu quả này sẽ tiếp tục phát triển. Các chiến lược đã được đề xuất cho phép sự phát triển của công nghiệp chế phẩm trong tương lai của Việt nam bao gồm tăng lợi nhuận của công ty tư nhân bằng sự mở rộng thị trường áp dụng hoặc là mở rộng thị trường xuất khẩu. Sau đây là tóm tắt các kết quả của dự án liên quan đến đáp ứng mục tiêu ban đầu của dự án. Tăng sản xuất chế phẩm rhizobium chất lượng cao và Quản lý chất lượng sản phẩm (QA) Lựa chọn các chủng sản xuất Giữa cây họ đậu-Rhizobium có mối quan hệ đặc biệt mà ở đó các chủng rhizobium có khả năng tạo quan hệ cộng sinh giữa các nhóm cây chủ dẫn đến hiệu quả tăng trưởng của cây thông qua quá trình cố định N sinh học. Các chủng rhizobium thì đa dạng trong quan hệ cộng sinh này. Các chủng rhizobium cần được lựa chọn cho sản xuất thương mại phụ thuộc vào tính hiệu quả về cố định đạm của các chủng và hơn nữa phụ thuộc vào đặc trưng liên quan đến công nghệ sản xuất phù hợp. Lựa chọn các chủng hiệu quả Trong dự án này các chủng rhizobium quốc tế đã được đánh giá về hiệu quả cố` định đạm cả trong thí nghiệm trong nhà lưới và trên đồng ruộng. Các thí nghiệm đồng ruộng được thực hiện tại các vùng sinh thái trồng lạc và đậu tương khác nhau trong cả nước và so sánh với các chủng rhizobium quốc gia. Các chủng này cũng đã được so sánh trong phòng thí nghiệm về các đặc tính sinh trưởng bao gồm tính thích nghi với nhiệt độ và pH. Các chủng thí nghiệm là các chủng địa phương và nhập nội, được cung cấp bởi các viện nghiện cứu tại Việt nam, từ NifTAL (USA), ALIRU (Australia), DOA (Thailand), Korea và Argentina. Một số trong các chủng này được sử dụng trong sản xuất chế phẩm thương mại, như là chủng CB1809 (đậu tương) và NC92 (lạc) tại Úc. Đối với các thí nghiệm trong chậu, 11 chủng cho lạc, 17 chủng cho đậu tương đã được khả sát, so sánh với 2 đối chứng có bón phân N và không sử dụng chế phẩm, đối chứng không bón phân N và không sử dụng chế phẩm. Tất cả các chủng này đã làm tăng nốt sần, năng suất cho cây lạc và đậu tương so với các đối chứng. Có mối tương quan chặc giữa số lượng nốt sần, trọng lượng khô nốt sần và sinh khối cây trong khi đó sự tương quan giữa nốt sần và chiều cao cây rất thấp. Các chủng sản xuất nhiều sinh khối nhất cho lạc là NC92 (chủng thương mại của Úc), GL1 và GL2 (chủng địa phương), SL2, SL1, CJ2 and U110 (chủng sản xuất thương mại cũ của mỹ) đối với đậu tương. Có tất cả 36 thí nghiệm đồng ruộng trong thời gian 2007-2009 tại 10 tỉnh trong nước. Các thí nghiệm này được thực hiện tại các vùng trồng cây họ đậu chính tại Việt nam, từ vùng núi phía Bắc, đến Duyên hải Trung bộ đến vùng đất cao Miền Nam và Đồng bằng Sông Cửu Long. Các tỉnh tham gia là Sơn La, Nghệ An, Bình Định, Bình Thuận, DakLak, DakNong, 3
- Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang và Trà Vinh. Có ít nhất 5 nghiệm thức ở mỗi thí nghiệm để so sánh CB1809, SL1, SL2 (đậu tương); NC92, GL1 và GL2 (lạc). Nghiệm thức đối chứng là không bón phân N, có bón phân N và không áp dụng chế phẩm. Các chủng thương mại của Úc là các chủng hiệu quả nhất về nốt sần, năng suất sinh khối và năng suất hạt. So sánh với đối chứng không nhiễm chế phẩm, CB1809 và NC92 tăng nốt sần, sinh khối và năng suất hạt lần lượt là 51%, 31% và 28%. So với các chủng của Việt nam, CB1809 và NC92, tăng nốt sần, năng suất sinh khối và năng suất hạt trung bình đậu tương và lạc là 22%., 12% và 11% theo thứ tự. Nghiên cứu về tính khả thi của chủng rhizobium trong công nghệ sản xuất chế phẩm Các chủng được so sánh về các đặc tính sinh trưởng bao gồm tốc độ sinh trưởng, sự phát triển trên các môi trường khác nhau và khả năng tăng trưởng và tồn tại ở các điều kiện pH và nhiệt độ khác nhau. Ngoại trừ tính thích nghi tăng lên nhỏ đối với pH của các chủng địa phương, sự sinh trưởng của tất cả các chủng không khác nhau trong tất cả các điều kiện, điều này chỉ ra rằng các chủng địa phương không có sự thích nghi hơn đối với các điều kiện bất lợi của môi trường so với các chủng của Úc và không có các thuận lợi hơn về sự tồn tại của chúng khi áp dụng. Công thức môi trường mới để nhân sinh khối sản xuất chế phẩm do các chủng rhizobium phát triển tốt trên môi trường này so với môi trường cơ bản dựa trên yeast exytract (cao nấm men) và manitol đắt tiền (YMB) đã được đề xuất bởi dự án và có thể thích hợp cho sản xuất qui mô lớn. ISF đã khảo sát thay thế cao nấm men phòng thí nghiệm bằng cao nấm men công nghiệp và cao đậu tương. Tất cả các chủng rhizobium khảo sát tăng trưởng trên môi trường thay thế và đạt 109 cfu/mL. Kết quả này chỉ ra rằng có thể sử dụng các thành phần môi trường rẽ tiền hơn và chấp nhận được. Kết luận rằng các chủng của Úc NC92 và CB1809 là tốt nhất, đáp ứng các tiêu chuẩn lựa chọn và chúng thích hợp là các chủng phục vụ sản xuất thương mại, cho cây lạc và đậu tương tại Việt nam. Trong tương lai, nghiên cứu hơn nữa về các chủng sản xuất là cần thiết để phát triển ngay cả những chủng có hiệu quả hơn hai chủng lựa chọn được hiện nay. Cũng đề xuất rằng giống gốc của các chủng này sẽ được duy trì và cung cấp hàng năm từ phòng thí nghiệm QA độc lập cho các đơn vị tư nhân và nhà nước để sản xuất chế phẩm. Xem trong Phần 5.2 của Báo cáo Chế phẩm Chất lượng cao. Năng lực sản xuất chế phẩm chất lượng cao của các viện nghiên cứu Trong suốt gần 3 năm hoạt động của dự án, công nghệ sản xuất chế phẩm đã được phát triển tại 3 viện nghiên cứu (SFI, IOOP và IAS). Mục tiêu chính là sản xuất chế phẩm có chất lượng cao có chứa ≥5 x 108 rhizobia/g và số lượng tạp nhiễm cao nhất là 108 tế bào/g. Phụ thuôc vào cơ sở vật chất và mức độ tinh thông các viện tiếp cận công nghệ, nghiên cứu và phát triển nó cho phù hợp. Ở một mức độ nào đó, công nghệ sản xuất chế phẩm thích hợp đã được ứng dụng từ các công nghệ đã áp dụng tại các nước có công nghiệp sản xuất chế phẩm thành công, ví dụ Úc và Mỹ. Tất cả các viện đã khảo sát than bùn như là một chất mang và khảo sát nhiều nguồn than bùn khác nhau để chọn than bùn phù hợp. Khi các tính chất của than bùn không phù hợp cho sự phát triển số lượng cao rhizobium thì than bùn có thể được cải thiện thông qua bổ sung các vật liệu khác để tăng khả năng giữ nước. Kỹ thuật khử trùng khác nhau để giảm thiểu vi sinh vật tạp nhiễm cũng đã được đề xuất. Một số nghiên cứu tại IOOP và IAS về chế phẩm dạng dung dịch cũng đã được thực hiện. Chất lượng chế phẩm tại Việt nam 4
