BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ ..…../..…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
BÙI QUANG ĐẠT
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI – NĂM 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ ..…../..…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
BÙI QUANG ĐẠT
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TƢỜNG DUY KIÊN
HÀ NỘI – NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết luận nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Bùi Quang Đạt
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO.......................................... 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ............................................................................................................. 9 1.2. Nội dung bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ............................ 25 1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền con người tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao .................... 44 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 47 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO ........................................................................ 49 2.1. Khái quát chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ cấu, tổ chức của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ............................................. 49 2.2. Kết quả, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong bảo đảm quyền con người tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao từ năm 2013 đến nay ................................................... 58 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 80 Chƣơng 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO ................ 81 3.1. Yêu cầu của bảo đảm quyền con người trong điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ........................................ 81 3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền con người trong điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao .................................. 89 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................ 102 KẾT LUẬN .................................................................................................. 104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 107
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
2. CQĐT : Cơ quan điều tra
3. VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC BẢNG
Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Bảng phân tích số liệu tiếp nhận, phân loại và giải quyết 59 thông tin về vi phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
Bảng 2.2: Bảng phân tích số liệu kết quả giải quyết thông tin về vi 60 phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
Bảng 2.3: Bảng phân tích số liệu khởi tố, thụ lý, điều tra tội phạm
xâm phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát 62
nhân dân tối cao
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo đảm quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục
đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chăm lo
đến con người, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người phát triển toàn diện
trong thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, trong các hoạt động Nhà nước là
những quan điểm cơ bản được thể hiện trong các văn bản của Đảng và Nhà
nước ta, nhất là trong những năm gần đây. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-
6-2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng
định: “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao,
các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo đảm
công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo đảm pháp
luật và pháp chế Xã hội chủ nghĩa, có hiệu quả với các loại tội phạm và vi
phạm” [4]. Văn kiện Đại hội X của Đảng cũng đặt ra nhiệm vụ: “Xây dựng nền
tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo đảm công lý,
quyền con người”. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của
Đảng mới đây cũng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh,
bảo đảm công lý, tôn trọng và bảo đảm quyền con người” [3].
Hoạt động tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên
quan rất chặt chẽ với quyền con người, là nơi các biện pháp cưỡng chế tố tụng
hình sự được áp dụng, là nơi quyền con người của các chủ thể tố tụng, đặc
biệt là người bị buộc tội, bị hại và người làm chứng có nguy cơ dễ bị xâm hại
nhất. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho thấy cũng
1
còn nhiều trường hợp vi phạm quyền con người trong quá trình tiến hành tố
tụng. Những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập,
hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng,
các quy định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, người tiến hành tố tụng đối
với công dân. Vì vậy, có thể nói việc bảo đảm quyền con người của các chủ
thể tố tụng nói chung, đặc biệt của các chủ thể bị can, bị cáo, bị hại và người
làm chữứng trong Tố tụng hình sự từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp
luật có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa nói chung, trong công cuộc cải cách tư
pháp nói riêng ở nước ta.
Theo quy định của pháp luật, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
nói chung, CQĐT VKSNDTC nói riêng đã tích cực tham gia đấu tranh phòng,
chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Song, trong quá trình điều
tra vẫn còn nhiều khó khăn, và đặc thù các vụ án CQĐT VKSNDTC điều tra
liên quan đến hoạt động tư pháp là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp; quyền con
người của người tham gia tố tụng đôi khi chưa có biện pháp bảo đảm hữu
hiệu trong BLTTHS. Do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau,
song sự hạn chế, thiếu đồng bộ của pháp luật có tác động đáng kể. Mặt khác,
cơ chế hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT VKSNDTC phải chịu quy
định của đồng thời các luật như: Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và BLTTHS. Vậy, khi CQĐT VKSNDTC
tiến hành các hoạt động điều tra ảnh hướng đến quyền con người tham gia tố
tụng, thì cơ chế nào sẽ bảo đảm quyền của họ, nếu CQĐT VKSNDTC thực
hiện không đúng thì sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định của luật nào…
Những câu hỏi như vậy vẫn cần chúng ta nghiên cứu, làm sáng tỏ.
BLTTHS có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 có nhiều nội dung
2
mới, cần được nghiên cứu để hiểu và vận dụng đúng trong thực tiễn giải quyết
các vụ án hình sự. Việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015
nhằm phân tích, đánh giá, làm rõ nội dung, liên hệ thực tiễn để có những hiểu
biết đúng đắn, áp dụng trong thực tiễn, đồng thời đánh giá mặt bất cập, hạn
chế, đề xuất kiến nghị sửa đổi nhằm hoàn thiện chế định này là rất cấp thiết.
Do vậy, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” làm
đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian vừa qua, có rất nhiều các công trình nghiên cứu về quyền
con người và bảo đảm quyền con người trong Tố tụng hình sự gồm có như:
- Từ góc độ nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung trong
Nhà nước pháp quyền có các công trình “Quyền con người trong thế giới hiện
đại” của nguyên Giám đốc trung tâm quyền con người của Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh – GS. TS. Hoàng Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm; bài
báo “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảm đảm
quyền con người” của PGS. TS. Đinh Văn Mậu…
Trong các công trình này, các tác giả đã nghiên cứu khái niệm và các
đặc điểm Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nói riêng; nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền con người và quyền
công dân; nghiên cứu các vấn đề bảo đảm quyền con người trong Nhà nước
pháp quyền… Tuy nhiên, các công trình này nghiên cứu quyền con người
dưới góc độ triết học, xã hội học hoặc lý luận chung về Nhà nước và pháp
luật. Các tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về quyền con người, đặc trưng
quyền con người; nghiên cứu mối quan hệ giữa quyền con người và quyền
công dân; khẳng định yêu cầu bảm đảm quyền con người trong Nhà nước
pháp quyền. Đồng thời, tuy có cách nhìn không hoàn toàn giống nhau và ở
các mức độ khác nhau, nhưng tác giả cũng đã xây dựng được cơ chế bảo đảm
3
quyền con người trong Nhà nước pháp quyền.
Tham khảo các quan điểm lý luận cũng như giải pháp, cơ chế chung
bảo đảm quyền con người có ý nghĩa rất quan trọng trong nghiên cứu, xây
dựng lý luận cũng như giải pháp cụ thể bảm đảm quyền con người trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT VKSNDTC.
- Từ góc độ pháp luật chuyên ngành tố tụng hình sự, cũng đã có nhiều
công trình bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực này như: Luận án tiến sĩ
luật học "Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam", Trần Hưng Bình, Viện Khoa học xã hội,
2013; “Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động
chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử vụ án hình sự”, Nguyễn Hữu Hậu, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa
học xã hội, 2019.
Trong các công trình này, các tác giả nghiên cứu việc bảo vệ quyền con
người trong hoạt động tư pháp nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng.
Công trình của tác giả Trần Hưng Bình do phạm vi quá rộng, quyền con
ngừoi của người bị buộc tội được nghiên cứu tương đối sơ lược. Công trình
của tác giả Nguyễn Hữu Hậu thì phạm vi nghiên cứu chủ yếu xuất phát từ
phân tích các quyền và nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng mà chưa
đi sâu nghiên cứu các chế định liên quan khác như các nguyên tắc tố tụng
hình sự, các biện pháp cưỡng chế tố tụng liên quan đến quyền của người bị
buộc tội. Việc nghiên cứu chia từng giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
của tác giả Hậu còn dẫn đến việc trùng lặp về quyền, cơ chế bảo đảm quyền
con người của người bị buộc tội.
- Trong một số công trình khoa học khác như: “Chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Cao Thị Ngọc Hà, Học viện Khoa học xã
hội, năm 2019; “Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự,”
4
của Đỗ Xuân Toán năm 2018 tại Trường Đại học Luật Hà Nội; “Bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”,
của Nguyễn Tiến Linh, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2018.
Các tác giả đã nghiên cứu tương đối sâu về bảo đảm quyền còn người
trong tố tụng hình sự, nhưng chỉ nghiên cứu một quyền đó là: quyền bào chữa
của người bị buộc tội. Và cũng mới chỉ nghiên cứu qua góc độ quyền và nghĩa
vụ của nhóm người này, mà chưa nghiên cứu theo các góc độ khác như: cơ
chế bảo đảm, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng.
Đánh giá chung về các công trình nêu trên: đã đề cập đến vấn đề bảo vệ
quyền con người nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng mà em được tiếp
cận. Tuy nhiên, vấn đề lý luận quan trọng như thế nào là bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự, cơ chế bảo đảm quyền con người ra sao… còn bị
bỏ ngỏ hoặc đã được đề cập ở mức độ nhất định nhưng còn thiếu đồng bộ,
thiếu thống nhất; chưa xây dựng được một cơ chế bảo đảm quyền con người
trong tố tụng hình sự về mặt lý luận để từ đó phân tích, đánh giá khoa học
thực trạng bảo đảm quyền con người, nhất là người bị buộc tội; chưa có công
trình nghiên cứu tổng thể quyền con người của những người tham gia tố tụng
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đặc biệt các vụ án thuộc thẩm quyền
của CQĐT VKSNDTC và theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 và
BLTTHS năm 2015.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
+ Mục đích nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT
thuộc VKSNDTC; chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế
trong thực tiễn bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình
5
sự của CQĐT thuộc VKSNDTC. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện các quy định bảo đảm quyền con người trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC và các giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc theo tinh thần cải cách tư pháp.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người như khái
niệm, đặc điểm, ý nghĩa của bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC; chủ thể của việc bảo đảm
quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc
VKSNDTC và hình thức thực hiện; quá trình hình thành và phát triển các chế
định bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của
CQĐT thuộc VKSNDTC.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS hiện hành về bảo đảm
quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc
VKSNDTC và đánh giá được ưu điểm cũng như hạn chế của các quy định này.
- Nghiên cứu thực trạng bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC qua thực tiễn giải quyết các vụ
án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC, đánh giá được những kết quả đạt
được và những hạn chế tồn tại của thực trạng này.
- Định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm
quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc
VKSNDTC.
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người của người tham gia tố
tụng theo quy định của BLTTHS năm 2015 trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của CQĐT VKSNDTC, trên cơ sở phân tích quyền và nghĩa vụ của
6
chủ thể này. Giai đoạn điều tra được hiểu là bắt đầu kể từ khi có quyết định
khởi tố vụ án hình sự, kết thúc khi CQĐT ra một trong các quyết định: bản
kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự; bản kết luận
điều tra đề nghị truy tố hoặc trong trường hợp vụ án bị huỷ quyết định khởi tố
vụ án hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu về không gian và thời gian: Đề tài nghiên cứu về
bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra của CQĐT thuộc
VKSNDTC trong khoảng thời gian từ năm 2014-2018 và giới hạn thực tiễn
trong các vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-
Lê Nin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, về bảo đảm quyền con người.
Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung về quyền con
người và từ góc độ tố tụng hình sự nói riêng. Các phương pháp nghiên cứu cụ
thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, so sánh…
5. Những đóng góp mới của đề tài
- Đề tài đã góp phần làm rõ thêm nhiều vấn đề lý luận về quyền con
người và bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của
CQĐT VKSNDTC;
- Đề tài phân tích một cách khoa học các quyền và nghĩa vụ của người
tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra theo BLTTHS năm 2015 dưới góc độ
bảo đảm quyền con người của những chủ thể này. Từ đó chỉ ra một số hạn chế
còn thiếu xót trong quy định của BLTTHS năm 2015 về vấn đề bảo đảm
quyền con người. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị, nhận xét nhằm bảo
7
đảm tốt hơn quyền con người trong tố tụng hình sự.
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Đây là đề tài Luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền con
người nói chung, của người tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra nói riêng
theo BLTTHS năm 2015. Công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo
đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, phân tích, đánh giá thực trạng
quy định về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự và kiến nghị các
giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong các giai đoạn điều tra
vụ án hình sự của CQĐT VKSNDTC;
Đề tài là một đóng góp khiêm tốn trong việc giải quyết về mặt khoa
học, một trong những nội dung cấp thiết hiện nay ở nước ta cũng như trên thế
giới là vấn đề bảo đảm quyền con người. Quy định về quyền con người đã là
quan trọng và cần thiết, quan trọng hơn là vấn đề bảo đảm cho các quyền đó
được thực thi trong cuộc sống.
Đề tài là một tài liệu tham khảo có giá trị trong hoạt động lập pháp tố
tụng hình sự, trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự cũng như trong học tập,
nghiên cứu về Tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm
có 3 chương.
Chương 1: Những vấn lý luận về bảo đảm quyền con người trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người trong điều tra vụ án
hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm quyền con người trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
8
tối cao.
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa bảo đảm quyền con ngƣời trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao
1.1.1. Khái niệm và các thuộc tính của quyền con người
Quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con
người được ghi nhận và bảo đảm trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế. Quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn
mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ mang tính phổ biến, tính
không thể tước bỏ, tính không thể phân chia và tính liên hệ và phụ thuộc lẫn
nhau. Nhờ có những chuẩn mực này, nhân loại mới được bảo đảm nhân phẩm
và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là
một con người.
Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thì quyền
con người là những bảo đảm pháp lý mang tính toàn cầu xác định trách nhiệm
của mỗi quốc gia bảo đảm các cá nhân chống lại sự thờ ơ của mỗi quốc gia
gây tổn hại nhân phẩm và các quyền tự do cơ bản của con người. Trong tài
liệu mang tính giáo dục phổ cập của Liên hợp quốc về quyền con người thì
quyền con người là những nhu cầu tự nhiên cơ bản gắn liền với mỗi cá nhân
được các quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế tôn trọng bảo đảm và bảo đảm
[25, tr. 25, 34].
Chúng ta có thể tìm thấy trong các văn kiện quốc tế về quyền con người
9
trong tố tụng hình sự như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948
(UHDR); Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966
(ICCPR); Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân; Công ước
chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người năm 1985… Quyền
con người trong tố tụng hình sự chính là sự cụ thể quyền được sống, quyền
được tự do trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Đây được coi là tiêu chuẩn về nhân
quyền trong tố tụng hình sự. Theo đó, quyền con người trong tố tụng hình sự
bao gồm những quyền sau “Điều 10, 11 Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm
1948 (UHDR) và Điều 14, 15 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị năm 1966 (ICCPR)”: Quyền được xét xử công bẳng bởi một thủ tục tố
tụng hình sự; Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm
và quyền tự do cá nhân khác. Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng
chế trách nhiệm hình sự phải trên cơ sở luật định; Quyền được suy đoán vô
tội; Quyền được bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức chậm
trễ; Người dưới 18 tuổi phạm tội phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự
đặc biệt; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, quyền được nhanh
chóng minh oan, quyền không bị kết tội hai lần về cùng một hành vi…;
Những quyền trên là những quyền của người bị buộc tội là đối tượng quan
trọng nhất cần bảo đảm trong tố tụng hình sự.
Trải qua rất nhiều giai đoạn quá trình lịch sử lâu dài, Việt Nam bắt đầu
coi quyền con người cũng là vấn đề khoa học từ những năm 90, Hiến pháp
năm 2013 coi trọng quyền con người hơn, thể hiện ở việc chuyển quy định từ
Chương V thành Chương II quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân và đã có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn về quyền con
người. Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia phần lớn và cam kết thực hiện ở
cả hai phương diện lập pháp và cam kết thực hiện thực tiễn các văn kiện về
quyền con người, điều đó được thể hiện trong BLTTHS của nước ta ở mức độ
10
khác nhau. BLTTHS năm 2015 có các nguyên tắc như: Thừa nhận Tòa án là
cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự; Tôn trọng và bảo đảm
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; Bảo đảm quyền bất
khả xâm phạm về thân thể; Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân, suy đoán vô tội;
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự…
Có thể đưa ra định nghĩa về quyền con người trong tố tụng hình sự như
sau: Quyền con người trong tố tụng hình sự là những bảo đảm pháp lý xác
định trách nhiệm của quốc gia bảo đảm các cá nhân, pháp nhân chống lại sự
gây tổn hại nhân phẩm và các quyền tự do cơ bản của cá nhân, pháp nhân đó
khi họ tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mà nhà nước có nghĩa vụ
phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Quyền con người có những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Tính phổ biến:
Tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở chỗ quyền con người
được áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, dân tộc,
giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân. Con người, dù ở trong những
chế độ xã hội riêng biệt, thuộc những truyền thống văn hóa khác nhau vẫn
được công nhận là con người và được hưởng những quyền và sự tự do cơ bản.
- Tính đặc thù:
Mặc dù tất cả mọi người đều được hưởng quyền con người nhưng mức
độ thụ hưởng quyền có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng
người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó đang
sống. Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con người mang
những sắc thái, đặc trưng riêng gắn liền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội
11
ở khu vực đó.
- Tính không thể bị tước bỏ:
Trong quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người
không thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể
nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp nhất định được pháp luật quy định trước, chỉ có những chủ thể đặc
biệt mới có thể hạn chế quyền con người. Ví dụ: tù nhân bị giam do thực hiện
hành vi phạm tội.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền:
Tất cả các quyền con người đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc
thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có
một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh hưởng đến các quyền khác. Ví dụ: nếu một
người không được làm việc, không có một mức sống đảm bảo cho sự sống
còn của cá nhân thì người đó sẽ ít chú ý đến các quyền dân chủ như Quyền
bầu cử hoặc Quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội.
* Một số quyền con người cơ bản
Quyền con người là một phạm trù đa diện, có nội dung bao trùm lên
nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn
đề này, khoa học pháp lý đã chia quyền con người theo các lĩnh vực hoạt
động của đời sống con người thành hai nhóm chính: các quyền dân sự; chính
trị và các quyền về kinh tế, văn hóa. Các quyền này được ghi nhận trong
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (UDHR) năm 1948 sau đó được
cụ thể hóa trong hai công ước về quyền con người của Liên hợp quốc năm
1966, gồm: Công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR).
- Nhóm quyền về dân sự, bao gồm: quyền không bị phân biệt đối xử,
được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật; quyền sống, tự do và an ninh cá
12
nhân; quyền xét xử công bằng; quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử
hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; quyền được bảo vệ để
khỏi bị bắt làm nô lệ hay nô dịch; quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ
tùy tiện; quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những
người bị tước tự do; quyền xét xử công bằng; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền
được bảo vệ đời tư; quyền tự do chính kiến, niềm tin, tín ngưỡng, tôn giáo;
quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân...
- Nhóm các quyền về chính trị, bao gồm: quyền tự do lập hội; quyền tự
do ý kiến và biểu đạt; quyền được tham gia vào đời sống chính trị; quyền tự
do hội họp một cách hòa bình; quyền bầu cử, ứng cử...
- Nhóm các quyền về kinh tế, bao gồm: quyền làm việc và hưởng thù
lao công bằng, hợp lý; quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu; quyền sở hữu
hợp pháp về thừa kế; quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích
đáng; quyền được sống trong môi trường trong lành; quyền tiếp cận các dịch
vụ y tế...
- Nhóm các quyền về xã hội, bao gồm: quyền được hưởng an sinh xã
hội; quyền được hỗ trợ về gia đình; quyền được hưởng sức khỏe về thể chất
và tinh thần; quyền trẻ em; quyền thanh niên; quyền người cao tuổi...
- Nhóm các quyền về văn hóa, bao gồm: quyền được giáo dục; quyền
nghiên cứu, phát minh, sáng chế; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa
và được hưởng các thành tựu khoa học...
1.1.2. Khái niệm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Trước khi tìm hiểu về khái niệm bảo đảm quyền con người trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT VKSNDTC, chúng ta cần xác định
được hai phạm vi cơ bản: một là khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự;
hai là khái niệm bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự của CQĐT
13
VKSNDTC.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi
giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và
tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Như vậy, giai đoạn tố tụng hình sự được hiểu là:
bước của quá trình tố tụng hình sự, tương ứng với chức năng nhất định, của
từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm
vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc, để giải
quyết vụ án hình sự một cách công minh, khách quan, có căn cứ và đúng pháp
luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo đảm vững chắc các
quyền và tự do của công dân [7].
Theo đó, giai đoạn điều tra vụ án hình sự chiếm một vị trí quan trọng
trong tố tụng hình sự. Hiện nay, các quan điểm khoa học đa số đều cho rằng
giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng
hình sự, được BLTTHS quy định từ chương VIII đến chương XIII. “Giai
đoạn điều tra vụ án là giai đoạn Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành các biện pháp điều tra hợp
pháp, thu thập chứng cứ, tài liệu để xác định tội phạm và người phạm tội. Giai
đoạn này kết thúc ở việc Cơ quan điều tra kết thúc điều tra và đề nghị truy tố
bị can hoặc đình chỉ điều tra vụ án hình sự. [22, tr. 14]”
Thời hạn điều tra được BLTTHS quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn
điều tra (kể cả các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa
không quá 4 tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất
nghiêm trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không
quá 20 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn
điều tra nêu trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy
cần thiết, thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất
14
phức tạp của vụ án mà Viện trưởng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc
truy tố của Viện kiểm sát, xét xử của Tòa án, mọi quyết định của Tòa án về sự
việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ sở các chứng cứ
đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là
cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng mọi biện pháp do pháp luật tố tụng
hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các
tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm
tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Nhiệm vụ trên được thực hiện bởi các chủ thể là CQĐT và các cơ quan khác
được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tất cả các hoạt động tố tụng
được thực hiện bởi chủ thể của giai đoạn điều tra đều phải tuân theo đúng các
quy định của Luật tố tụng hình sự góp phần giải quyết vụ án hình sự được
nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình
sự, theo đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra, trong thời hạn nhất định, được sử dụng các
biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định, để thu thập chứng cứ chứng
minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề cần chứng minh khác có liên
quan đến vụ án, làm cơ sở pháp lý để giải quyết vụ án, là tiền đề cho các giai
đoạn tố tụng hình sự tiếp theo.
Giai đoạn này bắt đầu kể từ khi có quyết định khởi tố vụ án, kết thúc
khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra và đề nghị truy tố bị can hoặc đình chỉ
điều tra vụ án hình sự.
Đặc điểm: Từ định nghĩa về giai đoạn điều tra vụ án hình sự nêu trên,
có thể rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn này như sau:
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá
15
trình tố tụng hình sự, bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT hoặc các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (sau đây gọi chung là
CQĐT) chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và kết luận điều tra sang Viện kiểm sát đề
nghị truy tố hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là CQĐT áp
dụng mọi biện pháp điều tra do BLTTHS quy định để chứng minh tội phạm
và người phạm tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án bao gồm cả tình
tiết buộc tội và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp
các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra
chỉ là CQĐT và Viện kiểm sát. Các tài liệu do chính hoạt động của các chủ
thể nói trên tiến hành thu thập, đúng quy định mới được coi là những chứng
cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Giai đoạn điều tra vụ án là giai đoạn Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành các biện pháp điều
tra hợp pháp, thu thập chứng cứ, tài liệu để xác định tội phạm và người phạm
tội. Giai đoạn này kết thúc ở việc Cơ quan điều tra kết thúc điều tra và đề nghị
truy tố bị can hoặc đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Trong giai đoạn này, Viện
kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự.
Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là
biện pháp điều tra, như: hỏi cung bị can; lấy lời khai; khám xét khẩn cấp, thu
giữ… hoặc các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, như: tạm giam;
cấm đi khỏi nơi cư trú; áp giải, phong tỏa tài khoản v.v... Các biện pháp được
áp dụng phải theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Để kịp thời thu thập chứng cứ, ngăn chặn hành vi phạm tội, đối với sự
16
việc có dấu hiệu phạm tội mà chưa xác định rõ thẩm quyền điều tra thì cơ
quan điều tra nào phát hiện trước phải áp dụng ngay các biện pháp điều tra
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; khi đã xác định được thẩm quyền
điều tra thì chuyển vụ án cho cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định
của BLTTHS.
CQĐT VKSNDTC là đơn vị trực thuộc cơ cấu tổ chức của VKSNDTC.