- Kiểm tra chất lượng sản phẩm được sản xuất bởi 3 viện nghiên cứu trong suốt thời gian hoạt động của dự án được thực hiện bởi IOOP. Trong 2 năm 2007-2008, tổng cộng 261 mẫu đã được kiểm tra chất lượng (từ 465 mẫu nhận được, 60 từ IAS, 180 từ SFI và 225 từ IOOP), trong đó có 117 mẫu được kiểm tra trong năm 2007 và 144 năm 2008. Kết quả cho thấy số lượng rhizobia thay đổi trong khoảng 109 cfu/g và số lượng vi sinh vật tạp nhiễm 106 cfu/g. Tuy nhiên, số lượng rhizobia cao trong hầu hết trường hợp (72% ), giữa 5 x 108 và 3 x 109 cfu/g, và số lượng tạp nhiễm thấp (≤106 cfu/g). Số lượng rhizobia bằng phương pháp gián tiếp (MNP) 108 rhizobia/g than bùn ấm nhưng hầu hết các mẫu (75%) ≥108 rhizobia/g. Tiêu chuẩn hiện tại tại Úc là ≥ 1x109 rhizobial cfu/g than bùn ẩm và không phát hiện tạp nhiễm ở độ pha loãng 10-6; MPN ≥108. Do đó, theo nghĩa tương đối, một tỷ lệ cao của chế phẩm hiện tại sản xuất tại Việt nam có thể đáp ứng đòi hỏi đối với sản xuất chế phẩm chất lượng cao. Trong thời gian 2009-2010, chương trình QA tiếp tục thực hiện kiểm tra chất lượng chế phẩm sản xuất bởi các viện cũng như các công ty tư nhân (2 công ty tại Nghệ An và Sơn La). Chế phẩm được sản xuất và kiểm tra chất lượng trong thời gian này chủ yếu phục vụ cho các điểm trình diễn đồng ruộng. Tổng số 45 mẫu đã được kiểm tra. Các mẫu này là từ 4 mẻ sản xuất của SFI (SFI cung cấp dịch sinh khối cho công ty ở Nghệ An và Sơn La sản xuất chế phẩm). Các chế phẩm này cung cấp cho 190 ha đậu tương và lạc. Các mẫu cũng từ 5 mẻ sản xuất của IOOP cung cấp cho 200 ha đậu tương và lạc. Các số liệu về chất lượng sản phẩm thu được một lần nữa khẳng định tiêu chuẩn chất lượng đề nghị tại Việt nam và kiểm tra hơn nữa các phương pháp kiểm tra chất lượng. Số lượng rhizobium và tạp nhiễm trong thời gian 2009-2010 thì tương tự năm 2007-2008. Số lượng là 5x108 – 1 x109 và 3x105 – 1x106cfu/g, rhizobium và tạp nhiễm theo thứ tự. Ẩm độ chế phẩm trung bình là 41% . Sự thay đổi số lượng rhizobia và tạp nhiễm trong các mẻ sản xuất khác nhau là kết quả khác nhau trong cách tiến hành sản xuất và kinh nghiệm của mỗi viện. Số lượng rhizobia không ổn định giũa các mẻ sản xuất trong năm 2007 nhưng đã ổn định trong năm 2008. Kết quả này là do cải thiện ẩm độ của chế phẩm và kỹ thuật khử trùng chất mang. Chất lượng chế phẩm trong thời gian 2009-2010 cũng ổn định do công nghệ sản xuất đã được cải thiện. Phát triển công nghệ sản xuất chế phẩm Than bùn sẽ có khả năng là chất mang sản xuất chế phẩm tại Việt nam. Việt nam có rất nhiều mỏ than bùn nằm tại khắp đất nước nhưng chất lượng thì thay đổi từ nghèo (Cần Giờ) cho tới trung bình (Bình Phú) và tốt (U Minh). Tính chất của than bùn được xác định là quan trọng cho sản xuất chế phẩm là nguồn gốc than bùn, khả năng giữ nước và tính vô trùng của nó trước khi cho sinh khối rhizobium vào để tạo thành chế phẩm. Các than bùn khác nhau biểu thị các tính chất này khác nhau, tạo ra hiệu quả của một loại than bùn nào đó đáp ứng cho sản xuất và tính hiệu quả của các chất mang khác nhau thêm vào than bùn để cải thiện than bùn, biến chúng thành chất mang phù hợp cho sản xuất (Xem chi tiết trong Phần 5.2 Báo cáo Chế phẩm Chất lượng cao). Hướng dẫn cũng đã được chỉ ra để điều chỉnh pH và hàm lượng nước trong giai đoạn sản xuất than bùn. Nghiên cứu ảnh hưởng của nguồn than bùn với chất lượng chế phẩm đã mở ra rằng một số than bùn của Việt nam phù hợp cho sản xuất chế phẩm chất lượng cao. Số lương rhizobium trong 5 mẫu than bùn đạt ≥ 109 cfu/g than bùn ẩm, tương đương với số lượng trong than bùn chất lượng cao của Úc. Có sự khác nhau về chất lượng chế phẩm phụ thuộc vào loại than bùn. Số lượng của 1 loại than bùn được cung cấp bởi Komix chỉ là 3.4 x 107 cfu/g than bùn ẩm ở thời gian sau 6 tháng. Trong lúc có thông tin được biết về tính chất của than bùn đòi hỏi 5
- để sản xuất chế phẩm chất lượng cao, rất khó khăn trong việc nhận diện các tính chất đặc biệt về lý-hoá học, xác định chất lượng than bùn theo nghĩa sinh trưởng và tồn tại của rhizobium trong than được khuyến cáo. Có nhiều chất mang có thể thay thế than bùn trong sản xuất chế phẩm ví dụ là bã mía, vermiculite, polyacrylamide, đất khoáng, than đá, than, tàn dư thực vật đã phân huỷ. Các vật liệu này có thể được bổ sung vào than bùn để cải thiện chất lượng. Bã mía, bụi xơ dừa, và phân trùn đã được chỉ ra là tăng chất lượng than bùn thông qua tăng khả năng giữ nước. Các nghiên cứu cải thiện chất lượng than bùn tại IAS đã chỉ ra rằng số lượng rhizobium tăng khi trộn than bùn với phân trùn và bụi xơ dừa so với than bùn. Các thí nghiệm cải thiên chất lượng than bùn bằng cách bổ sung chất vật liệu khác cũng đã được thực hiện tại ISF. Các thí nghiệm này đã trộn than bùn với mật rỉ đường, đất hiếm, phân trùn và bụi xơ dừa. Hỗn hợp than bùn, rỉ đường và đất hiếm và hỗn hợp than bùn, phân trùn và bụi xơ dừa là tốt nhất, so với than bùn. Số lượng rhizobium đạt 109 tế bào cells/g chế phẩm ở thời điểm sau 4 tuần. Tại Việt nam hiện nay, phương pháp khử trùng chất mang là bằng hợi nước. Ẩm độ than bùn trước khi khử trùng cần điều chỉnh tới 20%. Phụ thuộc vào sự tạp nhiễm, nghĩa là số lượng và loại vi sinh vật có trong than bùn, điều kiện khử trùng sẽ khác nhau. Than bùn thường được khử trùng ở 1210C, 45–60 phút, 2 lần và cách nhau 24 giờ. Phương pháp khác có thể áp dụng ở Việt nam là phương pháp chiếu xạ tia gamma. Liều lượng chiếu xạ là 30 – 40 kGy là tốt nhất theo một số thí nghiệm gần đây tại IOOP. Một số nhà sản xuất chế phẩm pha loãng dịch sinh khối trước khi đưa vào than bùn như một phương pháp làm tăng lên số lượng sinh khối và giảm đòi hỏi đầu tư các thiết bị lên men có thể tích lớn. Cơ sở của phương pháp này là phụ thuộc vào khả năng của chất mang hỗ trợ cho sự phát triển của rhizobium trên chất mang đó và thường được gọi là giai đoạn lên men rắn. Nếu sản xuất một lượng sinh khối lỏng lớn thì rất tốn kém và sự tạp nhiễm rất thường xảy ra trong quá trình lên men. Do đó, thể tích lên men nhỏ rất được khuyến cáo đối với sản xuất chế phẩm ở các nước ít phát triển hơn. Tại Thái Lan, sản xuất chế phẩm bằng cách sử dụng sinh khối pha loãng 1/1000. Thí nghiệm tại IFS cho thấy dịch sinh khối có thể pha loãng đến 100 lần mà không ảnh hưởng gì đến số lượng rhizobium trong sản phẩm sau 2 tuần. Tuy nhiên, khả năng pha loãng bao nhiêu cho quá trình lên men rắn thì cần phải xác định trong từng trường hợp. Trong các thí nghiệm khác tại IOOP, pha loãng 10 lần cho kết quả số lượng rhizobium trong than bùn cao (số liệu đã được trình bày trong Báo cáo Chế phẩm Chất lượng cao, Phần 5.2). Rõ ràng kết quả từ chương trình nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy một tỷ lệ cao của các chế phẩm sản xuất bởi các viện nghiên cứu đạt chất lượng cao. Các cán bộ nghiên cứu đã đặt mục tiêu nghiên cứu của họ để cải thiện chất mang cho sản xuất chứng tỏ đã hiểu biết về tầm quan trọng của nó đối với chất lượng chế phẩm. Kỹ năng của họ đã được phát triển trong suốt thời gian thực hiện dự án và điều này phản ánh chất lượng chế phẩm đã được cải thiện bởi các viện nghiên cứu tại Việt nam. Tiêu chuẩn và kiểm tra chất lượng Hội thảo về quản lý chất lượng sản phẩm đã được tổ chức ngay thời điểm bắt đầu thực hiện dự án bởi các chuyên gia của Úc và đào tạo khác về sản xuất chế phẩm và kiểm tra chất lượng sản phẩm được tổ chức sau đó trong năm đầu tiên của dự án bởi chuyên gia Thái Lan. Tất cả cán bộ nghiên cứu của dự án, bao gồm cả nhân sự sản xuất tham gia vào hội thảo đào tạo kiểm tra chất lượng sản phẩm và nhân sự chọn lựa cho đào tạo tại Thái Lan. Phương pháp 6
- kiểm tra chất lượng sản phẩm đã được làm cho phù hợp với điều kiện của Việt nam và một phòng thí nghiệm về chất lượng sản phẩm đã được xây dựng tại IOOP. Hiện chưa có tiêu chuẩn dành riêng cho chế phẩm vi khuẩn rhizobium tại Việt nam, mà chỉ có tiêu chuẩn cho phân bón vi sinh vật cố định đạm. Tuy nhiên, rất cần thiết để có sự quản lý chất lượng (QA) hiệu quả cho chế phẩm. Đã cải tiến một số nội dung của tiêu chuẩn quôc gia Việt nam (TCVN 6166-1996), làm cho nó phù hợp hơn với chế phẩm rhizobium, dựa trên công nghệ sản xuất và các yêu cầu cần có để chế phẩm đạt yêu cầu về chất lượng. Tiêu chuẩn mới này sử dụng sườn cấu trúc của tiêu chuẩn phân bón vi sinh vật cố định đạm hiện tại. Tên của tiêu chuẩn đề nghị là Tiêu chuẩn Quốc gia Việt nam đối với Chế phẩm vi khuẩn nốt sần cho cây họ đậu và các chi tiết về chỉ tiêu đòi hỏi về chế phẩm bao gồm cả nhãn mác cũng như phương pháp kiểm tra chất lượng và đã trình bày chi tiết trong Báo cáo Nâng cao Năng lực. Khuyến nông và đào tạo nông dân, cán bộ khuyến nông Khuyến nông và đào tạo Công tác khuyến nông và đào tạo nông dân và cán bộ khuyến nông là trọng tâm chính của dự án bởi vì nó là cách thuận lợi đưa kỹ thuật nhiễm chế phẩm rhizobium vào Việt nam. Chương trình khuyến nông-đào tạo được thiết kế đơn giản, thực hiện ở nhiều điểm khác nhau trong các vùng trồng trọng điểm cây họ đậu tại Việt nam. Các thí nghiệm có sự tham gia của nông dân và cán bộ khuyến nông ở mọi khía cạnh, từ thiết kế thí nghiệm đến gieo hạt, lấy mẫu, thu hoạch và đọc kết quả. Các trung tâm khuyến nông và trung tâm khuyến nông quốc gia đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động khuyến nông. Số liệu thu được từ các trình diễn đồng ruộng đã được so sánh hiệu quả kinh tế của sử dụng với sử dụng phân bón hoá học N. Trong tương lai, sau khi dự án này kết thúc các đào tạo thêm vào sẽ được tổ chức cho nông dân, cán bộ khuyến nông và cán bộ nghiên cứu về cách sử dụng, lợi ích kinh tế cũng như lợi ích môi trường của chế phẩm. Hơn nữa, tài liệu khuyến nông được chuẩn bị cho nông dân, cán bộ khuyến nông và cán bộ nghjiên cứu về phương pháp sử dụng chế phẩm cũng như lợi ích kinh tế và môi trường do chế phẩm mang lại. Các trình diễn đồng ruộngs Trình diễn đồng ruộng đã thực hiện từ 2007 đến 2010. Các thí nghiệm trình diễn này có hai nghiệm thức: nhiễm với chế phẩm + không sử dụng hoặc sử dụng một lượng nhỏ phân hoá học N và nghiệm thức của nông dân là không nhiễm chế phẩm + sử dụng phân bón N. Trong suốt 2007-2009 dã có 181 điểm trình diễn đồng ruộng sử dụng chế phẩm trên 10 tỉnh. Dự án cũng đã thực hiện các điểm trình diễn mô hình trên diện rộng ở tỉnh Bình Định và Đồng Tháp. Tại Bình Định, trình diễn thực hiện trên 14 ha lạc với sự tham gia của 13 hộ nông dân trong mùa vụ Đông/Xuân 2009/2010. Tại Đồng Tháp, trình diễn trên diện tích đậu tương 61.5 ha với sự tham gia của 120 nông hộ trong vụ Xuân/Hè 2009 và một trình diễn khác trên diện tích 100 ha, 150 nông hộ tham gia trong vụ Xuân/Hè 2010. Tổng quát, sử dụng chế phẩm rhizobium cho đậu tương và lạc tăng năng suất, trung bình là 310 kg/ha và tăng thêm thu nhập cho nông dân, trung bình 4.500.000VNĐ/ha. Lợi nhuận thay đổi tuỳ thuộc vào các điểm. Tại Bầu Đồn, Tây Ninh lợi nhuận tăng chỉ 500.000VNĐ/ha nhưng tại Châu Thành, Trà Vinh lợi nhuận tăng 14.200.000VNĐ/ha. Tương tự, lợi nhuận tăng thêm từ nhiễm chế phẩm là 11.640.000VNĐ tại Dương Minh Châu, Tây Ninh. 7
- Chương trình đào tạo cho nông dân và cán bộ khuyến nông bao gồm các trình diễn đồng ruộng, tham dự hội thảo, tiếp cận, cung cấp tài liệu khuyến nông và áp dụng chế phẩm trên đồng ruộng của nông dân. Nông dân đã được mời đến các điểm trình diễn ít nhất là một lần. Ở nhiều diểm ví dụ như DakNong, DakLak, Đồng Tháp và Bình Định nông dân đến điểm trình diễn 2-3 lần tại các thời điểm lấy mẫu nốt sần, sinh khối cũng như năng suất hạt. Ở mỗi điểm trình diễn, ít nhất 20 nông dân, cán bộ khuyến nông, cán bộ nông nghiệp đã đến và đánh giá (hơn 3600+ lượt người). Cán bộ dự án tại các viện nghiên cứu đào tạo nông dân và cán bộ khuyến nông về bản chất của chế phẩm vi khuẩn nốt sần, nó hoạt động ra sao, nhiễm vào hạt như thế nào, xác định làm sao để biết chế phẩm đang hoạt động tốt, cố định N từ không khí và thu thập số liệu, tính toán hiệu quả như thế nào. Nông dân và cán bộ khuyến nông quan sát sự phát triển của cây, so sánh sự mạnh khoẻ của nó giữa các cây sử dụng chế phẩm và cây sử dụng phân bón hoá học N. Họ đào rễ cây lên và quan sát nốt sần và học cách nhận diện các nốt sần hữu hiệu với màu hồng bên trong. Nông dân và cán bộ khuyến nông cũng học cách đánh giá hiệu quả bằng cách lấy mẫu cây đậu tương và lạc, cân sinh khối và cân hạt. Nông dân rất hứng thú học về cố định đạm sinh học và đặt nhiều câu hỏi, như sau: - Giá cả của chế phẩm như thế nào? Sử dụng bao nhiêu cho 1000m2 hay 1 ha? - - Mua chế phẩm ở đâu? - Có các lọi ích gì bên cạnh tiết kiệm phân urea? - Có thể sử dụng chế phẩm với các hoá chất bảo vệ thực vật? - Có thể sử dụng chế phẩm cho các cây khác? - Có phải nó bị ảnh hưởng bởi thời tiết xấu như là mưa to, nóng? - Có thể sử dụng chế phẩm chung với phân bón hoá học N? Và các đòi hỏi chính: - Cung cấp chế phẩm cho nông dân để họ thử nghiệm trên ruộng của họ - Trợ giúp về kỹ thuật cho nông dân sử dụng Hội thảo Hội thảo đã được tổ chức cho nông dân (22 hội thảo tại 10 tỉnh). Trong mỗi hội thảo có 30– 50 nông dân và cán bộ khuyến nông, cán bộ nông nghiệp tham gia, với tổng số khoảng 900 người tham dự. Nông dân và cán bộ khuyến nông những người đã tham gia trong thí nghiêm đồng ruộng và trình diễn thường là có mặt trong các buổi hội thảo này. Tại tỉnh Bình Định, Đồng Tháp và Trà Vinh, cán bộ khuyến nông cán bộ khuyến nông đã chịu trách niệm cho các hội thảo thực hiện trong năm 2009 và 2010 sau khi họ đã được đào tạo, tham gia trong các hội thảo do cán bộ dự án chủ trì thực hiện trong nănm 2007 và 2008. Tài liệu khuyến nông Tại hội thảo nông dân và cán bộ khuyến nông được cung cấp thông tin về cố định đạm sinh học và chế phẩm vi khuẩn nốt sần, sử dụng như thế nào. Ở mỗi viện tự chuẩn bị bài nói chuyện với nông dân. Các tờ bướm (khoảng 2000 tờ) đã được phát cho nông dân và cán bộ khuyến nông. Các tờ bướn này sau đó đã được sửa chữa, cải biên để nó hấp dẫn hơn đối với nông dân. Phiên bản mới nhất là nó có hình hạt lạc và hạt đậu tương. Hiện tại 12.000 tờ bướm (cho đậu tương và lạc) đã được xuất bản và sẵn sàng gởi đến cho 10 tỉnh của dự án, 8