CQĐT VKSNDTC có thẩm quyền điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và XXIV
của Bộ luật hình sự năm 2015, xảy ra trong hoạt động tư pháp, mà người
phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát,
Cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
CQĐT VKSNDTC gồm có các phòng điều tra và bộ máy giúp việc.
Hoạt động điều tra của CQĐT VKSNDTC bảo đảm cho việc điều tra
vụ án được khách quan, toàn diện và chính xác, đúng sự thật, đúng quy định
của pháp luật. Trường hợp chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì
phải đề nghị truy tố bị can. Trường hợp qua điều tra chứng minh được không
có hành vi phạm tội xảy ra, hành vi không cấu thành tội phạm hoặc có căn cứ
khác để đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật thì phải ra quyết định
đình chỉ điều tra, tránh làm oan người vô tội.
Ở góc độ nhất định, hoạt động điều tra của CQĐT nói chung đã ảnh
hưởng tới quyền con người của mỗi cá nhân.
Quyền con người là vấn đề cơ bản nhất của mọi thời kỳ, luôn trở thành
nội dung thu hút được sự quan tâm cả về phương diện lý luận, trong nghiên
cứu khoa học, cũng như trong hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia, của từng
khu vực và mang tính toàn cầu. Ở góc độ chung nhất, quyền con người có thể
được hiểu là đặc quyền vốn có của từng cá nhân nhằm bảo vệ nhân phẩm và
nâng cao giá trị của họ với tư cách là con người. Quyền con người vừa phản
ánh các nhu cầu tự nhiên, khách quan, vừa thể hiện các quan hệ xã hội, ý chí
17
chủ quan của từng con người và của xã hội. Nó là những đặc quyền của con
người đã được pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia ghi nhận, điều chỉnh,
do chính cá nhân con người nắm giữ trong mối quan hệ với tự nhiên, với xã
hội, với nhà nước và với những cá nhân con người khác.
Bảo đảm theo nghĩa chung nhất “là làm cho chắc chắn thực hiện được”.
Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự xuất phát từ yêu cầu bảo vệ
quyền con người nói chung và bảo đảm nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
trong tố tụng hình sự. Tôn trọng và bảo đảm quyền con người có ảnh hưởng
tích cực đến chất lượng xét xử và việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Bảo đảm quyền con người là chống lại sự xâm hại đến những đặc lợi
vốn có của con người được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội nhất định. Nhận thức chung cho rằng, chủ thể cơ bản của quyền con
người là các cá nhân, ngoài ra trong một số trường hợp, chủ thể của quyền con
người còn là các nhóm người. Chủ thể cơ bản có nghĩa vụ bảo đảm quyền con
người là các nhà nước, cụ thể là các hành pháp, lập pháp và tư pháp. Ngoài các
chủ thể nhà nước, các chủ thể phi nhà nước như: các đảng phái chính, các tổ
chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế, các doanh nghiệp, tùy theo vị thế của
mình, cũng có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền con người.
Bảo đảm quyền con người là việc Nhà nước bằng sức mạnh và ý chí
của mình để các quyền của con người không bị xâm phạm và được thực thi
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội. Thông qua các bảo đảm chính
trị, kinh tế, tư tưởng, tổ chức, pháp luật, Nhà nước tạo cho con người được
thực thi các quyền cơ bản của mình, đồng thời loại bỏ những rào cản làm hạn
chế, hoặc không được thực thi các quyền đó.
Bảo đảm quyền con người là nguyên tắc hiến định trong Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nguyên tắc cơ bản của pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam, trở thành phương châm, quan điểm chủ đạo chi
phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng
18
pháp luật tố tụng hình sự.
Trong khoa học pháp lý hình sự, có nhiều quan điểm khác nhau về diện
chủ thể mà quyền con người cần được bảo đảm trong tố tụng hình sự. Một số
nhà luật học cho rằng “bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo
đảm quyền của người bị buộc tội” [25, tr.43], có quan khác lại cho rằng “bảo
đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo đảm quyền của những người
tham gia tố tụng và của những người tiến hành tố tụng hình sự” [23, tr. 99].
Trước hết phải khẳng định quan điểm của tác giả về bảo đảm quyền
con người trong tố tụng hình sự, chính là bảo đảm quyền của nhóm người yếu
thế. Căn cứ vào tính chất, nội dung quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, có thể
chia thành hai nhóm.
- Nhóm thứ nhất: nhóm chủ thể tham gia tố tụng vì có quyền và nghĩa
vụ liên quan trực tiếp đến hoạt động điều tra của các cơ quan tiến hành tố
tụng, nhóm chủ thể này gồm: một loại với tư cách pháp lý là người bị bắt,
người bị tạm giam, tạm giữ, bị can.
- Nhóm thứ hai: nhóm chủ thể khác tham gia tố tụng với tư cách là các
bên đương sự như: người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Như vậy, bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự là hoạt động của các chủ thể tiến hành tố tụng, kể từ khi có quyết định khởi
tố vụ án, kết thúc khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra và đề nghị truy tố bị
can hoặc đình chỉ điều tra vụ án hình sự, đảm bảo cho người tham gia tố tụng
thực hiện các đặc quyền vốn có của từng cá nhân trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự.
Từ những phân tích trên, chúng ta rút ra định nghĩa bảo đảm quyền con
người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao là hoạt động của chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm
19
quyền, đảm bảo các yếu tố cần và đủ cho người tham gia tố tụng thực hiện
các đặc quyền cá nhân vốn có của họ, kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự cho đến khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình
sự, nhằm giải quyết vụ án theo đúng quy định pháp luật.
1.1.3. Các đặc điểm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Thứ nhất, bảo đảm quyền con người là một nguyên tắc, là phương
châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động tố
tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự.
Nguyên tắc cơ bản này đã thể hiện đầy đủ quan điểm định hướng của Đảng và
Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền con người. Trong số 23 nguyên tắc cơ
bản được quy định BLTTHS năm 2015 (từ Điều 7 - Điều 33) [31] những cấp
độ khác nhau đều thể hiện tinh thần bảo vệ quyền con người với hai định
hướng: (1) Xử lý nhanh chóng, kịp thời đúng pháp luật đối với tội phạm xâm
phạm quyền con người và (2) Đảm bảo không làm ảnh hưởng tới quyền con
người khi tiến hành tố tụng.
Thứ hai, quyền con người trong tố tụng hình sự bị ảnh hưởng, chủ yếu
thông qua áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế và biện
pháp điều tra. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành
tố tụng được áp dụng nhiều biện pháp ngăn chặn như: Bắt; tạm giữ; tạm giam;
cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lãnh; đặt tiền để bảo đảm; hoặc biện pháp cưỡng
chế: phong tỏa tài khoản, kê biên tài sản, dẫn giải, áp giải hoặc các biện pháp
điều tra như: hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất, nhận dạng.... các biện
pháp này ít nhiều đều ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
buộc tội. Nhằm tránh việc lợi dụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng khi áp dụng áp dụng những biện pháp này xâm hại
đến quyền con người, BLTTHS đã quy định chặt chẽ mục đích, căn cứ, thẩm
20
quyền, thủ tục áp dụng.
Thứ ba, phạm vi thực hiện việc bảo đảm quyền con người là trong giai
đoạn điều tra những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT
VKSNDTC. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự bắt đầu kể từ khi có quyết định
khởi tố vụ án, kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc
đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của
CQĐT VKSNDTC là các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về
tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và XXIV của Bộ luật hình
sự xảy ra trong hoạt động tư pháp, mà người phạm tội là cán bộ, công chức
thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, người có
thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp, khi các tội phạm này thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân.
Thứ tư, chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng là CQĐT VKSNDTC.
CQĐT là đơn vị trực thuộc bộ máy làm việc của VKSNDTC, làm việc theo
chế độ Thủ trưởng. Mọi hoạt động của CQĐT phải tuân thủ quy định của
pháp luật, quy định của Ngành. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền của mình, CQĐT VKSNDTC có trách nhiệm chứng minh tội
phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở
cho việc truy tố của Viện kiểm sát, xét xử của Toà án. Giai đoạn điều tra thực
chất là quá trình làm sáng tỏ tất cả sự thật khách quan vụ án của Cơ quan điều
tra, nhằm phục vụ cho việc xử lý tội phạm bảo vệ quyền con người. Vì vậy
các quy định về điều tra của BLTTHS đều hướng tới mục tiêu này.
Thứ năm, đối tượng được bảo đảm quyền con người trong vụ án là
người tham gia tố tụng, đối với người bị buộc tội phải là cán bộ, công chức
thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, người có
thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
1.1.4. Ý nghĩa của bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của Cơ quan điều tra vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Bản chất của giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là việc xác định chân lý
21
khách quan, tìm ra sự thật của vụ án, trong quá trình này cơ quan tiến hành tố
tụng phải thực hiện thẩm quyền của mình theo nguyên tắc “được làm những gì
mà pháp luật cho phép” còn người tham gia tố tụng “được làm những gì mà
pháp luật không cấm”. Theo quy định của pháp luật, các chủ thể được tiến hành
thực hiện các quan hệ tố tụng một cách công khai, trực tiếp, dân chủ nhằm giải
quyết các vấn đề liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật, các tranh chấp về
quyền, nghĩa vụ và các yêu cầu khác của những người tham gia tố tụng.
Dưới góc độ nhân quyền ta nhận thấy sự cần thiết phải bảo đảm quyền
con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung, các vụ án hình sự
thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC nói chung được thể hiện:
Thứ nhất, xét về vị trí của người tiến hành tố tụng hình sự là người
nhân danh Nhà nước thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự theo quy định
của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách
nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo đảm. Người tiến hành tố tụng
hình sự là người giữ vị trí trung tâm trong hoạt động tố tụng hình sự. Người
tiến hành tố tụng hình sự có vị trí mang tính độc lập về nhiệm vụ, quyền hạn
trong khi thực hiện các hoạt động tố tụng được giao. Khi họ thực thi nhiệm
vụ, không cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào được can thiệp, tác động để có
thể buộc họ làm trái pháp luật; không cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào được
lấy thẩm quyền hành chính để thay thế, chỉ đạo hoạt động tố tụng của họ, trừ
khi người đó cố tình vi phạm pháp luật. Các hoạt động tố tụng của người tiến
hành tố tụng hình sự là việc áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật, được trực tiếp sử dụng quyền lực Nhà nước trong khi thi hành công
vụ; có ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân.
Những người tham gia tố tụng là đối tượng chịu sự tác động của những
hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng ở mức độ ít hay nhiều. Do đó
22
việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung và bảo đảm
quyền con người trong giai đoạn điều tra nói riêng là vấn đề được đặt lên
hàng đầu.
Thứ hai, giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là một quá trình làm sáng
tỏ sự thật khách quan của vụ án, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc
biệt là CQĐT phải áp dụng nhiều biện pháp tố tụng được quy định trong
BLTTHS, trong đó có cả các biện pháp ngăn chặn để bảo đảm việc phát hiện
và xử lý tội phạm, tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm, ngăn chặn tội phạm có khả
năng bỏ trốn, tiếp tục phạm tội. Đây là vấn đề nhạy cảm liên quan trực tiếp
đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác
của công dân, đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Vì vậy đòi hỏi công tác
khởi tố, điều tra phải hết sức chính xác, thận trọng khách quan đúng pháp
luật. Ví dụ, xuất phát từ bản chất pháp lý của hoạt động tố tụng mà căn cứ
khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can khác nhau. Quyết định khởi tố vụ án hình
sự chưa hướng sự buộc tội vào con người cụ thể nào, mà chỉ tạo cơ sở pháp lý
để tiến hành các biện pháp điều tra theo luật tố tụng hình sự. Còn căn cứ khởi
tố bị can phải là “có đầy đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm”. Bởi vì, khi
người tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố bị can là đã thực hiện việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với một người cụ thể; quyết định đó ảnh hưởng
rất lớn đến quyền, lợi ích của người bị khởi tố.
Thứ ba, để đạt được mục đích phát hiện, điều tra, xử lý chính xác,
khách quan tội phạm và người phạm tội, Nhà nước bất đắc dĩ phải ban hành
một số quy định hạn chế quyền con người của công dân nói chung, người
tham gia tố tụng nói riêng. Quyền con người trong giai đoạn điều tra gắn rất
chặt chẽ với các quy định về các biện pháp điều tra và quy định các biện pháp
ngăn chặn được áp dụng trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, do sự thiếu hợp tác
của người tham gia tố tụng với người tiến hành tố tụng trong việc đi tìm, xác
23
định sự thật khách quan của các chứng cứ liên quan đến vụ án, nên các quyết
định của người tiến hành tố tụng không phản ánh được chính xác, toàn diện
nội dung sự việc, hoặc do sự tác động chi phối từ bên ngoài vào hoạt động
điều tra, sự chi phối, tác động này có thể là do lãnh đạo của cấp trên đối với
cấp dưới, của cơ quan tiến hành tố tụng đối với người tiến hành tố tụng, cũng
có thể do quen biết, người thân của người tham gia tố tụng… nên các quyết
định trong hoạt động dễ thiếu sự khách quan, trung thực, đầy đủ… hay do một
bộ phận những người tiến hành tố tụng bị hạn chế về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, tha hóa về đạo đức lối sống trong việc thực hiện các chức năng
thẩm quyền của mình làm cho quyết định của họ trong vụ án thiếu khách
quan, toàn diện, đầy đủ và không đúng pháp luật. Hơn nữa, các hạn chế, các
biện pháp cưỡng chế được quy định và thực hiện chỉ ở mức độ cần và đủ để
phát hiện, xử lý tội phạm, người phạm tội mà không ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền con người.
Vì vậy, trong hoạt động điều tra nhiệm vụ không bỏ lọt tội phạm phải
đi liền với không làm oan người vô tội; nhiệm vụ phát hiện xử lý tội phạm
phải đi liền với việc bảo đảm quyền con người. Hoạt động tố tụng hình sự nói
chung và hoạt động điều tra nói riêng phải được thực hiện trên cơ sở coi trọng
các yếu tố đó; bỏ qua hoặc coi nhẹ yếu tố này hay yếu tố khác nói trên đều
ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đạt được mục đích tố tụng. Nếu muốn
chứng minh tội phạm, xử lý tội phạm bằng bất cứ giá nào thì dễ dẫn đến vi
phạm quyền con người; ngược lại nếu quá chú ý đến việc bảo đảm quyền con
người thì sẽ làm cho hoạt động điều tra thiếu hiệu quả, không thể phát hiện,
xử lý kịp thời người phạm tội, thậm chí bỏ lọt tội phạm.
Các hoạt động trong giai đoạn điều tra có ý nghĩa xác lập cơ sở để truy
cứu trách nhiệm hình sự, thực hiện quyền công tố. Nếu hoạt động điều tra
đúng pháp luật, sẽ bảo đảm được quyền con người, tuy nhiên “điều tra quá
24
lớn mà không bị hạn chế thì sẽ dễ xâm hại đến quyền con người, mà trong
giai đoạn điều tra quá coi trọng sự bảo đảm quyền con người thì không đạt
được mục đích điều tra” [21, tr. 44]. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
một mặt phải bảo đảm đầy đủ các yêu cầu là thu thập chứng cứ phạm tội, truy
bắt tội phạm, chứng minh sự thật vụ án, mặt khác phải bảo đảm quyền lợi cơ
bản cho những đối tượng liên quan, đặc biệt là bị can, đồng thời không ngừng
cải biến, điều chỉnh sao cho phù hợp với trình độ phát triển của xã hội, nỗ lực
thực hiện những động thái bình ổn và cân bằng của mối quan hệ giữa hoạt
động điều tra và bảo đảm tôn trọng quyền con người.
Do đó, trong giai đoạn điều tra, việc tuân thủ nguyên tắc pháp chế phải
được thực thi một cách triệt để từ các phía các chủ thể tiến hành tố tụng. Đối
với CQĐT VKSNDTC càng có tính cấp thiết “mọi vi phạm pháp luật, dù nhỏ,
từ phía CQĐT đều tạo ra khả năng lớn khiến hoạt động điều tra đi chệch khỏi
quỹ đạo của mình, gây tổn hại trái pháp luật cho quyền và lợi ích của những
người tham gia tố tụng” [16, tr. 405].
Thứ tư, thông qua hoạt động điều tra làm rõ sự thật khách quan của vụ
án, CQĐT VKSNDTC đã giữ vững và bảo đảm pháp chế, ổn định trật tự xã
hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền. Về phía mình, Nhà nước pháp
quyền lại tiếp tục làm cho pháp luật về tổ chức và điều tra của CQĐT, về các
nguyên tắc của hoạt động điều tra được hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn, tôn trọng
và bảo đảm quyền con người hơn, cũng như bảo đảm giải quyết vụ án hình sự
được khách quan, công bằng, dân chủ và đúng pháp luật hơn. Bởi lẽ, Nhà
nước mà trong đó pháp luật được đề cao, pháp chế được ngự trị thì các quyền
tự do của con người được bảo đảm, đồng thời tất cả các hành vi phạm tội và
hành vi vi phạm trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự đều bị xử lý nghiêm
minh, kịp thời và đúng pháp luật.
1.2. Nội dung bảo đảm quyền con ngƣời trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một
25
phần của bảo đảm quyền con người, cụ thể hoá, hiện thực hoá các quy định
của Hiến pháp về bảo đảm quyền con người nói chung, bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự nói riêng. Nói cách khác, bảo đảm quyền con
người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT VKSNDTC là một bộ
phận của bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Quan điểm, mục
tiêu, yêu cầu về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự được quy định trong BLTTHS và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự,
thống nhất với quan điểm, mục tiêu, yêu cầu về bảo đảm quyền con người
trong tố tụng hình sự cũng như trong các lĩnh vực pháp luật, phạm trù xã hội
khác. Hình thức, biện pháp, đối tượng, chủ thể thực hiện việc bảo đảm quyền
con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự gắn liền với các hoạt động,
hành vi, trình tự, thủ tục tố tụng hình sự được thực hiện trong quá trình khởi
tố, điều tra của CQĐT VKSNDTC và VKSNDTC (cụ thể là Vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức
vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp).
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự bắt đầu kể từ khi có quyết định khởi tố
vụ án cho đến khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc đình chỉ
điều tra vụ án hình sự. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát toàn diện hoạt
động điều tra vụ án, đảm bảo yêu cầu về căn cứ, tính hợp pháp, tính cần thiết
của mọi hoạt động, hành vi, trình tự, thủ tục điều tra. Đặc biệt là các hoạt động,
hành vi, trình tự, thủ tục tố tụng do CQĐT tiến hành có liên quan trực tiếp đến
quyền con người như khởi tố bị can, bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét…
Bảo đảm quyền con người của người tham gia quan hệ tố tụng hình sự
trong giai đoạn điều tra bao gồm hai nội dung. Nội dung thứ nhất: bảo đảm
các quyền con người đã, đang, có khả năng bị hành vi tội phạm xâm hại –
chống lại sự xâm hại các quyền con người của nạn nhân tội phạm. Nội dung
thứ hai: bảo đảm, không xâm hại các quyền con người của người tham gia tố
tụng hình sự trong giai đoạn điều tra. Tức là chống lại sự xâm hại, và khôi
26
phục quyền con người đã, đang bị xâm hại trong quan hệ tố tụng hình sự và
trong khi thực hiện chức năng ngăn chặn tội phạm, khôi phục công lý, chứng
minh tội phạm, người phạm tội, hậu quả của tội phạm… không xâm hại các
quyền con người của chủ thể tham gia quan hệ tố tụng hình sự. Hai nội hàm
này của yêu cầu bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra là hai mặt
thống nhất, phản ánh bản chất nhân đạo, văn minh của nền tố tụng hình sự
nước ta.
Chủ thể quyền con người - đối tượng được bảo đảm quyền con người
bằng các quy định pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự chia làm 02 nhóm, gồm: những người bị tình nghi phạm tội – người bị
buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can) và người bị hại, người làm
chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan đến
vụ án (gọi chung là đương sự)…
1.2.1. Các chủ thể được bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
* Bảo đảm quyền con người đối với người bị buộc tội
Người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra bao gồm người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can trong vụ án.
- Người bị bắt là chủ thể tham gia tố tụng có đặc điểm riêng biệt, khác
với các chủ thể tham gia tố tụng khác. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
người bị bắt có thể là đương sự chưa bị khởi tố bị can, sẽ bị tạm giữ hoặc đã
bị khởi tố bị can, sẽ bị tạm giam. Trường hợp chưa bị khởi tố bị can, sau khi
bị bắt - chính thức tham gia tố tụng với tư cách là người bị bắt – chủ thể này
sẽ trở thành – có tư cách tham gia tố tụng – người bị tạm giữ. Nếu đã bị khởi
tố bị can, sau khi bị bắt, chủ thể này sẽ trở thành – có tư cách tham gia tố tụng
– người bị tạm giam (trừ trường hợp bắt người bị truy nã – đã bị khởi tố bị
can). Tư cách tố tụng, các quyền tố tụng, trong đó có quyền con người của
27
người bị bắt phát sinh từ thời điểm bị bắt. Việc xác định thời điểm kết thúc tư
cách tố tụng của người bị bắt là vấn đề pháp lý phức tạp, chưa có quy định cụ
thể và đang còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau.
Xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền
con người của người bị bắt, em đồng ý rằng thời điểm một người bị bắt kết
thúc tư cách tham gia tố tụng là người bị bắt khi chuyển sang tư cách là người
bị tạm giữ, tạm giam và việc tạm giữ, tạm giam đã xảy ra trên thực tế hoặc
được trả tự do. Điều 114 BLTTHS năm 2015 quy định sau khi bắt hoặc nhận
người bị bắt do phạm tội quả tang, do bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
CQĐT phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm
giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt [31]. Như vậy, thời gian một người tham
gia tố tụng với tư cách người bị bắt do phạm tội quả tang, do bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp là không quá 24 giờ kể từ thời điểm bị bắt.
Đối với người bị bắt theo quyết định truy nã, CQĐT tiếp nhận người bị
bắt phải lấy lời khai và thông báo ngay cho CQĐT đã ra quyết định truy nã.
Trường hợp xét thấy, CQĐT đã ra quyết định truy nã không thể tiếp nhận
ngay người bị bắt, thì CQĐT tiếp nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định
tạm giữ và thông báo cho CQĐT đã ra quyết định truy nã. Ngay sau khi nhận
được thông báo, CQĐT đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt phải ra
ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp
phê chuẩn cho CQĐT nhận người bị bắt. CQĐT nhận người bị bắt phải giải
ngay người bị bắt đến trại tạm giam gần nhất. Như vậy, thời gian một người
tham gia tố tụng với tư cách là người bị bắt theo quyết định truy nã chưa được
xác định cụ thể, em cho rằng đó là “ngay sau khi lấy lời khai”.
Thời gian một người tham gia tố tụng với tư cách là người bị bắt trong
trường hợp bắt bị can để tạm giam cũng chưa được xác định cụ thể. Có thể bắt
đầu từ thời điểm CQĐT thi hành lệnh bắt, kết thúc khi người đó được giao
28
cho nhà tạm giữ, trại tạm giam.
Thời gian tham gia tố tụng của người bị bắt có thể trong thời hạn 24
giờ, có thể rất ngắn, nhưng cũng có thể kéo dài do chưa được quy định cụ thể.
Trong thời gian này, người bị bắt có các quyền như: Được nghe, nhận lệnh
giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, quyết định truy nã; Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt; Được thông báo,
giải thích về quyền và nghĩa vụ theo quy định; Trình bày lời khai, trình bày ý
kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải
nhận mình có tội; Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Trình bày ý kiến
về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố
tụng kiểm tra, đánh giá; Tự bào chữa, nhờ người bào chữa; và quyền khiếu
nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trong việc giữ người, bắt người [31].
Theo em người bị bắt là người bị tạm thời hạn chế quyền tự do, quyền
bất khả xâm phạm thân thể, các quyền con người khác... Bảo đảm quyền con
người của người bị bắt là bảo đảm quyền được sống, chăm sóc sức khoẻ, bảo
đảm các điều kiện cần và đủ để người bị bắt thực hiện các quyền nhân thân,
quyền dân sự, quyền chính trị không bị hạn chế, tước đoạt. Cụ thể, người bị
bắt có quyền được biết lý do mình bị bắt; được giải thích về quyền và nghĩa
vụ; được trình bày lời khai; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; khiếu nại về việc
bị bắt, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến
hành tố tụng, yêu cầu luật sư bảo đảm quyền lợi, quyền im lặng...
- Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ là đảm bảo những
điều kiện cần và đủ để người bị tạm giữ thực hiện được các quyền của mình.
Điều 59 BLTTHS năm 2015 quy định: Người bị tạm giữ là người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo
29
quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có
quyết định tạm giữ. Người bị tạm giữ có quyền: được biết lý do mình bị tạm
giữ; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; trình bày lời khai; tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; khiếu nại về
việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng [31].
- Tương tự như đối với người bị tạm giữ, bảo đảm quyền con người của
bị can là đảm bảo những điều kiện cần và đủ để bị can thực hiện các quyền
của mình. Điều 60 BLTTHS quy định bị can là người đã bị khởi tố về hình
sự. Bị can có quyền: được biết mình bị khởi tố về tội gì; được giải thích về
quyền và nghĩa vụ; trình bày lời khai; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; đề nghị
thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; được nhận quyết định khởi tố; quyết
định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều
tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình
chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo
quy định của BLTTHS; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng [31].
Tuy nhiên, đối với loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội
phạm tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và XXIV Bộ luật
Hình sự năm 2015, thì đối tượng bị coi là người bị buộc tội chỉ có thể là cán
bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi
hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Đó là những cán
bộ có chức danh pháp lý hoặc không có chức danh pháp lý nhưng được giao
nhiệm vụ hoạt động tư pháp hoặc đồng phạm với cán bộ có chức danh pháp lý
phạm tội trong quá trình làm nhiệm vụ. Ví dụ: Chiến sĩ được giao nhiệm vụ
bảo vệ trại tạm giam có hành vi thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn
[30]; cán bộ trinh sát, cán bộ điều tra, sinh viên thực tập cũng có thể là chủ thể
30
của Tội dùng nhục hình (Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015)… [30]
Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định khái quát và chính xác hơn, không
liệt kê các chủ thể cụ thể trong các cơ quan: CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án
và cơ quan thi hành án, mà quy định rõ đối tượng là trong hoạt động tố tụng
và thi hành án. Bởi ngoài hoạt động tư pháp, các cơ quan tư pháp còn có
hoạt động khác như: quản lý hành chính nhà nước, dân sự (không phải là
hoạt động tư pháp), nên không thể coi tất cả hoạt động của cơ quan tư pháp
đều là hoạt động tư pháp, mà chỉ những hoạt động tố tụng và thi hành án
mới trở thành đối tượng của nhóm tội phạm này. Ngoài hoạt động tố tụng
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và hoạt động thi hành án (hình
sự, dân sự), còn có các chủ thể khác cũng tham gia vào hoạt động tố tụng,
như: Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Bộ
đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư và các cơ
quan trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra); các chủ thể tham gia tố tụng (người bào
chữa, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, dịch
thuật…); các chủ thể có nhiệm vụ bổ trợ hoạt động tư pháp (công chứng,
giám định tư pháp…) hoặc hỗ trợ hoạt động tư pháp (cảnh sát thi hành án
hình sự và hỗ trợ tư pháp). Mặt khác, ngoài hoạt động xét xử, Tòa án còn
tiến hành các hoạt động khác, như: xác minh, thu thập chứng cứ, tài liệu của
các vụ án dân sự, hành chính, tiến hành hòa giải hoặc ban hành các quyết
định tố tụng khác… cũng là hoạt động tư pháp.
* Bảo đảm quyền con người đối với tư cách là các đương sự
Các đương sự trong vụ án hình sự là những người không thuộc nhóm
người bị buộc tội, bao gồm người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi tham gia tố
tụng trong vụ án hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra nói riêng,
31
những người này cũng có quyền và nghĩa vụ nhất định cần được bảo đảm.
Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc
là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe
dọa gây ra [31]. Như vậy, bị hại có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Tuy
nhiên, chúng ta chỉ xem xét bị hại dưới góc độ cá nhân, vì quyền con người
chỉ gắn với cá nhân. Một số quyền của bị hại hoặc người đại diện hợp pháp
của họ liên quan đến quyền con người như: đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
được thông báo về kết quả điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS; đề nghị mức
bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường; tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền
và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;
tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham
gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị hại; xem biên bản phiên tòa; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.
Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến
nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng triệu tập đến làm chứng [31]. Người làm chứng có địa vị quan trọng
trong mọi giai đoạn tố tụng của vụ án hình sự. Việc quy định, bảo đảm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi khác của người làm
chứng để họ thực hiện tốt vai trò làm chứng của mình có ý nghĩa quan trọng
đối với việc giải quyết vụ án, đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như bảo
đảm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. BLTTHS năm
2015 quy định người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ
32
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp
khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan
đến việc mình tham gia làm chứng; được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí
đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật. Thực tế cho thấy,
làm chứng trong vụ án hình sự là nghĩa vụ hết sức nặng nề đối với người làm
chứng. Bên cạnh việc phải khai trung thực các tình tiết của vụ án, người làm
chứng và gia đình họ phải đối mặt với những đe dọa nguy hiểm từ phía tội
phạm và những người liên quan đến tội phạm. Nếu người làm chứng không
được bảo đảm, bị tội phạm tấn công, họ trở thành nạn nhân của tội phạm, các
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp bị đe đọa và không thể thực hiện tốt
nghĩa vụ làm chứng. Điều này sẽ hạn chế đáng kể khả năng của CQĐT, Viện
kiểm sát trong việc chứng minh tội phạm, truy cứu trách nhiệm hình sự người
phạm tội. Chính vì vậy, bảo đảm quyền con người của người làm chứng là
nghĩa vụ quan trọng của Nhà nước và cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng.
Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm
gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại [31]. Dưới góc độ là cá nhân,
nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có một số quyền liên
quan đến quyền con người như: đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được thông
báo về kết quả điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS; tự bảo vệ, nhờ người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến,
đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên
tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn; xem biên bản phiên
tòa; đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường; khiếu nại
quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
33
tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường thiệt hại.
Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại [31]. Dưới góc độ là cá nhân, bị đơn dân
sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có một số quyền liên quan đến quyền
con người như: khiếu nại việc đòi bồi thường của nguyên đơn dân sự; đưa ra
tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được thông báo kết quả điều tra có liên quan đến việc
đòi bồi thường; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch theo quy định của BLTTHS; chấp nhận hoặc bác bỏ một
phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn dân sự; tham gia phiên tòa; trình
bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; tranh luận
tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn; xem biên bản
phiên tòa; tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan,
tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự [31]. Dưới góc độ
là cá nhân, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có một số quyền liên quan đến quyền con người như:
đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Tham gia phiên tòa; phát biểu ý kiến, đề nghị
chủ tọa phiên tòa hỏi những người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; tự bảo
vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; trình bày ý kiến về
chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng kiểm tra, đánh giá; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về những
vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Như vậy, quyền của các đương sự cũng được quy định rất cụ thể trong
34
BLTTHS, nên việc bảo đảm quyền của các đương sự tại giai đoạn điều tra
được thể hiện bằng việc: CQĐT phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để các
đương sự có thể thực hiện các quyền của mình theo quy định của BLTTHS.
1.2.2. Các chủ thể thực hiện việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
Khoa học luật tố tụng hình sự phân chia quá trình tố tụng hình sự một
vụ án thành các giai đoạn tố tụng hình sự. Việc phân định các giai đoạn tố
tụng hình sự không chỉ đơn thuần là xác định nhiệm vụ của từng giai đoạn,
mà còn làm rõ quyền và trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong thực hiện nhiệm vụ tố tụng, cũng như trong việc quyết định, tổ
chức thi hành các lệnh, quyết định, hoạt động tố tụng, ban hành các văn bản
tố tụng cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, các giai
đoạn tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, kể từ khi bắt đầu cho
đến khi kết thúc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và phải được diễn ra liên
tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, với những hành vi tố tụng khác nhau. Kết
thúc giai đoạn tố tụng này mới chuyển sang giai đoạn tố tụng khác; giai đoạn
tố tụng trước làm cơ sở cho giai đoạn tố tụng sau; giai đoạn tố tụng sau kiểm
nghiệm lại kết quả đạt được của giai đoạn trước. Mỗi giai đoạn tố tụng thực
hiện một nhiệm vụ theo một định hướng nhất định của quá trình tố tụng và
chứa đựng những đặc điểm riêng biệt. Các giai đoạn tố tụng hình sự hợp
thành tổng thể quá trình tố tụng thống nhất và có quan hệ khăng khít với nhau.
Đa số các quan điểm khoa học đều cho rằng có 04 giai đoạn trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự: khởi tố vụ án hình sự, điều tra vụ án hình sự;
truy tố; xét xử vụ án hình sự.
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng, trong
đó, như Điều 3 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự quy định, CQĐT tiến
hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy
35
định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ,
đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ
quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.
Theo quy định tại Điều 34 BLTTHS năm 2015, Cơ quan tiến hành tố
tụng gồm: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa án. Người tiến hành tố tụng
gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ
điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm
tra viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa
án, Thẩm tra viên [31].
Các chủ thể này, trong khi thực hiện nhiệm vụ tố tụng có trách nhiệm
bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp trong đó có quyền con người của người
bị buộc tội, các đương sự trong vụ án hình sự.
Điều 15 BLTTHS quy định, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện
pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện
và đầy đủ [31].
Tuy nhiên, ngoài cơ quan cơ quan tiến hành tố tụng, BLTTHS năm
2015 quy định rõ một số cơ quan sau có thẩm quyền tiến hành một số hoạt
động tố tụng như: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển,
Kiểm ngư và các cơ quan trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (được gọi là Cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra).
Ngoài người tiến hành tố tụng, các chủ thể sau cũng được coi là người
thực hiện trong tư pháp: Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra (Cục trưởng, Phó Cụ trưởng Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,
36
Tư lệnh, Phó Tư lệnh cảnh sát biển…), các chủ thể không phải người tiến
hành tố tụng nhưng được giao một số nhiệm vụ trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự (cán bộ, công chức trong CQĐT, Cơ quan được giao một số nhiệm
vụ điều tra, chuyên viên Viện kiểm sát…), các chủ thể có nhiệm vụ bổ trợ
hoạt động tư pháp (chuyên viên, giám định…) hoặc hỗ trợ hoạt động tư pháp
(cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp)…; Hội đồng xét xử khi khởi
tố vụ án, yêu cầu khởi tố vụ án trong những trường hợp cụ thể. Khi thực hiện
hoạt động tố tụng hình sự, những chủ thể này đã trực tiếp tác động đến các
quyền, trong đó có quyền con người của các đương sự, người bị buộc tội
trong vụ án. Các chủ thể này cũng có trách nhiệm bảo đảm các quyền, trong
đó có quyền con người của người bị buộc tội cũng như các đương sự trong vụ
án hình sự.
Căn cứ quy định của BLTTHS và trên thực tiễn, có thể thấy đối với hầu
hết các vụ án hình sự, thì CQĐT, Viện kiểm sát và Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng CQĐT, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên là những chủ thể chủ yếu, quan
trọng nhất, thực hiện những nhiệm vụ khởi tố, điều tra và kiểm sát điều tra.
Các chủ thể này cũng là chủ thể chính bảo đảm quyền con người trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
Đối với CQĐT VKSNDTC là một bộ phận của VKSNDTC, chủ thể có
thẩm quyền thực hiện việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự của cơ quan này là: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT
VKSNDTC, cán bộ điều tra, cán bộ, công chức thuộc CQĐT, được phân công
nhiệm vụ tham gia quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Như vậy, nội dung bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự là việc cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các
chủ thể tố tụng khác thực hiện, tuân thủ các quy định, trình tự, thủ tục tố tụng
37
do BLTTHS quy định để bảo đảm các quyền con người: được bảo đảm về
tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh dự nhân phẩm, quyền sở hữu… đã được
“tố tụng hóa” thành các quyền tố tụng của người bị buộc tội (người bị bắt, tạm
giữ, bị can) và các chủ thể tham gia tố tụng khác (người bị hại, người làm
chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) theo quy định của BLTTHS.
1.2.3. Quy định về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Như đã phân tích ở trên, mặc dù chủ để được đảm bảo quyền con người
và chủ thể thực hiện việc đảm bảo này, trong các vụ án hình sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của CQĐT VKSNDTC là riêng biệt, nhưng quy định của
BLTTHS về các chế định để bảo đảm quyền con người không có sự phân biệt
nào. Mọi nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể tiến hành tố tụng đều phải như nhau.
Mọi quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng đều bình đẳng với nhau.
* Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền hạn và trách nhiệm
của các chủ thể tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra có liên quan đến
việc bảo đảm quyền con người
Những người tiến hành tố tụng trong CQĐT nói chung, CQĐT
VKSNDTC nói riêng, theo Điều 36, 37, 38 BLTTHS 2015, là Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên và cán bộ điều tra [31].
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
CQĐT, Điều tra viên và cán bộ điều tra được quy định tại các Điều 36, 37 và
38 BLTTHS. Các chủ thể này chịu trách nhiệm chính trong việc thu thập
chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội tại giai đoạn điều tra vụ án
hình sự. Điều này xuất phát từ nhiệm vụ của giai đoạn điều tra trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự và chức năng, nhiệm vụ tố tụng của CQĐT.
CQĐT tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do
BLTTHS quy định. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên chính
38
là các chủ thể trực tiếp thực hiện các biện pháp điều tra. Theo quy định, một
số hoạt động, quyết định tố tụng của CQĐT trong giai đoạn điều tra phải được
Viện kiểm sát phê chuẩn trước khi thực hiện. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
CQĐT, Điều tra viên vừa có trách nhiệm thu thập chứng cứ chứng minh tội
phạm và người phạm tội, vừa có trách nhiệm chấp hành hoạt động kiểm sát
của Viện kiểm sát, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên, để đảm bảo hoạt động tố tụng tại giai đoạn điều tra chấp hành đúng quy
định pháp luật, không xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp, nhất là quyền
con người của người bị buộc tội, các chủ thể khác tham gia tố tụng.
Điều 36 BLTTHS năm 2015 quy định: Thủ trưởng CQĐT có nhiệm vụ
trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các hoạt động điều tra của CQĐT; quyết định
phân công Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên trong việc điều tra vụ án
hình sự; kiểm tra các hoạt động điều tra của Phó Thủ trưởng CQĐT và Điều
tra viên; quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và
trái pháp luật của Phó Thủ trưởng CQĐT và Điều tra viên; quyết định thay
đổi Điều tra viên; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của CQĐT.
Khi Thủ trưởng CQĐT vắng mặt, một Phó Thủ trưởng được Thủ trưởng uỷ
nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng. Phó Thủ trưởng chịu
trách nhiệm trước Thủ trưởng về việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Khi thực
hiện nhiệm vụ, thẩm quyền tổ chức điều tra vụ án hình sự, Thủ trưởng CQĐT
ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định không khởi tố vụ án;
quyết định nhập hoặc tách vụ án; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
các biện pháp ngăn chặn; quyết định truy nã, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê
biên tài sản, xử lý vật chứng; quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai
quật tử thi; kết luận điều tra vụ án; quyết định tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ
điều tra, quyết định phục hồi điều tra; trực tiếp tiến hành các biện pháp điều
tra; cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến
39
hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của CQĐT. Khi được
phân công điều tra vụ án hình sự, Phó Thủ trưởng CQĐT có những nhiệm vụ
và quyền hạn của Phó Thủ trưởng CQĐT. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
CQĐT phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định
tố tụng của mình [31].
Điều 37 BLTTHS năm 2015 quy định: Điều tra viên được phân công
điều tra vụ án hình sự có nhiệm vụ lập hồ sơ vụ án hình sự; triệu tập và hỏi
cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án; quyết định áp giải bị can, quyết định dẫn giải người làm chứng; thi
hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản;
tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng,
thực nghiệm điều tra; tiến hành các hoạt động điều tra khác thuộc thẩm
quyền, theo sự phân công của Thủ trưởng CQĐT, Phó Thủ trưởng CQĐT
được uỷ nhiệm... Điều tra viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước
TT CQĐT về những hành vi và quyết định của mình [31].
Điều 38 BLTTHS năm 2015 quy định: Cán bộ điều tra thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn theo sự phân công của Điều tra viên, bao gồm các nhiệm vụ:
Cán bộ điều tra thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây theo sự phân
công của Điều tra viên: Ghi biên bản lấy lời khai, ghi biên bản hỏi cung và
ghi các biên bản khác khi Điều tra viên tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn
tin về tội phạm và điều tra vụ án hình sự; giao, chuyển, gửi các lệnh, quyết
định và các văn bản tố tụng khác theo quy định; giúp Điều tra viên trong việc
lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm, hồ sơ vụ án và thực hiện hoạt
động tố tụng khác [31].
Khi nghiên cứu bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra,
không thể không xem xét vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát và những
người tiến hành tố tụng trong cơ quan này. Xuất phát từ chức năng kiểm sát
40
hoạt động khởi tố, điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát,
Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định liên quan trực tiếp
quyền con người trong tố tụng hình sự. Theo Điều 41 BLTTHS năm 2015,
Viện trưởng Viện kiểm sát có nhiệm vụ tổ chức và chỉ đạo các hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với tất cả các hoạt động tố tụng hình sự;
quyết định phân công Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự; kiểm tra các hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên; quyết định thay đổi hoặc
huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Viện trưởng
và Kiểm sát viên; quyết định rút, đình chỉ hoặc huỷ bỏ các quyết định không
có căn cứ và trái pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới; quyết định thay đổi
Kiểm sát viên; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm
sát. Khi thực hành quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố
tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền hạn: quyết
định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can;
yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố
bị can theo quy định của BLTTHS; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều
tra viên; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết
định gia hạn điều tra, quyết định gia hạn tạm giam; yêu cầu CQĐT truy nã bị
can; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của
CQĐT; quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của CQĐT; quyết định chuyển vụ án; quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ
vụ án, quyết định phục hồi điều tra, quyết định xử lý vật chứng… [31]
Kiểm sát viên là người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc khởi
tố, điều tra của CQĐT. Theo Điều 42 BLTTHS năm 2015, Kiểm sát viên
được phân công kiểm sát điều tra có nhiệm vụ kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát
các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT; đề ra yêu cầu điều
41
tra; triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án; kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam… [31]
Điều 37, Điều 41 BLTTHS năm 2015 quy định khi tiến hành tố tụng,
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát ra các quyết định tố tụng, còn Điều tra viên, Kiểm sát viên trực tiếp
thi hành các quyết định tố tụng đó. Như vậy về nguyên tắc, Lãnh đạo của
CQĐT và Viện kiểm sát có quyền hạn tuyệt đối. Điều tra viên, Kiểm sát viên
là người trực tiếp thực hiện các hoạt động tố tụng nhưng lại bị động, bị phụ
thuộc vào tính đúng đắn, kịp thời của các quyết định do cấp trên ban hành. Cơ
chế tố tụng này, một mặt không tạo ra cơ sở rõ ràng về trách nhiệm của lãnh
đạo CQĐT, Viện kiểm sát theo nguyên tắc quyền hạn đi đôi với trách nhiệm,
không đảm bảo yêu cầu tích cực, khẩn trương của hoạt động tố tụng; một mặt
không phát huy hết thẩm quyền, trách nhiệm, năng lực của Điều tra viên,
Kiểm sát viên - những người trực tiếp tiến hành tố tụng - trong quá trình giải
quyết vụ án. Qua đó, tác động tiêu cực đến hiệu quả, chất lượng hoạt động tố
tụng. Nếu không có cơ chế kiểm tra, đôn đốc hiệu quả, những tác động tiêu
cực của cơ chế tố tụng này sẽ tạo ra tình trạng quan liêu ở cấp trên, tùy tiện ở
cấp dưới. Một trong những hệ quả của nó là quyền con người trong giai đoạn
điều tra bị xâm hại, không được bảo đảm.
Như vậy, trách nhiệm bảo đảm quyền con nguời của người bị buộc tội
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung thuộc về CQĐT, Viện kiểm
sát. Đối với vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC thì trách
nhiệm này thuộc về CQDDT VKSNDTC và VKSNDTC (trực tiếp là Vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng,
chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp). Việc ra quyết định khởi tố, phân công
điều tra và các quyết định khác, việc tổ chức điều tra, tiến hành các hoạt động,
trình tự, thủ tục điều tra trong giai đoạn này do CQĐT thực hiện. Viện kiểm sát
42
kiểm sát toàn diện, liên tục mọi hoạt động, trình tự, thủ tục điều tra. Trong đó
một số quyết định liên quan trực tiếp quyền con người của người bị buộc tội do
Viện kiểm sát phê chuẩn, yêu cầu thực hiện. Viện kiểm sát thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định
việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm
tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát
hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người
phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội [31].
Bảo đảm quyền con người đối với người bị buộc tội trong giai đoạn
điều tra bao gồm các nội dung, yêu cầu sau:
- CQĐT, Viện kiểm sát phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người bị
bắt, bị tạm giữ, bị can, người bị tạm giam thực hiện được những quyền của
mình theo quy định của BLTTHS.
- CQĐT, Viện kiểm sát khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, kiểm sát điều
tra không được xâm phạm quyền con người và chỉ được thực hiện những biện
pháp ngăn chặn, cưỡng chế mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. Pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam quy định khá chặt chẽ về căn cứ áp dụng các biện
pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú…; các biện
pháp điều tra khác như khám người, khám chỗ ở… Tất cả các biện pháp ngăn
chặn, cưỡng chế hình sự trên chỉ được thực hiện khi có căn cứ và theo đúng
trình tự, thủ tục luật định. CQĐT, Viện kiểm sát không được phép lạm dụng,
áp dụng tùy tiện các biện pháp này. Xu hướng chung của tố tụng hình sự là
hạn chế đến mức thấp nhất việc áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam,
đồng thời mở rộng căn cứ, điều kiện áp dụng các biện pháp khác “mềm hơn”,
tác động nhỏ nhất đến các quyền con người như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Cơ quan tiến hành tố tụng
được áp dụng các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế tố tụng hình sự khi cần
43
thiết, để đảm bảo phát hiện, xử lý tội phạm, song chỉ được áp dụng khi có đủ
căn cứ và không thể áp dụng biện pháp khác ít nghiêm khắc hơn. Khi buộc
phải áp dụng thì chỉ hạn chế đến mức cần thiết các quyền con người của
người bị buộc tội và phải tuân theo những trình tự, thủ tục do BLTTHS quy
định. Bản chất của việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là cơ
quan tiến hành tố tụng được phép hạn chế toàn bộ hoặc một phần các quyền
con người của người bị buộc tội nhưng chỉ trong trường hợp có căn cứ và cần
thiết; không được hạn chế quyền con người của người buộc tội nếu không có
căn cứ hoặc không cần thiết.
1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền con ngƣời tại giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
1.3.1. Bảo đảm về mặt lý luận
Tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền con người trong đó có
quyền con người trong tố tụng hình sự để đưa đến nhận thức đúng đắn về vấn
đề quyền con người như một giá trị của nhân loại. Khả năng, điều kiện tiếp
thu các giá trị đó vào hoàn cảnh Việt Nam trên các phương diện lập pháp và
thực tiễn. Tức là cần luận giải tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con
người nói chung và quyền con người trong tố tụng hình sự nói riêng. Yêu cầu
đối với nghiên cứu lý luận về quyền con người trong tố tụng hình sự là phải
đảm bảo được chiều sâu, tính đa dạng, khách quan của lý luận về quyền con
người, phản ánh được thực tiễn sinh động của quá trình tố tụng hình sự và
đảm bảo tính khả thi của các giải pháp [19].
1.3.2. Bảo đảm về mặt pháp lý
Quyền con người trong tố tụng hình sự được đặt ra chỉ khi nhà nước
tiến hành hoạt động tố tụng hình sự. Chính vì vậy, bảo đảm quyền con người
trong tố tụng hình sự trước hết đòi hỏi một hệ thống pháp luật không chỉ giúp
nhà nước phát hiện xử lý tội phạm mà còn không làm oan người vô tội.
Dưới góc độ bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, quy định
44
pháp luật tố tụng hình sự cần ghi nhận đầy đủ các quyền con người trong tố
tụng hình sự trên cơ sở các chuẩn mực trong nước và quốc tế về quyền con
người trong tố tụng hình sự. Bên cạnh việc ghi nhận những quyền của người
bị buộc tội, cần phải có một cơ chế để bảo đảm, bảo đảm các quyền con người
đó. Trong thực tế hiện nay một số quyền của người bị buộc tội đã được pháp
luật ghi nhận nhưng lại chưa có cơ chế nào để bảo đảm nó. Chẳng hạn như
quyền bào chữa, quyền thu thập đưa ra chứng cứ của người bào chữa, người
bị buộc tội, quyền im lặng…được ghi nhận nhưng cơ chế để những người này
thực hiện thì hiện chưa được quy định rõ ràng.
Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự cũng có nghĩa là nếu
người nào có những hành vi xâm phạm đến quyền con người trong tố tụng
hình sự thì có chế tài nghiêm khắc để xỷ lý. Trong thực tiễn tố tụng hình sự,
một vụ án bị chậm trễ đưa ra xét xử, một quyết định áp dụng biện pháp ngăn
chặn không hợp lý và hợp pháp…đều chưa có chế tài cụ thể. Bên cạnh đó,
việc bảo đảm người tố giác tội phạm, người làm chứng trong vụ án hình sự
chưa được quan tâm đúng mức nên vẫn có những trường hợp họ bị trù dập, bị
trả thù, bị đe dọa. Do vậy, quyền con người vẫn chưa được bảo đảm trong một
số trường hợp nhất định và kéo theo đó chính là chất lượng hoạt động của các
cơ quan tư pháp hình sự vẫn còn chưa cao [24].
1.3.3. Bảo đảm về mặt tổ chức
Về mặt tổ chức, các cơ quan tiến hành tố tụng phải đáp ứng các yêu cầu
cơ bản sau đây:
- Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo hướng phân định rõ thẩm
quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động
tố tụng hình sự; tăng quyền hạn, trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán. Có như vậy, hoạt động tố tụng mới chủ động, khách quan, hiệu
quả; người tiến hành tố tụng mới phản ứng kịp thời với tình hình và dám tự
45
mình chịu trách nhiệm về các quyết định của mình [17];
- Đảm bảo quyền hạn phải đi đôi với trách nhiệm trong hoạt động tố
tụng của người tiến hành tố tụng. Không để xảy ra tình trạng quyền hạn của
một người, còn trách nhiệm lại thuộc về người khác hoặc tình trạng quyền hạn
thì quy định cụ thể nhưng trách nhiệm thì chung chung. Chỉ khi quyền hạn đi
liền với trách nhiệm thì người tiến hành tố tụng mới thận trọng hơn trong thực
hiện nhiệm vụ tố tụng của mình góp phần xử lý vụ án đúng đắn, khách quan;
- Đảm bảo nguyên tắc độc lập trong tố tụng hình sự. Người trực tiếp
tiến hành các hoạt động tố tụng phải là người được quyết định các vấn đề liên
quan đến việc giải quyết vụ án;
- Các quy định phải đảm bảo tính khả thi. Nhiệm vụ, quyền hạn được
quy định phải được bảo đảm thực hiện bằng các quy định của pháp luật, bằng
các biện pháp tổ chức và có cơ chế kiểm tra, giám sát cụ thể, chặt chẽ v.v…
1.3.4. Bảo đảm về mặt nhận thức
Cần nâng cao nhận thức về quyền con người, hay nói cách khác là tăng
cường giáo dục quyền con người cho những người tiến hành tố tụng là các
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, bởi một điều mà người ta lo ngại
nhất khi nói đến vấn đề bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đó
chính là sự xâm phạm quyền con người từ phía các cơ quan có thẩm quyền,
sự xâm phạm này không chỉ thể hiện ở việc pháp luật còn nhiều lỗ hổng mà
phần nhiều nằm ở chính hoạt động cụ thể của những người tiến hành tố tụng.
Đối với người bị buộc tội, cần nâng cao khả năng nhận thức tự bảo đảm
quyền con người của họ bằng việc tạo điều kiện tốt nhất để họ có thể tiếp cận
các dịch vụ pháp lý thực hiện quyền bào chữa của mình trong quá trình tố
tụng như yêu cầu được có người bào chữa đối với trường hợp người bị buộc
tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý theo quy định; thuê người bào chữa,
46
thu thập chứng cứ…
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Bảo đảm quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục
đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong
giải quyết vụ án hình sự, các hoạt tố tụng hình sự là hoạt động của Nhà nước,
do chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện, tác động trực tiếp tới
quyền con người, đặc biệt là người bị buộc tội, bị hại và người làm chứng có
nguy cơ dễ bị xâm hại nhất. Cho đến nay, các chế định bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự, đặc biệt là giai đoạn điều tra, giai đoạn ảnh
hưởng trực tiếp nhiều nhất tới các quyền cơ bản của con người vẫn được
Đảng và Nhà nước ta chú trọng, thể chế hóa trong các thời kỳ của Bộ luật Tố
tụng hình sự.
Trên cơ sở tiếp thu hệ thống tri thức và phương pháp phân tích, tiếp cận
khoa học của các công trình có liên quan, trong Chương 1 của Luận văn, tôi đã
nghiên cứu, kiến giải làm sáng tỏ và rút ra được kết luận về một số vấn đề lý
luận chung về “Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao”, cụ thể:
1. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao là hoạt động của chủ thể
tiến hành tố tụng, đảm bảo các yếu tố cần và đủ cho người tham gia tố tụng
thực hiện các đặc quyền cá nhân vốn có của họ, kể từ khi ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự cho đến khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự, nhằm giải quyết vụ án theo đúng quy định pháp luật.
2. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có một số đặc điểm: là một
nguyên tắc, là phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai
đoạn của hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp
47
luật tố tụng hình sự; bảo vệ quyền con người thông qua quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn; phạm vi thực hiện, chủ thể
thực hiện và chủ để được bảo đảm quyền con người là giai đoạn điều tra
những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao khác biệt so với quy định chung của Bộ luật Tố
tụng hình sự.
3. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của
Cơ quan điều tra vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao mang ý nghĩa
nhất định đều được nhìn nhận dưới góc độ nhân quyền.
4. Nội dung bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của Cơ quan điều tra vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao
đều được quy định cụ thể trong Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn
48
bản pháp luật có liên quan.
Chương 2:
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỐI CAO
2.1. Khái quát chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ cấu, tổ chức của
Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua vào ngày 27/11/2015 đã có
những thay đổi căn bản theo hướng Viện kiểm sát nhân dân tập trung thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Về
thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND theo BLTTHS năm 2015 được quy
định tại Điều 163: “Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và
Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người
phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát,
cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp” [31].
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì phạm vi thẩm quyền điều tra
của CQĐT VKSND được được mở rộng so với quy định của BLTTHS năm
2003 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Do vậy, CQĐT VKSND được tổ
chức lại theo hướng thu gọn đầu mối và chỉ được tổ chức ở VKSNDTC.
Theo quy định Điều 20 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Điều 163
BLTTHS năm 2015 và Điều 30 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm
49
2015, CQĐT VKSNDTC có thẩm quyền tiến hành điều tra tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt
động tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức
thuộc CQĐT, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm
quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa án nhân dân.
Đồng thời, CQĐT VKSNDTC thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn sau:
1. Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố; phân loại và giải quyết, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc chuyển ngay đến cơ
quan có thẩm quyền để giải quyết.
2. Kiến nghị với các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc
phục nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.
3. Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và công tác Điều tra, xử lý tội phạm thuộc nhiệm
vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của BLTTHS.
Thi hành Hiến pháp năm 2013, ngày 24/11/2014, Quốc Hội khóa XIII
đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Khác với các
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trước đây, thẩm quyền điều tra của
CQĐT VKSND đã được quy định tại phần quy định chung (Điều 3), theo đó,
CQĐT này có thẩm quyền điều tra một số loại tội phạm là một trong các công
tác của VKSND. Cụ thể hóa công tác điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
được quy định tại Mục 5, Chương II, tại các Điều 20 quy định về thẩm quyền
điều tra của CQĐT VKSNDTC, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung
ương, Điều 21 quy định chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp của VKSNDTC, Viện kiểm sát quân sự trung ương đối với
50
CQĐT VKSNDTC, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Như vậy, quyền điều tra và tổ chức, hoạt động của CQĐT VKSNDTC
tiếp tục được khẳng định, là cơ sở lý luận để sửa đổi bổ sung các quy định của
pháp luật về tố tụng hình sự, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra
nói chung, trong đó có CQĐT VKSNDTC.
2.1.2. Về tổ chức bộ máy của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao
Ngày 28/05/2019, Viện trưởng VKSNDTC ban hành Quy chế tổ chức
và hoạt động của CQĐT VKSNDTC kèm theo Quyết định số 208/QĐ-
VKSTC-C1 (gọi tắt là Quy chế 208) thay thế cho Quy chế 18/QĐ-VKSTC-C1
ngày 20/11/2015. Đến nay, căn cứ các Quyết định của Viện trưởng
VKSNDTC về việc thành lập các phòng nghiệp vụ; theo đó tổ chức bộ máy
của CQĐT VKSNDTC gồm: 10 Phòng nghiệp vụ; 2 Đại diện Thường trực
CQĐT VKSNDTC tại các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên và miền Nam; với
tổng số 174 biên chế. Về bộ máy gồm có: Thủ trưởng và 03 Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra; 10 Trưởng phòng, 21 Phó Trưởng phòng; có 01 Kiểm sát
viên cao cấp và 98 Điều tra viên các cấp (23 Điều tra viên cao cấp, 61 Điều
tra viên trung cấp và 14 Điều tra viên sơ cấp, 24 Cán bộ điều tra). Về trình độ:
có 01 Tiến sỹ luật; 01 Nghiên cứu sinh; 38 Thạc sỹ luật; 86 Cử nhân luật và
20 Cử nhân chuyên ngành khác (có 26 đồng chí tốt nghiệp Học viện An ninh
nhân dân và Học viện Cảnh sát nhân dân).
Từ năm 2011 đến nay, CQĐT VKSNDTC đã tiếp nhận, thu thập
10.379 thông tin về tội phạm, đã nghiên cứu giải quyết 10.347 thông tin (đạt
98,7%). Thụ lý giải quyết tổng số 984 tố giác, đã kết thúc kiểm tra, xác minh,
chuyển hồ sơ đến VKSNDTC kiểm sát theo quy định 963 tố giác, tin báo về
tội phạm (đạt 97,9%). Khởi tố, thụ lý điều tra 288 vụ/292 bị can, đã kết thúc
điều tra 268 vụ/279 bị can, (đạt 93,1%). Việc khắc phục, thu hồi tiền, tài sản
51
bị chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng, chức vụ được CQĐT VKSNDTC
chú trọng thực hiện. Tỷ lệ thu hồi tiền, tài sản bị thiệt hại, chiếm đoạt trong
các vụ án tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp trung bình đạt
50%. Trong thời gian này, CQĐT đã ban hành 648 kiến nghị với cơ quan hữu
quan các cấp (262 kiến nghị gửi cơ quan Công an, 152 kiến nghị gửi Tòa án,
163 kiến nghị gửi cơ quan Thi hành án dân sự, 76 kiến nghị gửi Viện kiểm sát
địa phương và 22 kiến nghị gửi ngành khác) xử lý và phòng ngừa vi phạm, tội
phạm. Các kiến nghị trên đều được các cơ quan tư pháp nghiêm túc tiếp thu
và có biện pháp khắc phục [10].
Trong giai đoạn này, CQĐT VKSNDTC đã phát hiện, khởi tố, điều tra
nhiều vụ án nghiêm trọng, phức tạp về tội phạm tham nhũng, chức vụ trong
hoạt động tư pháp cũng như làm rõ những vụ án oan sai, bỏ lọt tội phạm được
dư luận xã hội quan tâm, như: Vụ án Ngô Thanh Phong, nguyên Phó Thủ
trưởng thường trực, Nguyễn Văn Nên, nguyên Phó Thủ trưởng và Phạm Văn
Út, nguyên Thủ kho vật chứng kiêm Thủ quỹ Cơ quan CQĐT Công an tỉnh
Tiền Giang phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công
vụ” chiếm đoạt hơn 1,2 tỷ đồng; vụ án Đinh Thiên Tường, nguyên Chấp hành
viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên về tội “Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; vụ án Châu Tùng
Chinh, nguyên Chi Cục Trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phong
Điền, thành phố Cần Thơ về tội “Tham ô tài sản” với số tiền 2,6 tỷ đồng; vụ
án oan sai xảy ra tại huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng khiến 07 người dân bị
giam giữ, kết tội “Giết người” oan, CQĐT VKSNDTC đã tiến hành điều tra
và khởi tố bị can đối với Nguyễn Hoàn Quân, Triệu Tuấn Hưng – Điều tra
viên CQĐT Công an tỉnh Sóc Trăng về tội “Dùng nhục hình”, khởi tố bị can
đối với Phạm Văn Núi – Kiểm sát viên VKSND tỉnh Sóc Trăng về tội “Thiếu
trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; vụ án oan của ông Nguyễn Thanh
Chấn ở Bắc Giang, căn cứ vào kết quả điều tra của CQĐT VKSNDTC, Viện
52
trưởng VKSNDTC đã quyết định kháng nghị, trả tự do cho ông Nguyễn
Thanh Chấn sau hơn 10 năm bị giam giữ, thi hành án phạt tù oan về tội “Giết
người”, Cơ quan điều tra đã khởi tố hung thủ thực sự thực hiện hành vi giết
người là Lý Nguyễn Chung về tội “Giết người”, đồng thời, khởi tố bị can đối
với các cán bộ tiến hành tố tụng đã gây ra oan sai cho ông Nguyễn Thanh
Chấn gồm: Trần Nhật Luật-Điều tra viên thụ lý chính, Đặng Thế Vinh – Kiểm
sát viên kiểm sát điều tra vụ án về tội “Làm sai lệch hồ sơ vụ án”, Phạm Tuấn
Chiêm-thẩm phán về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; vụ
án Vũ Ngọc Dương bị các cơ quan tiến hành tố tụng hai cấp của thành phố Hà
Nội điều tra, truy tố, xét xử oan sai với mức án 30 tháng tù giam. Căn cứ kết
quả điều tra của CQĐT VKSNDTC, Công an thành phố Hà Nội đã phải đình
chỉ vụ án, đình chỉ bị can đối với Vũ Ngọc Dương [10].
Như vậy, với tổ chức, bộ máy nhân sự số lượng ít, chưa đáp ứng được
khối lượng công việc khổng lồ của CQĐT VKSNDTC hiện tại. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy, CQĐT VKSNDTC đã phát huy rất tốt vai trò của mình, góp
phần đấu tranh, đẩy lùi tội phạm, đặc biệt là tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp, tham nhũng, chức vụ, là một trong những loại tội rất khó phát hiện, giải
quyết bởi tính chất, đặc thù của nó.
2.1.3. Về đặc thù loại tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Theo quy định Điều 20 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Điều 163
BLTTHS năm 2015 và Điều 30 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm
2015, CQĐT VKSNDTC có thẩm quyền tiến hành điều tra tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt
động tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức
thuộc CQĐT, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm
quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét
53
xử của Tòa án nhân dân.
- Về tội phạm (hành vi khách quan): CQĐT VKSNDTC chỉ có thẩm
quyền điều tra các loại tội thuộc quy định tại 02 Chương XXIII và XXIV Bộ
luật Hình sự năm 2015. Đó là:
+ Nhóm tội phạm về chức vụ quy định tại Chương XXIII Bộ luật Hình
sự năm 2015: Nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung, các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng trong tình hình
mới, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và yêu cầu thực tiễn đặt ra, Bộ
luật Hình sự năm 2015 đã quy định 14 tội trong nhóm tội này (từ Điều 352
đến Điều 366). Theo đó, tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm
hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong
khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ. Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do
bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không
hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn
nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ [31]. Tội phạm chức vụ là
loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm của loại tội
phạm này thể hiện ở chỗ nó làm phương hại đến lợi ích quốc gia, đến sự thụ
hưởng các quyền và lợi ích của người nghèo, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
sự gia tăng những bất công trong xã hội, làm xói mòn niềm tin của người dân
đối với Đảng và Nhà nước.
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã cơ bản thể chế hóa được những quan
điểm, chủ trương đổi mới của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình
sự, cải cách tư pháp, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 theo
hướng nâng cao tính nhân đạo, bảo đảm xử lý nghiêm minh các hành vi xâm
phạm quyền con người; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức, đề
cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội,
tạo điều kiện thuận lợi để người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng, góp phần
bảo vệ môi trường sống yên bình cho người dân, khuyến khích mọi tầng lớp
54
nhân dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, phát triển kinh tế, xã hội.
+ Nhóm tội xâm phạm hoạt động tư pháp quy định tại Chương XXIV
Bộ luật Hình sự năm 2015: Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung tất
cả 23 điều trong Chương XXII của Bộ luật Hình sự năm 1999 và bổ sung mới
02 điều, tạo thành Chương XXIV - các tội xâm phạm hoạt động tư pháp gồm,
25 điều (từ Điều 367 đến Điều 391) [30]. Tội xâm phạm hoạt động tư pháp là
những hành vi xâm phạm sự đúng đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án
(Điều 367 Bộ luật hình sự năm 2015) [30]. Hoạt động tố tụng là quá trình
(trình tự) giải quyết vụ án, vụ việc ở các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính
- lao động - kinh doanh thương mại… bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội, mọi công dân góp phần vào việc giải quyết vụ
án, vụ việc theo quy định của pháp luật.
- Về chủ thể tội phạm: người có hành vi phạm các tội thuộc thẩm quyền
điều tra của CQĐT VKSNDTC là cán bộ, công chức thuộc CQĐT, Tòa án,
Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động
tư pháp. Mặt khác, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng đối tượng tham gia hoạt
động tố tụng, là các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra như Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư, Cảnh sát biển, Bộ đội biên
phòng, các cơ quan khác của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như (Công an phường, xã, Cảnh
sát giao thông) hoặc Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Chấp hành viên… đang
xác minh, thu thập chứng cứ để phục vụ công tác xét xử vụ án dân sự, hành
chính để thi hành án mà bị người khác xâm phạm vào hoạt động đúng đắn của
các cơ quan này thì người có hành vi xâm phạm đó đều trở thành chủ thể của
tội phạm.
Theo đó, các chủ thể của tội phạm này như đã phân tích ở phần trước ta
55
thấy bao gồm: người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tại các cơ quan tiến
hành tố tụng; người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
trong các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
cán bộ, công chức trong các cơ quan này được giao nhiệm vụ nhất định như:
Chuyên viên Viện kiểm sát, cán bộ văn phòng, văn thư; cán bộ, công chức
trong cơ quan thi hành án; ngay cả những người có thẩm quyền tiến hành hoạt
động tư pháp không thường xuyên, vụ việc, như: Hội thẩm nhân dân tham gia
Hội đồng xét xử…; người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khác
như: Công an xã, Cảnh sát hộ trợ tư pháp, cán bộ công tác tại Nhà tạm giữ,
Giám thị trại giam… hoặc tội danh này được tính trong cả giai đoạn áp dụng
các biện pháp cưỡng chế hành chính như: đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở
bắt buộc, cai nghiện… hoặc Chuyên viên giám định, định giá tài sản, phiên
dịch, dịch thuận… thậm chí người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho đương sự cũng có thể là chủ thể của tội phạm này.
Thời gian gần đây, CQĐT VKSNDTC đã tiến hành khởi tố, bắt tạm
giam với nhiều đối tượng bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội thuộc nhóm
tội xâm phạm hoạt động tư pháp, tội tham nhũng, chức vụ [10]. Trong các vụ
án này, đối tượng phạm tội lại từng là người tiến hành tố tụng, tham gia giải
quyết vụ án, là người cầm cân nảy mực, góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Là những đối
tượng hiểu biết rõ pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, tố tụng hình sự.
Nhưng bởi lý do khách quan, chủ quan mà họ đã làm trái quy định Nhà nước,
xâm phạm tới hoạt động đúng đắn của Nhà nước, ảnh hưởng tới danh dự, uy
tín của ngành, của địa phương.
Các hành vi phạm tội thường tập trung ở các tội: Tội lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản ví dụ hành vi cán bộ quản giáo đưa điện thoại
cho phạm nhân liên lạc với bên ngoài rồi thu tiền, Chấp hành viên cơ quan
56
Thi hành án dân sự thu tiền thi hành án nhưng không viết phiếu thu, không
nộp vào quỹ cơ quan, chiếm đoạt sử dụng cá nhân; Tội thiếu trách nhiệm để
người bị bắt, ngời bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù
trốn, loại tội này thường xảy ra ở Trại Tạm giam; Tội nhận hối lộ… Thậm
chí, có những đối tượng đã thực hiện hành vi phạm tội để lại hậu quả rất
nghiêm trọng. Ví dụ: Ngày 08/9/2017, bị can Võ Tấn Minh, sinh năm 1992,
trú tại phường Tấn Tài, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận,
bị khởi tố về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, được chuyển từ Trại
tạm giam Công an tỉnh Ninh Thuận về Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan
Rang - Tháp Chàm thì Võ Tấn Minh bị 05 cán bộ trên có hành vi dùng nhục
hình. Đến khoảng 16h10’ cùng ngày, phát hiện Minh ngất xỉu nên cán bộ
Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm đưa Minh đến Bệnh viện tỉnh Ninh
Thuận để cấp cứu nhưng xác định Minh đã chết. Ngày 24/11/2017, CQĐT
VKSNDTC đã ra Quyết định khởi tố bị can đối với 05 đối tượng nguyên là
cán bộ Đội Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an thành phố
Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận [10].
Hoặc, họ còn móc nối với những đối tượng đang có tiền án, tiền sự,
đang chấp hành án khác để thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ như: Trong khi
được giao nhiệm vụ tuần tra, canh gác Trại tạm giam Công an tỉnh Bình
Thuận, Lê Minh Sơn đã đưa điện thoại di động cho một số bị can đang bị tạm
giam để gọi ra ngoài cho gia đình và người thân. Từ ngày 28/4/2019 đến ngày
29/6/2019, Sơn đã cho các bị can gọi điện thoại nhiều lần, mỗi lần sử dụng
điện thoại, người thân các bị can chuyển từ 05 triệu đồng đến 15 triệu đồng
vào tài khoản của vợ Sơn với tổng số tiền 91 triệu đồng. Trong số các bị can
gọi điện thoại, có Nguyễn Viết Huy (biệt danh “Nấm độc”), bị khởi tố về tội
“Tàng trữ trái phép chất ma túy” và Nguyễn Văn Nưng, bị khởi tố về tội “Giết
người”. Lợi dụng việc gọi điện trên, Nguyễn Viết Huy và Nguyễn Văn Nưng
57
đã liên hệ với các đối tượng ở bên ngoài đưa cưa sắt vào trại giam để 02 đối
tượng cưa đứt song sắt ô thông gió buồng giam và bỏ trốn. Ngày 11/7/2019,
CQĐT VKSNDTC đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “Thiếu trách
nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án
phạt tù trốn” quy định tại khoản 3 Điều 376 Bộ luật hình sự năm 2015. Tiếp
tục đến ngày 02/8/2019, CQĐT VKSNDTC tống đạt quyết định khởi tố bị can
và thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Lê Minh Sơn, sinh năm 1985,
nguyên Cán bộ Đội cảnh sát bảo vệ Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Thuận
để điều tra về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo quy
định tại khoản 2 Điều 355 Bộ luật hình sự năm 2015 [10].