- công ty tư nhân và một số cơ quan nhà nước. Cẩm nang giới thiệu cố định đạm sinh học, cách sử dụng chế phẩm và lợi ích cũng đã được cải tiến về hình thức và nội dung sau khi có tham khảo với nông dân và cán bộ khuyến nông. Cuốn sách này đang được in với số lượng là 5000 cuốn và sẽ cung cấp cho nông dân, cán bộ khuyến nông, cán bộ nghiên cứu và công ty tư nhân cũng như bộ phận nhà nước. Xem các bản thiết kế tờ bướm, và cẩm nang tại Tâp tin Tờ Bướm và Tập tin Cẩm Nang.. Ở các tỉnh (Bình Định, Đồng Tháp và Trà Vinh), tại hội thảo nông dân và hội thảo đầu bờ đài truyền hình và phát thanh tỉnh được thông báo, họ đến dự hội thảo, lấy tin tức và phát trên truyền hình và phát thanh của tỉnh. Chúng tôi gửi theo báo cáo này một đoạn đã được phát trên truyền hình Đồng Tháp như là một ví dụ của kiểu tài liệu khuyến nông khác. Một video clip khác được làm trong một buổi hội thào nông dân tại Đồng Tháp về cố định đạm sinh học và cách sử dụng chế phẩm theo cách đúng. Clip này hiện nay trở thành công cụ đào tạo nông dân của tỉnh Đồng Tháp. Hai video clip này được gửi tới văn phòng CARD như là một phần của báo cáo này. Thay đổi trong thái độ của nông dân và thực hành sử dụng chế phẩm Sự thành công của chương trình khuyến nông và đào tạo được đánh giá bởi các điều tra nông dân và cán bộ khuyến nông tại khi bắt đầu và kết thúc dự án. Điều tra này để xác định thay đổi về hiểu biết và mối quan tâm của nông dân và cán bộ khuyến nông về tương lai áp dụng chế phẩm rhizobium. Điều tra này được thiết kế ngắn và đơn giản nhưng cung cấp các thông tin quan trọng mà có thể dựa vào để đánh giá so với thái độ, hiểu biết ban đầu từ điều tra tương tự khi dự án bắt đầu. So sánh hai điều tra này sẽ mô tả liệu sự có sẵn của chế phẩm có tăng hay không (mục tiêu dự án 1) và liệu chương trình khuyến nông có hiệu quả trong việc làm tăng hiểu biết và nhu cầu cho chế phẩm (mục tiêu dự án 2). Kiến thức và hiểu biết về chức năng của chế phẩm trong canh tác cây đậu tương và lạc thông qua cố định đạm sinh học tăng lên rõ ràng. Hầu hết nông dân trong điều tra sau dự án biết về chế phẩm và hiểu nó có chức năng gì. Chủ yếu các thông tin mà nông dân lĩnh hội được là trực tiếp thông qua đào tạo và chương trình khuyến nông được tổ chức trong thời gian hoạt động của dự án. Điều tra này cũng chỉ ra một sự quan tâm lớn của nông dân và cán bộ khuyến nông về sử dụng chế phẩm trong tương lai cho cây đậu tương và lạc tại các vùng trồng trọng điểm bởi vì lý do lợi nhuận kinh tế và mong muốn áp dụng công nghệ mới và hiện đại. Không sử dụng chế phẩm trong thời điểm điều tra sau dự án phản ánh chưa có chế phẩm trên thị trường. Điều tra cho thấy chế phẩm rhizobium cho cây họ đậu chắc chắn dễ dàng được chấp nhận tại Việt nam một khi nó được cung cấp và dễ dàng sử dụng. Tăng cường sản xuất và cung cấp chế phẩm chất lượng cao tại Việt nam đi đôi với một chương trình khuyến nông hiệu quả sẽ mang đến sự chấp nhận sử dụng tại Việt nam. Chương trình khuyến nông trong tương lai sẽ vẫn cần nhấn mạnh sự thay thế phân N hoá học đầu vào, mà nó làm tăng chi phí sản xuất đầu vào của các cây này. Một gói các nhân tố đó sẽ dẫn đến tăng thu nhập cho nông dân và giảm bớt đi gánh nặng nghèo khó ở các vùng nông thôn. Tham gia của các công ty tư nhân về sản xuất chế phẩm, phân phối và tiếp cận thị trường Tiềm năng thị trường của Việt nam khoảng 500 tấn/năm, dựa vào giả định liều lượng sử dụng là 1 kg chế phẩm/ha và 50% diện tích áp dụng chế phẩm. Số lượng này hoàn toàn vượt quá khả năng cung cấp của các viện nghiên cứu (hiện tại
- Ba công ty tư nhân đã tham gia tích cực vào dự án – Công ty Ngọc Trung ở Tp Sơn La, tỉnh Sơn La, Côn ty Cổ phần Việt Á Nghĩa Đàn ở Nghĩa Đàn, Nghệ An và Komix ở tỉnh Bình Dương. Công ty Cổ phần Phân bón Sinh hoá Củ Chi quan tâm đến phân phối chế phẩm cho nông dân nhưng không sắp xếp được nhân sự. Trong tương lai sự phối hợp giữa IAS và công ty Cu Chi sẽ mang lại hiệu quả. Ngọc Trung và Việt Á Nghĩa Đàn là hai công ty trẻ nhưng họ quan tâm đến sản xuất các sản phẩm sinh học như các chế phẩm rhizobium và có tiềm năng sản xuất và phân phối lớn. SFI cung cấp sinh khối và chuyển giao công nghệ cho công ty này tạo chế phẩm, hai công ty này trên cơ sở đó đã sản xuất và cung cấp chế phẩm cho 90 ha đậu tương và lạc trong năm 2009 tại Sơn La và Nghệ An. Năm 2010, họ tiếp tục sản xuất chế phẩm cho 100 ha cho lạc và đậu tương. Komix là một công ty sản xuất phân bón với một hệ thống phân phối rộng lớn, bao trùm hầu như ½ đất nước, từ Bắc chí Nam, là công ty có nhiều khả năng áp dụng sản xuất chế phẩm trong tương lai. Komix đồng hành với dự án, thực hiện các thí nghiệm đồng ruộng, các điểm trình diễn, tham gia hội thảo đầu bờ và hội thảo nông dân. Cán bộ của Komix đã được đào tạo về sản xuất chế phẩm qui mô nhỏ tại IOOP. Sản xuất ban đầu tại Komix sẽ ở qui mô trung bình và với kế hoạch tăng sản xuất khi đạt được sự thành thạo trong sản xuất. Năng lực sản xuất hiện tại là 2 tấn/tháng (24 tấn/năm) đủ cung cấp cho 24.000 ha diện tích trồng đậu tương và lạc. Tuy nhiên, Komix đã có ý quan tâm về độc quyền sản xuất chế phẩm. ISF hợp tác với 2 công ty tư nhân ở Nghệ An và Sơn La có thể sản xuất 12 tấn/năm. Năng lực sản xuất hiện tại tại IAS và IOOP là 5 tấn/năm. Do đó, sản xuất chế phẩm hiện tại tại Việt nam là 46 tấn/năm., đáp ứng khoảng 10% tiềm năng thị trường. Thị trường sẽ tăng lên bởi cả tăng năng suất chất lượng. Nếu lượng áp dụng cho 1 ha giảm xuống 250 g/ha thì 40% thị trường sẽ được đáp ứng với tiềm năng sản xuất hiện tại. Trong lúc sản xuất chế phẩm tăng lên từ từ thì công nghệ cần thiết tiếp tục phát triển để hấp dẫn công ty tư nhân hơn nữa đến sản xuất, tăng sản xuất chế phẩm. Điều này có thể có được thông qua sự phát triển chế phẩm đa chủng để áp dụng cho lúa trong hệ thống lúa-cây họ đậu do đó tăng tiềm năng thị trường bằng