Một đặc điểm chung khi nói đến chủ thể tội phạm thuộc thẩm quyền
điều tra của CQĐT VKSNDTC đó là đều hiểu biết pháp luật, đặc biệt là pháp
luật hình sự, tố tụng hình sự, có trình độ học vấn, pháp lý nhất định. Tuy nhiên,
không vì thế mà khi điều tra, người tiến hành tố tụng chủ quan, không thực
hiện theo đúng quy định của BLTTHS, dù là quy định nhỏ nhất như: giải thích
quyền và nghĩa vụ khi tiến hành hoạt động điều tra, giao các quyết định tố tụng
cho người bị buộc tôi, thông báo cho gia đình khi áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, cưỡng chế…, dẫn đến ảnh hưởng tới quyền con người của họ.
2.2. Kết quả, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong bảo đảm quyền
con ngƣời tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao từ năm 2013 đến nay
2.2.1. Kết quả bảo đảm quyền con người
Theo báo cáo, đánh giá CQĐT VKSNDTC từ năm 2013 đến năm 2018
về tình hình vi phạm và tội xâm phạm hoạt động tư pháp tiếp tục gia tăng và
có những diễn biến phức tạp, hàng năm CQĐT VKSNDTC thụ lý số lượng
lớn thông tin về vi phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp [10]. Hành
vi vi phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp được thể hiện ở các giai
58
đoạn tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và thi hành án [10]. Tội phạm xâm phạm
hoạt động tư pháp mà chủ thể tội phạm do cán bộ, nhân viên tư pháp thực
hiện xảy ra nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng gây dư luận bức xúc, nhiều vụ giải
quyết kéo dài… Hậu quả của hành vi vi phạm và tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp do các chủ thể là cán bộ, nhân viên tư pháp trong các CQĐT,
VKSND, Tòa án nhân dân và cơ quan thi hành án gây ra đã để lại những hậu
quả nghiêm trọng cho xã hội, và ảnh hưởng sâu sắc đến uy tín, sức mạnh, tính
minh bạch trong hoạt động tư pháp nói riêng và hoạt động của cơ quan Nhà
nước nói chung; làm suy giảm sức mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm
ngày càng phức tạp hiện nay.
Kết quả hoạt động thực tiễn của CQĐT VKSNDTC từ năm 2013 đến
năm 2018 được đánh giá qua các bảng phân tích dưới đây:
Bảng 2.1: Bảng phân tích số liệu tiếp nhận, phân loại và giải quyết thông
tin về vi phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp (từ năm 2013 đến
năm 2018)
Năm
Tổng số tin tiếp nhận Đã xác minh giải quyết Tỷ lệ đạt (%)
Phân loại thuộc thẩm quyền 102 1151 940 81,7% 2013
1435 1250 87,1% 96 2014
1537 1296 84,3% 133 2015
1508 1361 90,3% 135 2016
1714 1499 87,5% 128 2017
1930 1683 87,2% 115 2018
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2013-2018 của CQĐT Viện kiểm sát nhân
dân tối cao) [10]
Như vậy, từ bảng số liệu 2.1 có thể thấy các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp đã được xác minh và đưa ra giải quyết qua các năm không đồng đều với
59
nhau. Có những năm việc giải quyết vụ án về các tội xâm phạm hoạt động tư
pháp chiếm tỷ lệ cao. Trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2018 tổng số tin
báo CQĐT VKSNDTC tiếp nhận là 9.275 tin báo, trong đó số tin báo thuộc
thẩm quyền giải quyết của CQĐT VKSNDTC là 709 tin báo chiếm tỉ lệ 7.6%
tổng số tin báo đã tiếp nhận, kết quả xác minh tin báo đúng hạn tổng giai đoạn
là 8.028 chiếm tỉ lệ 86.5% tổng số tin báo đã tiếp nhận. Nhìn chung trong toàn
giai đoạn số tin báo tiếp nhận và giải quyết đều tăng cao. Từ 1.151 tin báo
năm 2013 lên 1.930 vụ trong năm 2018. Như vậy tăng 1,7 lần trong 6 năm.
Trong tổng số các vụ án được đưa ra xử lý, giải quyết, các hình thức giải
quyết vụ án (như quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án
hay quyết định chuyển cơ quan có thẩm quyền xét xử) qua các năm không
giống nhau. Quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra viện kiểm
sát nhân dân tối cao chiếm chủ yếu trong các hình thức giải quyết vụ án nêu
trên. Bảng số liệu sau đây sẽ cho thấy điều đó:
Bảng 2.2: Bảng phân tích số liệu kết quả giải quyết thông tin về vi phạm và
tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp (từ năm 2013 đến năm 2018)
Năm
Đã giải quyết
Tiếp tục theo dõi
Khởi tố vụ án hình sự
Thông tin thụ lý thuộc thẩm quyền Không khởi tố vụ án hình sự
Hình thức giải quyết Chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý 8 78 141 130 11 33 2013
107 99 58 4 8 29 2014
141 129 75 9 15 30 2015
147 137 77 11 19 30 2016
150 141 79 3 36 23 2017
143 131 76 1 29 25 2018
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2013-2018 của CQĐT Viện kiểm sát nhân
60
dân tối cao) [10]
Như vậy, qua bảng 2.2 ta thấy, trong các hình thức giải quyết vụ án nêu
trên thì quyết định không khởi tố vụ án chiếm tỷ lệ cao so với các hình thức
khác. Trong giai đoạn 2013 – 2018 số thông tin tội phạm thuộc thẩm quyền
giải quyết của CQĐT VKSNDTC giải quyết là 829 thông tin, số thông tin giải
quyết trong giai đoạn tăng giảm không đều, nhưng nhìn chung có xu hướng
tăng. Trong số nguồn tin về tội phạm đã thụ lý giải quyết, số vụ khởi tố vụ án
là 170 vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC. Như vậy tỉ lệ
khởi tố vụ án chiếm tỉ lệ 20.5% tổng số nguồn tin đã giải quyết, kết quả này
so với kết quả khởi tố của các CQĐT khác là không cao, bởi lẽ các CQĐT
khác đều khởi tố với tỉ lệ 80-90 tổng số tin báo, tố giác đã thụ lý. Trong tổng
giai đoạn nhìn chung số vụ án khởi tố tăng giảm không đều, xu hướng chung
trong giai đoạn là giảm dần từ 33 vụ năm 2013 xuống còn 25 vụ năm 2018.
Số vụ việc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự là 443 vụ việc, chiếm tỉ
lệ 53.4% tổng số nguồn tin tội phạm đã thụ lý giải quyết. Số vụ việc chuyển
cơ quan điều tra có thẩm quyền để giải quyết theo thủ tục chung là 36 vụ việc
chiếm tỉ lệ 4.3% nguồn tin. Số vụ việc tiếp tục theo dõi là 118 vụ việc, chiếm
tỉ lệ 14.2% tổng số nguồn tin. Như vậy, trong tổng số các vụ án được thụ lý và
giải quyết thì số vụ án không khởi tố của CQĐT VKSNDTC chiếm tỷ lệ cao
hơn so với số vụ án được đưa ra khởi tố.
Trên đây là kết quả khởi tố điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều
tra VKSNDTC. Trong hoạt động của mình, CQĐT VKSNDTC đã tích cực
chủ động thực hiện đúng quy định của BLTTHS về bảo đảm quyền con người
của các chủ thể trong tố tụng hình sự.
* Thực tiễn thi hành bảo đảm quyền con người thông qua các quy
định về khởi tố, điều tra vụ án hình sự
Trong những năm qua số lượng các vụ phạm tội bị phát hiện, các vụ án
61
hình sự được xử lý của các cơ quan tiến hành tố tụng ngày càng gia tăng. Từ
khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực các quy định của BLTTHS đã thực sự góp
phần là công cụ sắc bén thể hiện tinh thần tôn trọng và bảo đảm quyền con
người. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng hình
sự, người tiến hành tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra thực sự là những
đổi mới có chất lượng nhằm thiết lập được những cơ chế bảo đảm hữu hiệu
các quyền tự do, dân chủ của công dân. Việc khởi tố vụ án, có căn cứ; thời
hạn tố tụng nhìn chung được bảo đảm, ít bị vi phạm; kết thúc điều tra đề nghị
truy tố tuyệt đại đa số các trường hợp là có cơ sở…Tổng hợp thống kê báo
cáo của CQĐT VKSNDTC cho thấy, từ năm 2013 đến năm 2018, CQĐT
VKSNDTC đã khởi tố vụ án và bị can đạt kết quả như sau:
Bảng 2.3: Bảng phân tích số liệu khởi tố, thụ lý, điều tra tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
(từ năm 2013 đến năm 2018)
Trong đó ngƣời phạm tội thuộc các cơ quan
Năm
Số án thụ lý (vụ/bị can) Tòa án (Vụ/bị can) Công an (vụ/bị can)
Cơ quan thi hành án (Vụ/bị can) Đối tƣợng khác (Vụ/bị can)
8/5 12/7 7/2 25/50 20/18 Viện kiểm sát nhân dân (vụ/bị can) 3/1 2013
8/6 9/6 6/2 46/35 20/21 3/0 2014
11/7 14/14 7/1 42/46 9/4 1/0 2015
6/3 19/21 4 45/34 14/9 2/1 2016
5/5 27/24 3/3 51/50 12/14 4/4 2017
8/5 23/30 1/0 57/67 19/25 6/7 2018
(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2013-2018 của CQĐT Viện kiểm sát nhân
62
dân tối cao) [10]
Như vậy qua bảng 2.3 ta thấy, trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm
2018 tổng số vụ án và bị can mà CQĐT VKSNDTC thụ lý là 291 vụ án với
265 bị can các loại. Xét về diễn biến, cho thấy, số vụ án tăng từ 25 vụ khởi tố
năm 2013 lên 57 vụ khởi tố năm 2018, như vậy, tổng số vụ án khởi tố tăng
2,1 lần trong toàn giai đoạn, số bị can tăng từ 50 bị can bị khởi tố năm 2013
lên 67 bị can bị khởi tố năm 2018.
Xét về số đặc điểm đối tượng vụ án và bị can bị CQĐT VKSNDTC
khởi tố trong giai đoạn cho thấy số vụ và bị can thuộc lực lượng Công an là:
94 vụ với 91 bị can chiếm tỉ lệ 32.3% tổng số vụ án và 34.3% tổng số bị can
bị CQĐT VKSNDTC khởi tố trong toàn giai đoạn; Đối tượng thuộc ngành
Kiểm sát nhân dân bị khởi tố gồm 19 vụ án và 13 bị can chiếm tỉ lệ 6.5% vụ
án và 8.6% tổng số bị can bị CQĐT VKSNDTC khởi tố trong giai đoạn; số bị
cáo thuộc ngành Tòa án bị khởi tố là: 46 vụ án chiếm tỉ lệ 15.8% tổng số vụ
án đã khởi tố và 46 bị can chiếm 23.3% tổng số bị can đã khởi tố; số bị can
thuộc Cơ quan thi hành án là 114 vụ án chiếm tỉ lệ 39.1% tổng số vụ án và
102 bị can chiếm tỉ lệ 38.4%. Như vậy, cho thấy tỉ lệ số vụ án và bị can thuộc
lực lượng công an và lực lượng thi hành án là chủ yếu khoảng từ 30-40% tổng
số vụ án đã khởi tố.
Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về khởi tố vụ án hình
sự, vẫn còn tồn tại điều bất cập, như: Việc quy định thời hạn kiểm tra xác
minh, tố giác, tin báo tội phạm là 20 ngày, tối đa là 02 tháng nhằm ràng buộc
trách nhiệm của CQĐT, Viện kiểm sát. Đặc thù tính chất của hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm là phải chủ động để áp dụng các biện pháp do
luật định để làm rõ có hay không có dấu hiệu tội phạm, nếu có dấu hiệu tội
phạm thì khởi tố vụ án hình sự để tiến hành các biện pháp điều tra. Tuy nhiên
trên thực tế, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp, những tin báo, tố
63
giác về tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ, có yếu tố nước ngoài, hành vi vi
phạm ở nhiều nơi, trong thời gian dài, liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều
lĩnh vực, các vụ việc bắt buộc phải trưng cầu những ý kiến chuyên môn nhất
định để đưa ra những kết luận chính xác nhất hoặc xin ý kiến chỉ đạo về sự
cần thiết khởi tố hay không do liên quan đến các yếu tố chính trị, ngoại giao
hoặc những lý do nhất định. Điều đó dẫn đến tình trạng còn nhiều vụ việc để
kéo dài, hành vi phạm tội không bị pháp luật trừng trị kịp thời, để lại một nỗi
đau cho nạn nhân khi bị đạp lên quyền con người, sống trong thù hận và sự sợ
hãi bởi tội ác gây ra.
Các vụ khởi tố điển hình do CQĐT VKSNDTC khởi tố đã tạo tiếng
vang trong dư luận, đảm bảo quyền con người của các chủ thể.
Vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn:
Ngày 05/07/2013, CQĐT VKSNDTC tiếp nhận đơn của bà Nguyễn Thị
Chiến là vợ ông Nguyễn Thanh Chấn, tố giác các cơ quan tiến hành tố tụng
tỉnh Bắc Giang đã xâm phạm hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết vụ
án giết chị Nguyễn Thị Hoan ngày 15/8/2003, kết oan cho chồng bà là ông
Nguyễn Thanh Chấn. Sau khi tiếp nhận đơn của bà Nguyễn Thị Chiến, CQĐT
VKSNDTC nhận thấy vụ việc có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp, đã tổ
chức kiểm tra, xác minh theo quy định. Kết quả điều tra thấy có đủ căn cứ xác
định người thực hiện hành vi giết chị Hoan là Lý Nguyễn Chung. Sau khi gây
án Chung đã trốn vào miền Nam sinh sống. Cơ quan điều tra đã kiên trì vận
động Lý Nguyễn Chung ra đầu thú. Cuối tháng 10/2013, Lý Nguyễn Chung ra
đầu thú. Tại CQĐT VKSNDTC sau khi được động viên, thuyết phục Lý
Nguyễn Chung đã thành khẩn khai nhận hành vi giết và cướp của chị Hoan 2
chiếc nhẫn vàng và 54.000 đồng. CQĐT đã báo cáo và đề nghị lãnh đạo
VKSNDTC kháng nghị tái thẩm vụ án trả tự do và giải oan cho ông Nguyễn
Thanh Chấn. Song song với việc điều tra làm rõ hành vi phạm tội của Lý
64
Nguyễn Chung, cơ quan điều tra cũng đã tiến hành làm rõ hành vi xâm phạm
hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án dẫn đến việc ông Chấn bị
oan. Kết quả điều tra đã chứng minh nguyên nhân dẫn đến việc ông Chấn bị
kết tội oan là do trong quá trình điều tra vụ án trên, ông Trần Nhật Luật -
nguyên Phó trưởng công an huyện Việt Yên, người trực tiếp điều tra vụ án và
ông Đặng Thế Vinh – kiểm sát viên, trực tiếp thực hành quyền công tố kiểm
sát điều tra vụ án đã làm sai lệch hồ sơ vụ án.
Trên cơ sở đó, CQĐT VKSNDTC đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi
tố bị can, bắt tạm giam đối với ông Trần Nhật Luật và ông Đặng Thế Vinh để
điều tra và xử lý theo quy định pháp luật. Quá trình điều tra khai thác mở rộng
ngày 01/10/2014, CQĐT đã ra quyết định khởi tố bị can đối với ông Phạm
Tuấn Chiêm, nguyên thẩm phán TAND tối cao, chủ tọa phiên tòa xét xử phúc
thẩm đối với ông Chấn về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
theo quy định tại điều 285 Bộ luật Hình sự. Kết quả điều tra nếu đủ căn cứ
chứng minh đã phạm tội thì sẽ khởi tố, điều tra để xử lý nghiêm minh.
Vụ nhận hối lộ, xảy ra tại Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm tỉnh
Hà Nam
Năm 2008, y ban nhân dân tỉnh Hà Nam phê duyệt dự án hạng mục
công trình tuyến đường sơ tán cứu hộ dân kết hợp đê chắn nước núi tại xã
Thanh Nghị, huyện Thanh Liêm. Ban giải phóng mặt bằng của huyện đã
thành lập tổ kiểm kê, bồi thường, trong đó có Đỗ Đức Tuân. Quá trình kiểm
kê tài sản, Tuân đã cấu kết với một số đối tượng kê khống một số giếng khoan
để lấy tiền chia nhau. Vụ việc sau đó bị phát giác, cơ quan tiến hành tố tụng
huyện Thanh Liêm đã khởi tố, điều tra, truy tố Đỗ Đức Tuân và một số đối
tượng khác về tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”
theo Điều 281 Bộ luật hình sự. Ông Nguyễn Duy Hiệp khi đó là Phó chánh án
Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm được giao nhiệm vụ nghiên cứu, xét xử
65
vụ án. Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Đỗ Đức Tuân đã nhờ người quen đặt
vấn đề với ông Hiệp giúp đỡ Tuân. Ông Hiệp hướng dẫn Tuân về bàn với gia
đình thu xếp 80 triệu đồng và một số giấy tờ, đơn liên quan đến gia đình
chính sách nếu muốn được xét xử ở mức án thấp nhất. Sau đó, Tuân và người
nhà Tuân đã mang số tiền trên đến trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm
đưa cho ông Hiệp.
Quá trình nghiên cứu vụ án, Nguyễn Duy Hiệp thấy việc truy tố Tuân
theo khoản 2 điều 281 Bộ luật hình sự là hơi nặng, chứng cứ buộc tội đối với
2 bị can khác chưa đảm bảo nên đã trả hồ sơ cho Viện KSND huyện Thanh
Liêm yêu cầu điều tra bổ sung. Tháng 6/ 2013, khi Tòa án nhân dân huyện
triệu tập Tuân, Nguyễn Duy Hiệp đã đề nghị Tuân chuẩn bị thêm 170 triệu
đồng sẽ xử cho mức án treo, song gia đình anh này chỉ lo được khoảng 155
triệu đồng. Đến ngày 12/06/2014, khi đưa vụ án ra xét xử lưu động, hội đồng
xét xử đã tuyên phạt Tuân 12 tháng tù giam. Bức xúc và cho rằng bị lừa, gia
đình Tuân đã nhiều lần đến đòi tiền và ông Hiệp đồng ý trả lại. Sáng ngày
30/06/2014, Hiệp trả lại Tuân 185 triệu đồng tại Tòa án nhân dân huyện
Thanh Liêm và ngay sau đó số tiền này đã được nộp cho cơ quan điều tra. Số
tiền còn lại (50 triệu đồng) Hiệp chưa trả cho gia đình Tuân vì đã sử dụng vào
việc riêng. Trên cơ sở đơn tố cáo của ông Đỗ Minh Tý (bố Tuân), CQĐT
VKSNDTC đã xác minh và tiến hành bắt, khám xét khẩn cấp đối với Nguyễn
Duy Hiệp về hành vi “Nhận hối lộ”. Quá trình điều tra, Nguyễn Duy Hiệp đã
khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị can phù hợp với
lời khai của nhân chứng và những người liên quan, phù hợp với tài liệu chứng
cứ cũng như vật chứng đã thu thập [10].
Vụ án dùng nhục hình, xảy ra tại Công an thành phố Nha Trang
tỉnh Khánh Hòa:
Từ cuối tháng 9 năm 2009, bà Trần Thị Lan sinh năm 1970 ở xã Suối
Hiệp, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa nhận giúp việc cho gia đình anh Võ
66
Hà Trang ở 9B Hải Thượng Lãn Ông, thành phố Nha Trang. Ngày 28/11/2010,
anh Trang đến Công an thành phố Nha Trang trình báo về việc gia đình anh bị
mất trộm 7 triệu đồng và 1.750USD và nghi ngờ bà Lan lấy trộm. Đội Cảnh sát
điều tra án hình sự về trật tự xã hội Công an thành phố Nha Trang tiếp nhận tin
báo và phân công Trần Bá Tuấn - điều tra viên, Nguyễn Đình Quyết - cán bộ
trinh sát xác minh tin báo. Khoảng 10h ngày 28/11/2010, Tuấn và Quyết đưa
bà Lan đến nơi ở trọ để lục soát và lập biên bản thu giữ một số tư trang quần
áo, mỹ phẩm, sau đó đưa bà Lan vào phòng làm việc trên tầng 2 trụ sở Công an
thành phố Nha Trang để yêu cầu bà Lan khai báo việc trộm cắp tài sản. Trong
khoảng thời gian từ trưa ngày 28/11 đến 17h ngày 29/11/2010, Tuấn và Quyết
đã dùng công cụ hỗ trợ là gậy cao su, dùi cui điện do ngành công an trang bị để
đánh đạp, chích điện nhiều lần vào tay, chân, vai bà Lan để ép bà Lan khai
nhận hành vi trộm cắp tiền của gia đình anh Trang. Do bị đánh đau, bà Lan
buộc phải khai nhận có trộm số tiền trên của gia đình anh Trang, khoảng 17h
ngày 29/11/2010, Tuấn và Nguyễn Duy Đông (là cán bộ Công an thành phố
Nha Trang) đưa bà Lan đến Công an phường Vạn Thắng để Cơ quan cảnh sát
điều tra Công an thành phố Nha Trang thực hiện lệnh bắt khẩn cấp và quyết
định tạm giữ đối với bà Lan, đồng thời soạn sẵn biên bản giao nhận người bị
bắt, xác nhận bà Lan tình trạng sức khỏe bình thường. Ngày 30/11/2010, bà
Lan bị ngất xỉu tại nhà tạm giữ nên đã được đưa vào Bệnh viện Đa khoa Khánh
Hòa cấp cứu và điều trị, đến ngày 7/12/2010 thì xuất viện. Theo kết luận của
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, bà Lan bị “đa chấn thương”, trong đó có
nhiều vết thương ở vùng đùi, tay, ngực… [10]
CQĐT VKSNDTC đã vào cuộc, xác minh và quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can và tiến hành điều tra đối với Trần Bá Tuấn, Nguyễn Đình
Quyết về tội Dùng nhục hình theo quy định tại điều 298 Bộ luật hình sự, kết
thúc điều tra, chuyển hồ sơ đến Vụ 1A Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị
67
truy tố Trần Bá Tuấn, Nguyễn Đình Quyết về tội danh trên.
* Thực tiễn thi hành bảo đảm quyền con người thông qua các quy
định về biện pháp điều tra
Đi tìm số liệu về các vi phạm của CQĐT trong việc áp dụng các biện
pháp điều tra trong quá trình điều tra các vụ án hình sự là một thực tế hết sức
khó khăn và tế nhị, các CQĐT không công khai đưa ra những số liệu, thông
tin phản ánh những sai phạm của cơ quan mình dẫn đến việc vi phạm quyền
con người, bởi dễ dẫn đến quy kết trách nhiệm về phần mình trong việc vi
phạm, nên việc đánh giá cũng ở trong một phạm vi thông tin hẹp hoặc do các
cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, giám sát.
Trước hết phải thấy rằng, tình trạng bức cung, dụ cung, dùng nhục hình
trong hoạt động điều tra vẫn còn xảy ra. Thực tiễn cho thấy, trong các vụ án
bị cáo bị kết tội oan thì ở mức độ nhiều hay ít thì họ đều bị truy bức hoặc
dùng nhục hình để buộc phải nhận tội.
Theo số liệu thống kê của Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông
tin VKSNDTC, từ năm 2013 đến năm 2018, có thể thấy, số lượng tin báo, tố
giác về tội phạm bức cung, dùng nhục hình trong những năm gần đây xu
hướng ngày càng giảm [10]. Tuy nhiên, tỷ lệ số vụ án và số bị can bị khởi tố,
điều tra so với số vụ việc thụ lý để xem xét, giải quyết về tội dùng nhục hình
lại cao hơn những năm trước [10].
Về Tội bức cung, điều đáng chú ý là, theo số liệu thống kê của Cục
Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin và của Cục điều tra tội phạm
thuộc VKSNDTC, thì trong những năm qua mặc dù có những tin báo, tố giác
về tội phạm liên quan đến hành vi bức cung nhưng CQĐT VKSNDTC chưa
khởi tố, điều tra vụ án nào về tội này. Về Tội dùng nhục hình, mặc dù một số
vụ việc đã được xem xét, khởi tố, điều tra nhưng số vụ việc được khởi tố chưa
phản ánh được đầy đủ tình hình thực tế [10]. Thực tiễn cho thấy, nhiều vụ án,
68
bị cáo khai tại phiên tòa là do bị bức cung, nhục hình nên phải khai không
đúng sự thật tại CQĐT và xin khai lại với nội dung hoàn toàn khác nhưng
thường bị bác đi với lý do “không có chứng cứ để chứng minh điều đó” [10].
Đây là vấn đề rất đáng quan tâm để xem xét, giải quyết.
* Việc bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra
tại Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Từ năm 2013 đến 2018, CQĐT VKSNDTC đã thực hiện tốt nhiệm vụ bảo
đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra. Thể hiện trên các nội dung sau:
Trong những năm qua, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, CQĐT
VKSNDTC đã cấp chứng nhận bào chữa, đăng ký bào chữa cho 100% trường
hợp bị can bị khởi tố có yêu cầu hoặc được chỉ định người bào chữa [10].
Quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra là một trong những quyền cơ
bản của người bị tạm giữ và bị can. Đó là quyền mà người bị tạm giữ và bị can
tự mình hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình nhằm chứng minh cho sự vô
tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp
pháp khác trong quá trình tố tố tụng hình sự. Trách nhiệm bảo đảm quyền bào
chữa trong giai đoạn điều tra chủ yếu thuộc về phía CQĐT. Để bảo đảm quyền
bào chữa, CQĐT phải tạo những điều kiện cho người bị buộc tội tự mình hoặc
nhờ người khác thực hiện quyền bào chữa. Thời gian qua, CQĐT VKSNDTC
đều có những hoạt động đảm bảo thực hiện các quyền này. Tuy nhiên, quá
trình thực hiện vẫn còn có những tồn tại nhất định. Do nhận thức pháp luật của
một số người còn hạn chế và yếu tố tâm lý e ngại, nên thực tế những người này
không dám thực hiện quyền tự bào chữa cho mình. Có thể họ cho rằng tự bào
chữa rất dễ bị cho là ngoan cố, chống đối, không thành khẩn khai báo và dễ bị
mất đi tình tiết giảm nhẹ. Vì vậy, việc bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra rất khó thực hiện. Để bào chữa cho
mình người bị tạm giữ và bị can thường phải nhờ người khác như: luật sư, bào
69
chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp.
Hoạt động của người bào chữa không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức mà còn góp phần tăng cường thiết chế pháp luật xã
hội chủ nghĩa, làm cho mọi người hiểu và hành động theo đúng quy định của
pháp luật góp phần giữ vững ổn định xã hội, tăng niềm tin của nhân dân vào
Đảng, Nhà nước. Ngoài ra, thông qua việc bào chữa cho người bị buộc tội để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình, người bào chữa đã
lồng ghép tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật cho người dân và khẳng
định vai trò ngày càng quan trọng của người bào chữa trong tiến trình cải cách
tư pháp của Nhà nước ta hiện nay.
CQĐT VKSNDTC đã tạo điều kiện cho các đương sự bảo đảm quyền
lợi của mình trong giai đoạn điều tra, kịp thời hủy bỏ các quyết định trái pháp
luật, xâm phạm quyền con người của bị can.
Đối với việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, trong số các biện pháp mà
BLTTHS quy định, thì biện pháp tạm giữ, tạm giam là các biện pháp cách ly
tạm thời người bị buộc tội ra khỏi đời sống xã hội. Do đó, nếu việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn này không đúng người, không đúng hành vi, không
đúng trình tự, thủ tục sẽ xâm phạm nghiêm trọng quyền con người của người
bị tình nghi phạm tội. Có thể nói, CQĐT VKSNDTC đã thực hiện tuân thủ
chặt chẽ, hạn chế việc bắt khẩn cấp, hủy nhiều quyết định tạm giữ, góp phần
bảo đảm việc bắt, tạm giữ, tạm giam đúng pháp luật.
Quá trình khởi tố, điều tra các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp,
CQĐT VKSNDTC đã tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, đảm bảo
việc điều tra và lập hồ sơ xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Không có vụ án nào phải đình
chỉ điều tra vì bị can không phạm tội hoặc đã đề nghị truy tố mà Tòa án tuyên
bị cáo không phạm tội. Không có vụ án nào bị hủy án để điều tra lại. Số vụ án
70
phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung chiếm tỷ lệ thấp. Trong đó, đã phát hiện,
điều tra làm rõ, xử lý nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, được dư
luận quan tâm.
* Thực tế các điều kiện cơ sở, kỹ thuật, hậu cần đối với hoạt động tố
tụng nhằm bảo đảm quyền con người
Kết quả công tác thực hiện đảm bảo quyền con người trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự của cả nước nói chung và của CQĐT VKSNDTC cần
phải đảm bảo sự đồng bộ và chặt chẽ đến từ công tác đảm bảo hậu cần, kỹ
thuật đối với hoạt động tố tụng. Trong những năm vừa qua, trụ sở CQĐT
VKSNDTC và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều được tăng cường cơ sở vật
chất, trang thiết bị, nhân lực để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn
của mình đặc biệt bảo đảm tốt quyền con người trong tố tụng hình sự.
CQĐT VKSNDTC là đơn vị trực thuộc bộ máy làm việc VKSNDTC.
Mọi hoạt động của CQĐT phải tuân thủ quy định của pháp luật, quy định của
Ngành. Công chức thuộc Cơ quan điều tra phải thực hiện đúng phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn.
Ngày 18/4/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh thành lập
VKSNDTC, trong đó có Vụ Điều tra thẩm cứu, đánh dấu sự hình thành tổ
chức CQĐT ngành Kiểm sát nhân dân được thành lập. Trải qua 55 năm xây
dựng và phát triển, kết quả công tác của CQĐT ngành Kiểm sát nhân dân đã
góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối
với ngành Kiểm sát nhân dân; tạo điều kiện cho Viện kiểm sát thực hiện tốt
hơn chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; đảm
bảo yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời góp phần giải quyết
dứt điểm khiếu kiện kéo dài của công dân đối với những vi phạm của cán bộ
các cơ quan tư pháp; chứng minh, làm rõ được nội dung vụ việc, tạo điều kiện
cho các cá nhân, cơ quan đơn vị có cán bộ vi phạm khắc phục những hạn chế,
thiếu sót, yên tâm công tác, tránh những nghi ngờ không đáng có trong nội
71
bộ, nhằm xây dựng các cơ quan tư pháp ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Được sự quan tâm của VKSNDTC, trụ sở của CQĐT đã được đầu tư
nâng cấp và được trang bị đầy đủ thiết bị kỹ thuật, hệ thống máy vi tính cơ
bản phục vụ tốt nhu cầu của nhiệm vụ trong tình hình mới. Như vậy, về cơ
bản, CQĐT VKSNDTC đã được trang bị tương đối cơ sở vật chất, trang thiết
bị phục vụ công tác hoạt động điều tra cũng như đảm bảo quyền con người
trong tố tụng hình sự.
2.2.2. Hạn chế bảo đảm quyền con người trong hoạt động điều tra của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Thứ nhất, dù các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp trong 5 năm qua
không có những biến động đột biến về số lượng nhưng tính chất phức tạp của
các vụ án không hề giảm, đặc biệt là những đối tượng phạm tội có chức vụ,
quyền hạn trong các cơ quan tư pháp có xu hướng gia tăng đặc biệt là các đối
tượng có thâm niên công tác lâu năm, nắm rõ các quy định của pháp luật.
Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động giải quyết loại án này bởi trong
quá trình điều tra việc tìm ra được các chứng cứ chứng minh tội phạm của
những đối tượng này thường gặp khó khăn. Chính bản thân người bị buộc tôi
không chỉ vận dụng các thao tác nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cũng như
điều kiện làm việc của mình để che giấu tội phạm mà họ còn lợi dụng các mối
quan hệ để tìm hiểu, cập nhật tiến trình điều tra và tìm cách đối phó, ngăn cản
hoạt động điều tra. Trong quá trình điều tra vụ án, người bị buộc tội thường
có thái độ ngoan cố, không hợp tác với CQĐT, do họ từng là những chủ thể
tiến hành tố tụng, am hiểu pháp luật nên có khả năng che giấu tội phạm của
mình cũng như dựa vào các mối quan hệ trong công tác, vào sự "giúp đỡ" của
những người có thẩm quyền tác động để xử lý "nội bộ". Ngoài ra, vấn đề để
các cấp ủy Đảng, chính quyền, đơn vị chủ quản nơi người phạm tội công tác
xóa bỏ tư tưởng bao che, sợ mất uy tín, chạy theo thành tích, sợ ảnh hưởng
đến địa phương, đơn vị cũng là một khó khăn thường gặp phải trong quá trình
72
giải quyết vụ án.
Thứ hai, thực tiễn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự nước ta còn tồn
tại tình trạng CQĐT VKSNDTC, Viện kiểm sát vi phạm quyền con người của
bị can. Một số Điều tra viên, Kiểm sát viên có xu hướng chủ quan, suy diễn
đối với người bị tố giác, định kiến đối với người bị bắt, tạm giữ, bị can, cho
rằng bi can là người đã bi khởi tố về hình sự thì đương nhiên là có tội nên
quá trình điều tra chỉ chú trọng vào việc thu thập chứng cứ buộc tội; không
chú trọng thu thập, đánh giá, củng cố chứng cứ gỡ tội. Tâm lý này dễ dẫn đến
tình trạng mớm cung, bức cung, nhục hình, ép bị can phải nhận tội, thậm chí
có trường hợp còn không tiến hành hỏi cung bi can mà kết luận điều tra dựa
trên biên bản hỏi cung không phản ánh khách quan, toàn diện nội dung, diễn
biến hành vi phạm tội của bị can.
Thứ ba, vi phạm quyền con người trong hoạt động áp dụng biện pháp
ngăn chặn.
BLTTHS quy định rất đầy đủ, cụ thể các căn cứ áp dụng biện pháp
ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam cũng như các trường hợp trả tự do cho
người đã bị bắt, tạm giữ, tạm giam. Có nhiều căn cứ trả tự do cho người đã bị
bắt, tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên các trường hợp trả tự do chỉ thuộc một
trong hai nguyên nhân: một là, trả tự do khi không cần tiếp tục áp dụng biện
pháp tạm giữ, tạm giam và trả tự do khi đã bắt, tạm giữ, tạm giam không có,
không đủ căn cứ, không cần thiết; hai là phản ánh sai phạm của CQĐT, Viện
kiểm sát trong việc áp dụng, phê chuẩn áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam. Số liệu thống kê tư pháp cho thấy hàng năm đang có số lượng lớn
người bị bắt, tạm giữ, tạm giam được trả tự do. Ngoài ra, tình trạng vi phạm
quyền con người dưới hình thức vi phạm thời hạn giữ người, bắt, tạm giữ
người còn tồn tại. Theo quy định của BLTTHS, nếu hết thời hạn này thì
CQĐT có thẩm quyền có thể ra quyết định gia hạn tạm giữ hoặc chuyển sang
73
tạm giam hoặc phải trả tự do cho người bị tạm giữ. Tuy nhiên, nhiều đương
sự đã bị giữ, bị bắt, tạm giữ tại CQĐT dưới hình thức câu lưu, “tự nguyện ở
lại CQĐT để phục vụ điều tra”.
Tình trạng giữ người, bắt người, tạm giữ, tạm giam khi không cần thiết,
tạm giữ, tạm giam quá hạn, kéo dài do phải trả hồ sơ điều tra bổ sung đã và
đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và tâm lý của người bị
giam, giữ [10]. CQĐT và Viện kiểm sát đều có trách nhiệm trong vi phạm
giam, giữ người.
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, vướng mắc trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Có thể nhận thấy các quy định của BLTTHS về quyền con người,
quyền công dân tương đối đầy đủ. Trong BLTTHS hiện hành đã có rất nhiều
nguyên tắc thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm các quyền con người trong tố
tụng hình sự. Dựa trên các nguyên tắc này, trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự, BLTTHS quy định về quyền của người tham gia tố tụng cũng như quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam, tạm giữ, người bị hại… Một số
quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng đưa ra các biện pháp nhằm bảo
đảm thực hiện các quyền đó như trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, quy định thẩm quyền trong
giai đoạn điều tra, quy định trách nhiệm đối với cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng trong trường hợp làm oan sai.
Tuy nhiên một số quy định của BLTTHS vẫn chưa đáp ứng được tốt
các yêu cầu về quyền con người như:
* Vướng mắc thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can
Khởi tố vụ án, khởi tố bị can là phản ứng của nhà nước đối với tội
phạm và hành vi phạm tội của người phạm tội, xuất phát từ yêu cầu bảo đảm
trật tự xã hội, bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra. Việc đổi mới
74
thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can cần đáp ứng đầy đủ những yêu cầu đảm
bảo mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện điều tra, xử lý kịp thời nhưng
phải bảo đảm được những quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân liên quan đến những hoạt động này của các CQĐT, Viện kiểm sát.
- Tại Điều 18 BLTTHS năm 2015 quy định “khi phát hiện có dấu hiệu
tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ
quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án” [31]. Nhưng chúng ta thấy
Tòa án chỉ có chức năng xét xử, xác định sự buộc tội của Viện kiểm sát đúng
hay không đúng với người phạm tội. Quy định cho Tòa án (Hội đồng xét xử)
này làm ảnh hưởng đến cả quá trình tố tụng, không chỉ giai đoạn chuẩn bị xét
xử (bằng việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung) mà ngay tại phiên tòa xét xử, Hội
đồng xét xử có thể hoàn toàn nghiêng về bên buộc tội.
- Tại Điều 179 BLTTHS năm 2015 quy định: “Khi có đủ căn cứ để xác
định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy
định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can” [31]. Trong
thực tế, sau khi có quyết định khởi tố bị can thì họ mới khám xét nơi ở nơi
làm việc, xem xét dấu vết trên thân thể, đối chất, nhận dạng thực nghiệm điều
tra… như vậy CQĐT chưa thể có đủ chứng cứ xác định một người đã thực
hiện hành vi phạm tội để ra quyết định khởi tố bị can.
* Địa vị tố tụng của người đại diện người buộc tội, người bào chữa của
người bị buộc tội chưa được quy định rõ ràng, cụ thể:
- Địa vị tố tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
được quy định chưa thật phù hợp làm hạn chế việc bảo đảm quyền con người
của người bị buộc tội.
Ví dụ: BLTTHS năm 2015 chưa có quy định cụ thể về chế định “người
đại diện” của người bị buộc tội (là cá nhân). Thực tiễn giải quyết vụ án hình
sự cho thấy, từ những BLTTHS trước đây, chủ thể tiến hành tố tụng chỉ viện
dẫn bằng những quy định tương thích giữa pháp luật tố tụng hình sự với Bộ
75
luật Dân sự, theo đó, người đại diện hợp pháp của người bị cáo bao gồm: cha,
mẹ, người giám hộ hoặc người do Tòa án chỉ định. Quá trình giải quyết vụ án
hình sự cho thấy có những khó khăn vướng mắc: chưa xác định được phạm vi
người đại diện bao gồm những ai; chưa xác định rõ người đại diện có những
quyền và nghĩa vụ gì (hiện tại người đại diện ngoài những quy định về quyền
rải rác ở các điều luật thì chỉ có chung quy định quyền và nghĩa vụ với người
bào chữa, còn tư cách là đại diện của cá nhân người tham gia tố tụng thì
không có) ; khó khăn trong việc lựa chọn người đại diện khi bị cáo có từ 02
người đại diện trở lên thì thủ tục tố tụng sẽ như thế nào…
Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 cũng chưa quy định thế nào là và “người
thân thích”, quyền và nghĩa vụ của họ như thế nào. Người thân thích được
quyền lựa chọn người bào chữa cho người bị buộc tội, nhưng trong các quy
định tiếp theo, khi giải quyết vụ án hình sự, lại không có quy định nào cho
phép người thân thích có quyền đại diện người bị buộc tội… Như vậy,
BLTTHS cần thiết phải bổ sung những quy định cụ thể để việc áp dụng pháp
luật được thống nhất.
- Các quy định về việc thực hiện các quyền của người tham gia tố tụng,
nhất là quyền của người bào chữa trong giai đoạn điều tra còn nhiều điểm
chưa hợp lý, mâu thuẫn với pháp luật khác.
Ví dụ: BLTTHS năm 2015 quy định người đại diện của người bị buộc
tội cũng là người bào chữa theo em là không hợp lý. Người đại diện của
người bị buộc tội nói chung sẽ chiếm số đông không am hiểu về pháp luật
hình sự và tố tụng hình sự. Nhưng Điều 10 của Luật Luật sư quy định tiêu
chuẩn luật sư “phải phải có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư,
đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư” mới được tham gia bào chữa, thì
việc quy định người bào chữa có thể là "người đại diện hợp pháp của bị can,
bị cáo” là không phù hợp.
Hoặc quy định người bào chữa đăng ký bào chữa với cơ quan tiến hành
tố tụng của BLTTHS năm 2015. Theo em, thủ tục này là cần thiết nhằm xác
76
định tư cách, điều kiện pháp lý để tham gia tố tụng của một luật sư. Để các cơ
quan tiến hành tố tụng xem xét cấp giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư
phải có các giấy tờ theo quy định tại Điều 27 của Luật Luật sư như: Thẻ luật
sư, chứng chỉ hành nghề, giấy giới thiệu của văn phòng nơi luật sư hành
nghề... Tuy nhiên, Điều 78 BLTTHS năm 2015 quy định thủ tục đăng ký bào
chữa thì Luật sư chỉ cần cung cấp 2 loại giấy tờ, bao gồm thẻ luật sư và giấy
chứng nhận cơ quan hành nghề. Như vậy, giữa hai văn bản có quy định khác
nhau này, khiến việc áp dụng cũng rất tùy nghi…
* Vướng mắc trong thực hiện quy định về quyền im lặng và quyền được
bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra
Ghi nhận đầy đủ các quyền con người trong tố tụng hình sự trên cơ sở
các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trong tố tụng hình sự. Trong luật
thực định của chúng ta cho thấy còn một số quyền con người của người bị
buộc tội chưa được ghi nhận: quyền được im lặng ở nhiều nước ngay khi cảnh
sát bắt giữ nghi phạm thì câu nói đầu tiên là “Anh được quyền giữ im lặng.
Bất cứ điều gì anh nói có thể và sẽ được sử dụng để chống lại anh trước toà
án” Có ý kiến cho rằng đa phần người bị tình nghi khi bị bắt đều kêu oan, chứ
không im lặng. Tuy nhiên, cần nhìn nhận, “kêu oan” không đồng nghĩa với
việc “không im lặng” bởi như lý giải của Trung tướng Trần Văn Độ, Chánh
án Tòa án Quân sự Trung ương, Phó Chánh án TANDTC – “quyền im lặng
chờ luật sư thực chất là quyền không khai báo cho đến khi có sự tư vấn của
luật sư”. Như vậy, sẽ tránh được cho một người việc tự buộc tội mình, thiệt
hại cho bản thân, Phó Chánh án TANDTC khẳng định về ý nghĩa của việc có
luật sư khi một người phải khai báo trước cơ quan điều tra. Do đó, bổ sung
quy định cho phép người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can được quyền im
lặng để chờ luật sư trong BLTTHS là điều kiện cần cho quyền có luật sư của
người dân được bảo đảm thực thi và cũng là bảo đảm quyền con người không
77
bị xâm phạm trong hoạt động tố tụng.
Thứ hai, CQĐT VKSNDTC chỉ là Cơ quan điều tra thuần nhất hoạt
động tố tụng, không có sự phối hợp, hỗ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý từ các
đơn vị trong ngành như lực lượng cảnh sát, các trại tạm giam, nhà tạm giữ,
các đơn vị quản lý hồ sơ nghiệp vụ, tàng thư can phạm… nên khi cần sự phối
hợp, trợ giúp cho hoạt động điều tra không được chủ động như các ngành
Công an, Quân đội, trong khi chưa có quy chế rõ ràng quy định trách nhiệm
của các đơn vị này trong việc thực hiện các yêu cầu của CQĐT VKSNDTC.
Hiện nay vẫn chưa có phương thức chỉ đạo, điều hành hoạt động điều tra thích
hợp với việc điều tra các vụ án xảy ra ở địa bàn xa cơ quan, thời gian chờ đợi,
xin ý kiến đường lối xử lý còn dài. Điều đó ảnh hưởng đến quá trình giải
quyết vụ án và làm chậm tiến độ điều tra.
Thứ ba, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc chưa hoàn toàn đáp
ứng thực tiễn; kinh phí, phương tiện kỹ thuật, phương tiện nghiệp vụ hỗ trợ
cho hoạt động điều tra của CQĐT VKSNDTC chưa phong phú, cùng là hệ
thống CQĐT theo Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, nhưng CQĐT
VKSNDTC chưa thực sự được đầu tư nhiều về máy móc, phương tiện, kỹ
thuật tiên tiến như các CQĐT của Bộ Công an. Việc đi lại xác minh, điều tra
ở những địa phương kéo dài nhiều ngày, trong khi công tác phí và hỗ trợ công
tác còn hạn hẹp cũng phần nào ảnh hưởng đến tâm lý của các điều tra viên. Sự
hợp tác của các đơn vị, ngành liên quan, của các địa phương trong việc hỗ trợ
tư pháp, trợ giúp pháp lý có lúc, có nơi còn hạn chế [10].
Thứ tư, tội phạm xâm phạm tư pháp do cán bộ tư pháp là những
người có trình độ pháp lý, hiểu biết xã hội, được giáo dục về đạo đức, tác
phong của người cán bộ tư pháp; do vậy để điều tra những vụ án xâm phạm
hoạt động tư pháp phải là những điều tra viên có trình độ nghiệp vụ và năng
lực “hơn hẳn” họ. Nhưng đội ngũ điều tra viên của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân, ngoài một số ít được đào tạo trong các trường Đại học
78
Cảnh sát nhân dân, đại học An ninh nhân dân, công tác trong ngành Công an
nhân dân chuyển ngành, còn đa số không được đào tạo chuyên sâu về nghiệp
vụ điều tra. Vì vậy về năng lực nghiệp vụ, kỹ năng điều tra còn có những hạn
chế nhất định, chưa đáp ứng kịp yêu cầu đấu tranh phòng chống vi phạm và
tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp.
Thứ năm, số lượng cán bộ điều tra viên của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay còn thiếu so với biên chế trong khi số vụ
việc phải tiến hành xác minh, điều tra lớn, mỗi vụ việc lại ở những địa
phương khác nhau nên có phần ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian xác
minh, điều tra. Các cán bộ, điều tra viên tuy có thâm niên công tác nhưng số
người tốt nghiệp chuyên ngành điều tra tội phạm không nhiều [10]. Việc bồi
dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ điều tra viên còn
chưa được chú trọng đúng mức [10].
Thứ sáu, công tác tuyên truyền về chức năng nhiệm vụ của ngành
Kiểm sát nhân dân, nhất là về hoạt động của Cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát nhân dân mặc dù trong những năm gần đây đã được quan tâm song chưa
tương xứng nên vị trí, tầm quan trọng của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân chưa xã hội tiếp nhận đúng giá trị. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân, những người bị cán bộ tư
79
pháp xâm phạm, gia đình của họ không tìm đúng “địa chỉ” để tố cáo, khiếu nại.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Từ những kết quả đạt được, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao ngày càng khẳng định được vai trò và vị trí trong hệ thống các cơ quan
tư pháp, góp phần thực hiện có hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân; được Đảng, Nhà
nước, các cơ quan, đơn vị hữu quan và nhân dân tin tưởng, ghi nhận. Vì vậy,
Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Bộ
luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự
năm 2015, theo đó Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm
quyền điều tra tội phạm xâm phạm tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ
xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật mà người phạm
tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát nhân
dân, cơ quan Thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
Từ năm 2013 đến nay, sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tích cực giải quyết các nguồn tin này
một cách triệt để. Tỷ lệ giải quyết trung bình khoảng 85%. Tỷ lệ khởi tố vụ án
chỉ khoảng 20,5%. Kết quả này so với kết quả khởi tố vụ án hình sự của các Cơ
quan điều tra khác là không cao, một phần bởi vì đặc thù của loại án thuộc
thẩm quyền. Nhưng cũng cho ta thấy được vai trò quan trong của Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong quá trình đấu tranh tội phạm, bảo vệ
pháp luật, bảo vệ quyền con người của nhóm người tham gia tố tụng.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã gặp những khó khăn, vướng mắc nhất định.