cách tăng diện tích áp dụng. Kinh phí cho khám phá ý tưởng này đang được xem xét bởi Bộ Khoa học và Công nghệ Việt nam. Chứng cứ đã được xuất bản cho thấy lúa trồng trong hệ thống luân canh với cây họ đậu có thể mang lại lợi ích cho rhizobium (ví dụ như luân canh một loại đậu và lúa tại Ai Cập). Cũng có một số tài liệu chứng minh tăng sự hình thành nốt sần thông qua nhiễm cho cây đậu tương và lạc với cả hai loại rhizobium và PGP. Các công ty tư nhân có hệ thống phân phối riêng của họ, thông thường được sắp xếp thông qua các đại lý. Một cách khác được nẩy sinh khi đoàn đánh giá của chương trình CARD và IOOP nói chuyện với nông dân tại Đồng Tháp. Đó là nông dân tham gia trong dự án có thể trở thành người phân phối chế phẩm hữu hiệu. Điều này được đề xuất bởi một nông dân rằng anh ta có thể phân phối ít nhất chế phẩm tương đương 50 ha cho hàng xóm. Rất nhiều nông dân giỏi như vậy tham gia trong dự án và đây có thể là hệ thống phân phối hữu hiệu cho sự phân phối chế phẩm ở thời gian đầu khi các viện nghiên cứu sản xuất chế phẩm. Chương trình quản lý chất lượng rất quan trọng để duy trì sản xuất ổn định và phương pháp kiểm tra chất lượng sản phẩm đã được xây dựng bởi dự án sẽ được chuyển giao cho nhà sản xuất để phục vụ kiểm tra chất lượng nội bộ trong quá trình sản xuất và phân phối. Hơn nữa, nên có một phòng thí nghiệm kiểm tra chất lượng độc lập để kiểm tra chất lượng chế phẩm được sản xuất ra bởi nhà sản xuất và cung cấp giống mẹ cho sản xuất lớn. IOOP có thể làm 10
- nhiệm vụ này bởi vì nó đã được trang bị cơ sở vật chất thông qua dự án và tiếp tục được trang bị bởi Bộ Công thương. 11
- 4. Giới thiệu và nền tảng dự án Mục tiêu dự án và các kết quả dự kiến Nhà nước Việt nam (Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) đã có kế hoạch thực hiện tăng diện tích trồng các cây họ đậu từ diện tích hiện tại là 780.000 ha lên đến hơn 1.000.000 ha vào năm 2010, đặc biệt đối với cây đậu tương và cây lạc tại vùng Đồng bằng sông Cửu long, Duyên hải miền Trung và các vùng đất cao Bắc, Trung và Nam. Cây họ đậu sử dụng làm thực phẩm, dầu ăn và bánh dầu cho gia súc, và trồng luân canh với lúa (ở Đồng bằng sông Cửu long), xen canh với sắn, mía, cao su, cây ăn quả và bắp trên các vùng đất cao, trồng như cây phủ đất trên đất cát ven biển. Dự án nhỏ ACIAR LWR2/98/27 (Tăng năng suất và cố định đạm của đậu tương, lạc và đậu xanh thông qua sử dụng chế phẩm vi sinh Rhizobium) đã chỉ ra rằng sản xuất cây họ đậu tại Việt nam hiện tại phụ thuộc vào phân N hóa học đắt tiền mà không áp dụng chế phẩm vi sinh rẻ tiền. Thay thế phân N hóa học bằng chế phẩm vi sinh cố định đạm, nông dân Việt nam sẽ tiết kiệm được khoảng 50-60 triêu đô la Úc hàng năm, và cùng lúc sẽ thúc đẩy mở rộng sản xuất cây họ đậu. Hơn nữa, còn có lợi cho môi trường khi thay thế phân đạm khoáng bằng N được tạo ra bởi chính cây họ đậu. Hiệu quả kinh tế đã được tổng kết chi tiết trong báo cáo kết thúc dự án LWR2/98/27. Trong 23 thí nghiệm ở Miền nam, lợi ích kinh tế mang lại là tăng lợi nhuận lên đến 760 đô la Úc/ha (trung bình tăng hơn 100 đô la Úc/ha) do tăng năng suất và giảm sử dụng phân bón N hóa học. Chế phẩm vi sinh này đã tăng năng suất hạt lạc trồng trên đất acid Đồng bằng sông Cửu long trung bình là 42% so với không bón phân N và 28% so với bón phân N. Đối với 13 thí nghiệm của đậu tương năng suất tăng trung bình là 19% so với không bón phân, và năng suất tăng 40-50% trong một số thí nghiệm. Năng suất của các lô thí nghiệm sử dụng chế phẩm vi sinh và bón phân N hầu như không khác biệt. Mức độ lợi ích kinh tế thì thay đổi phụ thuộc vào loại cây, vùng đất và lịch sử trồng. Không có trường hợp nào giảm năng suất khi thay phân đạm khoáng N bằng chế phẩm vi sinh cố định đạm. Các nhà khoa học và quản lý đã kết luận trong hội nghị tổng kết dự án LWR2/98/27 rằng nông dân Việt nam nên thay thế phân đạm khoáng bằng chế phẩm vi sinh cố định đạm. Tuy nhiên, để điều này trở thành hiện thực thì sản phẩm vi sinh này cần phải có sẵn trên thị trường. Năng lực sản xuất hiện tại chỉ nhỏ hơn 5000 túi/năm, và cần phải tăng lên khoảng 500.000 túi/năm để đáp ứng nhu cầu. Hơn nữa chế phẩm hiện tại có chất lượng kém (dự án LWR2/98/27) và cần thiết phải cải thiện. Thời gian bảo quản, phân phối và marketing là các vấn đề cũng cần quan tâm. Ngoài ra, sự hiểu biết của nông dân và ngay cả cán bộ khuyến nông về lợi ích của chế phẩm cũng như cách sử dụng rất giới hạn. Giới hạn về năng lực thì thấy rất rõ ở cả mức độ quốc gia và cơ quan nghiên cứu. Thiếu hụt chính ở cấp độ quốc gia là thiếu một chương trình hợp tác, tập trung. Ở mức độ cơ quan thì không đủ năng lực để sản xuất chế phẩm này ở qui mô trung bình, bảo đảm chất lượng (QA) kém cũng như cần tăng cường năng lực R&D và đào tạo. Dự án này mong muốn được chú trọng vào các vấn đề sản xuất, chất lượng, phân phối, marketing và đào tạo nông dân. Sự tham gia phối hợp của công ty tư nhân trong dự án về cả sản xuất và marketing sẽ bảo đảm sự áp dụng công nghệ sản xuất vào thực tế. Mục tiêu của dự án là để: 1. Tăng cường sản xuất chế phẩm vi sinh cố định đạm chất lượng cao cho đậu tương, lạc và các cây họ đậu khác tại Việt nam thông qua tăng cường năng lực sản xuất (con người và trang thiết bị) ở các viện nghiên cứu tham gia dự án, thực hiện bảo đảm chất lượng sản phẩm (QA), và tăng cường R&D. 12
- 2. Tăng sự quan tâm và sử dụng chế phẩm vi sinh cố định đạm của nông dân thông qua việc phát triển và thực hiện một chương trình khuyến nông và đào tạo hiệu quả về chế phẩm cho cán bộ nghiên cứu, cán bộ khuyến nông của MARD và nông dân bằng việc thực hiện thí nghiệm trình diễn đồng ruộng, tập huấn, hội nghị đầu bờ và xuất bản, phân phối tài liệu khuyến nông. 3. Bảo đảm tính ứng dụng thực tế của dự án bằng sự phối hợp tham gia vào hoạt động dự án của các doanh nghiệp tư nhân trong ‘sản xuất pilot” các chế phẩm vi sinh cố định đạm, với mục tiêu là các công ty này sẽ mở rộng sản xuất cùng lúc khi công nghệ và thị trường phát triển. Dự án này phù hợp với Mục tiêu chiến lược 2 “Cải thiện năng suất và kết nối với thị trường cho vùng nông thôn nghèo ở Đồng bằng sông Cửu long và vùng Duyên hải miền Trung”, phù hợp với Mục tiêu 2.1 “Tăng năng suất ở nông thôn”, và sử dụng Chiến lược 1 “Tăng năng suất và cạnh tranh của các hệ thống nông nghiệp” Cách tiếp cận và phương pháp thực hiện Chiến lược của dụ án là để tăng cường sản xuất chế phẩm vi sinh cố định đạm cho cây họ đậu, quản lý chất lượng, phân phối, tiếp cận thị trường và đào tạo nông dân thông qua họat động hợp tác của các cơ quan. Nó liên quan đến cả hai, các viện nghiên cứu của nhà nước – Viện Nghiên cứu Dầu và cây có dầu (OPI), Viện Khoa học Nông nghiệp Miền nam (IAS) và Viện Nghiên cứu Nông hóa Thổ nhưỡng (ISF) – cũng như các công ty tư nhân (Công ty Cổ phần Phân bón Fitohoocmon, Công ty Cổ phần Phân bón Sinh hóa Củ Chi và Công ty Phân bón Humix). Các công ty tư nhân sẽ bước đầu tham gia trong việc tiếp cận thị trường và phân phối sản phẩm và được hướng dẫn về kỹ thuật và cho lời khuyên để mà cải thiện và mở rộng khả năng sản xuất của họ. Dự tính rằng đơn vị tư nhân sẽ đảm nhận việc sản xuất và công việc QA sẽ do các cơ quan nhà nước đảm nhận. Sự tham gia của bộ phận tư nhân trong cả sản xuất và marketing sẽ bảo đảm tính hiện thực của ý tưởng này. Tăng cường sản xuất chế phẩm vi sinh cố định đạm có chất lượng cao và QA Các chủng giống cho sản xuất tại Việt nam: chọn lựa từ bộ giống hiện tại của Việt nam và/hoặc từ bộ giống của ALIRU (Úc), Niftal (Đại học Hawai), Đại học Suranaree (Thái lan). Sẽ thảo luận để lựa chọn các giống pjù hợp nhất cho sản xuất chế phẩm thông qua một chương trình nghiên cứu và phát triển. Bảo quản giống cho sản xuất: phát triển và thực hiện phương pháp duy trì hoạt tính lâu dài và nhận diện các chủng sản xuất để bảo đảm tính ổn định chất lượng của chế phẩm. Trong quá trình thực hiện dự án sẽ quyết định cơ quan/các cơ quan sẽ chịu trách nhiệm duy trì và bảo đảm hoạt tính của bộ giống phục vụ cho sản xuất chế phẩm. Cơ quan này sẽ được trang bị thêm các vật liệu, hóa chất cần thiết để tiếp tục cung cấp giống gốc cho sản xuất sau này. Công nghệ sản xuất: phát triển công nghệ sản xuất ở qui mô trung bình tại Việt nam dựa trên kinh nghiệm sản xuất tại Thái Lan và Úc, về: • Cải tiến công thức môi trường lên men, thực hiện các thí nghiệm để duy trì tính vô trùng và kỹ thuật chiết dịch nuôi cấy vào chất mang. • Thử nghiệm các dạng chế phẩm thích hợp (than bùn, hạt, dịch thể) để đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, dễ dàng sử dụng, thuận lợi cho cung cấp và vận chuyển. Hiệu quả kinh tế sẽ được xác định bằng cách xác định hiệu quả của chúng trong phòng thí nghiệm và đồng ruộng. 13
- • Lựa chọn các chủng cho sản xuất: các chủng rhizobia khác nhau sẽ được thử nghiệm về khả năng tồn tại của các chủng trong chế phẩm và trong suốt quá trình bảo quản, vận chuyển cho tới khi ứng dụng nhiễm vào cây. Bảo đảm chất lượng sản phẩm (QA): Phương pháp bảo đảm chất lượng sản phẩm của Úc sẽ được áp dụng trong thời gian ban đầu như một mô hình. Trên cơ sở này, các bước tiến hành QA, đào tạo và soạn tài liệu phù hơp với điều kiện sản xuất tại Việt nam sẽ được tiến hành bởi các nhà khoa học Úc và Việt nam tham gia trong dự án. Một cơ quan tham gia dự án được trang bị sẽ chịu trách nhiệm thực hiện tiếp tục việc đảm bảo chất lượng các chế phâm sản xuất tại Việt nam sau khi dự án kết thúc. Đào tạo về sản xuất và bảo đảm chất lượng sản phẩm: Các cán bộ nghiên cứu của Việt nam sẽ được đào tạo tại Việt nam bởi các chuyên gia Úc và được đào tạo tại trường Đại học Công nghệ Suranaree (Thái lan) về sản xuất, QA và cách quản lý cũng như R&D về Rhizobium. Khuyến nông và đào tạo nông dân và cán bộ khuyến nông Chương trình khuyến nông và đào tạo cho nông dân và cán bộ khuyến nông sẽ được thực hiện trên cơ sở các thí nghiệm đồng ruộng đơn giản (về các nghiệm thức thí nghiệm), trên các vùng sản xuất khác nhau (Đồng bằng sông Cửu long, Duyên hải miền trung, các vùng đất cao Bắc bộ, Trung bộ và Đông Nam bộ). Nông dân sẽ tham gia ở mọi góc độ, từ lựa chọn nghiệm thức thí nghiệm đến gieo trồng, lấy mầu, thu hoạch và đọc kết quả. Hy vọng rằng Trung tâm Khuyên nông Quốc gia sẽ đóng góp vai trò lớn trong các hoạt động khuyến nông của dự án này. Trung tâm và OPI đang thảo luận để tiến tới một thoả thuận hợp tác. Các số liệu thu được từ các thí nghiệm trình diễn đồng ruộng sẽ dùng để xây dựng một mô hình kinh tế về sản xuất và sử dụng chế phẩm vi sinh cố định đạm cho cây họ đậu tại Việt nam. Bên cạnh đó, các tập huấn sẽ được tổ chức cho nông dân, cán bộ khuyến nông và cán bộ nghiên cứu về phương pháp sử dụng, hiệu quả kinh tế và hiệu quả đối với môi trường của việc sử dụng chế phẩm. Chương trình khuyến nông – đào tạo này sẽ được thực hiện bởi các cán bộ Việt nam trong sự kết hợp với đối tác phía Úc. Các chuyên gia Úc sẽ trợ giúp để tập hợp, chọn lọc, soạn thảo các tài liệu khuyến nông và chuyển giao cho Việt nam. Sự tham gia của đơn vị tư nhân vào sản xuất, phân phối và tiếp cận thị trường Hai (có thể là 3) công ty Việt nam chuyên sản xuất và kinh doanh phân bón sẽ tham gia trong dự án, đó là Công ty Cổ phần Phân bón Fitohoocmon và Công ty Cổ phần Phân bón Củ Chi (và Humix). Chúng tôi dự đoán rằng thị trường chế phẩm sẽ lớn dần lên trong suốt quá trình thực hiện dự án so với khởi điểm thấp hiện nay. Doanh nghiệp tư nhân sẽ từng bước tham gia sản xuất cùng lúc khi công nghệ phát triển và thị trường mở rộng. Các công ty này sẽ tham gia marketing và phân phối sản phẩm. Đào tạo cũng sẽ mở ra cho các cán bộ của công ty. 14
- 5. Tiến độ thực hiện 5.1 Các điểm nổi bật Increased production of high-quality inoculants and QA Nghiên cứu về chế phẩm cố định đạm cho cây họ đậu đã được thực hiện từ những năm 1980 tại Trường Đại học Hà nội, Viện Nông hoá Thổ nhưỡng SFI (VASI), và ở Miền Nam là Trường Đại học Cần Thơ (CTU), IAS và OPI (nay đổi tên là IOOP). Một cách tổng quát, mục tiêu nghiên cứu là lựa chọn các chủng, sản xuất nhỏ và thực hiện các thí nghiệm đồng ruộng đánh giá hiệu quả của chế phẩm. Mỗi viện tập trung nghiên cứu ở các vùng nhất định và nhóm cây trồng khác nhau, ví dụ như CTU tại Đồng bằng Sông Mekong với cây đậu tương, IAS tại vùng Đông Nambộ với lạc, OPI đối với lạc và đậu tương tại vùng Duyên hải Nam Trung bộ và vùng Cao Nguyên. Các chủng đề xuất cho sản xuất chưa được nghiên cứu lựa chọn cho qui mô quốc gia và các kết quả nghiên cứu về công nghệ sản xuất chưa được chia sẽ giữa các viện nghiên cứu. Do đó, ngay cả có lịch sử nghiên cứu và sản xuất nhưng tại Việt nam nhưng cho đến nay chế phẩm vi khuẩn nốt sần vẫn chưa có mặt trên thị trường và nông dân ở múc độ rộng lớn không hiểu biết gì về tiềm năng lợi ích của chúng. Thay vào d8ó, nông dân sử dụng phân bón N hoá học đắt tiền cho cây họ đậu của họ. Trong phần báo cáo này đánh giá các chủng quí hiếm quốc tế tại các vùng trồng cây họ đậu trong nước và so sánh chúng với các chủng quốc gia (Việt nam) . Các chủng địa phương và nhập có nguồn gốc từ các viện nghiên cứu Việt nam, từ NifTAL (USA), ALIRU (Australia), DOA (Thailand), Hàn quốc và Achentina. Một số