Khó khăn, vướng mắt này xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan và khách
quan khác nhau. Để phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được các yêu cầu về cải
cách tư pháp, nhằm đảm bảo quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, việc nghiên cứu,
80
đề ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn nêu tại Chương 3 là cần thiết.
Chương 3:
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN
ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
3.1. Yêu cầu của bảo đảm quyền con ngƣời trong điều tra vụ án hình sự
của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi
mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan
trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất
nước đã có nhiều khởi sắc và được quốc tế đánh giá cao. Nhiều chủ trương,
chính sách mới về kinh tế được ban hành, đáp ứng yêu cầu mở cửa, hội nhập
kinh tế quốc tế. Trong thời gian tới, tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế đòi
hỏi chúng ta phải tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh
của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến nhanh và vững chắc theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự
và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm; Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội
quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định” [29].
Chúng ta thực hiện các mục tiêu nói trên trong bối cảnh tình hình trong
nước và quốc tế có nhiều thuận lợi, cơ hội lớn đan xen với những khó khăn,
thách thức cũng rất lớn. Thuận lợi cơ bản của tình hình thế giới là cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của khoa học công
81
nghệ thông tin và công nghệ sinh học, sẽ có tác động rất lớn và tích cực đến
việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xu thế toàn cầu hóa sẽ
dẫn đến việc cơ cấu lại nền kinh tế thế giới làm cho cuộc đấu tranh về trật tự
kinh tế thế giới sẽ diễn ra. Các nước đi sau như nước ta nếu chủ động được
trong tiến trình hội nhập, thì sẽ có cơ hội phát triển nhanh. Chúng ta cần tận
dụng tối đa những thuận lợi, cơ hội của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập, đồng
thời phải hạn chế những mặt trái, tiêu cực do nó gây ra. Thuận lợi lớn nhất
của tình hình trong nước là sự ổn định chính trị - xã hội là nền tảng vững chắc
tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên
cạnh đó, sản xuất của chúng ta phát triển với nhịp độ khả quan, hệ thống pháp
luật, cơ chế chính sách phù hợp đang phát huy trong đời sống kinh tế, xã hội.
Quan hệ chính trị, kinh tế, ngoại giao của nước ta đã được mở rộng nhiều trên
trường quốc tế.
Khó khăn lớn nhất là trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp,
chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh còn kém; trình độ công nghệ nhìn
chung còn lạc hậu khá xa so với các nước trong khu vực. Lĩnh vực xã hội còn
nhiều tồn tại, các tệ nạn xã hội phát triển, nếu không khắc phục sớm, thì sẽ
hạn chế lớn đến động lực phát triển.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi mỗi quốc
gia phải phát triển hệ thống pháp luật phải tương đồng với các nước ASEAN và
các nước khác trong khu vực và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây có thể nói là
yêu cầu mang tính khách quan, bởi lẽ nếu ta không phát triển hệ thống pháp
luật, thì nước ta rất khó hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Vì những lẽ đó, để phục vụ sự nghiệp đổi mới về kinh tế và thực hiện
được các mục tiêu đã đề ra, cần tiến hành đồng bộ các biện pháp, phát huy
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp giữa sự phát huy nội lực
và nhân tố bên ngoài. Trong đó có việc nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con
82
người là yêu cầu mang tính cấp thiết hiện nay.
Tố tụng hình sự là hoạt động đặc thù của nhà nước nhằm phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội với đòi hỏi bảo đảm tính
công bằng của pháp luật; bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự ngày càng cao. Vấn đề bảo đảm quyền con
người đã được BLTTHS năm 2015 ghi nhận là nguyên tắc cơ bản và ngày
càng được hoàn thiện đã bảo đảm tốt hơn. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiến tới công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nâng cao chất
lượng xét xử án hình sự cũng như bảo đảm quyền con người ngày càng có
hiệu quả thì pháp luật về TTHS cần được sửa đổi bổ sung theo hai hướng:
1/ Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể là
CQĐT VKSNDTC và người tiến hành tố tụng;
2/ Có cơ chế cụ thể bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện quyền của
mình trong giai đoạn điều tra.
Liên quan đến cơ cấu, tổ chức, bộ máy và năng lực, trình độ, phẩm chất
của cán bộ trong CQĐT VKSNDTC, Chỉ thị số 01/ CT-VKSTC ngày
28/12/2018 của Viện trưởng VKSNDTC về Công tác ngành năm 2019 đã nêu
rõ: “Tập trung xây dựng Cơ quan điều tra VKSND tối cao vững mạnh, hoạt
động chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. VKSND
tối cao khẩn trương hoàn thành, triển khai Đề án tăng cường năng lực Cơ
quan điều tra VKSND tối cao; tiếp tục bổ sung biên chế, tăng cường cơ sở vật
chất, phương tiện, nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động điều tra. Tăng
cường các biện pháp để nắm đầy đủ, kịp thời thông tin về tội phạm thuộc
thẩm quyền, đặc biệt là tội phạm về tham nhũng, chức vụ trong lĩnh vực tư
83
pháp và xâm phạm hoạt động tư pháp. Thực hiện tốt công tác phòng ngừa tội
phạm trong lĩnh vực tư pháp, góp phần xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp
trong sạch, vững mạnh.
Thủ trưởng đơn vị thuộc VKSND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
các cấp có trách nhiệm thu thập, quản lý và cung cấp đầy đủ, kịp thời những
thông tin, nguồn tin về tội phạm xảy ra trong lĩnh vực tư pháp ở địa phương
và phối hợp chặt chẽ trong việc xác minh, giải quyết và điều tra các vụ việc
thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao; chịu trách nhiệm về
việc không nắm, không cung cấp hoặc chậm cung cấp thông tin, nguồn tin về
tội phạm cho Cơ quan điều tra VKSND tối cao.”
Liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình trong quá trình giải quyết vụ án, liên quan trực tiếp quyền con người,
Viện trưởng VKSNDTC đã có những Chỉ thị trực tiếp như: Chỉ thị số 05/CT-
VKSTC ngày 15/5/2018 về tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân
dân trong kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự; Chỉ thị
số 02/CT-VKSTC ngày 22/3/2019 về tăng cường công tác phòng, chống tham
nhũng trong ngành Kiểm sát nhân dân… Những văn bản này đều cho thấy
ngành Kiểm sát nhân dân hết sức chú trọng tới CQĐT VKSNDTC, cũng như
đảm bảo tốt hành lang pháp lý, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực… bảo đảm
quyền con người được bảo vệ tối đa.
Hoàn thiện các chế định nhằm bảo đảm quyền con người trong tố tụng
hình sự nói chung và bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra nói
riêng cần đi đúng hướng, cần quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau:
Thứ nhất, phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám
sát và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo
đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tự
84
pháp; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững bản
chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
Thứ hai, phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh
các loại tội phạm, nhất là các loại tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về
tham nhũng, tội phạm có tổ chức; bảo đảm trật tự, kỷ cương, bảo đảm và tôn
trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.
Thứ ba, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào
công tác tư pháp. Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động,
đồng thời phải là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ tư, xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, hiện đại,
góp phần xây dụng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Để chống oan, sai, các
cơ quan tư pháp cần nâng cao chất lượng hoạt động, đề cao trách nhiệm của
các cơ quan và cán bộ tư pháp trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế tố
tụng hình sự. Tăng cường công tác kiểm sát bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng
pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam, thì kiên quyết
không phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, quyết định tạm giữ, tạm
giam. Xây dựng, cải tạo, sửa chữa các nhà tạm giữ, trại tạm giam bảo đảm
đúng quy định của pháp luật. CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án các cấp phải chịu
trách nhiệm về những oan, sai trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng
hình sự thuộc phạm vi, thẩm quyền của mình.
Thứ năm, thực tế cho thấy những năm gần đây, mặc dù hàng năm số
lượng vụ án, bị can do CQĐT VKSNDTC đã khởi tố, điều tra không nhiều.
Tuy hoạt động điều tra của CQĐT VKSNDTC do Vụ thực hành quyền công tố
và kiểm sát án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong
hoạt động tư pháp kiểm sát điều tra, nhưng hoạt động điều tra của CQĐT
VKSNDTC luôn bảo đảm tính khách quan, triệt để, hiệu quả và có ý nghĩa
85
phòng ngừa tội phạm, góp phần bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động
của các cơ quan tư pháp. Qua tổng kết thực hiện Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014 và BLTTHS năm 2015 đã khẳng định rằng, quy định về
thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC để điều tra các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan tư pháp là phù hợp với
thực tiễn và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này; đồng
thời góp phần tăng cường sự kiểm soát quyền lực tư pháp của các cơ quan tư
pháp, góp phần bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh các cơ quan tư pháp.
Thứ sáu, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Bào chữa là quyền của người bị buộc tội được đưa ra những chứng cứ, lập
luận trước các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng để bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp không bị hạn chế bởi pháp luật của mình. Người bị
buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Bị hại, đương sự (nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự) có quyền được thực hiện các biện
pháp hợp pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định
của pháp luật.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một nguyên
tắc hiến định được quy định trong Hiến pháp: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc
người khác bào chữa” [29] hay được cụ thể hóa trong BLTTHS năm 2015:
“Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa” [31].
Cũng giống như thủ tục thông thường, việc đảm bảo quyền bào chữa
của bị can, bị cáo khi áp dụng TTRG trong tố tụng hình sự vẫn được thực hiện
đầy đủ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là do thời hạn tiến hành tố tụng dối với các
vụ án hình sự được áp dụng TTRG rất ngắn thì việc thực hiện quyền bào chữa
86
đối với họ có được đảm bảo như các trường hợp thông thường khác hay
không. Với những vụ án áp dụng TTRG do tính chất đơn giản, rõ ràng thì có
lẽ cũng không cần có nhiều thời gian để chuẩn bị cho việc bào chữa như các
vụ án nghiêm trọng, phức tạp khác. Đồng thời, luật tố tụng hình sự cũng có
quy định người bào chữa có thể tham gia ngay từ khi người thực hiện hành vi
phạm tội trong trường hợp bị bắt, bị tạm giữ người có mặt tại trụ sở Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Do đó, bị can, bị cáo vẫn có thể thực hiện
tốt quyền tự bào chữa của mình hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình theo
quy định của pháp luật.
Thứ bảy, bảo đảm quyền con người trong yêu cầu cải cách tư pháp
hình sự là phải đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống tố tụng hình sự công khai,
minh bạch, dân chủ, giản tiện, do tiếp cận; tăng cường hiệu lực, hiệu quả
các cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động tố tụng hình sự và đáp ứng yêu cầu
đổi mới chính sách hình sự trong thời gian tới.
Công khai, minh bạch, dân chủ, giản tiện, bảo đảm quyền tiếp cận,
quyền tham gia của người bị buộc tội luôn là đòi hỏi đối với quá trình thực
hiện quyền lực nhà nước. Là một dạng hoạt động quyền lực nhà nước (quyền
tư pháp), hoạt động tư pháp hình sự một mặt phải bảo đảm tính hiệu lực, hiệu
quả của cuộc đấu tranh phòng chồng tội phạm, đồng thời quá trình vận hành
các thủ tục tố tụng hình sự phải đáp ứng yêu cầu về tính công khai, minh
bạch, dân chủ, giản tiện, dễ tiếp cận đối với người dân. Xuất phát từ yêu cầu
này việc cải cách tư pháp hình sự cần loại bỏ những thủ tục rườm rà, phức
tạp, gây phiền hà cho người dân tiếp cận công lý, tiếp cận với quá trình giải
quyết vụ án; bổ sung các nội dung nhằm tăng cường tính công khai, minh
bạch của các quy định, thủ tục tố tụng hình sự... Không thể vì lý do cần giữ bí
mật điều tra mà gây khó khăn, tạo nên những cách trở giữa người dân với quá
87
trình giải quyết vụ án.
Trong Nhà nước pháp quyền, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà
nước là một hoạt động tất yếu và luôn giữ vị trí đặc biệt trong việc tổ chức và
thực thi quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm cho các quyền đó làm đúng chức
năng, nhiệm vụ của mình, không vượt khỏi phạm vi thẩm quyền, chức năng
đã được xác định. Xã hội càng phát triển quá trình dân chủ hoá trong xã hội
càng được mở rộng thì yêu cầu kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực
nhà nước càng cao.
Hoạt động tư pháp hình sự có nhiệm vụ xem xét, đưa ra các phán quyết
về tính đúng hay sai là tội phạm hay không phải là tội phạm, hình phạt áp
dụng, khôi phục lại trật tự xã hội đã bị xâm phạm, bảo vệ lợi ích hợp pháp và
chính đáng của công dân, của tập thể, của quốc gia và xã hội. Đồng thời, quá
trình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đó, pháp luật trao cho các cơ quan tư pháp
thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế tố tụng như biện pháp bắt,
tạm giữ, tạm giam... như vậy, hoạt động tư pháp hình sự mang trong nó
những thẩm quyền mạnh mẽ và có khả năng ảnh hưởng đến các quyền cơ bản
nhất của con người như quyền tự do, quyền sống. Xuất phát từ các đặc điểm
đó, hoạt động tư pháp hình sự cần và phải chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ
của nhiều cơ chế kiểm tra, giám sát khác nhau. Chính sự kiểm tra giám sát
chặt chẽ sẽ là điều kiện bảo đảm cho phán quyết của tư pháp là một giá trị
không gì có thể thay thế được, bảo đảm tính hiệu lực thi hành của các phán
quyết tư pháp.
Thực chất mối quan hệ giữa Luật Hình sự với Luật tố tụng Hình sự là
mối quan hệ giữa luật nội dung và luật hình thức. Trong mối quan hệ này, nội
dung có ý nghĩa quyết định hình thức. Nghị quyết 49-NQ/TW đặt ra nhiều
yêu cầu đối với việc hoàn thiện, đổi mới chính sách hình sự như: giảm hình
phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối
88
với một số loại tội phạm, quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy
hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, khoa
học, công nghệ và hội nhập quốc tế v. v. Do vậy, tăng cường bảo đảm quyền
bào chữa của bị cáo phải đáp ứng kịp thời những thay đổi về chính sách hình
sự trong thời gian tới.
3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền con ngƣời trong điều tra vụ án hình sự
của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
3.2.1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự
* Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Vị trí và vai trò của CQĐT VKSNDTC đã được khẳng định trên cơ sở
quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn hoạt động. Tuy nhiên, để phát
huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của CQĐT VKSNDTC cần hoàn thiện các
quy định để khẳng định “vững chắc” địa vị pháp lý của mình.
Hiến pháp năm 2013, tiếp tục khẳng định chức năng của Viện kiểm sát
nhân dân: là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm
sát nhân dân có nhiệm vụ bảo đảm pháp luật, bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, bảo đảm chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư
pháp, với chủ trương xây dựng nền công tố mạnh, tăng cường trách nhiệm của
Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố
với hoạt động điều tra; Viện kiểm sát nhân dân ngày càng có vai trò quan
trọng, quyết định trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội bằng nhiều biện pháp như: Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các
89
vụ án hình sự và trực tiếp điều tra một số loại tội phạm, trong đó, CQĐT
VKSNDTC là một trong những chủ thể bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của ngành Kiểm sát, chống oan sai, chống bỏ lọt tội phạm, góp phần bảo
đảm trật tự pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền con người,
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân.
Hoạt động điều tra là một quyền năng quan trọng và được ví như
“quyền công tố nối dài” của Viện kiểm sát nhân dân; không thể bảo đảm thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nếu không có hoạt động
điều tra trực tiếp. Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và đấu
tranh phòng, chống các tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động
tư pháp nói riêng thì CQĐT VKSNDTC ngày càng phải được củng cố, tăng
cường để bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát và
đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, thì
CQĐT VKSNDTC điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội
phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm
tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ
quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Với quy
định mở rộng thẩm quyền điều tra như trên, chúng ta thấy cần hoàn thiện chế
định này tại BLTTHS năm 2015 và Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự
cho phù hợp và đảm bảo tính thống nhất giữa các luật trong hệ thống pháp
luật Việt Nam.
* Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về bảo đảm
quyền con người trong giai đoạn điều tra.
- Hoàn thiện thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can
Từ sự phân tích trên, cần phải đổi mới thủ tục khởi tố bị can theo hướng:
Thứ nhất: Viện kiểm sát phải tự mình ra quyết định khởi tố bị can chứ
90
không để CQĐT ra quyết định khởi tố bị can và Viện kiểm sát phê chuẩn
quyết định này như hiện nay. Có thể nói nếu làm được điều này sẽ gắn kiểm
sát với điều tra một cách chặt chẽ hơn, thực hiện được yêu cầu cải cách tư
pháp, hướng tới bảo đảm tốt hơn quyền con người trong giai đoạn điều tra.
Thứ hai: hủy bỏ thẩm quyền khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử.
* Hoàn thiện các chế định pháp lý về người đại diện, người bào chữa
của người bị buộc tội:
- Đối với quy định về “người đại diện” và “người thân thích”, em cho
rằng BLTTHS cần bổ sung: Điều luật về địa vị pháp lý người đại diện của
người bị buộc tội, trong đó có các điều khoản về: định nghĩa người đại diện,
phạm vi các cá nhân thuộc diện người đại diện quy định theo hướng là những
người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự; quyền
và nghĩa vụ của người đại diện theo hướng ngoài quyền của người bào chữa,
người đại diện phải có các quyền nhằm thay mặt, nhân danh, lợi ích người bị
buộc tội trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; ngoài ra, điều luật phải
giải quyết được thủ lục lựa chọn người đại diện trong trường hợp người bị
buộc tội có nhiều người đại diện, hoặc thủ tục nếu người đại diện không thống
nhất được (ví dự như cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định
một trong số những người này, căn cứ trên cơ sở nguyện vọng của người bị
buộc tội, và kết quả kiểm tra người đại diện nào phù hợp, hiểu bị cáo, sống
với bị cáo…)…
- Sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 77 BLTTHS năm 2015: “Trường
hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này,
người bị buộc tội và người đại diện hoặc người thân thích của họ vẫn có
quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa” [31], theo hướng: đối
với nhóm người “Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể
tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi”.
Nhóm người này chỉ được quyền thay đổi người bào chữa mà không có quyền
91
từ chối người bào chữa.
- Đối với quy định người đại diện của người bị buộc tội có thể là người
bào chữa, em kiến nghị, hoặc là hủy bỏ quy định này hoặc giữ nguyên nhưng
phải bổ sung điều kiện là: Người đại diện của người bị buộc tội chỉ được là
người bào chữa khi họ hiểu biết rõ về pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng
hình sự.
- Bổ sung quy định: người bị buộc tội với tư cách bị cáo vẫn có quyền
lựa chọn người bào chữa, khi đó Hội đồng xét xử căn cứ các quy định để xem
xét hoãn phiên tòa để người bào chữa tiếp cận vụ án hình sự.
* Hoàn thiện quy định về trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
trong bảo đảm quyền con người.
Quy định chặt chẽ hơn về trách nhiệm cá nhân của Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng, Điều tra viên CQĐT trong việc ra lệnh bắt, thi hành lệnh bắt, tạm giữ,
tạm giam; đảm bảo việc áp dụng các căn cứ, trường hợp, trình tự, thủ tục về bắt,
tạm giữ, tạm giam người; chỉ bắt, tạm giữ, tạm giam người phạm tội khi thật sự
cần thiết và không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm trọng hơn.
Thực hiện đầy đủ những trình tự, thủ tục tố tụng trong hoạt động bắt, tạm giữ,
tạm giam, thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm quyền con người, các quyền và lợi
ích chính đáng của người bị bắt, tạm giữ, bị can, người bị tạm giam.
Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có
quyền gặp, hỏi người bị buộc tội; Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị
tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời
khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau
mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào
chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; Có mặt trong hoạt động
đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy
định của Bộ luật này; Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo
trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến
92
hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; Xem biên bản về
hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến
người mà mình bào chữa [31]. Bộ luật không quy định cụ thể trường hợp nào
thì Điều tra viên phải đồng ý, trường hợp nào thì Điều tra viên có quyền
không đồng ý để người bào chữa hỏi người bị tạm giữ, bị can. Điều này dẫn
đến hệ quả là người bào chữa được hay không được hỏi người bị tạm giữ, bị
can hoàn toàn phụ thuộc ý chí chủ quan của Điều tra viên, do Điều tra viên
quyết định. Do vậy, BLTTHS cần quy định cụ thể các trường hợp người bào
chữa được quyền hỏi bị can, người bị tạm giữ cũng như tham gia một số hoạt
động điều tra cụ thể. Đặc biệt trong các trường hợp tham gia hỏi cung bị can,
lấy lời khai… người bào chữa chỉ được hỏi khi được sự đồng ý của Điều tra
viên. Vậy phải có quy định như thế nào để tránh trường hợp Điều tra viên vì ý
chí chủ quan của mình mà không có người bào chữa hỏi, ảnh hưởng tới quyền
của người bị buộc tội.
Hình thức pháp lý của việc truy nã một người là cơ quan thẩm quyền ra
“Quyết định truy nã” chứ không phải “Lệnh truy nã”. Bắt người đang bị truy
nã là bắt người đang bị cơ quan có thẩm quyền truy nã bằng “Quyết định truy
nã”; bắt người phạm tội quả tang là bắt người “đang thực hiện tội phạm hoặc
ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc đuổi bắt”. Không có
“Lệnh bắt” hoặc “Quyết định bắt” đối với người phạm tội quả tang. Về mặt
hình thức cũng như bản chất pháp lý, nội dung: “Người thi hành lệnh bắt
trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản” đã xác định phạm vi áp dụng/
giới hạn điều chỉnh của Điều luật này loại trừ/ không bao gồm biên bản bắt
người theo quyết định truy nã, biên bản bắt người phạm tội quả tang. Nội
dung này mâu thuẫn với tinh thần của chính Điều 84 và không bao quát hết
các hình thức pháp lý của thủ tục bắt người. BLTTHS nên có quy định cụ thể,
riêng biệt về Biên bản bắt người đang bị truy nã và biên bản bắt người phạm
tội quả tang. Do đó, nên nghiên cứu sửa đổi nội dung: “Người thi hành lệnh
bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản.”, thành: “Trong mọi trường
93
hợp, việc bắt người phải được lập biên bản.”.
Về Biên bản tố tụng hình sự, BLTTHS quy định: khi tiến hành các hoạt
động tố tụng, bắt buộc phải lập biên bản theo mẫu quy định thống nhất; trong
biên bản ghi rõ địa điểm, ngày, giờ, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian
bắt đầu và thời gian kết thúc, nội dung của hoạt động tố tụng, những người
tiến hành, tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động tố tụng, những khiếu nại,
yêu cầu hoặc đề nghị của họ. Theo em, để tránh việc lợi dụng, lạm dụng hành
vi, hoạt động tố tụng hình sự nói chung, việc áp dụng, thi hành biện pháp bắt
người, tạm giữ đồ vật, tài liệu, hành vi, hoạt động tố tụng khác xâm hại quyền
con người, quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, bị can và đảm bảo Cơ
quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng tuân thủ tuyệt đối quy định
của BLTTHS về áp dụng, thi hành biện pháp bắt người, thu giữ đồ vật, tài
sản, tài liệu... đồng thời có căn cứ đối chiếu, chứng minh trách nhiệm của chủ
thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có vi phạm tố tụng, xâm hại quyền
con người, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bị can, BLTTHS cần quy
định: những biên bản tố tụng hình sự ghi nhận, phản ánh hoạt động tố tụng
hình sự do CQĐT, Viện kiểm sát tiến hành trong giai đoạn điều tra (và Tòa án
tiến hành trong giai đoạn xét xử) mà BLTTHS quy định phải thông báo được
lập thành nhiều bản. Số lượng bản căn cứ vào tính chất, yêu cầu thu thập, lưu
trữ biên bản đó. Đương sự, bị can là đối tượng chấp hành, có quyền, nghĩa vụ
tố tụng trực tiếp liên quan hoạt động, hành vi tố tụng hình sự được ghi nhận,
phản ánh trong biên bản, nhất là việc bắt người, giao nhận người bị bắt, biên
bản về việc tạm giữ đồ vật, tài sản, giao nhận đồ vật, tài liệu... phải được
nhận, lưu giữ ít nhất 01 bản. Do vậy, kiến nghị bổ sung thêm cụm từ: “Biên
bản về việc bắt người phải được giao cho người bị bắt một bản”.
* Hoàn thiện quy định về quyền im lặng và quyền được bào chữa của
bị can trong giai đoạn điều tra.
BLTTHS năm 2015 đã chuyển hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013
về quyền con người. Ngày 01/01/2018, BLTTHS năm 2015 có hiệu lực,
94
những quy định mới về quyền bào chữa như đã đề cập là bước tiến dài làm cơ
sở cho việc thực hiện công cuộc cải cách tư pháp, đảm bảo quyền con người,
quyền công dân. Em xin đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện
BLTTHS liên quan đến quyền bào chữa:
Thứ nhất, đối với việc ghi nhận đảm bảo quyền bào chữa cho người bị
bắt, cần bổ sung, mở rộng thêm điều kiện để được mời hoặc nhờ người bào chữa
hoặc quy định bổ sung cơ chế bảo đảm cho người bị bắt thực hiện quyền này.
Thứ hai, đối với quy định triệu tập người làm chứng hoặc yêu cầu đưa
thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét, cần quy định đầy đủ hơn trong suốt quá
trình diễn ra xét xử. Ở đây, mới chỉ dừng lại ở việc thủ tục bắt đầu phiên tòa,
vì vậy, cần bổ sung theo hướng trong suốt quá trình xét xử tại phiên tòa, nếu
lời khai của bị cáo mâu thuẫn, có xuất hiện một số tình tiết mới chưa thể hiện
trong hồ sơ vụ án, thì cả bên buộc tội và bên gỡ tội có quyền đề nghị triệu tập
thêm người làm chứng hoặc đưa ra vật chứng để xem xét toàn diện và khách
quan hơn. Các yêu cầu liên quan đến triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu
đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác
định sự thật khách quan của vụ án.
Thứ ba, cần quy định rõ rằng lời khai của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo chỉ có giá trị pháp lý sau khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được cơ
quan tiến hành tố tụng thông báo và giải thích cụ thể các quyền và nghĩa vụ
của mình đặc biệt là quyền im lặng. Điều này là rất quan trọng bởi lẽ pháp
luật không quy định chính xác thuật ngữ “quyền im lặng” mà quy định là
quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải
nhận mình có tội.” Chính vì vậy, cần phải có sự giải thích rõ để người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo hiểu và lựa chọn thực hiện quyền của mình hay không.
Thứ tư, quyền im lặng cần phải được thực hiện đồng bộ với những nội
dung khác như quyền được có luật sư hoặc người khác bào chữa, quyền được
95
cung cấp luật sư nếu bản thân không có khả năng tìm luật sư hay người bào
chữa khác; có quyền những không buộc phải chứng minh là mình vô tội;
quyền không đưa ra các chứng cứ bất lợi cho mình.
Pháp luật Việt Nam đã ghi nhận quyền này trong BLTTHS năm 2015 là
sự cụ thể hoá các cam kết của Việt Nam về bảo vệ quyền con người trong các
Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đồng thời cũng là cam kết của
Nhà nước Việt Nam đối với các công dân của mình về một nền tư pháp trong
sạch, bảo vệ tối đa quyền con người, quyền công dân của các cá nhân trong xã
hội, từ đó giúp ổn định và phát triển xã hội văn minh, giàu đẹp.
3.2.2. Hoàn thiện quy định về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Việc mở rộng thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC như đã phân
tích ở trên, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức điều tra
và thực tiễn công tác của CQĐT VKSNDTC những năm gần đây, thì việc chỉ
tổ chức CQĐT VKSTNDTC và Viện kiểm sát quân sự trung ương là chưa
hợp lý. Bởi lẽ địa bàn hoạt động rộng, lượng đơn (kêu oan, đơn khiếu nại, tố
cáo hành vi vi phạm trong hoạt động tư pháp) phải xác minh hàng năm lớn
phần nào ảnh hưởng đến kết quả phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm. Vì vậy
cần tổ chức CQĐT VKSNDTC theo hướng mở rộng thành các CQĐT, ở mỗi
khu vực (hoặc vùng, miền) được tổ chức một CQĐT thuộc Viện kiểm sát
nhân dân, và CQĐT ở khu vực (hoặc vùng, miền) đó có mối quan hệ với Viện
kiểm sát cấp cao trong hoạt động tố tụng hình sự.
Trên cơ sở chủ trương, định hướng cải cách tư pháp và tổng kết thực
tiễn hoạt động của CQĐT, cần đổi mới về tổ chức và hoạt động của CQĐT
VKSNDTC theo hướng:
Thứ nhất, đổi mới phải đáp ứng được tính chất đặc thù đấu tranh phòng
chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp hiện nay và xu hướng diễn biến
96
của loại tội phạm này trong thời gian tới; với phương châm phát hiện kịp thời,
xử lý nghiêm minh các hành vi có dấu hiệu tội phạm, làm rõ nguyên nhân điều
kiện phát sinh tội phạm để kiến nghị phòng ngừa. Để thực hiện được yêu cầu
này cần, nâng cao năng lực phát hiện điều tra tội phạm, thực hiện cơ chế phối
hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra tội phạm với các công tác kiểm sát nhằm
bảo đảm thực hiện tốt các chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Thực hiện các biện pháp nâng
cao chất lượng, hiệu quả điều tra, xử lý các tội phạm thuộc thẩm quyền có căn
cứ, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Thứ hai, đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐT VKSNDTC theo
nguyên tắc bảo đảm tăng cường sự phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng các
cấp, trong đó có hệ thống CQĐT khác của lực lượng công an nhân dân và
Quân đội nhân dân. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống
Viện kiểm sát nhân, trong đó Cơ điều tra Viện kiểm sát nhân dân giữ vai trò
nòng cốt, Viện kiểm sát nhân dân các cấp phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực từ
việc phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý tội phạm thuộc thẩm quyền.
Biện pháp thực hiện là, tăng cường công tác phối hợp trong và ngoài
ngành kiểm sát bảo đảm nắm được đầy đủ, kịp thời các thông tin về tội xâm
phạm hoạt động tư pháp xảy ra, đồng thời phối hợp trong công tác kiểm tra,
xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án thuộc
thẩm quyền. Trong đó, công tác phối hợp với Viện kiểm sát các cấp phải được
thực hiện thường xuyên, liên tục và chặt chẽ. Trọng tâm công tác phối hợp
với CQĐT VKSNDTC là nhằm trao đổi, cung cấp thông tin về tội phạm và
giải quyết những khó khăn vướng mắc trong công tác nghiệp vụ điều tra tội
phạm, quản lý giam giữ, giám định tư pháp...
3.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ, kiến thức về quyền
con người và đạo đức nghề nghiệp của điều tra viên, cán bộ điều tra
Trong thời gian qua, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân từng
97
bước được kiện toàn cả về số lượng và chất lượng.
Riêng đối với Điều tra viên nói chung và Điều tra viên của CQĐT
VKSNDTC nói riêng là một chức danh tư pháp độc lập, hoạt động của điều
tra viên là điều tra, xác minh tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực,
phấn đấu và kết quả đáng ghi nhận thì công tác tổ chức bộ máy và đội ngũ cán
bộ, điều tra viên của CQĐT VKSNDTC vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu
kém. Đội ngũ cán bộ, Điều tra viên còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và
năng lực nghiệp vụ. Do vậy, cần phải xây dựng và hoàn thiện chế định pháp
lý về điều tra viên, trong đó cần ban hành pháp luật về điều tra viên để quy
định tiêu chuẩn đạo đức, phẩm chất chính trị, trình độ pháp luật, chuyên môn
nghiệp vụ cũng như quyền hạn và nghĩa vụ của chức danh này. Xác định rõ
chế độ đãi ngộ cũng như cách thức tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm chức
danh điều tra viên để từ đó xác định mô hình, chương trình đào tạo, đảm bảo
chính quy hóa lực lượng điều tra viên.
Trong thời gian tới, cần thường xuyên đẩy mạnh công tác quy hoạch,
đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ, điều tra viên của CQĐT VKSNDTC.
Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Điều tra viên của CQĐT
VKSNDTC là một giải pháp thiết thực cho việc nâng cao hiệu quả chất lượng
điều tra. Để nâng cao chất lượng đội ngũ này, trước tiên phải đổi mới quy
trình tuyển chọn, bổ nhiệm kỹ càng chức danh Điều tra viên. Làm tốt công tác
này, các cơ quan tư pháp sẽ tuyển chọn và thu hút được những cán bộ tâm
huyết với ngành, những người có đủ đức và tài để bổ nhiệm vào các chức
danh của CQĐT VKSNDTC. Trong quá trình tuyển chọn đội ngũ cán bộ,
Điều tra viên cần đặc biệt chú ý đến tư cách đạo đức, bản lĩnh chính trị và
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mỗi người, để đáp ứng yêu cầu của ngành
98
cũng như yêu cầu cải cách tư pháp trong thời điểm hiện nay.
3.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của cơ quan dân cử và
xã hội trong hoạt động của cơ quan điều tra
Hiến pháp 2013 đã xác định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vì vậy, hoạt động của các cơ quan tư pháp nói
chung cũng như hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, CQĐT VKSNDTC và
từng cán bộ, Điều tra viên thuộc cơ quan này, đều được đặt dưới sự lãnh đạo
chặt chẽ của Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của các cán bộ,
điều tra viên CQĐT VKSNDTC được thể hiện ở chỗ: tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng trong việc giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của tổ chức đảng và
đảng viên, chăm lo công tác quy hoạch, tuyển chọn, bố trí sử dụng đúng năng
lực của đảng viên cũng như việc chỉ đạo giải quyết những vụ việc quan trọng,
phức tạp. Tuy nhiên, Đảng không bao biện làm thay mà phải tôn trọng những
quyền năng độc lập của cán bộ, Điều tra viên. Đối với Ban cán sự Đảng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Đảng ủy CQĐT thì cần thường xuyên kiểm tra,
giám sát hoạt động của từng Chi bộ thành viên, có những chỉ đạo kịp thời đối
với những vụ việc phức tạp, được dư luận chú ý, đảm bảo hoạt động của
CQĐT VKSNDTC được thực hiện đúng quan điểm, đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước. Trong thời gian tới cần tăng cường hơn nữa sự lãnh chỉ đạo
của các cấp ủy Đảng để từng bước khắc phục những hạn chế, sai sót trong hoạt
động tư pháp của các cơ quan tư pháp hạn chế các tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc cơ quan tư pháp.
Các cơ quan đại biểu dân cử cần tăng cường sự phối hợp với các cơ quan
hữu quan để giám sát chặt chẽ hơn nữa việc chấp hành pháp luật của các cơ
quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự, góp phần đảm bảo việc giải quyết vụ án công bằng, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế mức thấp nhận việc điều tra, truy tố, xét xử
99
oan, sai, bỏ lọt tội phạm; giám sát quá trình bồi thường cho người bị oan và xác
định rõ trách nhiệm cá nhân của những người đã trực tiếp tiến hành tố tụng để
xảy ra oan, sai nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
TANDTC, VKSNDTC đã tích cực, khẩn trương nghiên cứu, giải quyết, trả lời
đối với 36/36 khiếu nại cử trị (đạt 100%); quán triệt tinh thần Nghị quyết 49 để
bảo đảm nâng cao trách nhiệm của các cán bộ tư pháp và xử lý nghiêm minh
đối với những người vi phạm, ví dụ như xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và
của nhân dân (giám sát xã hội) đối với cơ quan tư pháp; bảo đảm cơ sở vật
chất cho hoạt động tư pháp; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cơ
quan tư pháp; có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao
động của cán bộ tư pháp. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh
tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp v.v…
3.2.5. Tăng cường công tác tổ chức giám sát thi hành pháp luật trong tố
tụng hình sự
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động, hành vi tố tụng của
CQĐT, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên cần được thực hiện
nghiêm chỉnh, thường xuyên, liên tục, không để xảy ra oan sai, oan sai chậm
được phát hiện, kéo dài. Kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm khắc hoạt động,
hành vi tố tụng xâm phạm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự. Việc xử lý hành vi xâm hại quyền con người trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự không được nể nang người có chức vụ, không lấy mục đích bảo
đảm pháp luật biện minh cho hành vi xâm hại quyền con người, đảm bảo sự
nghiêm minh của pháp luật, răn đe, làm gương cho những người đang hoặc có
ý định vi phạm.
Song song với hoạt động kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các vi phạm
quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Nhà nước cần xây
dựng, áp dụng, duy trì cơ chế quản lý đặc thù đối với hoạt động tố tụng hình
100
sự của CQĐT, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên. Đảm bảo các điều
kiện làm việc, an toàn tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của Điều tra
viên, Kiểm sát viên và thân nhân của họ, đảm bảo tính độc lập, tự chủ của các
chủ thể này trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, tích cực, chủ động trong
việc bảo đảm quyền con người.
3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động cho Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân, các chế độ chính sách đãi ngộ phù hợp đối với
cán bộ, Điều tra viên
Cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của CQĐT, Viện kiểm sát nhân
dân hiện nay còn thiếu và lạc hậu ảnh hưởng đến chất lượng công tác điều tra. Vì
vậy, tăng cường cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho cán bộ, điều tra viên
góp phần nâng cao chất lượng công tác điều tra các vụ án xâm phạm hoạt động
tư pháp. Một vấn đề cũng cần phải quan tâm là hoạt động điều tra là hoạt động
đặc thù nên cán bộ, Điều tra viên cần chế độ lương, phụ cấp và các khoản đãi
ngộ đặc thù đảm bảo điều kiện ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, không bị
dao động, sa ngã trước mọi tác động cám dỗ, mua chuộc trong quá trình thực
101
hiện nhiệm vụ được giao.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Chúng ta thấy rằng quyền con người nói chung là quyền tối thượng của
một cá nhân, mà bất kỳ xã hội nào, pháp luật nào cũng cần phải ưu tiên bảo
vệ. Ngành Kiểm sát nhân dân đã hết sức chú trọng tới CQĐT VKSNDTC,
cũng như đảm bảo tốt hành lang pháp lý, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực…
bảo đảm quyền con người được bảo vệ tối đa.
Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung và bảo đảm
quyền con người trong giai đoạn điều tra nói riêng cần đi đúng hướng, cần
quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau: phải thực hiện đúng đường lối, chủ
trương của Đảng, bám sát và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong
từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tự pháp; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, giữ vững bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phải ngăn ngừa có hiệu quả và
xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm, nhất là các loại tội xâm phạm
an ninh quốc gia, tội phạm về tham nhũng, tội phạm có tổ chức; bảo đảm trật
tự, kỷ cương, bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức và công dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội
tham gia vào công tác tư pháp; xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch,
vững mạnh, hiện đại, góp phần xây dụng Nhà nước pháp quyền Việt Nam;
bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự.
Trên cơ sở những yêu cầu đó, em xin đề xuất một số giải pháp bảo đảm
quyền con người trong điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao: rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật bảo đảm
102
quyền con người trong tố tụng hình sự; hoàn thiện quy định về tổ chức và
hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ, kiến thức về quyền con người và đạo đức
nghề nghiệp của điều tra viên, cán bộ điều tra; tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, giám sát của cơ quan dân cử và xã hội trong hoạt động của cơ quan
điều tra; tăng cường công tác tổ chức giám sát thi hành pháp luật trong tố tụng
hình sự; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động cho Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân, các chế độ chính sách đãi ngộ phù hợp đối với
103
cán bộ, Điều tra viên.
KẾT LUẬN
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước có những bước chuyển mình
căn bản và toàn diện về mọi mặt, kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt, hệ thống chính trị, khối đại đoàn kết dân tộc được
củng cố và tăng cường. Chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được
giữ vững. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên rất nhiều, tạo nên thế và
lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Tuy nhiên, do tác động tiêu cực bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường,
của quá trình hội nhập, của những khuyết điểm và yếu kém đã nảy sinh những
vấn đề phức tạp, trong đó có tình hình tội phạm và một số tệ nạn xã hội có
chiều hướng tăng với tính chất và mức độ phạm tội ngày càng nguy hiểm,
hàng loạt các vụ án hình sự nghiêm trọng đã xảy ra.
Việc nhận thức chân lý khách quan của vụ án hình sự là một quá trình
hết sức phức tạp được tạo bởi các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá các
chứng cứ do các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện phù hợp với các quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Vì vậy quá trình chứng minh trong vụ
án hình sự phải được thực hiện một cách khoa học nhằm xác đinh đúng người
đúng tội, không bỏ lọt tội phạm hoặc không làm oan sai người vô tội bởi không
giống như vụ án dân sự hoặc vụ án hành chính, vụ án hình sự có ảnh hưởng rất
lớn tới quyền con người, tới sinh mạng chính trị và những quyền về nhân thân,
tài sản khác của con người... Chính vì vậy, quá trình đi tìm sự thật của vụ án
đồng thời phải gắn bó với việc bảo đảm các quyền con người cơ bản ấy.
Bảo đảm quyền con người là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, được
cộng đồng quốc tế cũng như các quốc gia quan tâm nghiên cứu, thực hiện. Đây
cũng là một trong những đặc tính quan trọng của Nhà nước pháp quyền. Là
104
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nhà nước Việt Nam luôn
đặt con người ở vị trí trung tâm trong việc xây dựng, thực hiện chính sách kinh
tế, xã hội và tạo mọi điều kiện để con người phát triển. Đảng và Nhà nước ta
luôn xác định bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân là nhân tố cơ bản bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững. Thông qua đó
xây dựng, bảo đảm nền dân chủ, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước,
tạo động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển Nhà nước Việt Nam gắn liền với quá
trình nghiên cứu, khẳng định, bảo đảm thực hiện, bảo đảm các quyền con
người. Ngay từ những ngày đầu thành lập Nhà nước, quyền con người, quyền
công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật. Trong đó có quyền
con người và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung, bảo
đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng. Các
giai đoạn phát triển pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ 1945 đến nay đã
từng bước xây dựng, kế thừa và phát triển, hoàn thiện các nguyên tắc tố tụng
hình sự; các quy định về quyền hạn, trách nhiệm của Cơ quan tiến hành tố
tụng, Người tiến hành tố tụng, quyền, nghĩa vụ của Ntham gia tố tụng; các
biện pháp ngăn chặn; các trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, tạo cơ sở pháp lý
ngày càng vững chắc cho việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
nói chung, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng.
Tổng hợp kết quả nghiên cứu, khái quát, đánh giá thực tiễn hoạt động
của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân, dự báo tình hình, luận văn đã
góp phần làm rõ thêm về địa vị pháp lý, đánh giá thực trạng pháp luật về thẩm
quyền và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân; trên cơ sở
đó, đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về Cơ quan điều tra Viện kiểm
sát nhân dân. Các giải pháp đó sẽ là cơ sở để nâng cao địa vị pháp lý của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động
105
điều tra của các cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay. Hoàn thiện pháp luật về
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thực sự là một yêu cầu bức xúc hiện
nay. Thực hiện tốt yêu cầu này chắc chắn sẽ tạo ra một Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân vững mạnh, góp phần thực hiện các mục tiêu cải cách tư
pháp, đẩy nhanh tiến trình xây dựng đất nước, góp phần thực hiện mục tiêu
106
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ Ba (khoá VIII), Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “Về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005“Về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020”, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 “Về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Bình (1993), “Bàn về quyền con người”, Tạp chí Cộng sản, số 5.
6. Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội.
7. Lê Cảm (2004), "Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng
hình sự", Tạp chí Kiểm sát, số 2.
8. Lê Cảm (2006), “Các nguyên tắc cơ bản của cải cách tư pháp trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 01, tr.11-18.
9. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008, 2009, 2010,
2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018), Báo cáo tổng kết
năm, Hà Nội.
11. Hà Hùng Cường (2000), “Việt Nam nỗ lực xây dựng và hoàn thiện
107
pháp luật bảo đảm các quyền con người”, Báo nhân dân, Hà Nội.
12. Hà Hùng Cường (2014), “Hiến pháp năm 2013 tạo nền tảng pháp lý
vững chắc cho việc đẩy mạnh cải cách tư pháp theo Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020”, Tạp chí Cộng sản.
13. Đại hội đồng Liên hợp quốc (1950), Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền, ngày 10/12/1948, Hà Nội.
14. Đại hội đồng Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị, ngày 16/12/1966, Hà Nội.
15. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Bùi Kiên Điện (2008), Điều tra vụ án hình sự nhìn từ một vụ án, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 405.
17. Đỗ Văn Đương, “Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với
trách nhiệm, quyền hạn tư pháp và sửa đổi, bổ sung chế định chứng cứ
trong Bộ luật Tố tụng hình sự”, Tạp chí Thông tin khoa học, Trường
Đại học kiểm sát, Hà Nội.
18. Trần Ngọc Đường, Hành vi hợp pháp - nhân tố bảo đảm quyền con
người, quyền và nghĩa vụ công dân. Chuyên khảo quyền con người,
quyền công dân, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
19. Đoàn Thị Ngọc Hải (2015), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng
hình sự - một số vấn đề cần trao đổi, Nghiên cứu trao đổi – Bài đăng
trên trang báo điện tử của Bộ Tư pháp.
20. Hoàng Văn Hảo, Chu Thành (1993), “Quyền con người và quyền công
dân”, Tạp chí Cộng sản, số 5.
21. Ngũ Quang Hồng (2011), Nghiên cứu so sánh về điều tra trong Luật tố
tụng hình sự của Trung Quốc và Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 44.
22. Phạm Mạnh Hùng (chủ biên) (2015), Giáo trình Luật tố tụng hình sự
108
Việt Nam, Nxb, Công an nhân dân, tr. 14.
23. Nguyễn Quang Hiền (2008), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sỹ luật học - Viện nhà nước và pháp
luật, Hà Nội, tr. 99.
24. Đinh Thế Hưng (2010), Bảo đảm quyền con người trong Tố tụng hình
sự, Tham luận hội thảo cấp Viện Nhà nước và Pháp luật.
25. Khoa Luật – trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người
– Tập tài liệu chuyên đề của Liên hợp quốc, Nxb. Công an nhân dân, tr.
34, 43.
26. Nguyễn Văn Mạnh (2000), “Quyền chính trị của phụ nữ trong công ước
về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và trong pháp luật
Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3.
27. Hoàng Phê (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.
28. Nguyễn Thái Phúc (2009), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng
hình sự, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (báo cáo cơ sở), Hà Nội.
29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946, 1959,
1980, 1992, 2013), Hiến pháp, Hà Nội.
30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Bộ luật
hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố
tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (Điều 58, Điều 62, Điều
66, Điều 63, Điều 64, Điều 65, Điều 20, Điều 16).
32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tổ
chức Cơ quan điều tra hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Hoàng Thị Minh Sơn và nhóm tác giả (2009), Hoàn thiện pháp luật tố tụng
hình sự nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp, Đề
109
tài nghiên cứu khoa học cấp trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội.
34. Võ Văn Tài, Trịnh Anh Tuấn (2015), “Nguồn gốc, bản chất, phạm vi áp
dụng của “Quyền im lặng” trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học
pháp lý, số 3.
35. Lê Minh Thông (1998), “Hoàn thiện pháp luật về quyền con người trong
điều kiện phát huy dân chủ ở nước ta ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 12.
36. Đỗ Xuân Toán (2018), Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng
hình sự, Luận văn Thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
37. Bùi Bảo Trâm (2008), Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật – Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
38. Phùng Văn Tửu (1999), Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, pháp luật
của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư
110
pháp, Hà Nội.