các chủng này hiện đang sử dụng sản xuất thương mại chế phẩm như là chủng CB1809 (đậu tương) và NC92 (đậu phộng) tại Úc. Chúng tôi thực hiện hai bộ thí nghiệm: thí nghiệm trong chậu và thí nghiệm ngoài đồng ruộng. Rhizobium strains Các chủng rhizobium đã được chọn lọc bằng thí nghiệm trong chậu (số liệu được trình bày chi tiết trong báo cáo Chế phẩm Chất lượng cao). Trong thí nghiệm này có 13 nghiệm thức đối với lạc (11 chủng, đối chứng +N và không nhiễm rhizobium; đối chứng –N và nhiễm rhizobium) và 18 nghiệm thức đối với đậu tương (16 chủng rhizobium và đối chứng +N và không nhiễm rhizobium; đối chứng –N và nhiễm rhizobium). Tất cả các chủng này tăng nốt sần và năng suất so với đối chứng. Có sự tương quan chặt giữa số lượng nốt sần, trọng lượng nốt sần và năng suất trong khi mối tương quan giữa nốt sần và chiều cao cây thấp. Điều này chứng tỏ năng suất tăng do có hoạt động hiệu quả của các chủng rhizobium. Các chủng sản xuất sinh khối cao nhất là NC92 (chủng thương mại của Úc), GL1 và GL2 (chủng Việt nam) cho lạc và CB1809 (chủng thương mại của Úc), SL2, SL1, CJ2 và U110 (chủng sản xuất thương mại cũ của Mỹ). Thí nghiệm khác thực hiện cũng trong nhà kính, CB1809 là chủng có hoạt tính cao nhất, tạo nốt sần nhiều nhất so với 3 chủng khác. Thí nghiệm đồng ruộng được tiến hành tại 10 tỉnh. Có ít nhất 5 nghiệm thức thí nghiệm: 1. Nông dân, không bón phân N 2. Nông dân, bón phân N 15
- 3. Nhiễm với chủng của Úc CB1809 (đậu tương) hoặc là NC92 (đậu phộng), không bón phân N 4. Nhiễm với chủng địa phương: SL1 (đậu tương) hoặc GL1 (đậu phộng), không bón phân N 5. Nhiễm với chủng địa phương: SL2 (đậu tương) hoặc GL2 (đậu phộng), không bón phân N Tóm tắt thông tin các thí nghiệm này trong thời gian 2007-2009, ảnh hưởng của CB1809 và NC92 đến nốt sần, sinh khối và năng suất hạt được chỉ ra trong Phụ lục 1 và 2. Đánh giá dựa trên tiêu chuẩn là nếu tăng do nhiễm với các chủng dưới 20% thì được coi là thấp, từ 20% đến 40% là trung bình và trên 40% là cao. Kết quả cho thấy các chủng của Úc là các chủng có hiệu quả nhất theo nghĩa là tăng nốt sần, năng suất sinh khối và năng suất hạt. So sánh với đối chứng không nhiễm, CB1809 và NC92 tăng nốt sần của đậu tương và lạc trung bình là 51%, tăng sinh khối 31% và năng suất hạt là 28%. So sánh với các chủng của Việt nam thì hai chủng này tăng nốt sần 22%, năng suất sinh khối tăng 12% và năng suất hạt tăng 11%. Duy trì hoạt lực các chủng rhizobium Các chủng dùng cho sản xuất chế phẩm cần phải được duy trì là chính các chủng đó, không tạp nhiễm và duy trì hiệu quả cố định đạm. Như đã thống nhất trong Hội thảo Tiến độ dự án vào tháng 2 năm 2008, giống gốc được chuyển từ ALIRU đến IOOP, là cơ quan được lựa chọn để quản lý các chủng dùng trong sản xuất thương mại chế phẩm vi sinh cố định đạm cho cây họ đậu. Cán bộ IOOP sẽ kiểm tra độ thuần chủng của các chủng bằng cách cấy trên môi trường YMA và CRYMA và gởi các phiên bản đến ISF và IAS. Các viện này sau đó gởi các phiên bản cấy chuyền của mình sau nhiều lần cấy chuyền tới IOOP để kiểm tra tính thuần chủng trên YMA và CRYMA và đánh giá sự hình thành nốt sần bằng phương pháp trồng cây trong điều kiện kiểm soát. Thực hành này cho thấy cần thiết phải đào tạo hơn nữa về nhận diện và duy trì tính thuần chủng của các chủng rhizobium. Tạp nhiễm của một số mẫu khi gởi trở lại IOOP có thể phản ánh kết quả của chế phẩm không đạt chất lượng. Một số hình chụp về khuẩn lạc trên mội trường thạch đĩa và hình dạng tế bào của các chủng CB1809 và NC92 trong dịch thể, sản xuất bởi các viện nghiên cứu Việt nam, sẽ được đánh giá bởi cán bộ nghiên cứu của ALIRU. Công nghệ sản xuất chế phẩm Trong suốt 3 năm thực hiện dự án, công nghệ sản xuất chế phẩm tại 3 viện nghiên cứu (SFI, OPI and IAS) đã phát triển. Mục tiêu chính là sản xuất chế phẩm chất lượng cao >5 x 108 rhizobia/gvà tạp nhiễm cao nhất là 1 x 108 tế bào/g. Dưới đây là chi tiết công nghệ sản xuất chế phẩm tại Việt nam. Một số chi tiết công nghệ khác nhau giữa các viện phụ thuộc vào cơ sở vật chất và kinh nghiệm. Ở mức độ nào đó công nghệ sản xuất chế phẩm được xây dựng dựa và công nghệ của các nước đã thành công trong công nghiệp sản xuất chế phẩm này và điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện của Việt nam, ví dụ công nghệ của Úc và Mỹ. 16
- Các chủng phục vụ sản xuất Dự án đã quyết định rằng CB1809 và NC92 sẽ được sử dụng cho sản xuất chế phẩm vi khuẩn nốt sần cho cây đậu tương và lạc tại Việt nam bởi vì thí nghiệm thực hiện ở các vùng canh tác các cây này trong nước cho thấy các chủng này là các chủng tốt nhất. Chúng làm tăng trọng lượng nốt sần, tăng năng suất sinh khối và hạt so với các chủng bản địa Việt nam đã thử nghiệm. Trong tương lai, sự đánh giá các chủng sẽ có thể cần thiết để cố gắng phát triển các chủng tốt hơn nữa. Bảo quản các chủng và chuẩn bị giống mẹ Để sản xuất chế phẩm vi khuẩn nốt sần tại Việt nam đề nghị là giống mẹ sẽ được cung cấp hàng năm bởi phòng thí nghiệm quản lý chất lượng sản phẩm độc lập nơi này các chủng cho sản xuất được duy trì theo nghĩa là thuần chủng, sống và có hiệu quả cố định đạm cao (nốt sần và hoạt tính cố định đạm). Sau khi nhận được giống mẹ, các nhà sản xuất phải bảo quản chúng trong năm sản xuất đó. Chi tiết về phương pháp duy trì các chủng giống và chuẩn bị giống mẹ được trình bày trong Báo cáo Chế phẩm Chất lượng cao. Nhân sinh khối Giống mẹ: giống gốc đầu tiên phải được kiểm tra tính thuần chủng trên môi trường - YMA và YMA. Nuôi cấy ở 30°C trong 6–8 ngày. Nếu giống thuần chủng thì cho vào ống nghiệm 10 ml nước vô trùng. Đóng nắp ống nghiệm và nhẹ nhàng rửa sinh khối với nước. Một cách vô trùng chuyển dịch có chứa rhizonium này vào môi trường lỏng YM trong các erlen. Đậy các erlen này bằng nút bông và bên ngoài là giấy. Nhẹ nhàng lắc erlen và để trong máy lắc ở 30°C cho tới khi dịch môi trường đạt sinh khối tối đa, ít nhất là 109/ml dịch sinh khối. Dịch sinh khồi này để cấy vào nối lên men với mục tiêu sản xuất sinh khối. Môi trường sinh trưởng: môi trường cho sản xuất chế phẩm cơ bản là YMB (yeast - mannitol broth). Sản xuất lớn đòi hỏi thành phần môi trường cần rẽ hơn và sẵn có, ví dụ như dịch bắp và vỏ đậu thuỷ phân hoá. Môi trường thay thế đã được nghiên cứu bởi SFI đó là dịch chiết đậu xanh, sacharose và glucose thay vì yeast extract và manitol đắt tiền . Số lượng Số lượng tế bào rhizobia của 6 chủng cao hơn 109/ml trong 2 môi trường đề nghị là SX1 và SX2, tương tự như môi trường YMB. Môi trường SX1 là môi trường tốt nhất theo nghĩa là hiệu quả và kinh tế. Số liệu rất hứa hẹn nhưng cần lập lại. Nếu rhizobia tăng trưởng tốt trong môi trường SX1 và SX2 vẫn tốt, thì chúng có thể xem xét như là môi trường sản xuất chế phẩm nốt sần tại Việt nam. Thành phần môi trường SX1 và SX 2 như dưới đậy: SX1(g/l): nước chiết đậu xanh 50 g; K2HPO4 0.5 g; KH2PO4 0.5 g; (NH4)2SO4 1.0 g; MgSO4. 7H2O 0.5 g; CaCO3 1,0g; Glucoza 5,0g; Saccharoza 5,0g; nước cất 1 lít SX2: Glucose 10g; KH2PO4 0,5g; MgSO4.7H2O 0,25g; CaCO3 0,5g; Cao nấm men 0,5g; nước cất 1 lít. 17
- Thời gian tăng trưởng: thu hoạch tế bào rhizobium vào ngày thứ 7 đối với cả 2 - chủng CB1809 và NC92 để có số tế bào là 7 x 109 tế bào/ml. pH và nhiệt độ: pH thích hợp nhất là 6.5-7.0 và nhiệt độ thích hợp là 300C. - Lên men nhân sinh khối: Phụ thuộc vào đầu tư trang thiết bị, thiết bị sẵn có và kinh - nghiệm nhà sản xuất sẽ cần xem xét dung tích của nồi lên men. Các mẻ sản xuất lớn thì tiết kiệm thời gian nhưng rất dễ bị tạp nhiễm. Nồi lên men có thể thay đổi kích thước từ 1–2 L (bình thuỷ tinh trên các máy lắc hoặc là sục khí) tới >1600 L. Sinh khối lỏng có thể được sản xuất một cách đơn giản trong các bình thuỷ tinh, như là bộ lên men bằng bình thuỷ tinh 4-L với đầu ra lấy mẫu gắn vào phần đáy bình. Hệ thống này nuôi cấy tối đa 2–3 L môi trường. Để mà tránh tạp nhiễm thì không khí được lôc qua bộ phận lọc nhồi với bông gòn cotton. Tất cả các dây cao su và đầu mối đều được khử trùng. Nút bằng cao su giữ không khí vào và ra qua lọc được gắn chặt với cổ bình thuỷ tinh. Sử dụng máy bơm nuôi cá nhỏ để cung cấp khí. Nó được gắn với ống không khí ra. Không khí sẽ di chuyển tự do trong cả hai lọc khí và thổi vào bình lên men. Bông gòn trong bộ lọc khí cần phải nén vừa phải. Nếu nén chắt quá sẽ hạn chế không khí đi vào. Thiết bị bơm cần được tháo rời ra khỏi bộ lên men khi khử trùng. Khử trùng trong vòng 40 phút ở 1 atm nếu môi trường là 2 lít và tăng dần lên 10 phút cho mỗi lít môi trường thêm vào. Sau khi môi trường lên men nguội thì bỏ kẹp ở ống khí vào và nối nguồn cung cấp khí vào, kiểm tra lượng khí cho phù hợp và kiểm tra xem hệ thống có bị rò rỉ hay không. Hệ thống lên men như vậy đã sẵn sàng cho việc cấy giống mẹ vào môi trường lên men. Cấy giống vào qua đường khí vào và dùng kim khử trùng gắn với xylanh. Khử trùng bề bặt ống dần khí vào với cồn 70% hoặc là 3% hydrogen peroxide khoảng 2–3 cm phía trên đầu nối của nó với ống thuỷ tinh. Kim được châm vào xuống phía dưới vào ống cao su và bắt đầu cấy dịch sinh khối mẹ. Sau đó nuôi cấy ở 30oC. Sử dụng hệ thống lên men nhỏ sẽ phù hợp với điều kiện của Việt nam, đặc biệt khi chúng được phối hợp cùng với kỹ thuật pha loãng dung dịch nuôi cấy – lên men đặc. Với sự phối hợp này, dịch nuôi cấy có thể pha loãng đến 100 lần. Do đó 2 lít dịch lên men sẽ cho ra 10.000 túi chế phẩm (20 mL/túi). Các nồi lên men cỡ nhỏ dùng trong công nghiệp thông thường khử trùng trong autoclave. Một hệ thống lên men cho rhizobia đã được thiết kế bởi NifTAL và sử dụng nhiệt trực tiếp bởi gas và hệ thống ống làm lạnh để tiết kiệm thời gian sau khi khử trùng. Thùng lên men này chịu áp lực và có dung tích là 141 L. Dung tích làm việc là 20–100 L. Chi tiết về hệ thống này có thể liên lạc Prof. Nantakorn Boonkerd tại Đại học Công nghệ Suranaree Thailand. Chọn lựa chất mang Chất mang đóng vai trò rất quan trọng trong sản xuất chế phẩm trên nền cứng. Hầu hết chế phẩm vi khuẩn nốt sần được sản xuất trên nền chất mang than bùn sau khi đã được xay, trung hoà. Các tính chất của một chất mang tốt là: - Bảo đảm cho rhizobia sinh trưởng và tồn tại - Khả năng hấp thu ẩm tốt - Dễ dàng sản xuất - Dễ dàng khử trùng bởi autoclave hoặc là chiếu xạ gramma 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp: Bón phân cho lúa vùng đồng bằng Sông Cửu Long - Phạm Sỹ Tân, Chu Văn Hách
14 p | 371 | 54
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Chuồng trại chăn nuôi dê "
51 p | 168 | 46
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp: Cây điều Việt Nam hiện trạng và giải pháp phát triển
10 p | 353 | 36
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Quy trình nông nghiệp an toàn GAP ... chìa khóa thành công cho rau quả tươi Việt Nam "
7 p | 128 | 26
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CÁC HOẠT ĐỘNG VỀ TRỒNG CỎ, CHẾ BIẾN, DỰ TRỮ THỨC ĂN CHO DÊ TRONG CÁC HỘ DỰ ÁN - PHẦN 1 "
48 p | 132 | 23
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " SẢN XUẤT XOÀI RẢI VỤ THEO HƯỚNG GAP TẠI HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP "
11 p | 132 | 21
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Giới thiệu giống keo lai - quản lý, xây dựng vườn cây đầu dòng và nhân giống "
15 p | 120 | 16
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp: Nghiên cứu biện pháp quản lý tính kháng sâu hại (rầy nâu, sâu cuốn lá) một cách bền vững cho các giống lúa chất lượng cao ở đồng bằng Sông Cửu Long
5 p | 135 | 15
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Nghiên cứu tham dò khả năng trồng cà chua, dựa chuột dựa trên giá cụ thể trong nhà màng Polyethylene tại Lâm Đồng "
3 p | 126 | 14
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Lên men, sấy và đánh giá chất lượng ca cao ở Việt Nam - MS6 "
11 p | 94 | 12
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " DỰ ÁN NUÔI THÂM CANH CÁ BIỂN TRONG AO BẰNG MƯƠNG NỔI - MS7 "
10 p | 106 | 11
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " Xây dựng chiến lược nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn trong chuỗi ngành hàng nông sản: trường hợp ngành thức ăn chăn nuôi " MS7
13 p | 105 | 9
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CHẨN ĐOÁN VÀ KHỐNG CHẾ BỆNH TIÊU CHẢY Ở LỢN CON TRƯỚC CAI SỮA "
18 p | 107 | 8
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " TIẾN ĐỘ CÁC THỬ NGHIỆM LÊN MEN VÀ SẤY CHƯƠNG TRÌNH CARD 05VIE013 - THÁNG 02/2007 ĐÍNH KÈM BÁO CÁO GIAI ĐOẠN 3 "
5 p | 76 | 7
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CHẨN ĐOÁN VÀ KHỐNG CHẾ BỆNH TIÊU CHẢY Ở LỢN CON TRƯỚC CAI SỮA - MS4 Thiết lập và thực hành hệ thống quản lý theo dõi dữ liệu tại trang trại "
8 p | 88 | 6
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " CHẨN ĐOÁN VÀ KHỐNG CHẾ BỆNH TIÊU CHẢY Ở LỢN CON TRƯỚC CAI SỮA - MS5: Chế tạo vacxin và kiểm tra hiệu lực của vacxin "
8 p | 90 | 6
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " DỊCH TẢ HEO (DTH): PHÁT TRIỂN VẮC XIN DỊCH TẢ HEO MỚI - MS8 "
6 p | 119 | 6
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " DỰ ÁN NUÔI THÂM CANH CÁ BIỂN TRONG AO BẰNG MƯƠNG NỔI - MS10 "
10 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn