BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

…………/…………

BỘ NỘI VỤ ..…../..…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

BÙI QUANG ĐẠT

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG GIAI ĐOẠN

ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – NĂM 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

…………/…………

BỘ NỘI VỤ ..…../..…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

BÙI QUANG ĐẠT

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG GIAI ĐOẠN

ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TƢỜNG DUY KIÊN

HÀ NỘI – NĂM 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết luận nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán

tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Nhà trường.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Quang Đạt

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO.......................................... 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ............................................................................................................. 9 1.2. Nội dung bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ............................ 25 1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền con người tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao .................... 44 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 47 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO ........................................................................ 49 2.1. Khái quát chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ cấu, tổ chức của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ............................................. 49 2.2. Kết quả, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong bảo đảm quyền con người tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao từ năm 2013 đến nay ................................................... 58 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 80 Chƣơng 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO ................ 81 3.1. Yêu cầu của bảo đảm quyền con người trong điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ........................................ 81 3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền con người trong điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao .................................. 89 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................ 102 KẾT LUẬN .................................................................................................. 104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 107

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự

2. CQĐT : Cơ quan điều tra

3. VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao

DANH MỤC BẢNG

Tên bảng Trang

Bảng 2.1: Bảng phân tích số liệu tiếp nhận, phân loại và giải quyết 59 thông tin về vi phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

Bảng 2.2: Bảng phân tích số liệu kết quả giải quyết thông tin về vi 60 phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

Bảng 2.3: Bảng phân tích số liệu khởi tố, thụ lý, điều tra tội phạm

xâm phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát 62

nhân dân tối cao

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bảo đảm quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục

đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chăm lo

đến con người, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người phát triển toàn diện

trong thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, trong các hoạt động Nhà nước là

những quan điểm cơ bản được thể hiện trong các văn bản của Đảng và Nhà

nước ta, nhất là trong những năm gần đây. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-

6-2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng

định: “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao,

các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo đảm

công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo đảm pháp

luật và pháp chế Xã hội chủ nghĩa, có hiệu quả với các loại tội phạm và vi

phạm” [4]. Văn kiện Đại hội X của Đảng cũng đặt ra nhiệm vụ: “Xây dựng nền

tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo đảm công lý,

quyền con người”. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của

Đảng mới đây cũng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước

pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh,

bảo đảm công lý, tôn trọng và bảo đảm quyền con người” [3].

Hoạt động tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên

quan rất chặt chẽ với quyền con người, là nơi các biện pháp cưỡng chế tố tụng

hình sự được áp dụng, là nơi quyền con người của các chủ thể tố tụng, đặc

biệt là người bị buộc tội, bị hại và người làm chứng có nguy cơ dễ bị xâm hại

nhất. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho thấy cũng

1

còn nhiều trường hợp vi phạm quyền con người trong quá trình tiến hành tố

tụng. Những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, trong đó có bất cập,

hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, thái độ của người tiến hành tố tụng,

các quy định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, người tiến hành tố tụng đối

với công dân. Vì vậy, có thể nói việc bảo đảm quyền con người của các chủ

thể tố tụng nói chung, đặc biệt của các chủ thể bị can, bị cáo, bị hại và người

làm chữứng trong Tố tụng hình sự từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp

luật có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà

nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa nói chung, trong công cuộc cải cách tư

pháp nói riêng ở nước ta.

Theo quy định của pháp luật, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

nói chung, CQĐT VKSNDTC nói riêng đã tích cực tham gia đấu tranh phòng,

chống vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo đảm chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo

đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Song, trong quá trình điều

tra vẫn còn nhiều khó khăn, và đặc thù các vụ án CQĐT VKSNDTC điều tra

liên quan đến hoạt động tư pháp là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp; quyền con

người của người tham gia tố tụng đôi khi chưa có biện pháp bảo đảm hữu

hiệu trong BLTTHS. Do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau,

song sự hạn chế, thiếu đồng bộ của pháp luật có tác động đáng kể. Mặt khác,

cơ chế hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT VKSNDTC phải chịu quy

định của đồng thời các luật như: Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, Luật

Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và BLTTHS. Vậy, khi CQĐT VKSNDTC

tiến hành các hoạt động điều tra ảnh hướng đến quyền con người tham gia tố

tụng, thì cơ chế nào sẽ bảo đảm quyền của họ, nếu CQĐT VKSNDTC thực

hiện không đúng thì sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định của luật nào…

Những câu hỏi như vậy vẫn cần chúng ta nghiên cứu, làm sáng tỏ.

BLTTHS có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 có nhiều nội dung

2

mới, cần được nghiên cứu để hiểu và vận dụng đúng trong thực tiễn giải quyết

các vụ án hình sự. Việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015

nhằm phân tích, đánh giá, làm rõ nội dung, liên hệ thực tiễn để có những hiểu

biết đúng đắn, áp dụng trong thực tiễn, đồng thời đánh giá mặt bất cập, hạn

chế, đề xuất kiến nghị sửa đổi nhằm hoàn thiện chế định này là rất cấp thiết.

Do vậy, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” làm

đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Trong thời gian vừa qua, có rất nhiều các công trình nghiên cứu về quyền

con người và bảo đảm quyền con người trong Tố tụng hình sự gồm có như:

- Từ góc độ nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung trong

Nhà nước pháp quyền có các công trình “Quyền con người trong thế giới hiện

đại” của nguyên Giám đốc trung tâm quyền con người của Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh – GS. TS. Hoàng Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm; bài

báo “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảm đảm

quyền con người” của PGS. TS. Đinh Văn Mậu…

Trong các công trình này, các tác giả đã nghiên cứu khái niệm và các

đặc điểm Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa nói riêng; nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền con người và quyền

công dân; nghiên cứu các vấn đề bảo đảm quyền con người trong Nhà nước

pháp quyền… Tuy nhiên, các công trình này nghiên cứu quyền con người

dưới góc độ triết học, xã hội học hoặc lý luận chung về Nhà nước và pháp

luật. Các tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về quyền con người, đặc trưng

quyền con người; nghiên cứu mối quan hệ giữa quyền con người và quyền

công dân; khẳng định yêu cầu bảm đảm quyền con người trong Nhà nước

pháp quyền. Đồng thời, tuy có cách nhìn không hoàn toàn giống nhau và ở

các mức độ khác nhau, nhưng tác giả cũng đã xây dựng được cơ chế bảo đảm

3

quyền con người trong Nhà nước pháp quyền.

Tham khảo các quan điểm lý luận cũng như giải pháp, cơ chế chung

bảo đảm quyền con người có ý nghĩa rất quan trọng trong nghiên cứu, xây

dựng lý luận cũng như giải pháp cụ thể bảm đảm quyền con người trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT VKSNDTC.

- Từ góc độ pháp luật chuyên ngành tố tụng hình sự, cũng đã có nhiều

công trình bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực này như: Luận án tiến sĩ

luật học "Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam", Trần Hưng Bình, Viện Khoa học xã hội,

2013; “Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động

chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy

tố, xét xử vụ án hình sự”, Nguyễn Hữu Hậu, Luận án Tiến sĩ, Học viện Khoa

học xã hội, 2019.

Trong các công trình này, các tác giả nghiên cứu việc bảo vệ quyền con

người trong hoạt động tư pháp nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng.

Công trình của tác giả Trần Hưng Bình do phạm vi quá rộng, quyền con

ngừoi của người bị buộc tội được nghiên cứu tương đối sơ lược. Công trình

của tác giả Nguyễn Hữu Hậu thì phạm vi nghiên cứu chủ yếu xuất phát từ

phân tích các quyền và nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng mà chưa

đi sâu nghiên cứu các chế định liên quan khác như các nguyên tắc tố tụng

hình sự, các biện pháp cưỡng chế tố tụng liên quan đến quyền của người bị

buộc tội. Việc nghiên cứu chia từng giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

của tác giả Hậu còn dẫn đến việc trùng lặp về quyền, cơ chế bảo đảm quyền

con người của người bị buộc tội.

- Trong một số công trình khoa học khác như: “Chức năng bào chữa

trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Cao Thị Ngọc Hà, Học viện Khoa học xã

hội, năm 2019; “Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự,”

4

của Đỗ Xuân Toán năm 2018 tại Trường Đại học Luật Hà Nội; “Bảo đảm

quyền bào chữa của người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”,

của Nguyễn Tiến Linh, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2018.

Các tác giả đã nghiên cứu tương đối sâu về bảo đảm quyền còn người

trong tố tụng hình sự, nhưng chỉ nghiên cứu một quyền đó là: quyền bào chữa

của người bị buộc tội. Và cũng mới chỉ nghiên cứu qua góc độ quyền và nghĩa

vụ của nhóm người này, mà chưa nghiên cứu theo các góc độ khác như: cơ

chế bảo đảm, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

tụng.

Đánh giá chung về các công trình nêu trên: đã đề cập đến vấn đề bảo vệ

quyền con người nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng mà em được tiếp

cận. Tuy nhiên, vấn đề lý luận quan trọng như thế nào là bảo đảm quyền con

người trong tố tụng hình sự, cơ chế bảo đảm quyền con người ra sao… còn bị

bỏ ngỏ hoặc đã được đề cập ở mức độ nhất định nhưng còn thiếu đồng bộ,

thiếu thống nhất; chưa xây dựng được một cơ chế bảo đảm quyền con người

trong tố tụng hình sự về mặt lý luận để từ đó phân tích, đánh giá khoa học

thực trạng bảo đảm quyền con người, nhất là người bị buộc tội; chưa có công

trình nghiên cứu tổng thể quyền con người của những người tham gia tố tụng

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đặc biệt các vụ án thuộc thẩm quyền

của CQĐT VKSNDTC và theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 và

BLTTHS năm 2015.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

+ Mục đích nghiên cứu:

Luận văn tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về

bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT

thuộc VKSNDTC; chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế

trong thực tiễn bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình

5

sự của CQĐT thuộc VKSNDTC. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số kiến

nghị nhằm hoàn thiện các quy định bảo đảm quyền con người trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC và các giải pháp nâng cao

hiệu quả thực hiện nguyên tắc theo tinh thần cải cách tư pháp.

+ Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:

- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người như khái

niệm, đặc điểm, ý nghĩa của bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC; chủ thể của việc bảo đảm

quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc

VKSNDTC và hình thức thực hiện; quá trình hình thành và phát triển các chế

định bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của

CQĐT thuộc VKSNDTC.

- Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTHS hiện hành về bảo đảm

quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc

VKSNDTC và đánh giá được ưu điểm cũng như hạn chế của các quy định này.

- Nghiên cứu thực trạng bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC qua thực tiễn giải quyết các vụ

án hình sự của CQĐT thuộc VKSNDTC, đánh giá được những kết quả đạt

được và những hạn chế tồn tại của thực trạng này.

- Định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm

quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT thuộc

VKSNDTC.

+ Phạm vi nghiên cứu:

- Nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người của người tham gia tố

tụng theo quy định của BLTTHS năm 2015 trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự của CQĐT VKSNDTC, trên cơ sở phân tích quyền và nghĩa vụ của

6

chủ thể này. Giai đoạn điều tra được hiểu là bắt đầu kể từ khi có quyết định

khởi tố vụ án hình sự, kết thúc khi CQĐT ra một trong các quyết định: bản

kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình sự; bản kết luận

điều tra đề nghị truy tố hoặc trong trường hợp vụ án bị huỷ quyết định khởi tố

vụ án hình sự.

- Phạm vi nghiên cứu về không gian và thời gian: Đề tài nghiên cứu về

bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra của CQĐT thuộc

VKSNDTC trong khoảng thời gian từ năm 2014-2018 và giới hạn thực tiễn

trong các vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan này.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-

Lê Nin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các

quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước

pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, về bảo đảm quyền con người.

Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung về quyền con

người và từ góc độ tố tụng hình sự nói riêng. Các phương pháp nghiên cứu cụ

thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, so sánh…

5. Những đóng góp mới của đề tài

- Đề tài đã góp phần làm rõ thêm nhiều vấn đề lý luận về quyền con

người và bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của

CQĐT VKSNDTC;

- Đề tài phân tích một cách khoa học các quyền và nghĩa vụ của người

tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra theo BLTTHS năm 2015 dưới góc độ

bảo đảm quyền con người của những chủ thể này. Từ đó chỉ ra một số hạn chế

còn thiếu xót trong quy định của BLTTHS năm 2015 về vấn đề bảo đảm

quyền con người. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị, nhận xét nhằm bảo

7

đảm tốt hơn quyền con người trong tố tụng hình sự.

6. Ý nghĩa khoa học của đề tài

Đây là đề tài Luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền con

người nói chung, của người tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra nói riêng

theo BLTTHS năm 2015. Công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo

đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, phân tích, đánh giá thực trạng

quy định về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự và kiến nghị các

giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người trong các giai đoạn điều tra

vụ án hình sự của CQĐT VKSNDTC;

Đề tài là một đóng góp khiêm tốn trong việc giải quyết về mặt khoa

học, một trong những nội dung cấp thiết hiện nay ở nước ta cũng như trên thế

giới là vấn đề bảo đảm quyền con người. Quy định về quyền con người đã là

quan trọng và cần thiết, quan trọng hơn là vấn đề bảo đảm cho các quyền đó

được thực thi trong cuộc sống.

Đề tài là một tài liệu tham khảo có giá trị trong hoạt động lập pháp tố

tụng hình sự, trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự cũng như trong học tập,

nghiên cứu về Tố tụng hình sự.

7. Kết cấu của đề tài

Kết cấu của đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm

có 3 chương.

Chương 1: Những vấn lý luận về bảo đảm quyền con người trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người trong điều tra vụ án

hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm quyền con người trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân

8

tối cao.

Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI

TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa bảo đảm quyền con ngƣời trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân

dân tối cao

1.1.1. Khái niệm và các thuộc tính của quyền con người

Quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con

người được ghi nhận và bảo đảm trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận

pháp lý quốc tế. Quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn

mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ mang tính phổ biến, tính

không thể tước bỏ, tính không thể phân chia và tính liên hệ và phụ thuộc lẫn

nhau. Nhờ có những chuẩn mực này, nhân loại mới được bảo đảm nhân phẩm

và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là

một con người.

Theo Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thì quyền

con người là những bảo đảm pháp lý mang tính toàn cầu xác định trách nhiệm

của mỗi quốc gia bảo đảm các cá nhân chống lại sự thờ ơ của mỗi quốc gia

gây tổn hại nhân phẩm và các quyền tự do cơ bản của con người. Trong tài

liệu mang tính giáo dục phổ cập của Liên hợp quốc về quyền con người thì

quyền con người là những nhu cầu tự nhiên cơ bản gắn liền với mỗi cá nhân

được các quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế tôn trọng bảo đảm và bảo đảm

[25, tr. 25, 34].

Chúng ta có thể tìm thấy trong các văn kiện quốc tế về quyền con người

9

trong tố tụng hình sự như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948

(UHDR); Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966

(ICCPR); Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân; Công ước

chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người năm 1985… Quyền

con người trong tố tụng hình sự chính là sự cụ thể quyền được sống, quyền

được tự do trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Đây được coi là tiêu chuẩn về nhân

quyền trong tố tụng hình sự. Theo đó, quyền con người trong tố tụng hình sự

bao gồm những quyền sau “Điều 10, 11 Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm

1948 (UHDR) và Điều 14, 15 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính

trị năm 1966 (ICCPR)”: Quyền được xét xử công bẳng bởi một thủ tục tố

tụng hình sự; Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm

và quyền tự do cá nhân khác. Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng

chế trách nhiệm hình sự phải trên cơ sở luật định; Quyền được suy đoán vô

tội; Quyền được bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức chậm

trễ; Người dưới 18 tuổi phạm tội phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự

đặc biệt; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, quyền được nhanh

chóng minh oan, quyền không bị kết tội hai lần về cùng một hành vi…;

Những quyền trên là những quyền của người bị buộc tội là đối tượng quan

trọng nhất cần bảo đảm trong tố tụng hình sự.

Trải qua rất nhiều giai đoạn quá trình lịch sử lâu dài, Việt Nam bắt đầu

coi quyền con người cũng là vấn đề khoa học từ những năm 90, Hiến pháp

năm 2013 coi trọng quyền con người hơn, thể hiện ở việc chuyển quy định từ

Chương V thành Chương II quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ

bản của công dân và đã có những quy định rõ ràng, cụ thể hơn về quyền con

người. Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia phần lớn và cam kết thực hiện ở

cả hai phương diện lập pháp và cam kết thực hiện thực tiễn các văn kiện về

quyền con người, điều đó được thể hiện trong BLTTHS của nước ta ở mức độ

10

khác nhau. BLTTHS năm 2015 có các nguyên tắc như: Thừa nhận Tòa án là

cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự; Tôn trọng và bảo đảm

quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; Bảo đảm quyền bất

khả xâm phạm về thân thể; Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,

tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân, suy đoán vô tội;

Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp

pháp của bị hại, đương sự…

Có thể đưa ra định nghĩa về quyền con người trong tố tụng hình sự như

sau: Quyền con người trong tố tụng hình sự là những bảo đảm pháp lý xác

định trách nhiệm của quốc gia bảo đảm các cá nhân, pháp nhân chống lại sự

gây tổn hại nhân phẩm và các quyền tự do cơ bản của cá nhân, pháp nhân đó

khi họ tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mà nhà nước có nghĩa vụ

phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện trên thực tế.

Quyền con người có những đặc điểm cơ bản sau đây:

- Tính phổ biến:

Tính phổ biến của quyền con người thể hiện ở chỗ quyền con người

được áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, dân tộc,

giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân. Con người, dù ở trong những

chế độ xã hội riêng biệt, thuộc những truyền thống văn hóa khác nhau vẫn

được công nhận là con người và được hưởng những quyền và sự tự do cơ bản.

- Tính đặc thù:

Mặc dù tất cả mọi người đều được hưởng quyền con người nhưng mức

độ thụ hưởng quyền có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân của từng

người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó đang

sống. Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con người mang

những sắc thái, đặc trưng riêng gắn liền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội

11

ở khu vực đó.

- Tính không thể bị tước bỏ:

Trong quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người

không thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể

nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Tuy nhiên, trong một số

trường hợp nhất định được pháp luật quy định trước, chỉ có những chủ thể đặc

biệt mới có thể hạn chế quyền con người. Ví dụ: tù nhân bị giam do thực hiện

hành vi phạm tội.

- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền:

Tất cả các quyền con người đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc

thực hiện tốt quyền này sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có

một quyền bị xâm phạm thì sẽ ảnh hưởng đến các quyền khác. Ví dụ: nếu một

người không được làm việc, không có một mức sống đảm bảo cho sự sống

còn của cá nhân thì người đó sẽ ít chú ý đến các quyền dân chủ như Quyền

bầu cử hoặc Quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội.

* Một số quyền con người cơ bản

Quyền con người là một phạm trù đa diện, có nội dung bao trùm lên

nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn

đề này, khoa học pháp lý đã chia quyền con người theo các lĩnh vực hoạt

động của đời sống con người thành hai nhóm chính: các quyền dân sự; chính

trị và các quyền về kinh tế, văn hóa. Các quyền này được ghi nhận trong

Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (UDHR) năm 1948 sau đó được

cụ thể hóa trong hai công ước về quyền con người của Liên hợp quốc năm

1966, gồm: Công ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước về

các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR).

- Nhóm quyền về dân sự, bao gồm: quyền không bị phân biệt đối xử,

được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật; quyền sống, tự do và an ninh cá

12

nhân; quyền xét xử công bằng; quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử

hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; quyền được bảo vệ để

khỏi bị bắt làm nô lệ hay nô dịch; quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ

tùy tiện; quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những

người bị tước tự do; quyền xét xử công bằng; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền

được bảo vệ đời tư; quyền tự do chính kiến, niềm tin, tín ngưỡng, tôn giáo;

quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân...

- Nhóm các quyền về chính trị, bao gồm: quyền tự do lập hội; quyền tự

do ý kiến và biểu đạt; quyền được tham gia vào đời sống chính trị; quyền tự

do hội họp một cách hòa bình; quyền bầu cử, ứng cử...

- Nhóm các quyền về kinh tế, bao gồm: quyền làm việc và hưởng thù

lao công bằng, hợp lý; quyền tự do kinh doanh; quyền sở hữu; quyền sở hữu

hợp pháp về thừa kế; quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích

đáng; quyền được sống trong môi trường trong lành; quyền tiếp cận các dịch

vụ y tế...

- Nhóm các quyền về xã hội, bao gồm: quyền được hưởng an sinh xã

hội; quyền được hỗ trợ về gia đình; quyền được hưởng sức khỏe về thể chất

và tinh thần; quyền trẻ em; quyền thanh niên; quyền người cao tuổi...

- Nhóm các quyền về văn hóa, bao gồm: quyền được giáo dục; quyền

nghiên cứu, phát minh, sáng chế; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa

và được hưởng các thành tựu khoa học...

1.1.2. Khái niệm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Trước khi tìm hiểu về khái niệm bảo đảm quyền con người trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT VKSNDTC, chúng ta cần xác định

được hai phạm vi cơ bản: một là khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự;

hai là khái niệm bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự của CQĐT

13

VKSNDTC.

Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi

giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và

tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan có thẩm

quyền tiến hành tố tụng. Như vậy, giai đoạn tố tụng hình sự được hiểu là:

bước của quá trình tố tụng hình sự, tương ứng với chức năng nhất định, của

từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm

vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc, để giải

quyết vụ án hình sự một cách công minh, khách quan, có căn cứ và đúng pháp

luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo đảm vững chắc các

quyền và tự do của công dân [7].

Theo đó, giai đoạn điều tra vụ án hình sự chiếm một vị trí quan trọng

trong tố tụng hình sự. Hiện nay, các quan điểm khoa học đa số đều cho rằng

giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng

hình sự, được BLTTHS quy định từ chương VIII đến chương XIII. “Giai

đoạn điều tra vụ án là giai đoạn Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành các biện pháp điều tra hợp

pháp, thu thập chứng cứ, tài liệu để xác định tội phạm và người phạm tội. Giai

đoạn này kết thúc ở việc Cơ quan điều tra kết thúc điều tra và đề nghị truy tố

bị can hoặc đình chỉ điều tra vụ án hình sự. [22, tr. 14]”

Thời hạn điều tra được BLTTHS quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn

điều tra (kể cả các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa

không quá 4 tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất

nghiêm trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không

quá 20 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ

án hình sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn

điều tra nêu trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy

cần thiết, thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất

14

phức tạp của vụ án mà Viện trưởng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn.

Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải

quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc

truy tố của Viện kiểm sát, xét xử của Tòa án, mọi quyết định của Tòa án về sự

việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ sở các chứng cứ

đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là

cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng mọi biện pháp do pháp luật tố tụng

hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các

tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm

tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm.

Nhiệm vụ trên được thực hiện bởi các chủ thể là CQĐT và các cơ quan khác

được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tất cả các hoạt động tố tụng

được thực hiện bởi chủ thể của giai đoạn điều tra đều phải tuân theo đúng các

quy định của Luật tố tụng hình sự góp phần giải quyết vụ án hình sự được

nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật.

Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình

sự, theo đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra, trong thời hạn nhất định, được sử dụng các

biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định, để thu thập chứng cứ chứng

minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề cần chứng minh khác có liên

quan đến vụ án, làm cơ sở pháp lý để giải quyết vụ án, là tiền đề cho các giai

đoạn tố tụng hình sự tiếp theo.

Giai đoạn này bắt đầu kể từ khi có quyết định khởi tố vụ án, kết thúc

khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra và đề nghị truy tố bị can hoặc đình chỉ

điều tra vụ án hình sự.

Đặc điểm: Từ định nghĩa về giai đoạn điều tra vụ án hình sự nêu trên,

có thể rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn này như sau:

Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá

15

trình tố tụng hình sự, bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết

định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT hoặc các cơ quan khác được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (sau đây gọi chung là

CQĐT) chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và kết luận điều tra sang Viện kiểm sát đề

nghị truy tố hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.

Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là CQĐT áp

dụng mọi biện pháp điều tra do BLTTHS quy định để chứng minh tội phạm

và người phạm tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án bao gồm cả tình

tiết buộc tội và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp

các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm.

Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra

chỉ là CQĐT và Viện kiểm sát. Các tài liệu do chính hoạt động của các chủ

thể nói trên tiến hành thu thập, đúng quy định mới được coi là những chứng

cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Giai đoạn điều tra vụ án là giai đoạn Cơ quan điều tra, cơ quan được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành các biện pháp điều

tra hợp pháp, thu thập chứng cứ, tài liệu để xác định tội phạm và người phạm

tội. Giai đoạn này kết thúc ở việc Cơ quan điều tra kết thúc điều tra và đề nghị

truy tố bị can hoặc đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Trong giai đoạn này, Viện

kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự.

Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là

biện pháp điều tra, như: hỏi cung bị can; lấy lời khai; khám xét khẩn cấp, thu

giữ… hoặc các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, như: tạm giam;

cấm đi khỏi nơi cư trú; áp giải, phong tỏa tài khoản v.v... Các biện pháp được

áp dụng phải theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Để kịp thời thu thập chứng cứ, ngăn chặn hành vi phạm tội, đối với sự

16

việc có dấu hiệu phạm tội mà chưa xác định rõ thẩm quyền điều tra thì cơ

quan điều tra nào phát hiện trước phải áp dụng ngay các biện pháp điều tra

theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; khi đã xác định được thẩm quyền

điều tra thì chuyển vụ án cho cơ quan điều tra có thẩm quyền theo quy định

của BLTTHS.

CQĐT VKSNDTC là đơn vị trực thuộc cơ cấu tổ chức của VKSNDTC.

CQĐT VKSNDTC có thẩm quyền điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư

pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và XXIV

của Bộ luật hình sự năm 2015, xảy ra trong hoạt động tư pháp, mà người

phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát,

Cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.

CQĐT VKSNDTC gồm có các phòng điều tra và bộ máy giúp việc.

Hoạt động điều tra của CQĐT VKSNDTC bảo đảm cho việc điều tra

vụ án được khách quan, toàn diện và chính xác, đúng sự thật, đúng quy định

của pháp luật. Trường hợp chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì

phải đề nghị truy tố bị can. Trường hợp qua điều tra chứng minh được không

có hành vi phạm tội xảy ra, hành vi không cấu thành tội phạm hoặc có căn cứ

khác để đình chỉ điều tra theo quy định của pháp luật thì phải ra quyết định

đình chỉ điều tra, tránh làm oan người vô tội.

Ở góc độ nhất định, hoạt động điều tra của CQĐT nói chung đã ảnh

hưởng tới quyền con người của mỗi cá nhân.

Quyền con người là vấn đề cơ bản nhất của mọi thời kỳ, luôn trở thành

nội dung thu hút được sự quan tâm cả về phương diện lý luận, trong nghiên

cứu khoa học, cũng như trong hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia, của từng

khu vực và mang tính toàn cầu. Ở góc độ chung nhất, quyền con người có thể

được hiểu là đặc quyền vốn có của từng cá nhân nhằm bảo vệ nhân phẩm và

nâng cao giá trị của họ với tư cách là con người. Quyền con người vừa phản

ánh các nhu cầu tự nhiên, khách quan, vừa thể hiện các quan hệ xã hội, ý chí

17

chủ quan của từng con người và của xã hội. Nó là những đặc quyền của con

người đã được pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia ghi nhận, điều chỉnh,

do chính cá nhân con người nắm giữ trong mối quan hệ với tự nhiên, với xã

hội, với nhà nước và với những cá nhân con người khác.

Bảo đảm theo nghĩa chung nhất “là làm cho chắc chắn thực hiện được”.

Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự xuất phát từ yêu cầu bảo vệ

quyền con người nói chung và bảo đảm nguyên tắc xác định sự thật của vụ án

trong tố tụng hình sự. Tôn trọng và bảo đảm quyền con người có ảnh hưởng

tích cực đến chất lượng xét xử và việc xác định sự thật khách quan của vụ án.

Bảo đảm quyền con người là chống lại sự xâm hại đến những đặc lợi

vốn có của con người được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội nhất định. Nhận thức chung cho rằng, chủ thể cơ bản của quyền con

người là các cá nhân, ngoài ra trong một số trường hợp, chủ thể của quyền con

người còn là các nhóm người. Chủ thể cơ bản có nghĩa vụ bảo đảm quyền con

người là các nhà nước, cụ thể là các hành pháp, lập pháp và tư pháp. Ngoài các

chủ thể nhà nước, các chủ thể phi nhà nước như: các đảng phái chính, các tổ

chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế, các doanh nghiệp, tùy theo vị thế của

mình, cũng có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền con người.

Bảo đảm quyền con người là việc Nhà nước bằng sức mạnh và ý chí

của mình để các quyền của con người không bị xâm phạm và được thực thi

trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội. Thông qua các bảo đảm chính

trị, kinh tế, tư tưởng, tổ chức, pháp luật, Nhà nước tạo cho con người được

thực thi các quyền cơ bản của mình, đồng thời loại bỏ những rào cản làm hạn

chế, hoặc không được thực thi các quyền đó.

Bảo đảm quyền con người là nguyên tắc hiến định trong Hiến pháp

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nguyên tắc cơ bản của pháp

luật tố tụng hình sự Việt Nam, trở thành phương châm, quan điểm chủ đạo chi

phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng

18

pháp luật tố tụng hình sự.

Trong khoa học pháp lý hình sự, có nhiều quan điểm khác nhau về diện

chủ thể mà quyền con người cần được bảo đảm trong tố tụng hình sự. Một số

nhà luật học cho rằng “bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo

đảm quyền của người bị buộc tội” [25, tr.43], có quan khác lại cho rằng “bảo

đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo đảm quyền của những người

tham gia tố tụng và của những người tiến hành tố tụng hình sự” [23, tr. 99].

Trước hết phải khẳng định quan điểm của tác giả về bảo đảm quyền

con người trong tố tụng hình sự, chính là bảo đảm quyền của nhóm người yếu

thế. Căn cứ vào tính chất, nội dung quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, có thể

chia thành hai nhóm.

- Nhóm thứ nhất: nhóm chủ thể tham gia tố tụng vì có quyền và nghĩa

vụ liên quan trực tiếp đến hoạt động điều tra của các cơ quan tiến hành tố

tụng, nhóm chủ thể này gồm: một loại với tư cách pháp lý là người bị bắt,

người bị tạm giam, tạm giữ, bị can.

- Nhóm thứ hai: nhóm chủ thể khác tham gia tố tụng với tư cách là các

bên đương sự như: người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, người

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Như vậy, bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình

sự là hoạt động của các chủ thể tiến hành tố tụng, kể từ khi có quyết định khởi

tố vụ án, kết thúc khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra và đề nghị truy tố bị

can hoặc đình chỉ điều tra vụ án hình sự, đảm bảo cho người tham gia tố tụng

thực hiện các đặc quyền vốn có của từng cá nhân trong quá trình giải quyết

vụ án hình sự.

Từ những phân tích trên, chúng ta rút ra định nghĩa bảo đảm quyền con

người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát nhân dân tối cao là hoạt động của chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm

19

quyền, đảm bảo các yếu tố cần và đủ cho người tham gia tố tụng thực hiện

các đặc quyền cá nhân vốn có của họ, kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án

hình sự cho đến khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình

sự, nhằm giải quyết vụ án theo đúng quy định pháp luật.

1.1.3. Các đặc điểm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Thứ nhất, bảo đảm quyền con người là một nguyên tắc, là phương

châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động tố

tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự.

Nguyên tắc cơ bản này đã thể hiện đầy đủ quan điểm định hướng của Đảng và

Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền con người. Trong số 23 nguyên tắc cơ

bản được quy định BLTTHS năm 2015 (từ Điều 7 - Điều 33) [31] những cấp

độ khác nhau đều thể hiện tinh thần bảo vệ quyền con người với hai định

hướng: (1) Xử lý nhanh chóng, kịp thời đúng pháp luật đối với tội phạm xâm

phạm quyền con người và (2) Đảm bảo không làm ảnh hưởng tới quyền con

người khi tiến hành tố tụng.

Thứ hai, quyền con người trong tố tụng hình sự bị ảnh hưởng, chủ yếu

thông qua áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế và biện

pháp điều tra. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành

tố tụng được áp dụng nhiều biện pháp ngăn chặn như: Bắt; tạm giữ; tạm giam;

cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lãnh; đặt tiền để bảo đảm; hoặc biện pháp cưỡng

chế: phong tỏa tài khoản, kê biên tài sản, dẫn giải, áp giải hoặc các biện pháp

điều tra như: hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất, nhận dạng.... các biện

pháp này ít nhiều đều ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người bị

buộc tội. Nhằm tránh việc lợi dụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và

người tiến hành tố tụng khi áp dụng áp dụng những biện pháp này xâm hại

đến quyền con người, BLTTHS đã quy định chặt chẽ mục đích, căn cứ, thẩm

20

quyền, thủ tục áp dụng.

Thứ ba, phạm vi thực hiện việc bảo đảm quyền con người là trong giai

đoạn điều tra những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT

VKSNDTC. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự bắt đầu kể từ khi có quyết định

khởi tố vụ án, kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc

đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của

CQĐT VKSNDTC là các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về

tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và XXIV của Bộ luật hình

sự xảy ra trong hoạt động tư pháp, mà người phạm tội là cán bộ, công chức

thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, người có

thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp, khi các tội phạm này thuộc thẩm

quyền xét xử của Tòa án nhân dân.

Thứ tư, chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng là CQĐT VKSNDTC.

CQĐT là đơn vị trực thuộc bộ máy làm việc của VKSNDTC, làm việc theo

chế độ Thủ trưởng. Mọi hoạt động của CQĐT phải tuân thủ quy định của

pháp luật, quy định của Ngành. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thuộc

thẩm quyền của mình, CQĐT VKSNDTC có trách nhiệm chứng minh tội

phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở

cho việc truy tố của Viện kiểm sát, xét xử của Toà án. Giai đoạn điều tra thực

chất là quá trình làm sáng tỏ tất cả sự thật khách quan vụ án của Cơ quan điều

tra, nhằm phục vụ cho việc xử lý tội phạm bảo vệ quyền con người. Vì vậy

các quy định về điều tra của BLTTHS đều hướng tới mục tiêu này.

Thứ năm, đối tượng được bảo đảm quyền con người trong vụ án là

người tham gia tố tụng, đối với người bị buộc tội phải là cán bộ, công chức

thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, người có

thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.

1.1.4. Ý nghĩa của bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự của Cơ quan điều tra vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bản chất của giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là việc xác định chân lý

21

khách quan, tìm ra sự thật của vụ án, trong quá trình này cơ quan tiến hành tố

tụng phải thực hiện thẩm quyền của mình theo nguyên tắc “được làm những gì

mà pháp luật cho phép” còn người tham gia tố tụng “được làm những gì mà

pháp luật không cấm”. Theo quy định của pháp luật, các chủ thể được tiến hành

thực hiện các quan hệ tố tụng một cách công khai, trực tiếp, dân chủ nhằm giải

quyết các vấn đề liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật, các tranh chấp về

quyền, nghĩa vụ và các yêu cầu khác của những người tham gia tố tụng.

Dưới góc độ nhân quyền ta nhận thấy sự cần thiết phải bảo đảm quyền

con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung, các vụ án hình sự

thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC nói chung được thể hiện:

Thứ nhất, xét về vị trí của người tiến hành tố tụng hình sự là người

nhân danh Nhà nước thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự theo quy định

của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách

nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo đảm. Người tiến hành tố tụng

hình sự là người giữ vị trí trung tâm trong hoạt động tố tụng hình sự. Người

tiến hành tố tụng hình sự có vị trí mang tính độc lập về nhiệm vụ, quyền hạn

trong khi thực hiện các hoạt động tố tụng được giao. Khi họ thực thi nhiệm

vụ, không cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào được can thiệp, tác động để có

thể buộc họ làm trái pháp luật; không cá nhân, tổ chức hay cơ quan nào được

lấy thẩm quyền hành chính để thay thế, chỉ đạo hoạt động tố tụng của họ, trừ

khi người đó cố tình vi phạm pháp luật. Các hoạt động tố tụng của người tiến

hành tố tụng hình sự là việc áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi vi phạm

pháp luật, được trực tiếp sử dụng quyền lực Nhà nước trong khi thi hành công

vụ; có ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài

sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân.

Những người tham gia tố tụng là đối tượng chịu sự tác động của những

hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng ở mức độ ít hay nhiều. Do đó

22

việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung và bảo đảm

quyền con người trong giai đoạn điều tra nói riêng là vấn đề được đặt lên

hàng đầu.

Thứ hai, giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là một quá trình làm sáng

tỏ sự thật khách quan của vụ án, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc

biệt là CQĐT phải áp dụng nhiều biện pháp tố tụng được quy định trong

BLTTHS, trong đó có cả các biện pháp ngăn chặn để bảo đảm việc phát hiện

và xử lý tội phạm, tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm, ngăn chặn tội phạm có khả

năng bỏ trốn, tiếp tục phạm tội. Đây là vấn đề nhạy cảm liên quan trực tiếp

đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác

của công dân, đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Vì vậy đòi hỏi công tác

khởi tố, điều tra phải hết sức chính xác, thận trọng khách quan đúng pháp

luật. Ví dụ, xuất phát từ bản chất pháp lý của hoạt động tố tụng mà căn cứ

khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can khác nhau. Quyết định khởi tố vụ án hình

sự chưa hướng sự buộc tội vào con người cụ thể nào, mà chỉ tạo cơ sở pháp lý

để tiến hành các biện pháp điều tra theo luật tố tụng hình sự. Còn căn cứ khởi

tố bị can phải là “có đầy đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm”. Bởi vì, khi

người tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố bị can là đã thực hiện việc truy

cứu trách nhiệm hình sự đối với một người cụ thể; quyết định đó ảnh hưởng

rất lớn đến quyền, lợi ích của người bị khởi tố.

Thứ ba, để đạt được mục đích phát hiện, điều tra, xử lý chính xác,

khách quan tội phạm và người phạm tội, Nhà nước bất đắc dĩ phải ban hành

một số quy định hạn chế quyền con người của công dân nói chung, người

tham gia tố tụng nói riêng. Quyền con người trong giai đoạn điều tra gắn rất

chặt chẽ với các quy định về các biện pháp điều tra và quy định các biện pháp

ngăn chặn được áp dụng trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, do sự thiếu hợp tác

của người tham gia tố tụng với người tiến hành tố tụng trong việc đi tìm, xác

23

định sự thật khách quan của các chứng cứ liên quan đến vụ án, nên các quyết

định của người tiến hành tố tụng không phản ánh được chính xác, toàn diện

nội dung sự việc, hoặc do sự tác động chi phối từ bên ngoài vào hoạt động

điều tra, sự chi phối, tác động này có thể là do lãnh đạo của cấp trên đối với

cấp dưới, của cơ quan tiến hành tố tụng đối với người tiến hành tố tụng, cũng

có thể do quen biết, người thân của người tham gia tố tụng… nên các quyết

định trong hoạt động dễ thiếu sự khách quan, trung thực, đầy đủ… hay do một

bộ phận những người tiến hành tố tụng bị hạn chế về trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, tha hóa về đạo đức lối sống trong việc thực hiện các chức năng

thẩm quyền của mình làm cho quyết định của họ trong vụ án thiếu khách

quan, toàn diện, đầy đủ và không đúng pháp luật. Hơn nữa, các hạn chế, các

biện pháp cưỡng chế được quy định và thực hiện chỉ ở mức độ cần và đủ để

phát hiện, xử lý tội phạm, người phạm tội mà không ảnh hưởng nghiêm trọng

đến quyền con người.

Vì vậy, trong hoạt động điều tra nhiệm vụ không bỏ lọt tội phạm phải

đi liền với không làm oan người vô tội; nhiệm vụ phát hiện xử lý tội phạm

phải đi liền với việc bảo đảm quyền con người. Hoạt động tố tụng hình sự nói

chung và hoạt động điều tra nói riêng phải được thực hiện trên cơ sở coi trọng

các yếu tố đó; bỏ qua hoặc coi nhẹ yếu tố này hay yếu tố khác nói trên đều

ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đạt được mục đích tố tụng. Nếu muốn

chứng minh tội phạm, xử lý tội phạm bằng bất cứ giá nào thì dễ dẫn đến vi

phạm quyền con người; ngược lại nếu quá chú ý đến việc bảo đảm quyền con

người thì sẽ làm cho hoạt động điều tra thiếu hiệu quả, không thể phát hiện,

xử lý kịp thời người phạm tội, thậm chí bỏ lọt tội phạm.

Các hoạt động trong giai đoạn điều tra có ý nghĩa xác lập cơ sở để truy

cứu trách nhiệm hình sự, thực hiện quyền công tố. Nếu hoạt động điều tra

đúng pháp luật, sẽ bảo đảm được quyền con người, tuy nhiên “điều tra quá

24

lớn mà không bị hạn chế thì sẽ dễ xâm hại đến quyền con người, mà trong

giai đoạn điều tra quá coi trọng sự bảo đảm quyền con người thì không đạt

được mục đích điều tra” [21, tr. 44]. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,

một mặt phải bảo đảm đầy đủ các yêu cầu là thu thập chứng cứ phạm tội, truy

bắt tội phạm, chứng minh sự thật vụ án, mặt khác phải bảo đảm quyền lợi cơ

bản cho những đối tượng liên quan, đặc biệt là bị can, đồng thời không ngừng

cải biến, điều chỉnh sao cho phù hợp với trình độ phát triển của xã hội, nỗ lực

thực hiện những động thái bình ổn và cân bằng của mối quan hệ giữa hoạt

động điều tra và bảo đảm tôn trọng quyền con người.

Do đó, trong giai đoạn điều tra, việc tuân thủ nguyên tắc pháp chế phải

được thực thi một cách triệt để từ các phía các chủ thể tiến hành tố tụng. Đối

với CQĐT VKSNDTC càng có tính cấp thiết “mọi vi phạm pháp luật, dù nhỏ,

từ phía CQĐT đều tạo ra khả năng lớn khiến hoạt động điều tra đi chệch khỏi

quỹ đạo của mình, gây tổn hại trái pháp luật cho quyền và lợi ích của những

người tham gia tố tụng” [16, tr. 405].

Thứ tư, thông qua hoạt động điều tra làm rõ sự thật khách quan của vụ

án, CQĐT VKSNDTC đã giữ vững và bảo đảm pháp chế, ổn định trật tự xã

hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền. Về phía mình, Nhà nước pháp

quyền lại tiếp tục làm cho pháp luật về tổ chức và điều tra của CQĐT, về các

nguyên tắc của hoạt động điều tra được hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn, tôn trọng

và bảo đảm quyền con người hơn, cũng như bảo đảm giải quyết vụ án hình sự

được khách quan, công bằng, dân chủ và đúng pháp luật hơn. Bởi lẽ, Nhà

nước mà trong đó pháp luật được đề cao, pháp chế được ngự trị thì các quyền

tự do của con người được bảo đảm, đồng thời tất cả các hành vi phạm tội và

hành vi vi phạm trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự đều bị xử lý nghiêm

minh, kịp thời và đúng pháp luật.

1.2. Nội dung bảo đảm quyền con ngƣời trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một

25

phần của bảo đảm quyền con người, cụ thể hoá, hiện thực hoá các quy định

của Hiến pháp về bảo đảm quyền con người nói chung, bảo đảm quyền con

người trong tố tụng hình sự nói riêng. Nói cách khác, bảo đảm quyền con

người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của CQĐT VKSNDTC là một bộ

phận của bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Quan điểm, mục

tiêu, yêu cầu về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình

sự được quy định trong BLTTHS và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự,

thống nhất với quan điểm, mục tiêu, yêu cầu về bảo đảm quyền con người

trong tố tụng hình sự cũng như trong các lĩnh vực pháp luật, phạm trù xã hội

khác. Hình thức, biện pháp, đối tượng, chủ thể thực hiện việc bảo đảm quyền

con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự gắn liền với các hoạt động,

hành vi, trình tự, thủ tục tố tụng hình sự được thực hiện trong quá trình khởi

tố, điều tra của CQĐT VKSNDTC và VKSNDTC (cụ thể là Vụ thực hành

quyền công tố và kiểm sát án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức

vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp).

Giai đoạn điều tra vụ án hình sự bắt đầu kể từ khi có quyết định khởi tố

vụ án cho đến khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc đình chỉ

điều tra vụ án hình sự. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát toàn diện hoạt

động điều tra vụ án, đảm bảo yêu cầu về căn cứ, tính hợp pháp, tính cần thiết

của mọi hoạt động, hành vi, trình tự, thủ tục điều tra. Đặc biệt là các hoạt động,

hành vi, trình tự, thủ tục tố tụng do CQĐT tiến hành có liên quan trực tiếp đến

quyền con người như khởi tố bị can, bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét…

Bảo đảm quyền con người của người tham gia quan hệ tố tụng hình sự

trong giai đoạn điều tra bao gồm hai nội dung. Nội dung thứ nhất: bảo đảm

các quyền con người đã, đang, có khả năng bị hành vi tội phạm xâm hại –

chống lại sự xâm hại các quyền con người của nạn nhân tội phạm. Nội dung

thứ hai: bảo đảm, không xâm hại các quyền con người của người tham gia tố

tụng hình sự trong giai đoạn điều tra. Tức là chống lại sự xâm hại, và khôi

26

phục quyền con người đã, đang bị xâm hại trong quan hệ tố tụng hình sự và

trong khi thực hiện chức năng ngăn chặn tội phạm, khôi phục công lý, chứng

minh tội phạm, người phạm tội, hậu quả của tội phạm… không xâm hại các

quyền con người của chủ thể tham gia quan hệ tố tụng hình sự. Hai nội hàm

này của yêu cầu bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra là hai mặt

thống nhất, phản ánh bản chất nhân đạo, văn minh của nền tố tụng hình sự

nước ta.

Chủ thể quyền con người - đối tượng được bảo đảm quyền con người

bằng các quy định pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự chia làm 02 nhóm, gồm: những người bị tình nghi phạm tội – người bị

buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can) và người bị hại, người làm

chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan đến

vụ án (gọi chung là đương sự)…

1.2.1. Các chủ thể được bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

* Bảo đảm quyền con người đối với người bị buộc tội

Người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra bao gồm người bị bắt, người

bị tạm giữ, bị can trong vụ án.

- Người bị bắt là chủ thể tham gia tố tụng có đặc điểm riêng biệt, khác

với các chủ thể tham gia tố tụng khác. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,

người bị bắt có thể là đương sự chưa bị khởi tố bị can, sẽ bị tạm giữ hoặc đã

bị khởi tố bị can, sẽ bị tạm giam. Trường hợp chưa bị khởi tố bị can, sau khi

bị bắt - chính thức tham gia tố tụng với tư cách là người bị bắt – chủ thể này

sẽ trở thành – có tư cách tham gia tố tụng – người bị tạm giữ. Nếu đã bị khởi

tố bị can, sau khi bị bắt, chủ thể này sẽ trở thành – có tư cách tham gia tố tụng

– người bị tạm giam (trừ trường hợp bắt người bị truy nã – đã bị khởi tố bị

can). Tư cách tố tụng, các quyền tố tụng, trong đó có quyền con người của

27

người bị bắt phát sinh từ thời điểm bị bắt. Việc xác định thời điểm kết thúc tư

cách tố tụng của người bị bắt là vấn đề pháp lý phức tạp, chưa có quy định cụ

thể và đang còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau.

Xuất phát từ yêu cầu nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền

con người của người bị bắt, em đồng ý rằng thời điểm một người bị bắt kết

thúc tư cách tham gia tố tụng là người bị bắt khi chuyển sang tư cách là người

bị tạm giữ, tạm giam và việc tạm giữ, tạm giam đã xảy ra trên thực tế hoặc

được trả tự do. Điều 114 BLTTHS năm 2015 quy định sau khi bắt hoặc nhận

người bị bắt do phạm tội quả tang, do bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,

CQĐT phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm

giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt [31]. Như vậy, thời gian một người tham

gia tố tụng với tư cách người bị bắt do phạm tội quả tang, do bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp là không quá 24 giờ kể từ thời điểm bị bắt.

Đối với người bị bắt theo quyết định truy nã, CQĐT tiếp nhận người bị

bắt phải lấy lời khai và thông báo ngay cho CQĐT đã ra quyết định truy nã.

Trường hợp xét thấy, CQĐT đã ra quyết định truy nã không thể tiếp nhận

ngay người bị bắt, thì CQĐT tiếp nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định

tạm giữ và thông báo cho CQĐT đã ra quyết định truy nã. Ngay sau khi nhận

được thông báo, CQĐT đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt phải ra

ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp

phê chuẩn cho CQĐT nhận người bị bắt. CQĐT nhận người bị bắt phải giải

ngay người bị bắt đến trại tạm giam gần nhất. Như vậy, thời gian một người

tham gia tố tụng với tư cách là người bị bắt theo quyết định truy nã chưa được

xác định cụ thể, em cho rằng đó là “ngay sau khi lấy lời khai”.

Thời gian một người tham gia tố tụng với tư cách là người bị bắt trong

trường hợp bắt bị can để tạm giam cũng chưa được xác định cụ thể. Có thể bắt

đầu từ thời điểm CQĐT thi hành lệnh bắt, kết thúc khi người đó được giao

28

cho nhà tạm giữ, trại tạm giam.

Thời gian tham gia tố tụng của người bị bắt có thể trong thời hạn 24

giờ, có thể rất ngắn, nhưng cũng có thể kéo dài do chưa được quy định cụ thể.

Trong thời gian này, người bị bắt có các quyền như: Được nghe, nhận lệnh

giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn

cấp, quyết định truy nã; Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt; Được thông báo,

giải thích về quyền và nghĩa vụ theo quy định; Trình bày lời khai, trình bày ý

kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội; Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Trình bày ý kiến

về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố

tụng kiểm tra, đánh giá; Tự bào chữa, nhờ người bào chữa; và quyền khiếu

nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng trong việc giữ người, bắt người [31].

Theo em người bị bắt là người bị tạm thời hạn chế quyền tự do, quyền

bất khả xâm phạm thân thể, các quyền con người khác... Bảo đảm quyền con

người của người bị bắt là bảo đảm quyền được sống, chăm sóc sức khoẻ, bảo

đảm các điều kiện cần và đủ để người bị bắt thực hiện các quyền nhân thân,

quyền dân sự, quyền chính trị không bị hạn chế, tước đoạt. Cụ thể, người bị

bắt có quyền được biết lý do mình bị bắt; được giải thích về quyền và nghĩa

vụ; được trình bày lời khai; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; khiếu nại về việc

bị bắt, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến

hành tố tụng, yêu cầu luật sư bảo đảm quyền lợi, quyền im lặng...

- Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ là đảm bảo những

điều kiện cần và đủ để người bị tạm giữ thực hiện được các quyền của mình.

Điều 59 BLTTHS năm 2015 quy định: Người bị tạm giữ là người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo

29

quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có

quyết định tạm giữ. Người bị tạm giữ có quyền: được biết lý do mình bị tạm

giữ; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; trình bày lời khai; tự bào chữa

hoặc nhờ người khác bào chữa; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; khiếu nại về

việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng [31].

- Tương tự như đối với người bị tạm giữ, bảo đảm quyền con người của

bị can là đảm bảo những điều kiện cần và đủ để bị can thực hiện các quyền

của mình. Điều 60 BLTTHS quy định bị can là người đã bị khởi tố về hình

sự. Bị can có quyền: được biết mình bị khởi tố về tội gì; được giải thích về

quyền và nghĩa vụ; trình bày lời khai; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; đề nghị

thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; tự bào

chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; được nhận quyết định khởi tố; quyết

định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều

tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình

chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo

quy định của BLTTHS; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,

người có thẩm quyền tiến hành tố tụng [31].

Tuy nhiên, đối với loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội

phạm tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và XXIV Bộ luật

Hình sự năm 2015, thì đối tượng bị coi là người bị buộc tội chỉ có thể là cán

bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi

hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Đó là những cán

bộ có chức danh pháp lý hoặc không có chức danh pháp lý nhưng được giao

nhiệm vụ hoạt động tư pháp hoặc đồng phạm với cán bộ có chức danh pháp lý

phạm tội trong quá trình làm nhiệm vụ. Ví dụ: Chiến sĩ được giao nhiệm vụ

bảo vệ trại tạm giam có hành vi thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn

[30]; cán bộ trinh sát, cán bộ điều tra, sinh viên thực tập cũng có thể là chủ thể

30

của Tội dùng nhục hình (Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015)… [30]

Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định khái quát và chính xác hơn, không

liệt kê các chủ thể cụ thể trong các cơ quan: CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án

và cơ quan thi hành án, mà quy định rõ đối tượng là trong hoạt động tố tụng

và thi hành án. Bởi ngoài hoạt động tư pháp, các cơ quan tư pháp còn có

hoạt động khác như: quản lý hành chính nhà nước, dân sự (không phải là

hoạt động tư pháp), nên không thể coi tất cả hoạt động của cơ quan tư pháp

đều là hoạt động tư pháp, mà chỉ những hoạt động tố tụng và thi hành án

mới trở thành đối tượng của nhóm tội phạm này. Ngoài hoạt động tố tụng

của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và hoạt động thi hành án (hình

sự, dân sự), còn có các chủ thể khác cũng tham gia vào hoạt động tố tụng,

như: Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Bộ

đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, Kiểm ngư và các cơ

quan trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến

hành một số hoạt động điều tra); các chủ thể tham gia tố tụng (người bào

chữa, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, dịch

thuật…); các chủ thể có nhiệm vụ bổ trợ hoạt động tư pháp (công chứng,

giám định tư pháp…) hoặc hỗ trợ hoạt động tư pháp (cảnh sát thi hành án

hình sự và hỗ trợ tư pháp). Mặt khác, ngoài hoạt động xét xử, Tòa án còn

tiến hành các hoạt động khác, như: xác minh, thu thập chứng cứ, tài liệu của

các vụ án dân sự, hành chính, tiến hành hòa giải hoặc ban hành các quyết

định tố tụng khác… cũng là hoạt động tư pháp.

* Bảo đảm quyền con người đối với tư cách là các đương sự

Các đương sự trong vụ án hình sự là những người không thuộc nhóm

người bị buộc tội, bao gồm người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân

sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi tham gia tố

tụng trong vụ án hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra nói riêng,

31

những người này cũng có quyền và nghĩa vụ nhất định cần được bảo đảm.

Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc

là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe

dọa gây ra [31]. Như vậy, bị hại có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Tuy

nhiên, chúng ta chỉ xem xét bị hại dưới góc độ cá nhân, vì quyền con người

chỉ gắn với cá nhân. Một số quyền của bị hại hoặc người đại diện hợp pháp

của họ liên quan đến quyền con người như: đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

được thông báo về kết quả điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,

người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS; đề nghị mức

bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường; tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền

và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;

tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham

gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

bị hại; xem biên bản phiên tòa; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;

khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng.

Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến

nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng triệu tập đến làm chứng [31]. Người làm chứng có địa vị quan trọng

trong mọi giai đoạn tố tụng của vụ án hình sự. Việc quy định, bảo đảm tính

mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi khác của người làm

chứng để họ thực hiện tốt vai trò làm chứng của mình có ý nghĩa quan trọng

đối với việc giải quyết vụ án, đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như bảo

đảm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. BLTTHS năm

2015 quy định người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ

32

tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp

khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; khiếu nại quyết định,

hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan

đến việc mình tham gia làm chứng; được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí

đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật. Thực tế cho thấy,

làm chứng trong vụ án hình sự là nghĩa vụ hết sức nặng nề đối với người làm

chứng. Bên cạnh việc phải khai trung thực các tình tiết của vụ án, người làm

chứng và gia đình họ phải đối mặt với những đe dọa nguy hiểm từ phía tội

phạm và những người liên quan đến tội phạm. Nếu người làm chứng không

được bảo đảm, bị tội phạm tấn công, họ trở thành nạn nhân của tội phạm, các

quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp bị đe đọa và không thể thực hiện tốt

nghĩa vụ làm chứng. Điều này sẽ hạn chế đáng kể khả năng của CQĐT, Viện

kiểm sát trong việc chứng minh tội phạm, truy cứu trách nhiệm hình sự người

phạm tội. Chính vì vậy, bảo đảm quyền con người của người làm chứng là

nghĩa vụ quan trọng của Nhà nước và cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến

hành tố tụng.

Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm

gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại [31]. Dưới góc độ là cá nhân,

nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có một số quyền liên

quan đến quyền con người như: đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được thông

báo về kết quả điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám

định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS; tự bảo vệ, nhờ người bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến,

đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên

tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn; xem biên bản phiên

tòa; đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường; khiếu nại

quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố

33

tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường thiệt hại.

Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải

chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại [31]. Dưới góc độ là cá nhân, bị đơn dân

sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có một số quyền liên quan đến quyền

con người như: khiếu nại việc đòi bồi thường của nguyên đơn dân sự; đưa ra

tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được thông báo kết quả điều tra có liên quan đến việc

đòi bồi thường; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,

người phiên dịch theo quy định của BLTTHS; chấp nhận hoặc bác bỏ một

phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn dân sự; tham gia phiên tòa; trình

bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; tranh luận

tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn; xem biên bản

phiên tòa; tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;

khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan,

tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự [31]. Dưới góc độ

là cá nhân, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại

diện hợp pháp của họ có một số quyền liên quan đến quyền con người như:

đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Tham gia phiên tòa; phát biểu ý kiến, đề nghị

chủ tọa phiên tòa hỏi những người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa

để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; tự bảo

vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; trình bày ý kiến về

chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành

tố tụng kiểm tra, đánh giá; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về những

vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; khiếu nại quyết

định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Như vậy, quyền của các đương sự cũng được quy định rất cụ thể trong

34

BLTTHS, nên việc bảo đảm quyền của các đương sự tại giai đoạn điều tra

được thể hiện bằng việc: CQĐT phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để các

đương sự có thể thực hiện các quyền của mình theo quy định của BLTTHS.

1.2.2. Các chủ thể thực hiện việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự

Khoa học luật tố tụng hình sự phân chia quá trình tố tụng hình sự một

vụ án thành các giai đoạn tố tụng hình sự. Việc phân định các giai đoạn tố

tụng hình sự không chỉ đơn thuần là xác định nhiệm vụ của từng giai đoạn,

mà còn làm rõ quyền và trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng trong thực hiện nhiệm vụ tố tụng, cũng như trong việc quyết định, tổ

chức thi hành các lệnh, quyết định, hoạt động tố tụng, ban hành các văn bản

tố tụng cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, các giai

đoạn tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, kể từ khi bắt đầu cho

đến khi kết thúc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và phải được diễn ra liên

tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, với những hành vi tố tụng khác nhau. Kết

thúc giai đoạn tố tụng này mới chuyển sang giai đoạn tố tụng khác; giai đoạn

tố tụng trước làm cơ sở cho giai đoạn tố tụng sau; giai đoạn tố tụng sau kiểm

nghiệm lại kết quả đạt được của giai đoạn trước. Mỗi giai đoạn tố tụng thực

hiện một nhiệm vụ theo một định hướng nhất định của quá trình tố tụng và

chứa đựng những đặc điểm riêng biệt. Các giai đoạn tố tụng hình sự hợp

thành tổng thể quá trình tố tụng thống nhất và có quan hệ khăng khít với nhau.

Đa số các quan điểm khoa học đều cho rằng có 04 giai đoạn trong quá

trình giải quyết vụ án hình sự: khởi tố vụ án hình sự, điều tra vụ án hình sự;

truy tố; xét xử vụ án hình sự.

Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng, trong

đó, như Điều 3 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự quy định, CQĐT tiến

hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy

35

định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ,

đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ

quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.

Theo quy định tại Điều 34 BLTTHS năm 2015, Cơ quan tiến hành tố

tụng gồm: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa án. Người tiến hành tố tụng

gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ

điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm

tra viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa

án, Thẩm tra viên [31].

Các chủ thể này, trong khi thực hiện nhiệm vụ tố tụng có trách nhiệm

bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp trong đó có quyền con người của người

bị buộc tội, các đương sự trong vụ án hình sự.

Điều 15 BLTTHS quy định, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về

cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng

không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện

pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện

và đầy đủ [31].

Tuy nhiên, ngoài cơ quan cơ quan tiến hành tố tụng, BLTTHS năm

2015 quy định rõ một số cơ quan sau có thẩm quyền tiến hành một số hoạt

động tố tụng như: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển,

Kiểm ngư và các cơ quan trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (được gọi là Cơ quan được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra).

Ngoài người tiến hành tố tụng, các chủ thể sau cũng được coi là người

thực hiện trong tư pháp: Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra (Cục trưởng, Phó Cụ trưởng Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,

36

Tư lệnh, Phó Tư lệnh cảnh sát biển…), các chủ thể không phải người tiến

hành tố tụng nhưng được giao một số nhiệm vụ trong quá trình giải quyết vụ

án hình sự (cán bộ, công chức trong CQĐT, Cơ quan được giao một số nhiệm

vụ điều tra, chuyên viên Viện kiểm sát…), các chủ thể có nhiệm vụ bổ trợ

hoạt động tư pháp (chuyên viên, giám định…) hoặc hỗ trợ hoạt động tư pháp

(cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp)…; Hội đồng xét xử khi khởi

tố vụ án, yêu cầu khởi tố vụ án trong những trường hợp cụ thể. Khi thực hiện

hoạt động tố tụng hình sự, những chủ thể này đã trực tiếp tác động đến các

quyền, trong đó có quyền con người của các đương sự, người bị buộc tội

trong vụ án. Các chủ thể này cũng có trách nhiệm bảo đảm các quyền, trong

đó có quyền con người của người bị buộc tội cũng như các đương sự trong vụ

án hình sự.

Căn cứ quy định của BLTTHS và trên thực tiễn, có thể thấy đối với hầu

hết các vụ án hình sự, thì CQĐT, Viện kiểm sát và Thủ trưởng, Phó Thủ

trưởng CQĐT, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng

Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên là những chủ thể chủ yếu, quan

trọng nhất, thực hiện những nhiệm vụ khởi tố, điều tra và kiểm sát điều tra.

Các chủ thể này cũng là chủ thể chính bảo đảm quyền con người trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự.

Đối với CQĐT VKSNDTC là một bộ phận của VKSNDTC, chủ thể có

thẩm quyền thực hiện việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự của cơ quan này là: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT

VKSNDTC, cán bộ điều tra, cán bộ, công chức thuộc CQĐT, được phân công

nhiệm vụ tham gia quá trình giải quyết vụ án hình sự.

Như vậy, nội dung bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự là việc cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các

chủ thể tố tụng khác thực hiện, tuân thủ các quy định, trình tự, thủ tục tố tụng

37

do BLTTHS quy định để bảo đảm các quyền con người: được bảo đảm về

tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh dự nhân phẩm, quyền sở hữu… đã được

“tố tụng hóa” thành các quyền tố tụng của người bị buộc tội (người bị bắt, tạm

giữ, bị can) và các chủ thể tham gia tố tụng khác (người bị hại, người làm

chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) theo quy định của BLTTHS.

1.2.3. Quy định về bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Như đã phân tích ở trên, mặc dù chủ để được đảm bảo quyền con người

và chủ thể thực hiện việc đảm bảo này, trong các vụ án hình sự thuộc thẩm

quyền giải quyết của CQĐT VKSNDTC là riêng biệt, nhưng quy định của

BLTTHS về các chế định để bảo đảm quyền con người không có sự phân biệt

nào. Mọi nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể tiến hành tố tụng đều phải như nhau.

Mọi quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng đều bình đẳng với nhau.

* Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền hạn và trách nhiệm

của các chủ thể tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra có liên quan đến

việc bảo đảm quyền con người

Những người tiến hành tố tụng trong CQĐT nói chung, CQĐT

VKSNDTC nói riêng, theo Điều 36, 37, 38 BLTTHS 2015, là Thủ trưởng,

Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên và cán bộ điều tra [31].

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng

CQĐT, Điều tra viên và cán bộ điều tra được quy định tại các Điều 36, 37 và

38 BLTTHS. Các chủ thể này chịu trách nhiệm chính trong việc thu thập

chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội tại giai đoạn điều tra vụ án

hình sự. Điều này xuất phát từ nhiệm vụ của giai đoạn điều tra trong quá trình

giải quyết vụ án hình sự và chức năng, nhiệm vụ tố tụng của CQĐT.

CQĐT tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do

BLTTHS quy định. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên chính

38

là các chủ thể trực tiếp thực hiện các biện pháp điều tra. Theo quy định, một

số hoạt động, quyết định tố tụng của CQĐT trong giai đoạn điều tra phải được

Viện kiểm sát phê chuẩn trước khi thực hiện. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng

CQĐT, Điều tra viên vừa có trách nhiệm thu thập chứng cứ chứng minh tội

phạm và người phạm tội, vừa có trách nhiệm chấp hành hoạt động kiểm sát

của Viện kiểm sát, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát

viên, để đảm bảo hoạt động tố tụng tại giai đoạn điều tra chấp hành đúng quy

định pháp luật, không xâm phạm các quyền, lợi ích hợp pháp, nhất là quyền

con người của người bị buộc tội, các chủ thể khác tham gia tố tụng.

Điều 36 BLTTHS năm 2015 quy định: Thủ trưởng CQĐT có nhiệm vụ

trực tiếp tổ chức và chỉ đạo các hoạt động điều tra của CQĐT; quyết định

phân công Phó Thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên trong việc điều tra vụ án

hình sự; kiểm tra các hoạt động điều tra của Phó Thủ trưởng CQĐT và Điều

tra viên; quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và

trái pháp luật của Phó Thủ trưởng CQĐT và Điều tra viên; quyết định thay

đổi Điều tra viên; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của CQĐT.

Khi Thủ trưởng CQĐT vắng mặt, một Phó Thủ trưởng được Thủ trưởng uỷ

nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng. Phó Thủ trưởng chịu

trách nhiệm trước Thủ trưởng về việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Khi thực

hiện nhiệm vụ, thẩm quyền tổ chức điều tra vụ án hình sự, Thủ trưởng CQĐT

ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định không khởi tố vụ án;

quyết định nhập hoặc tách vụ án; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ

các biện pháp ngăn chặn; quyết định truy nã, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê

biên tài sản, xử lý vật chứng; quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai

quật tử thi; kết luận điều tra vụ án; quyết định tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ

điều tra, quyết định phục hồi điều tra; trực tiếp tiến hành các biện pháp điều

tra; cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến

39

hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của CQĐT. Khi được

phân công điều tra vụ án hình sự, Phó Thủ trưởng CQĐT có những nhiệm vụ

và quyền hạn của Phó Thủ trưởng CQĐT. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng

CQĐT phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định

tố tụng của mình [31].

Điều 37 BLTTHS năm 2015 quy định: Điều tra viên được phân công

điều tra vụ án hình sự có nhiệm vụ lập hồ sơ vụ án hình sự; triệu tập và hỏi

cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại,

nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến

vụ án; quyết định áp giải bị can, quyết định dẫn giải người làm chứng; thi

hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản;

tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng,

thực nghiệm điều tra; tiến hành các hoạt động điều tra khác thuộc thẩm

quyền, theo sự phân công của Thủ trưởng CQĐT, Phó Thủ trưởng CQĐT

được uỷ nhiệm... Điều tra viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước

TT CQĐT về những hành vi và quyết định của mình [31].

Điều 38 BLTTHS năm 2015 quy định: Cán bộ điều tra thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn theo sự phân công của Điều tra viên, bao gồm các nhiệm vụ:

Cán bộ điều tra thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây theo sự phân

công của Điều tra viên: Ghi biên bản lấy lời khai, ghi biên bản hỏi cung và

ghi các biên bản khác khi Điều tra viên tiến hành kiểm tra, xác minh nguồn

tin về tội phạm và điều tra vụ án hình sự; giao, chuyển, gửi các lệnh, quyết

định và các văn bản tố tụng khác theo quy định; giúp Điều tra viên trong việc

lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm, hồ sơ vụ án và thực hiện hoạt

động tố tụng khác [31].

Khi nghiên cứu bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra,

không thể không xem xét vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát và những

người tiến hành tố tụng trong cơ quan này. Xuất phát từ chức năng kiểm sát

40

hoạt động khởi tố, điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát,

Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định liên quan trực tiếp

quyền con người trong tố tụng hình sự. Theo Điều 41 BLTTHS năm 2015,

Viện trưởng Viện kiểm sát có nhiệm vụ tổ chức và chỉ đạo các hoạt động

kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với tất cả các hoạt động tố tụng hình sự;

quyết định phân công Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự; kiểm tra các hoạt

động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của

Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên; quyết định thay đổi hoặc

huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Viện trưởng

và Kiểm sát viên; quyết định rút, đình chỉ hoặc huỷ bỏ các quyết định không

có căn cứ và trái pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới; quyết định thay đổi

Kiểm sát viên; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm

sát. Khi thực hành quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố

tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền hạn: quyết

định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can;

yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố

bị can theo quy định của BLTTHS; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều

tra viên; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết

định gia hạn điều tra, quyết định gia hạn tạm giam; yêu cầu CQĐT truy nã bị

can; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của

CQĐT; quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật

của CQĐT; quyết định chuyển vụ án; quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ

vụ án, quyết định phục hồi điều tra, quyết định xử lý vật chứng… [31]

Kiểm sát viên là người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc khởi

tố, điều tra của CQĐT. Theo Điều 42 BLTTHS năm 2015, Kiểm sát viên

được phân công kiểm sát điều tra có nhiệm vụ kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát

các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT; đề ra yêu cầu điều

41

tra; triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng,

người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan đến vụ án; kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam… [31]

Điều 37, Điều 41 BLTTHS năm 2015 quy định khi tiến hành tố tụng,

Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện

kiểm sát ra các quyết định tố tụng, còn Điều tra viên, Kiểm sát viên trực tiếp

thi hành các quyết định tố tụng đó. Như vậy về nguyên tắc, Lãnh đạo của

CQĐT và Viện kiểm sát có quyền hạn tuyệt đối. Điều tra viên, Kiểm sát viên

là người trực tiếp thực hiện các hoạt động tố tụng nhưng lại bị động, bị phụ

thuộc vào tính đúng đắn, kịp thời của các quyết định do cấp trên ban hành. Cơ

chế tố tụng này, một mặt không tạo ra cơ sở rõ ràng về trách nhiệm của lãnh

đạo CQĐT, Viện kiểm sát theo nguyên tắc quyền hạn đi đôi với trách nhiệm,

không đảm bảo yêu cầu tích cực, khẩn trương của hoạt động tố tụng; một mặt

không phát huy hết thẩm quyền, trách nhiệm, năng lực của Điều tra viên,

Kiểm sát viên - những người trực tiếp tiến hành tố tụng - trong quá trình giải

quyết vụ án. Qua đó, tác động tiêu cực đến hiệu quả, chất lượng hoạt động tố

tụng. Nếu không có cơ chế kiểm tra, đôn đốc hiệu quả, những tác động tiêu

cực của cơ chế tố tụng này sẽ tạo ra tình trạng quan liêu ở cấp trên, tùy tiện ở

cấp dưới. Một trong những hệ quả của nó là quyền con người trong giai đoạn

điều tra bị xâm hại, không được bảo đảm.

Như vậy, trách nhiệm bảo đảm quyền con nguời của người bị buộc tội

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung thuộc về CQĐT, Viện kiểm

sát. Đối với vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC thì trách

nhiệm này thuộc về CQDDT VKSNDTC và VKSNDTC (trực tiếp là Vụ thực

hành quyền công tố và kiểm sát án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng,

chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp). Việc ra quyết định khởi tố, phân công

điều tra và các quyết định khác, việc tổ chức điều tra, tiến hành các hoạt động,

trình tự, thủ tục điều tra trong giai đoạn này do CQĐT thực hiện. Viện kiểm sát

42

kiểm sát toàn diện, liên tục mọi hoạt động, trình tự, thủ tục điều tra. Trong đó

một số quyết định liên quan trực tiếp quyền con người của người bị buộc tội do

Viện kiểm sát phê chuẩn, yêu cầu thực hiện. Viện kiểm sát thực hành quyền

công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định

việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm

tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát

hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi

hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người

phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội [31].

Bảo đảm quyền con người đối với người bị buộc tội trong giai đoạn

điều tra bao gồm các nội dung, yêu cầu sau:

- CQĐT, Viện kiểm sát phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người bị

bắt, bị tạm giữ, bị can, người bị tạm giam thực hiện được những quyền của

mình theo quy định của BLTTHS.

- CQĐT, Viện kiểm sát khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, kiểm sát điều

tra không được xâm phạm quyền con người và chỉ được thực hiện những biện

pháp ngăn chặn, cưỡng chế mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. Pháp luật

tố tụng hình sự Việt Nam quy định khá chặt chẽ về căn cứ áp dụng các biện

pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú…; các biện

pháp điều tra khác như khám người, khám chỗ ở… Tất cả các biện pháp ngăn

chặn, cưỡng chế hình sự trên chỉ được thực hiện khi có căn cứ và theo đúng

trình tự, thủ tục luật định. CQĐT, Viện kiểm sát không được phép lạm dụng,

áp dụng tùy tiện các biện pháp này. Xu hướng chung của tố tụng hình sự là

hạn chế đến mức thấp nhất việc áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam,

đồng thời mở rộng căn cứ, điều kiện áp dụng các biện pháp khác “mềm hơn”,

tác động nhỏ nhất đến các quyền con người như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo

lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Cơ quan tiến hành tố tụng

được áp dụng các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế tố tụng hình sự khi cần

43

thiết, để đảm bảo phát hiện, xử lý tội phạm, song chỉ được áp dụng khi có đủ

căn cứ và không thể áp dụng biện pháp khác ít nghiêm khắc hơn. Khi buộc

phải áp dụng thì chỉ hạn chế đến mức cần thiết các quyền con người của

người bị buộc tội và phải tuân theo những trình tự, thủ tục do BLTTHS quy

định. Bản chất của việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội là cơ

quan tiến hành tố tụng được phép hạn chế toàn bộ hoặc một phần các quyền

con người của người bị buộc tội nhưng chỉ trong trường hợp có căn cứ và cần

thiết; không được hạn chế quyền con người của người buộc tội nếu không có

căn cứ hoặc không cần thiết.

1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền con ngƣời tại giai đoạn điều tra vụ án

hình sự của Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

1.3.1. Bảo đảm về mặt lý luận

Tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền con người trong đó có

quyền con người trong tố tụng hình sự để đưa đến nhận thức đúng đắn về vấn

đề quyền con người như một giá trị của nhân loại. Khả năng, điều kiện tiếp

thu các giá trị đó vào hoàn cảnh Việt Nam trên các phương diện lập pháp và

thực tiễn. Tức là cần luận giải tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con

người nói chung và quyền con người trong tố tụng hình sự nói riêng. Yêu cầu

đối với nghiên cứu lý luận về quyền con người trong tố tụng hình sự là phải

đảm bảo được chiều sâu, tính đa dạng, khách quan của lý luận về quyền con

người, phản ánh được thực tiễn sinh động của quá trình tố tụng hình sự và

đảm bảo tính khả thi của các giải pháp [19].

1.3.2. Bảo đảm về mặt pháp lý

Quyền con người trong tố tụng hình sự được đặt ra chỉ khi nhà nước

tiến hành hoạt động tố tụng hình sự. Chính vì vậy, bảo đảm quyền con người

trong tố tụng hình sự trước hết đòi hỏi một hệ thống pháp luật không chỉ giúp

nhà nước phát hiện xử lý tội phạm mà còn không làm oan người vô tội.

Dưới góc độ bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, quy định

44

pháp luật tố tụng hình sự cần ghi nhận đầy đủ các quyền con người trong tố

tụng hình sự trên cơ sở các chuẩn mực trong nước và quốc tế về quyền con

người trong tố tụng hình sự. Bên cạnh việc ghi nhận những quyền của người

bị buộc tội, cần phải có một cơ chế để bảo đảm, bảo đảm các quyền con người

đó. Trong thực tế hiện nay một số quyền của người bị buộc tội đã được pháp

luật ghi nhận nhưng lại chưa có cơ chế nào để bảo đảm nó. Chẳng hạn như

quyền bào chữa, quyền thu thập đưa ra chứng cứ của người bào chữa, người

bị buộc tội, quyền im lặng…được ghi nhận nhưng cơ chế để những người này

thực hiện thì hiện chưa được quy định rõ ràng.

Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự cũng có nghĩa là nếu

người nào có những hành vi xâm phạm đến quyền con người trong tố tụng

hình sự thì có chế tài nghiêm khắc để xỷ lý. Trong thực tiễn tố tụng hình sự,

một vụ án bị chậm trễ đưa ra xét xử, một quyết định áp dụng biện pháp ngăn

chặn không hợp lý và hợp pháp…đều chưa có chế tài cụ thể. Bên cạnh đó,

việc bảo đảm người tố giác tội phạm, người làm chứng trong vụ án hình sự

chưa được quan tâm đúng mức nên vẫn có những trường hợp họ bị trù dập, bị

trả thù, bị đe dọa. Do vậy, quyền con người vẫn chưa được bảo đảm trong một

số trường hợp nhất định và kéo theo đó chính là chất lượng hoạt động của các

cơ quan tư pháp hình sự vẫn còn chưa cao [24].

1.3.3. Bảo đảm về mặt tổ chức

Về mặt tổ chức, các cơ quan tiến hành tố tụng phải đáp ứng các yêu cầu

cơ bản sau đây:

- Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo hướng phân định rõ thẩm

quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động

tố tụng hình sự; tăng quyền hạn, trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên,

Thẩm phán. Có như vậy, hoạt động tố tụng mới chủ động, khách quan, hiệu

quả; người tiến hành tố tụng mới phản ứng kịp thời với tình hình và dám tự

45

mình chịu trách nhiệm về các quyết định của mình [17];

- Đảm bảo quyền hạn phải đi đôi với trách nhiệm trong hoạt động tố

tụng của người tiến hành tố tụng. Không để xảy ra tình trạng quyền hạn của

một người, còn trách nhiệm lại thuộc về người khác hoặc tình trạng quyền hạn

thì quy định cụ thể nhưng trách nhiệm thì chung chung. Chỉ khi quyền hạn đi

liền với trách nhiệm thì người tiến hành tố tụng mới thận trọng hơn trong thực

hiện nhiệm vụ tố tụng của mình góp phần xử lý vụ án đúng đắn, khách quan;

- Đảm bảo nguyên tắc độc lập trong tố tụng hình sự. Người trực tiếp

tiến hành các hoạt động tố tụng phải là người được quyết định các vấn đề liên

quan đến việc giải quyết vụ án;

- Các quy định phải đảm bảo tính khả thi. Nhiệm vụ, quyền hạn được

quy định phải được bảo đảm thực hiện bằng các quy định của pháp luật, bằng

các biện pháp tổ chức và có cơ chế kiểm tra, giám sát cụ thể, chặt chẽ v.v…

1.3.4. Bảo đảm về mặt nhận thức

Cần nâng cao nhận thức về quyền con người, hay nói cách khác là tăng

cường giáo dục quyền con người cho những người tiến hành tố tụng là các

Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, bởi một điều mà người ta lo ngại

nhất khi nói đến vấn đề bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đó

chính là sự xâm phạm quyền con người từ phía các cơ quan có thẩm quyền,

sự xâm phạm này không chỉ thể hiện ở việc pháp luật còn nhiều lỗ hổng mà

phần nhiều nằm ở chính hoạt động cụ thể của những người tiến hành tố tụng.

Đối với người bị buộc tội, cần nâng cao khả năng nhận thức tự bảo đảm

quyền con người của họ bằng việc tạo điều kiện tốt nhất để họ có thể tiếp cận

các dịch vụ pháp lý thực hiện quyền bào chữa của mình trong quá trình tố

tụng như yêu cầu được có người bào chữa đối với trường hợp người bị buộc

tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý theo quy định; thuê người bào chữa,

46

thu thập chứng cứ…

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Bảo đảm quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục

đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong

giải quyết vụ án hình sự, các hoạt tố tụng hình sự là hoạt động của Nhà nước,

do chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện, tác động trực tiếp tới

quyền con người, đặc biệt là người bị buộc tội, bị hại và người làm chứng có

nguy cơ dễ bị xâm hại nhất. Cho đến nay, các chế định bảo đảm quyền con

người trong tố tụng hình sự, đặc biệt là giai đoạn điều tra, giai đoạn ảnh

hưởng trực tiếp nhiều nhất tới các quyền cơ bản của con người vẫn được

Đảng và Nhà nước ta chú trọng, thể chế hóa trong các thời kỳ của Bộ luật Tố

tụng hình sự.

Trên cơ sở tiếp thu hệ thống tri thức và phương pháp phân tích, tiếp cận

khoa học của các công trình có liên quan, trong Chương 1 của Luận văn, tôi đã

nghiên cứu, kiến giải làm sáng tỏ và rút ra được kết luận về một số vấn đề lý

luận chung về “Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình

sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao”, cụ thể:

1. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự

của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao là hoạt động của chủ thể

tiến hành tố tụng, đảm bảo các yếu tố cần và đủ cho người tham gia tố tụng

thực hiện các đặc quyền cá nhân vốn có của họ, kể từ khi ra quyết định khởi

tố vụ án hình sự cho đến khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật tố

tụng hình sự, nhằm giải quyết vụ án theo đúng quy định pháp luật.

2. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của

Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có một số đặc điểm: là một

nguyên tắc, là phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai

đoạn của hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp

47

luật tố tụng hình sự; bảo vệ quyền con người thông qua quy định của pháp

luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn; phạm vi thực hiện, chủ thể

thực hiện và chủ để được bảo đảm quyền con người là giai đoạn điều tra

những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát nhân dân tối cao khác biệt so với quy định chung của Bộ luật Tố

tụng hình sự.

3. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của

Cơ quan điều tra vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao mang ý nghĩa

nhất định đều được nhìn nhận dưới góc độ nhân quyền.

4. Nội dung bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự của Cơ quan điều tra vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao

đều được quy định cụ thể trong Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn

48

bản pháp luật có liên quan.

Chương 2:

THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG ĐIỀU TRA

VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN

DÂN TỐI CAO

2.1. Khái quát chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ cấu, tổ chức của

Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm

sát nhân dân tối cao

Theo quy định của BLTTHS năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua vào ngày 27/11/2015 đã có

những thay đổi căn bản theo hướng Viện kiểm sát nhân dân tập trung thực hiện

chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Về

thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND theo BLTTHS năm 2015 được quy

định tại Điều 163: “Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan

điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và

Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người

phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát,

cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp” [31].

Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì phạm vi thẩm quyền điều tra

của CQĐT VKSND được được mở rộng so với quy định của BLTTHS năm

2003 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Do vậy, CQĐT VKSND được tổ

chức lại theo hướng thu gọn đầu mối và chỉ được tổ chức ở VKSNDTC.

Theo quy định Điều 20 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Điều 163

BLTTHS năm 2015 và Điều 30 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm

49

2015, CQĐT VKSNDTC có thẩm quyền tiến hành điều tra tội phạm xâm

phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt

động tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức

thuộc CQĐT, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm

quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét

xử của Tòa án nhân dân.

Đồng thời, CQĐT VKSNDTC thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn sau:

1. Tổ chức công tác trực ban hình sự, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố; phân loại và giải quyết, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc chuyển ngay đến cơ

quan có thẩm quyền để giải quyết.

2. Kiến nghị với các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp khắc

phục nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm.

3. Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố và công tác Điều tra, xử lý tội phạm thuộc nhiệm

vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

4. Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của BLTTHS.

Thi hành Hiến pháp năm 2013, ngày 24/11/2014, Quốc Hội khóa XIII

đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Khác với các

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trước đây, thẩm quyền điều tra của

CQĐT VKSND đã được quy định tại phần quy định chung (Điều 3), theo đó,

CQĐT này có thẩm quyền điều tra một số loại tội phạm là một trong các công

tác của VKSND. Cụ thể hóa công tác điều tra của Viện kiểm sát nhân dân

được quy định tại Mục 5, Chương II, tại các Điều 20 quy định về thẩm quyền

điều tra của CQĐT VKSNDTC, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung

ương, Điều 21 quy định chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt

động tư pháp của VKSNDTC, Viện kiểm sát quân sự trung ương đối với

50

CQĐT VKSNDTC, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương.

Như vậy, quyền điều tra và tổ chức, hoạt động của CQĐT VKSNDTC

tiếp tục được khẳng định, là cơ sở lý luận để sửa đổi bổ sung các quy định của

pháp luật về tố tụng hình sự, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra

nói chung, trong đó có CQĐT VKSNDTC.

2.1.2. Về tổ chức bộ máy của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối

cao

Ngày 28/05/2019, Viện trưởng VKSNDTC ban hành Quy chế tổ chức

và hoạt động của CQĐT VKSNDTC kèm theo Quyết định số 208/QĐ-

VKSTC-C1 (gọi tắt là Quy chế 208) thay thế cho Quy chế 18/QĐ-VKSTC-C1

ngày 20/11/2015. Đến nay, căn cứ các Quyết định của Viện trưởng

VKSNDTC về việc thành lập các phòng nghiệp vụ; theo đó tổ chức bộ máy

của CQĐT VKSNDTC gồm: 10 Phòng nghiệp vụ; 2 Đại diện Thường trực

CQĐT VKSNDTC tại các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên và miền Nam; với

tổng số 174 biên chế. Về bộ máy gồm có: Thủ trưởng và 03 Phó Thủ trưởng

Cơ quan điều tra; 10 Trưởng phòng, 21 Phó Trưởng phòng; có 01 Kiểm sát

viên cao cấp và 98 Điều tra viên các cấp (23 Điều tra viên cao cấp, 61 Điều

tra viên trung cấp và 14 Điều tra viên sơ cấp, 24 Cán bộ điều tra). Về trình độ:

có 01 Tiến sỹ luật; 01 Nghiên cứu sinh; 38 Thạc sỹ luật; 86 Cử nhân luật và

20 Cử nhân chuyên ngành khác (có 26 đồng chí tốt nghiệp Học viện An ninh

nhân dân và Học viện Cảnh sát nhân dân).

Từ năm 2011 đến nay, CQĐT VKSNDTC đã tiếp nhận, thu thập

10.379 thông tin về tội phạm, đã nghiên cứu giải quyết 10.347 thông tin (đạt

98,7%). Thụ lý giải quyết tổng số 984 tố giác, đã kết thúc kiểm tra, xác minh,

chuyển hồ sơ đến VKSNDTC kiểm sát theo quy định 963 tố giác, tin báo về

tội phạm (đạt 97,9%). Khởi tố, thụ lý điều tra 288 vụ/292 bị can, đã kết thúc

điều tra 268 vụ/279 bị can, (đạt 93,1%). Việc khắc phục, thu hồi tiền, tài sản

51

bị chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng, chức vụ được CQĐT VKSNDTC

chú trọng thực hiện. Tỷ lệ thu hồi tiền, tài sản bị thiệt hại, chiếm đoạt trong

các vụ án tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp trung bình đạt

50%. Trong thời gian này, CQĐT đã ban hành 648 kiến nghị với cơ quan hữu

quan các cấp (262 kiến nghị gửi cơ quan Công an, 152 kiến nghị gửi Tòa án,

163 kiến nghị gửi cơ quan Thi hành án dân sự, 76 kiến nghị gửi Viện kiểm sát

địa phương và 22 kiến nghị gửi ngành khác) xử lý và phòng ngừa vi phạm, tội

phạm. Các kiến nghị trên đều được các cơ quan tư pháp nghiêm túc tiếp thu

và có biện pháp khắc phục [10].

Trong giai đoạn này, CQĐT VKSNDTC đã phát hiện, khởi tố, điều tra

nhiều vụ án nghiêm trọng, phức tạp về tội phạm tham nhũng, chức vụ trong

hoạt động tư pháp cũng như làm rõ những vụ án oan sai, bỏ lọt tội phạm được

dư luận xã hội quan tâm, như: Vụ án Ngô Thanh Phong, nguyên Phó Thủ

trưởng thường trực, Nguyễn Văn Nên, nguyên Phó Thủ trưởng và Phạm Văn

Út, nguyên Thủ kho vật chứng kiêm Thủ quỹ Cơ quan CQĐT Công an tỉnh

Tiền Giang phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công

vụ” chiếm đoạt hơn 1,2 tỷ đồng; vụ án Đinh Thiên Tường, nguyên Chấp hành

viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên về tội “Lợi

dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; vụ án Châu Tùng

Chinh, nguyên Chi Cục Trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phong

Điền, thành phố Cần Thơ về tội “Tham ô tài sản” với số tiền 2,6 tỷ đồng; vụ

án oan sai xảy ra tại huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng khiến 07 người dân bị

giam giữ, kết tội “Giết người” oan, CQĐT VKSNDTC đã tiến hành điều tra

và khởi tố bị can đối với Nguyễn Hoàn Quân, Triệu Tuấn Hưng – Điều tra

viên CQĐT Công an tỉnh Sóc Trăng về tội “Dùng nhục hình”, khởi tố bị can

đối với Phạm Văn Núi – Kiểm sát viên VKSND tỉnh Sóc Trăng về tội “Thiếu

trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; vụ án oan của ông Nguyễn Thanh

Chấn ở Bắc Giang, căn cứ vào kết quả điều tra của CQĐT VKSNDTC, Viện

52

trưởng VKSNDTC đã quyết định kháng nghị, trả tự do cho ông Nguyễn

Thanh Chấn sau hơn 10 năm bị giam giữ, thi hành án phạt tù oan về tội “Giết

người”, Cơ quan điều tra đã khởi tố hung thủ thực sự thực hiện hành vi giết

người là Lý Nguyễn Chung về tội “Giết người”, đồng thời, khởi tố bị can đối

với các cán bộ tiến hành tố tụng đã gây ra oan sai cho ông Nguyễn Thanh

Chấn gồm: Trần Nhật Luật-Điều tra viên thụ lý chính, Đặng Thế Vinh – Kiểm

sát viên kiểm sát điều tra vụ án về tội “Làm sai lệch hồ sơ vụ án”, Phạm Tuấn

Chiêm-thẩm phán về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; vụ

án Vũ Ngọc Dương bị các cơ quan tiến hành tố tụng hai cấp của thành phố Hà

Nội điều tra, truy tố, xét xử oan sai với mức án 30 tháng tù giam. Căn cứ kết

quả điều tra của CQĐT VKSNDTC, Công an thành phố Hà Nội đã phải đình

chỉ vụ án, đình chỉ bị can đối với Vũ Ngọc Dương [10].

Như vậy, với tổ chức, bộ máy nhân sự số lượng ít, chưa đáp ứng được

khối lượng công việc khổng lồ của CQĐT VKSNDTC hiện tại. Tuy nhiên,

thực tế cho thấy, CQĐT VKSNDTC đã phát huy rất tốt vai trò của mình, góp

phần đấu tranh, đẩy lùi tội phạm, đặc biệt là tội phạm xâm phạm hoạt động tư

pháp, tham nhũng, chức vụ, là một trong những loại tội rất khó phát hiện, giải

quyết bởi tính chất, đặc thù của nó.

2.1.3. Về đặc thù loại tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều

tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Theo quy định Điều 20 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Điều 163

BLTTHS năm 2015 và Điều 30 Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm

2015, CQĐT VKSNDTC có thẩm quyền tiến hành điều tra tội phạm xâm

phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt

động tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức

thuộc CQĐT, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm

quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét

53

xử của Tòa án nhân dân.

- Về tội phạm (hành vi khách quan): CQĐT VKSNDTC chỉ có thẩm

quyền điều tra các loại tội thuộc quy định tại 02 Chương XXIII và XXIV Bộ

luật Hình sự năm 2015. Đó là:

+ Nhóm tội phạm về chức vụ quy định tại Chương XXIII Bộ luật Hình

sự năm 2015: Nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm nói

chung, các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng trong tình hình

mới, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và yêu cầu thực tiễn đặt ra, Bộ

luật Hình sự năm 2015 đã quy định 14 tội trong nhóm tội này (từ Điều 352

đến Điều 366). Theo đó, tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm

hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong

khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ. Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do

bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không

hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn

nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ [31]. Tội phạm chức vụ là

loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm của loại tội

phạm này thể hiện ở chỗ nó làm phương hại đến lợi ích quốc gia, đến sự thụ

hưởng các quyền và lợi ích của người nghèo, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến

sự gia tăng những bất công trong xã hội, làm xói mòn niềm tin của người dân

đối với Đảng và Nhà nước.

Bộ luật Hình sự năm 2015 đã cơ bản thể chế hóa được những quan

điểm, chủ trương đổi mới của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình

sự, cải cách tư pháp, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 theo

hướng nâng cao tính nhân đạo, bảo đảm xử lý nghiêm minh các hành vi xâm

phạm quyền con người; quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức, đề

cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội,

tạo điều kiện thuận lợi để người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng, góp phần

bảo vệ môi trường sống yên bình cho người dân, khuyến khích mọi tầng lớp

54

nhân dân tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, phát triển kinh tế, xã hội.

+ Nhóm tội xâm phạm hoạt động tư pháp quy định tại Chương XXIV

Bộ luật Hình sự năm 2015: Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung tất

cả 23 điều trong Chương XXII của Bộ luật Hình sự năm 1999 và bổ sung mới

02 điều, tạo thành Chương XXIV - các tội xâm phạm hoạt động tư pháp gồm,

25 điều (từ Điều 367 đến Điều 391) [30]. Tội xâm phạm hoạt động tư pháp là

những hành vi xâm phạm sự đúng đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án

(Điều 367 Bộ luật hình sự năm 2015) [30]. Hoạt động tố tụng là quá trình

(trình tự) giải quyết vụ án, vụ việc ở các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính

- lao động - kinh doanh thương mại… bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ

quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cơ

quan Nhà nước, tổ chức xã hội, mọi công dân góp phần vào việc giải quyết vụ

án, vụ việc theo quy định của pháp luật.

- Về chủ thể tội phạm: người có hành vi phạm các tội thuộc thẩm quyền

điều tra của CQĐT VKSNDTC là cán bộ, công chức thuộc CQĐT, Tòa án,

Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động

tư pháp. Mặt khác, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng đối tượng tham gia hoạt

động tố tụng, là các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra như Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư, Cảnh sát biển, Bộ đội biên

phòng, các cơ quan khác của Quân đội nhân dân, Công an nhân dân được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như (Công an phường, xã, Cảnh

sát giao thông) hoặc Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Chấp hành viên… đang

xác minh, thu thập chứng cứ để phục vụ công tác xét xử vụ án dân sự, hành

chính để thi hành án mà bị người khác xâm phạm vào hoạt động đúng đắn của

các cơ quan này thì người có hành vi xâm phạm đó đều trở thành chủ thể của

tội phạm.

Theo đó, các chủ thể của tội phạm này như đã phân tích ở phần trước ta

55

thấy bao gồm: người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tại các cơ quan tiến

hành tố tụng; người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra

trong các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

cán bộ, công chức trong các cơ quan này được giao nhiệm vụ nhất định như:

Chuyên viên Viện kiểm sát, cán bộ văn phòng, văn thư; cán bộ, công chức

trong cơ quan thi hành án; ngay cả những người có thẩm quyền tiến hành hoạt

động tư pháp không thường xuyên, vụ việc, như: Hội thẩm nhân dân tham gia

Hội đồng xét xử…; người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khác

như: Công an xã, Cảnh sát hộ trợ tư pháp, cán bộ công tác tại Nhà tạm giữ,

Giám thị trại giam… hoặc tội danh này được tính trong cả giai đoạn áp dụng

các biện pháp cưỡng chế hành chính như: đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở

bắt buộc, cai nghiện… hoặc Chuyên viên giám định, định giá tài sản, phiên

dịch, dịch thuận… thậm chí người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp cho đương sự cũng có thể là chủ thể của tội phạm này.

Thời gian gần đây, CQĐT VKSNDTC đã tiến hành khởi tố, bắt tạm

giam với nhiều đối tượng bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội thuộc nhóm

tội xâm phạm hoạt động tư pháp, tội tham nhũng, chức vụ [10]. Trong các vụ

án này, đối tượng phạm tội lại từng là người tiến hành tố tụng, tham gia giải

quyết vụ án, là người cầm cân nảy mực, góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Là những đối

tượng hiểu biết rõ pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, tố tụng hình sự.

Nhưng bởi lý do khách quan, chủ quan mà họ đã làm trái quy định Nhà nước,

xâm phạm tới hoạt động đúng đắn của Nhà nước, ảnh hưởng tới danh dự, uy

tín của ngành, của địa phương.

Các hành vi phạm tội thường tập trung ở các tội: Tội lạm dụng chức vụ,

quyền hạn chiếm đoạt tài sản ví dụ hành vi cán bộ quản giáo đưa điện thoại

cho phạm nhân liên lạc với bên ngoài rồi thu tiền, Chấp hành viên cơ quan

56

Thi hành án dân sự thu tiền thi hành án nhưng không viết phiếu thu, không

nộp vào quỹ cơ quan, chiếm đoạt sử dụng cá nhân; Tội thiếu trách nhiệm để

người bị bắt, ngời bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù

trốn, loại tội này thường xảy ra ở Trại Tạm giam; Tội nhận hối lộ… Thậm

chí, có những đối tượng đã thực hiện hành vi phạm tội để lại hậu quả rất

nghiêm trọng. Ví dụ: Ngày 08/9/2017, bị can Võ Tấn Minh, sinh năm 1992,

trú tại phường Tấn Tài, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận,

bị khởi tố về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, được chuyển từ Trại

tạm giam Công an tỉnh Ninh Thuận về Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan

Rang - Tháp Chàm thì Võ Tấn Minh bị 05 cán bộ trên có hành vi dùng nhục

hình. Đến khoảng 16h10’ cùng ngày, phát hiện Minh ngất xỉu nên cán bộ

Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm đưa Minh đến Bệnh viện tỉnh Ninh

Thuận để cấp cứu nhưng xác định Minh đã chết. Ngày 24/11/2017, CQĐT

VKSNDTC đã ra Quyết định khởi tố bị can đối với 05 đối tượng nguyên là

cán bộ Đội Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an thành phố

Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận [10].

Hoặc, họ còn móc nối với những đối tượng đang có tiền án, tiền sự,

đang chấp hành án khác để thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ như: Trong khi

được giao nhiệm vụ tuần tra, canh gác Trại tạm giam Công an tỉnh Bình

Thuận, Lê Minh Sơn đã đưa điện thoại di động cho một số bị can đang bị tạm

giam để gọi ra ngoài cho gia đình và người thân. Từ ngày 28/4/2019 đến ngày

29/6/2019, Sơn đã cho các bị can gọi điện thoại nhiều lần, mỗi lần sử dụng

điện thoại, người thân các bị can chuyển từ 05 triệu đồng đến 15 triệu đồng

vào tài khoản của vợ Sơn với tổng số tiền 91 triệu đồng. Trong số các bị can

gọi điện thoại, có Nguyễn Viết Huy (biệt danh “Nấm độc”), bị khởi tố về tội

“Tàng trữ trái phép chất ma túy” và Nguyễn Văn Nưng, bị khởi tố về tội “Giết

người”. Lợi dụng việc gọi điện trên, Nguyễn Viết Huy và Nguyễn Văn Nưng

57

đã liên hệ với các đối tượng ở bên ngoài đưa cưa sắt vào trại giam để 02 đối

tượng cưa đứt song sắt ô thông gió buồng giam và bỏ trốn. Ngày 11/7/2019,

CQĐT VKSNDTC đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “Thiếu trách

nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án

phạt tù trốn” quy định tại khoản 3 Điều 376 Bộ luật hình sự năm 2015. Tiếp

tục đến ngày 02/8/2019, CQĐT VKSNDTC tống đạt quyết định khởi tố bị can

và thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Lê Minh Sơn, sinh năm 1985,

nguyên Cán bộ Đội cảnh sát bảo vệ Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Thuận

để điều tra về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo quy

định tại khoản 2 Điều 355 Bộ luật hình sự năm 2015 [10].

Một đặc điểm chung khi nói đến chủ thể tội phạm thuộc thẩm quyền

điều tra của CQĐT VKSNDTC đó là đều hiểu biết pháp luật, đặc biệt là pháp

luật hình sự, tố tụng hình sự, có trình độ học vấn, pháp lý nhất định. Tuy nhiên,

không vì thế mà khi điều tra, người tiến hành tố tụng chủ quan, không thực

hiện theo đúng quy định của BLTTHS, dù là quy định nhỏ nhất như: giải thích

quyền và nghĩa vụ khi tiến hành hoạt động điều tra, giao các quyết định tố tụng

cho người bị buộc tôi, thông báo cho gia đình khi áp dụng các biện pháp ngăn

chặn, cưỡng chế…, dẫn đến ảnh hưởng tới quyền con người của họ.

2.2. Kết quả, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong bảo đảm quyền

con ngƣời tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện

Kiểm sát nhân dân tối cao từ năm 2013 đến nay

2.2.1. Kết quả bảo đảm quyền con người

Theo báo cáo, đánh giá CQĐT VKSNDTC từ năm 2013 đến năm 2018

về tình hình vi phạm và tội xâm phạm hoạt động tư pháp tiếp tục gia tăng và

có những diễn biến phức tạp, hàng năm CQĐT VKSNDTC thụ lý số lượng

lớn thông tin về vi phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp [10]. Hành

vi vi phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp được thể hiện ở các giai

58

đoạn tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và thi hành án [10]. Tội phạm xâm phạm

hoạt động tư pháp mà chủ thể tội phạm do cán bộ, nhân viên tư pháp thực

hiện xảy ra nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng gây dư luận bức xúc, nhiều vụ giải

quyết kéo dài… Hậu quả của hành vi vi phạm và tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp do các chủ thể là cán bộ, nhân viên tư pháp trong các CQĐT,

VKSND, Tòa án nhân dân và cơ quan thi hành án gây ra đã để lại những hậu

quả nghiêm trọng cho xã hội, và ảnh hưởng sâu sắc đến uy tín, sức mạnh, tính

minh bạch trong hoạt động tư pháp nói riêng và hoạt động của cơ quan Nhà

nước nói chung; làm suy giảm sức mạnh đấu tranh phòng, chống tội phạm

ngày càng phức tạp hiện nay.

Kết quả hoạt động thực tiễn của CQĐT VKSNDTC từ năm 2013 đến

năm 2018 được đánh giá qua các bảng phân tích dưới đây:

Bảng 2.1: Bảng phân tích số liệu tiếp nhận, phân loại và giải quyết thông

tin về vi phạm và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp (từ năm 2013 đến

năm 2018)

Năm

Tổng số tin tiếp nhận Đã xác minh giải quyết Tỷ lệ đạt (%)

Phân loại thuộc thẩm quyền 102 1151 940 81,7% 2013

1435 1250 87,1% 96 2014

1537 1296 84,3% 133 2015

1508 1361 90,3% 135 2016

1714 1499 87,5% 128 2017

1930 1683 87,2% 115 2018

(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2013-2018 của CQĐT Viện kiểm sát nhân

dân tối cao) [10]

Như vậy, từ bảng số liệu 2.1 có thể thấy các tội xâm phạm hoạt động tư

pháp đã được xác minh và đưa ra giải quyết qua các năm không đồng đều với

59

nhau. Có những năm việc giải quyết vụ án về các tội xâm phạm hoạt động tư

pháp chiếm tỷ lệ cao. Trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2018 tổng số tin

báo CQĐT VKSNDTC tiếp nhận là 9.275 tin báo, trong đó số tin báo thuộc

thẩm quyền giải quyết của CQĐT VKSNDTC là 709 tin báo chiếm tỉ lệ 7.6%

tổng số tin báo đã tiếp nhận, kết quả xác minh tin báo đúng hạn tổng giai đoạn

là 8.028 chiếm tỉ lệ 86.5% tổng số tin báo đã tiếp nhận. Nhìn chung trong toàn

giai đoạn số tin báo tiếp nhận và giải quyết đều tăng cao. Từ 1.151 tin báo

năm 2013 lên 1.930 vụ trong năm 2018. Như vậy tăng 1,7 lần trong 6 năm.

Trong tổng số các vụ án được đưa ra xử lý, giải quyết, các hình thức giải

quyết vụ án (như quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án

hay quyết định chuyển cơ quan có thẩm quyền xét xử) qua các năm không

giống nhau. Quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra viện kiểm

sát nhân dân tối cao chiếm chủ yếu trong các hình thức giải quyết vụ án nêu

trên. Bảng số liệu sau đây sẽ cho thấy điều đó:

Bảng 2.2: Bảng phân tích số liệu kết quả giải quyết thông tin về vi phạm và

tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp (từ năm 2013 đến năm 2018)

Năm

Đã giải quyết

Tiếp tục theo dõi

Khởi tố vụ án hình sự

Thông tin thụ lý thuộc thẩm quyền Không khởi tố vụ án hình sự

Hình thức giải quyết Chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý 8 78 141 130 11 33 2013

107 99 58 4 8 29 2014

141 129 75 9 15 30 2015

147 137 77 11 19 30 2016

150 141 79 3 36 23 2017

143 131 76 1 29 25 2018

(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2013-2018 của CQĐT Viện kiểm sát nhân

60

dân tối cao) [10]

Như vậy, qua bảng 2.2 ta thấy, trong các hình thức giải quyết vụ án nêu

trên thì quyết định không khởi tố vụ án chiếm tỷ lệ cao so với các hình thức

khác. Trong giai đoạn 2013 – 2018 số thông tin tội phạm thuộc thẩm quyền

giải quyết của CQĐT VKSNDTC giải quyết là 829 thông tin, số thông tin giải

quyết trong giai đoạn tăng giảm không đều, nhưng nhìn chung có xu hướng

tăng. Trong số nguồn tin về tội phạm đã thụ lý giải quyết, số vụ khởi tố vụ án

là 170 vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC. Như vậy tỉ lệ

khởi tố vụ án chiếm tỉ lệ 20.5% tổng số nguồn tin đã giải quyết, kết quả này

so với kết quả khởi tố của các CQĐT khác là không cao, bởi lẽ các CQĐT

khác đều khởi tố với tỉ lệ 80-90 tổng số tin báo, tố giác đã thụ lý. Trong tổng

giai đoạn nhìn chung số vụ án khởi tố tăng giảm không đều, xu hướng chung

trong giai đoạn là giảm dần từ 33 vụ năm 2013 xuống còn 25 vụ năm 2018.

Số vụ việc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự là 443 vụ việc, chiếm tỉ

lệ 53.4% tổng số nguồn tin tội phạm đã thụ lý giải quyết. Số vụ việc chuyển

cơ quan điều tra có thẩm quyền để giải quyết theo thủ tục chung là 36 vụ việc

chiếm tỉ lệ 4.3% nguồn tin. Số vụ việc tiếp tục theo dõi là 118 vụ việc, chiếm

tỉ lệ 14.2% tổng số nguồn tin. Như vậy, trong tổng số các vụ án được thụ lý và

giải quyết thì số vụ án không khởi tố của CQĐT VKSNDTC chiếm tỷ lệ cao

hơn so với số vụ án được đưa ra khởi tố.

Trên đây là kết quả khởi tố điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều

tra VKSNDTC. Trong hoạt động của mình, CQĐT VKSNDTC đã tích cực

chủ động thực hiện đúng quy định của BLTTHS về bảo đảm quyền con người

của các chủ thể trong tố tụng hình sự.

* Thực tiễn thi hành bảo đảm quyền con người thông qua các quy

định về khởi tố, điều tra vụ án hình sự

Trong những năm qua số lượng các vụ phạm tội bị phát hiện, các vụ án

61

hình sự được xử lý của các cơ quan tiến hành tố tụng ngày càng gia tăng. Từ

khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực các quy định của BLTTHS đã thực sự góp

phần là công cụ sắc bén thể hiện tinh thần tôn trọng và bảo đảm quyền con

người. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng hình

sự, người tiến hành tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra thực sự là những

đổi mới có chất lượng nhằm thiết lập được những cơ chế bảo đảm hữu hiệu

các quyền tự do, dân chủ của công dân. Việc khởi tố vụ án, có căn cứ; thời

hạn tố tụng nhìn chung được bảo đảm, ít bị vi phạm; kết thúc điều tra đề nghị

truy tố tuyệt đại đa số các trường hợp là có cơ sở…Tổng hợp thống kê báo

cáo của CQĐT VKSNDTC cho thấy, từ năm 2013 đến năm 2018, CQĐT

VKSNDTC đã khởi tố vụ án và bị can đạt kết quả như sau:

Bảng 2.3: Bảng phân tích số liệu khởi tố, thụ lý, điều tra tội phạm xâm

phạm hoạt động tư pháp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân

(từ năm 2013 đến năm 2018)

Trong đó ngƣời phạm tội thuộc các cơ quan

Năm

Số án thụ lý (vụ/bị can) Tòa án (Vụ/bị can) Công an (vụ/bị can)

Cơ quan thi hành án (Vụ/bị can) Đối tƣợng khác (Vụ/bị can)

8/5 12/7 7/2 25/50 20/18 Viện kiểm sát nhân dân (vụ/bị can) 3/1 2013

8/6 9/6 6/2 46/35 20/21 3/0 2014

11/7 14/14 7/1 42/46 9/4 1/0 2015

6/3 19/21 4 45/34 14/9 2/1 2016

5/5 27/24 3/3 51/50 12/14 4/4 2017

8/5 23/30 1/0 57/67 19/25 6/7 2018

(Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm 2013-2018 của CQĐT Viện kiểm sát nhân

62

dân tối cao) [10]

Như vậy qua bảng 2.3 ta thấy, trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm

2018 tổng số vụ án và bị can mà CQĐT VKSNDTC thụ lý là 291 vụ án với

265 bị can các loại. Xét về diễn biến, cho thấy, số vụ án tăng từ 25 vụ khởi tố

năm 2013 lên 57 vụ khởi tố năm 2018, như vậy, tổng số vụ án khởi tố tăng

2,1 lần trong toàn giai đoạn, số bị can tăng từ 50 bị can bị khởi tố năm 2013

lên 67 bị can bị khởi tố năm 2018.

Xét về số đặc điểm đối tượng vụ án và bị can bị CQĐT VKSNDTC

khởi tố trong giai đoạn cho thấy số vụ và bị can thuộc lực lượng Công an là:

94 vụ với 91 bị can chiếm tỉ lệ 32.3% tổng số vụ án và 34.3% tổng số bị can

bị CQĐT VKSNDTC khởi tố trong toàn giai đoạn; Đối tượng thuộc ngành

Kiểm sát nhân dân bị khởi tố gồm 19 vụ án và 13 bị can chiếm tỉ lệ 6.5% vụ

án và 8.6% tổng số bị can bị CQĐT VKSNDTC khởi tố trong giai đoạn; số bị

cáo thuộc ngành Tòa án bị khởi tố là: 46 vụ án chiếm tỉ lệ 15.8% tổng số vụ

án đã khởi tố và 46 bị can chiếm 23.3% tổng số bị can đã khởi tố; số bị can

thuộc Cơ quan thi hành án là 114 vụ án chiếm tỉ lệ 39.1% tổng số vụ án và

102 bị can chiếm tỉ lệ 38.4%. Như vậy, cho thấy tỉ lệ số vụ án và bị can thuộc

lực lượng công an và lực lượng thi hành án là chủ yếu khoảng từ 30-40% tổng

số vụ án đã khởi tố.

Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về khởi tố vụ án hình

sự, vẫn còn tồn tại điều bất cập, như: Việc quy định thời hạn kiểm tra xác

minh, tố giác, tin báo tội phạm là 20 ngày, tối đa là 02 tháng nhằm ràng buộc

trách nhiệm của CQĐT, Viện kiểm sát. Đặc thù tính chất của hoạt động đấu

tranh phòng, chống tội phạm là phải chủ động để áp dụng các biện pháp do

luật định để làm rõ có hay không có dấu hiệu tội phạm, nếu có dấu hiệu tội

phạm thì khởi tố vụ án hình sự để tiến hành các biện pháp điều tra. Tuy nhiên

trên thực tế, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp, những tin báo, tố

63

giác về tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ, có yếu tố nước ngoài, hành vi vi

phạm ở nhiều nơi, trong thời gian dài, liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều

lĩnh vực, các vụ việc bắt buộc phải trưng cầu những ý kiến chuyên môn nhất

định để đưa ra những kết luận chính xác nhất hoặc xin ý kiến chỉ đạo về sự

cần thiết khởi tố hay không do liên quan đến các yếu tố chính trị, ngoại giao

hoặc những lý do nhất định. Điều đó dẫn đến tình trạng còn nhiều vụ việc để

kéo dài, hành vi phạm tội không bị pháp luật trừng trị kịp thời, để lại một nỗi

đau cho nạn nhân khi bị đạp lên quyền con người, sống trong thù hận và sự sợ

hãi bởi tội ác gây ra.

Các vụ khởi tố điển hình do CQĐT VKSNDTC khởi tố đã tạo tiếng

vang trong dư luận, đảm bảo quyền con người của các chủ thể.

Vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn:

Ngày 05/07/2013, CQĐT VKSNDTC tiếp nhận đơn của bà Nguyễn Thị

Chiến là vợ ông Nguyễn Thanh Chấn, tố giác các cơ quan tiến hành tố tụng

tỉnh Bắc Giang đã xâm phạm hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết vụ

án giết chị Nguyễn Thị Hoan ngày 15/8/2003, kết oan cho chồng bà là ông

Nguyễn Thanh Chấn. Sau khi tiếp nhận đơn của bà Nguyễn Thị Chiến, CQĐT

VKSNDTC nhận thấy vụ việc có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp, đã tổ

chức kiểm tra, xác minh theo quy định. Kết quả điều tra thấy có đủ căn cứ xác

định người thực hiện hành vi giết chị Hoan là Lý Nguyễn Chung. Sau khi gây

án Chung đã trốn vào miền Nam sinh sống. Cơ quan điều tra đã kiên trì vận

động Lý Nguyễn Chung ra đầu thú. Cuối tháng 10/2013, Lý Nguyễn Chung ra

đầu thú. Tại CQĐT VKSNDTC sau khi được động viên, thuyết phục Lý

Nguyễn Chung đã thành khẩn khai nhận hành vi giết và cướp của chị Hoan 2

chiếc nhẫn vàng và 54.000 đồng. CQĐT đã báo cáo và đề nghị lãnh đạo

VKSNDTC kháng nghị tái thẩm vụ án trả tự do và giải oan cho ông Nguyễn

Thanh Chấn. Song song với việc điều tra làm rõ hành vi phạm tội của Lý

64

Nguyễn Chung, cơ quan điều tra cũng đã tiến hành làm rõ hành vi xâm phạm

hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án dẫn đến việc ông Chấn bị

oan. Kết quả điều tra đã chứng minh nguyên nhân dẫn đến việc ông Chấn bị

kết tội oan là do trong quá trình điều tra vụ án trên, ông Trần Nhật Luật -

nguyên Phó trưởng công an huyện Việt Yên, người trực tiếp điều tra vụ án và

ông Đặng Thế Vinh – kiểm sát viên, trực tiếp thực hành quyền công tố kiểm

sát điều tra vụ án đã làm sai lệch hồ sơ vụ án.

Trên cơ sở đó, CQĐT VKSNDTC đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi

tố bị can, bắt tạm giam đối với ông Trần Nhật Luật và ông Đặng Thế Vinh để

điều tra và xử lý theo quy định pháp luật. Quá trình điều tra khai thác mở rộng

ngày 01/10/2014, CQĐT đã ra quyết định khởi tố bị can đối với ông Phạm

Tuấn Chiêm, nguyên thẩm phán TAND tối cao, chủ tọa phiên tòa xét xử phúc

thẩm đối với ông Chấn về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

theo quy định tại điều 285 Bộ luật Hình sự. Kết quả điều tra nếu đủ căn cứ

chứng minh đã phạm tội thì sẽ khởi tố, điều tra để xử lý nghiêm minh.

Vụ nhận hối lộ, xảy ra tại Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm tỉnh

Hà Nam

Năm 2008, y ban nhân dân tỉnh Hà Nam phê duyệt dự án hạng mục

công trình tuyến đường sơ tán cứu hộ dân kết hợp đê chắn nước núi tại xã

Thanh Nghị, huyện Thanh Liêm. Ban giải phóng mặt bằng của huyện đã

thành lập tổ kiểm kê, bồi thường, trong đó có Đỗ Đức Tuân. Quá trình kiểm

kê tài sản, Tuân đã cấu kết với một số đối tượng kê khống một số giếng khoan

để lấy tiền chia nhau. Vụ việc sau đó bị phát giác, cơ quan tiến hành tố tụng

huyện Thanh Liêm đã khởi tố, điều tra, truy tố Đỗ Đức Tuân và một số đối

tượng khác về tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”

theo Điều 281 Bộ luật hình sự. Ông Nguyễn Duy Hiệp khi đó là Phó chánh án

Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm được giao nhiệm vụ nghiên cứu, xét xử

65

vụ án. Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Đỗ Đức Tuân đã nhờ người quen đặt

vấn đề với ông Hiệp giúp đỡ Tuân. Ông Hiệp hướng dẫn Tuân về bàn với gia

đình thu xếp 80 triệu đồng và một số giấy tờ, đơn liên quan đến gia đình

chính sách nếu muốn được xét xử ở mức án thấp nhất. Sau đó, Tuân và người

nhà Tuân đã mang số tiền trên đến trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm

đưa cho ông Hiệp.

Quá trình nghiên cứu vụ án, Nguyễn Duy Hiệp thấy việc truy tố Tuân

theo khoản 2 điều 281 Bộ luật hình sự là hơi nặng, chứng cứ buộc tội đối với

2 bị can khác chưa đảm bảo nên đã trả hồ sơ cho Viện KSND huyện Thanh

Liêm yêu cầu điều tra bổ sung. Tháng 6/ 2013, khi Tòa án nhân dân huyện

triệu tập Tuân, Nguyễn Duy Hiệp đã đề nghị Tuân chuẩn bị thêm 170 triệu

đồng sẽ xử cho mức án treo, song gia đình anh này chỉ lo được khoảng 155

triệu đồng. Đến ngày 12/06/2014, khi đưa vụ án ra xét xử lưu động, hội đồng

xét xử đã tuyên phạt Tuân 12 tháng tù giam. Bức xúc và cho rằng bị lừa, gia

đình Tuân đã nhiều lần đến đòi tiền và ông Hiệp đồng ý trả lại. Sáng ngày

30/06/2014, Hiệp trả lại Tuân 185 triệu đồng tại Tòa án nhân dân huyện

Thanh Liêm và ngay sau đó số tiền này đã được nộp cho cơ quan điều tra. Số

tiền còn lại (50 triệu đồng) Hiệp chưa trả cho gia đình Tuân vì đã sử dụng vào

việc riêng. Trên cơ sở đơn tố cáo của ông Đỗ Minh Tý (bố Tuân), CQĐT

VKSNDTC đã xác minh và tiến hành bắt, khám xét khẩn cấp đối với Nguyễn

Duy Hiệp về hành vi “Nhận hối lộ”. Quá trình điều tra, Nguyễn Duy Hiệp đã

khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị can phù hợp với

lời khai của nhân chứng và những người liên quan, phù hợp với tài liệu chứng

cứ cũng như vật chứng đã thu thập [10].

Vụ án dùng nhục hình, xảy ra tại Công an thành phố Nha Trang

tỉnh Khánh Hòa:

Từ cuối tháng 9 năm 2009, bà Trần Thị Lan sinh năm 1970 ở xã Suối

Hiệp, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa nhận giúp việc cho gia đình anh Võ

66

Hà Trang ở 9B Hải Thượng Lãn Ông, thành phố Nha Trang. Ngày 28/11/2010,

anh Trang đến Công an thành phố Nha Trang trình báo về việc gia đình anh bị

mất trộm 7 triệu đồng và 1.750USD và nghi ngờ bà Lan lấy trộm. Đội Cảnh sát

điều tra án hình sự về trật tự xã hội Công an thành phố Nha Trang tiếp nhận tin

báo và phân công Trần Bá Tuấn - điều tra viên, Nguyễn Đình Quyết - cán bộ

trinh sát xác minh tin báo. Khoảng 10h ngày 28/11/2010, Tuấn và Quyết đưa

bà Lan đến nơi ở trọ để lục soát và lập biên bản thu giữ một số tư trang quần

áo, mỹ phẩm, sau đó đưa bà Lan vào phòng làm việc trên tầng 2 trụ sở Công an

thành phố Nha Trang để yêu cầu bà Lan khai báo việc trộm cắp tài sản. Trong

khoảng thời gian từ trưa ngày 28/11 đến 17h ngày 29/11/2010, Tuấn và Quyết

đã dùng công cụ hỗ trợ là gậy cao su, dùi cui điện do ngành công an trang bị để

đánh đạp, chích điện nhiều lần vào tay, chân, vai bà Lan để ép bà Lan khai

nhận hành vi trộm cắp tiền của gia đình anh Trang. Do bị đánh đau, bà Lan

buộc phải khai nhận có trộm số tiền trên của gia đình anh Trang, khoảng 17h

ngày 29/11/2010, Tuấn và Nguyễn Duy Đông (là cán bộ Công an thành phố

Nha Trang) đưa bà Lan đến Công an phường Vạn Thắng để Cơ quan cảnh sát

điều tra Công an thành phố Nha Trang thực hiện lệnh bắt khẩn cấp và quyết

định tạm giữ đối với bà Lan, đồng thời soạn sẵn biên bản giao nhận người bị

bắt, xác nhận bà Lan tình trạng sức khỏe bình thường. Ngày 30/11/2010, bà

Lan bị ngất xỉu tại nhà tạm giữ nên đã được đưa vào Bệnh viện Đa khoa Khánh

Hòa cấp cứu và điều trị, đến ngày 7/12/2010 thì xuất viện. Theo kết luận của

Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, bà Lan bị “đa chấn thương”, trong đó có

nhiều vết thương ở vùng đùi, tay, ngực… [10]

CQĐT VKSNDTC đã vào cuộc, xác minh và quyết định khởi tố vụ án,

khởi tố bị can và tiến hành điều tra đối với Trần Bá Tuấn, Nguyễn Đình

Quyết về tội Dùng nhục hình theo quy định tại điều 298 Bộ luật hình sự, kết

thúc điều tra, chuyển hồ sơ đến Vụ 1A Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị

67

truy tố Trần Bá Tuấn, Nguyễn Đình Quyết về tội danh trên.

* Thực tiễn thi hành bảo đảm quyền con người thông qua các quy

định về biện pháp điều tra

Đi tìm số liệu về các vi phạm của CQĐT trong việc áp dụng các biện

pháp điều tra trong quá trình điều tra các vụ án hình sự là một thực tế hết sức

khó khăn và tế nhị, các CQĐT không công khai đưa ra những số liệu, thông

tin phản ánh những sai phạm của cơ quan mình dẫn đến việc vi phạm quyền

con người, bởi dễ dẫn đến quy kết trách nhiệm về phần mình trong việc vi

phạm, nên việc đánh giá cũng ở trong một phạm vi thông tin hẹp hoặc do các

cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, giám sát.

Trước hết phải thấy rằng, tình trạng bức cung, dụ cung, dùng nhục hình

trong hoạt động điều tra vẫn còn xảy ra. Thực tiễn cho thấy, trong các vụ án

bị cáo bị kết tội oan thì ở mức độ nhiều hay ít thì họ đều bị truy bức hoặc

dùng nhục hình để buộc phải nhận tội.

Theo số liệu thống kê của Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông

tin VKSNDTC, từ năm 2013 đến năm 2018, có thể thấy, số lượng tin báo, tố

giác về tội phạm bức cung, dùng nhục hình trong những năm gần đây xu

hướng ngày càng giảm [10]. Tuy nhiên, tỷ lệ số vụ án và số bị can bị khởi tố,

điều tra so với số vụ việc thụ lý để xem xét, giải quyết về tội dùng nhục hình

lại cao hơn những năm trước [10].

Về Tội bức cung, điều đáng chú ý là, theo số liệu thống kê của Cục

Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin và của Cục điều tra tội phạm

thuộc VKSNDTC, thì trong những năm qua mặc dù có những tin báo, tố giác

về tội phạm liên quan đến hành vi bức cung nhưng CQĐT VKSNDTC chưa

khởi tố, điều tra vụ án nào về tội này. Về Tội dùng nhục hình, mặc dù một số

vụ việc đã được xem xét, khởi tố, điều tra nhưng số vụ việc được khởi tố chưa

phản ánh được đầy đủ tình hình thực tế [10]. Thực tiễn cho thấy, nhiều vụ án,

68

bị cáo khai tại phiên tòa là do bị bức cung, nhục hình nên phải khai không

đúng sự thật tại CQĐT và xin khai lại với nội dung hoàn toàn khác nhưng

thường bị bác đi với lý do “không có chứng cứ để chứng minh điều đó” [10].

Đây là vấn đề rất đáng quan tâm để xem xét, giải quyết.

* Việc bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra

tại Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Từ năm 2013 đến 2018, CQĐT VKSNDTC đã thực hiện tốt nhiệm vụ bảo

đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra. Thể hiện trên các nội dung sau:

Trong những năm qua, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, CQĐT

VKSNDTC đã cấp chứng nhận bào chữa, đăng ký bào chữa cho 100% trường

hợp bị can bị khởi tố có yêu cầu hoặc được chỉ định người bào chữa [10].

Quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra là một trong những quyền cơ

bản của người bị tạm giữ và bị can. Đó là quyền mà người bị tạm giữ và bị can

tự mình hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình nhằm chứng minh cho sự vô

tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp

pháp khác trong quá trình tố tố tụng hình sự. Trách nhiệm bảo đảm quyền bào

chữa trong giai đoạn điều tra chủ yếu thuộc về phía CQĐT. Để bảo đảm quyền

bào chữa, CQĐT phải tạo những điều kiện cho người bị buộc tội tự mình hoặc

nhờ người khác thực hiện quyền bào chữa. Thời gian qua, CQĐT VKSNDTC

đều có những hoạt động đảm bảo thực hiện các quyền này. Tuy nhiên, quá

trình thực hiện vẫn còn có những tồn tại nhất định. Do nhận thức pháp luật của

một số người còn hạn chế và yếu tố tâm lý e ngại, nên thực tế những người này

không dám thực hiện quyền tự bào chữa cho mình. Có thể họ cho rằng tự bào

chữa rất dễ bị cho là ngoan cố, chống đối, không thành khẩn khai báo và dễ bị

mất đi tình tiết giảm nhẹ. Vì vậy, việc bảo đảm quyền tự bào chữa của người bị

tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra rất khó thực hiện. Để bào chữa cho

mình người bị tạm giữ và bị can thường phải nhờ người khác như: luật sư, bào

69

chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp.

Hoạt động của người bào chữa không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của cá nhân, tổ chức mà còn góp phần tăng cường thiết chế pháp luật xã

hội chủ nghĩa, làm cho mọi người hiểu và hành động theo đúng quy định của

pháp luật góp phần giữ vững ổn định xã hội, tăng niềm tin của nhân dân vào

Đảng, Nhà nước. Ngoài ra, thông qua việc bào chữa cho người bị buộc tội để

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình, người bào chữa đã

lồng ghép tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật cho người dân và khẳng

định vai trò ngày càng quan trọng của người bào chữa trong tiến trình cải cách

tư pháp của Nhà nước ta hiện nay.

CQĐT VKSNDTC đã tạo điều kiện cho các đương sự bảo đảm quyền

lợi của mình trong giai đoạn điều tra, kịp thời hủy bỏ các quyết định trái pháp

luật, xâm phạm quyền con người của bị can.

Đối với việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, trong số các biện pháp mà

BLTTHS quy định, thì biện pháp tạm giữ, tạm giam là các biện pháp cách ly

tạm thời người bị buộc tội ra khỏi đời sống xã hội. Do đó, nếu việc áp dụng

các biện pháp ngăn chặn này không đúng người, không đúng hành vi, không

đúng trình tự, thủ tục sẽ xâm phạm nghiêm trọng quyền con người của người

bị tình nghi phạm tội. Có thể nói, CQĐT VKSNDTC đã thực hiện tuân thủ

chặt chẽ, hạn chế việc bắt khẩn cấp, hủy nhiều quyết định tạm giữ, góp phần

bảo đảm việc bắt, tạm giữ, tạm giam đúng pháp luật.

Quá trình khởi tố, điều tra các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp,

CQĐT VKSNDTC đã tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, đảm bảo

việc điều tra và lập hồ sơ xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không

bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Không có vụ án nào phải đình

chỉ điều tra vì bị can không phạm tội hoặc đã đề nghị truy tố mà Tòa án tuyên

bị cáo không phạm tội. Không có vụ án nào bị hủy án để điều tra lại. Số vụ án

70

phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung chiếm tỷ lệ thấp. Trong đó, đã phát hiện,

điều tra làm rõ, xử lý nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, được dư

luận quan tâm.

* Thực tế các điều kiện cơ sở, kỹ thuật, hậu cần đối với hoạt động tố

tụng nhằm bảo đảm quyền con người

Kết quả công tác thực hiện đảm bảo quyền con người trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự của cả nước nói chung và của CQĐT VKSNDTC cần

phải đảm bảo sự đồng bộ và chặt chẽ đến từ công tác đảm bảo hậu cần, kỹ

thuật đối với hoạt động tố tụng. Trong những năm vừa qua, trụ sở CQĐT

VKSNDTC và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều được tăng cường cơ sở vật

chất, trang thiết bị, nhân lực để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn

của mình đặc biệt bảo đảm tốt quyền con người trong tố tụng hình sự.

CQĐT VKSNDTC là đơn vị trực thuộc bộ máy làm việc VKSNDTC.

Mọi hoạt động của CQĐT phải tuân thủ quy định của pháp luật, quy định của

Ngành. Công chức thuộc Cơ quan điều tra phải thực hiện đúng phạm vi nhiệm

vụ, quyền hạn.

Ngày 18/4/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh thành lập

VKSNDTC, trong đó có Vụ Điều tra thẩm cứu, đánh dấu sự hình thành tổ

chức CQĐT ngành Kiểm sát nhân dân được thành lập. Trải qua 55 năm xây

dựng và phát triển, kết quả công tác của CQĐT ngành Kiểm sát nhân dân đã

góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối

với ngành Kiểm sát nhân dân; tạo điều kiện cho Viện kiểm sát thực hiện tốt

hơn chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; đảm

bảo yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời góp phần giải quyết

dứt điểm khiếu kiện kéo dài của công dân đối với những vi phạm của cán bộ

các cơ quan tư pháp; chứng minh, làm rõ được nội dung vụ việc, tạo điều kiện

cho các cá nhân, cơ quan đơn vị có cán bộ vi phạm khắc phục những hạn chế,

thiếu sót, yên tâm công tác, tránh những nghi ngờ không đáng có trong nội

71

bộ, nhằm xây dựng các cơ quan tư pháp ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Được sự quan tâm của VKSNDTC, trụ sở của CQĐT đã được đầu tư

nâng cấp và được trang bị đầy đủ thiết bị kỹ thuật, hệ thống máy vi tính cơ

bản phục vụ tốt nhu cầu của nhiệm vụ trong tình hình mới. Như vậy, về cơ

bản, CQĐT VKSNDTC đã được trang bị tương đối cơ sở vật chất, trang thiết

bị phục vụ công tác hoạt động điều tra cũng như đảm bảo quyền con người

trong tố tụng hình sự.

2.2.2. Hạn chế bảo đảm quyền con người trong hoạt động điều tra của Cơ

quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Thứ nhất, dù các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp trong 5 năm qua

không có những biến động đột biến về số lượng nhưng tính chất phức tạp của

các vụ án không hề giảm, đặc biệt là những đối tượng phạm tội có chức vụ,

quyền hạn trong các cơ quan tư pháp có xu hướng gia tăng đặc biệt là các đối

tượng có thâm niên công tác lâu năm, nắm rõ các quy định của pháp luật.

Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động giải quyết loại án này bởi trong

quá trình điều tra việc tìm ra được các chứng cứ chứng minh tội phạm của

những đối tượng này thường gặp khó khăn. Chính bản thân người bị buộc tôi

không chỉ vận dụng các thao tác nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp cũng như

điều kiện làm việc của mình để che giấu tội phạm mà họ còn lợi dụng các mối

quan hệ để tìm hiểu, cập nhật tiến trình điều tra và tìm cách đối phó, ngăn cản

hoạt động điều tra. Trong quá trình điều tra vụ án, người bị buộc tội thường

có thái độ ngoan cố, không hợp tác với CQĐT, do họ từng là những chủ thể

tiến hành tố tụng, am hiểu pháp luật nên có khả năng che giấu tội phạm của

mình cũng như dựa vào các mối quan hệ trong công tác, vào sự "giúp đỡ" của

những người có thẩm quyền tác động để xử lý "nội bộ". Ngoài ra, vấn đề để

các cấp ủy Đảng, chính quyền, đơn vị chủ quản nơi người phạm tội công tác

xóa bỏ tư tưởng bao che, sợ mất uy tín, chạy theo thành tích, sợ ảnh hưởng

đến địa phương, đơn vị cũng là một khó khăn thường gặp phải trong quá trình

72

giải quyết vụ án.

Thứ hai, thực tiễn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự nước ta còn tồn

tại tình trạng CQĐT VKSNDTC, Viện kiểm sát vi phạm quyền con người của

bị can. Một số Điều tra viên, Kiểm sát viên có xu hướng chủ quan, suy diễn

đối với người bị tố giác, định kiến đối với người bị bắt, tạm giữ, bị can, cho

rằng bi can là người đã bi khởi tố về hình sự thì đương nhiên là có tội nên

quá trình điều tra chỉ chú trọng vào việc thu thập chứng cứ buộc tội; không

chú trọng thu thập, đánh giá, củng cố chứng cứ gỡ tội. Tâm lý này dễ dẫn đến

tình trạng mớm cung, bức cung, nhục hình, ép bị can phải nhận tội, thậm chí

có trường hợp còn không tiến hành hỏi cung bi can mà kết luận điều tra dựa

trên biên bản hỏi cung không phản ánh khách quan, toàn diện nội dung, diễn

biến hành vi phạm tội của bị can.

Thứ ba, vi phạm quyền con người trong hoạt động áp dụng biện pháp

ngăn chặn.

BLTTHS quy định rất đầy đủ, cụ thể các căn cứ áp dụng biện pháp

ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam cũng như các trường hợp trả tự do cho

người đã bị bắt, tạm giữ, tạm giam. Có nhiều căn cứ trả tự do cho người đã bị

bắt, tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên các trường hợp trả tự do chỉ thuộc một

trong hai nguyên nhân: một là, trả tự do khi không cần tiếp tục áp dụng biện

pháp tạm giữ, tạm giam và trả tự do khi đã bắt, tạm giữ, tạm giam không có,

không đủ căn cứ, không cần thiết; hai là phản ánh sai phạm của CQĐT, Viện

kiểm sát trong việc áp dụng, phê chuẩn áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm

giam. Số liệu thống kê tư pháp cho thấy hàng năm đang có số lượng lớn

người bị bắt, tạm giữ, tạm giam được trả tự do. Ngoài ra, tình trạng vi phạm

quyền con người dưới hình thức vi phạm thời hạn giữ người, bắt, tạm giữ

người còn tồn tại. Theo quy định của BLTTHS, nếu hết thời hạn này thì

CQĐT có thẩm quyền có thể ra quyết định gia hạn tạm giữ hoặc chuyển sang

73

tạm giam hoặc phải trả tự do cho người bị tạm giữ. Tuy nhiên, nhiều đương

sự đã bị giữ, bị bắt, tạm giữ tại CQĐT dưới hình thức câu lưu, “tự nguyện ở

lại CQĐT để phục vụ điều tra”.

Tình trạng giữ người, bắt người, tạm giữ, tạm giam khi không cần thiết,

tạm giữ, tạm giam quá hạn, kéo dài do phải trả hồ sơ điều tra bổ sung đã và

đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và tâm lý của người bị

giam, giữ [10]. CQĐT và Viện kiểm sát đều có trách nhiệm trong vi phạm

giam, giữ người.

2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Thứ nhất, vướng mắc trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Có thể nhận thấy các quy định của BLTTHS về quyền con người,

quyền công dân tương đối đầy đủ. Trong BLTTHS hiện hành đã có rất nhiều

nguyên tắc thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm các quyền con người trong tố

tụng hình sự. Dựa trên các nguyên tắc này, trong giai đoạn điều tra vụ án hình

sự, BLTTHS quy định về quyền của người tham gia tố tụng cũng như quyền

và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam, tạm giữ, người bị hại… Một số

quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng đưa ra các biện pháp nhằm bảo

đảm thực hiện các quyền đó như trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về

cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, quy định thẩm quyền trong

giai đoạn điều tra, quy định trách nhiệm đối với cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng trong trường hợp làm oan sai.

Tuy nhiên một số quy định của BLTTHS vẫn chưa đáp ứng được tốt

các yêu cầu về quyền con người như:

* Vướng mắc thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can

Khởi tố vụ án, khởi tố bị can là phản ứng của nhà nước đối với tội

phạm và hành vi phạm tội của người phạm tội, xuất phát từ yêu cầu bảo đảm

trật tự xã hội, bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra. Việc đổi mới

74

thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can cần đáp ứng đầy đủ những yêu cầu đảm

bảo mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện điều tra, xử lý kịp thời nhưng

phải bảo đảm được những quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá

nhân liên quan đến những hoạt động này của các CQĐT, Viện kiểm sát.

- Tại Điều 18 BLTTHS năm 2015 quy định “khi phát hiện có dấu hiệu

tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ

quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án” [31]. Nhưng chúng ta thấy

Tòa án chỉ có chức năng xét xử, xác định sự buộc tội của Viện kiểm sát đúng

hay không đúng với người phạm tội. Quy định cho Tòa án (Hội đồng xét xử)

này làm ảnh hưởng đến cả quá trình tố tụng, không chỉ giai đoạn chuẩn bị xét

xử (bằng việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung) mà ngay tại phiên tòa xét xử, Hội

đồng xét xử có thể hoàn toàn nghiêng về bên buộc tội.

- Tại Điều 179 BLTTHS năm 2015 quy định: “Khi có đủ căn cứ để xác

định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy

định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can” [31]. Trong

thực tế, sau khi có quyết định khởi tố bị can thì họ mới khám xét nơi ở nơi

làm việc, xem xét dấu vết trên thân thể, đối chất, nhận dạng thực nghiệm điều

tra… như vậy CQĐT chưa thể có đủ chứng cứ xác định một người đã thực

hiện hành vi phạm tội để ra quyết định khởi tố bị can.

* Địa vị tố tụng của người đại diện người buộc tội, người bào chữa của

người bị buộc tội chưa được quy định rõ ràng, cụ thể:

- Địa vị tố tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

được quy định chưa thật phù hợp làm hạn chế việc bảo đảm quyền con người

của người bị buộc tội.

Ví dụ: BLTTHS năm 2015 chưa có quy định cụ thể về chế định “người

đại diện” của người bị buộc tội (là cá nhân). Thực tiễn giải quyết vụ án hình

sự cho thấy, từ những BLTTHS trước đây, chủ thể tiến hành tố tụng chỉ viện

dẫn bằng những quy định tương thích giữa pháp luật tố tụng hình sự với Bộ

75

luật Dân sự, theo đó, người đại diện hợp pháp của người bị cáo bao gồm: cha,

mẹ, người giám hộ hoặc người do Tòa án chỉ định. Quá trình giải quyết vụ án

hình sự cho thấy có những khó khăn vướng mắc: chưa xác định được phạm vi

người đại diện bao gồm những ai; chưa xác định rõ người đại diện có những

quyền và nghĩa vụ gì (hiện tại người đại diện ngoài những quy định về quyền

rải rác ở các điều luật thì chỉ có chung quy định quyền và nghĩa vụ với người

bào chữa, còn tư cách là đại diện của cá nhân người tham gia tố tụng thì

không có) ; khó khăn trong việc lựa chọn người đại diện khi bị cáo có từ 02

người đại diện trở lên thì thủ tục tố tụng sẽ như thế nào…

Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 cũng chưa quy định thế nào là và “người

thân thích”, quyền và nghĩa vụ của họ như thế nào. Người thân thích được

quyền lựa chọn người bào chữa cho người bị buộc tội, nhưng trong các quy

định tiếp theo, khi giải quyết vụ án hình sự, lại không có quy định nào cho

phép người thân thích có quyền đại diện người bị buộc tội… Như vậy,

BLTTHS cần thiết phải bổ sung những quy định cụ thể để việc áp dụng pháp

luật được thống nhất.

- Các quy định về việc thực hiện các quyền của người tham gia tố tụng,

nhất là quyền của người bào chữa trong giai đoạn điều tra còn nhiều điểm

chưa hợp lý, mâu thuẫn với pháp luật khác.

Ví dụ: BLTTHS năm 2015 quy định người đại diện của người bị buộc

tội cũng là người bào chữa theo em là không hợp lý. Người đại diện của

người bị buộc tội nói chung sẽ chiếm số đông không am hiểu về pháp luật

hình sự và tố tụng hình sự. Nhưng Điều 10 của Luật Luật sư quy định tiêu

chuẩn luật sư “phải phải có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư,

đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư” mới được tham gia bào chữa, thì

việc quy định người bào chữa có thể là "người đại diện hợp pháp của bị can,

bị cáo” là không phù hợp.

Hoặc quy định người bào chữa đăng ký bào chữa với cơ quan tiến hành

tố tụng của BLTTHS năm 2015. Theo em, thủ tục này là cần thiết nhằm xác

76

định tư cách, điều kiện pháp lý để tham gia tố tụng của một luật sư. Để các cơ

quan tiến hành tố tụng xem xét cấp giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư

phải có các giấy tờ theo quy định tại Điều 27 của Luật Luật sư như: Thẻ luật

sư, chứng chỉ hành nghề, giấy giới thiệu của văn phòng nơi luật sư hành

nghề... Tuy nhiên, Điều 78 BLTTHS năm 2015 quy định thủ tục đăng ký bào

chữa thì Luật sư chỉ cần cung cấp 2 loại giấy tờ, bao gồm thẻ luật sư và giấy

chứng nhận cơ quan hành nghề. Như vậy, giữa hai văn bản có quy định khác

nhau này, khiến việc áp dụng cũng rất tùy nghi…

* Vướng mắc trong thực hiện quy định về quyền im lặng và quyền được

bào chữa của bị can trong giai đoạn điều tra

Ghi nhận đầy đủ các quyền con người trong tố tụng hình sự trên cơ sở

các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trong tố tụng hình sự. Trong luật

thực định của chúng ta cho thấy còn một số quyền con người của người bị

buộc tội chưa được ghi nhận: quyền được im lặng ở nhiều nước ngay khi cảnh

sát bắt giữ nghi phạm thì câu nói đầu tiên là “Anh được quyền giữ im lặng.

Bất cứ điều gì anh nói có thể và sẽ được sử dụng để chống lại anh trước toà

án” Có ý kiến cho rằng đa phần người bị tình nghi khi bị bắt đều kêu oan, chứ

không im lặng. Tuy nhiên, cần nhìn nhận, “kêu oan” không đồng nghĩa với

việc “không im lặng” bởi như lý giải của Trung tướng Trần Văn Độ, Chánh

án Tòa án Quân sự Trung ương, Phó Chánh án TANDTC – “quyền im lặng

chờ luật sư thực chất là quyền không khai báo cho đến khi có sự tư vấn của

luật sư”. Như vậy, sẽ tránh được cho một người việc tự buộc tội mình, thiệt

hại cho bản thân, Phó Chánh án TANDTC khẳng định về ý nghĩa của việc có

luật sư khi một người phải khai báo trước cơ quan điều tra. Do đó, bổ sung

quy định cho phép người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can được quyền im

lặng để chờ luật sư trong BLTTHS là điều kiện cần cho quyền có luật sư của

người dân được bảo đảm thực thi và cũng là bảo đảm quyền con người không

77

bị xâm phạm trong hoạt động tố tụng.

Thứ hai, CQĐT VKSNDTC chỉ là Cơ quan điều tra thuần nhất hoạt

động tố tụng, không có sự phối hợp, hỗ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý từ các

đơn vị trong ngành như lực lượng cảnh sát, các trại tạm giam, nhà tạm giữ,

các đơn vị quản lý hồ sơ nghiệp vụ, tàng thư can phạm… nên khi cần sự phối

hợp, trợ giúp cho hoạt động điều tra không được chủ động như các ngành

Công an, Quân đội, trong khi chưa có quy chế rõ ràng quy định trách nhiệm

của các đơn vị này trong việc thực hiện các yêu cầu của CQĐT VKSNDTC.

Hiện nay vẫn chưa có phương thức chỉ đạo, điều hành hoạt động điều tra thích

hợp với việc điều tra các vụ án xảy ra ở địa bàn xa cơ quan, thời gian chờ đợi,

xin ý kiến đường lối xử lý còn dài. Điều đó ảnh hưởng đến quá trình giải

quyết vụ án và làm chậm tiến độ điều tra.

Thứ ba, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc chưa hoàn toàn đáp

ứng thực tiễn; kinh phí, phương tiện kỹ thuật, phương tiện nghiệp vụ hỗ trợ

cho hoạt động điều tra của CQĐT VKSNDTC chưa phong phú, cùng là hệ

thống CQĐT theo Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, nhưng CQĐT

VKSNDTC chưa thực sự được đầu tư nhiều về máy móc, phương tiện, kỹ

thuật tiên tiến như các CQĐT của Bộ Công an. Việc đi lại xác minh, điều tra

ở những địa phương kéo dài nhiều ngày, trong khi công tác phí và hỗ trợ công

tác còn hạn hẹp cũng phần nào ảnh hưởng đến tâm lý của các điều tra viên. Sự

hợp tác của các đơn vị, ngành liên quan, của các địa phương trong việc hỗ trợ

tư pháp, trợ giúp pháp lý có lúc, có nơi còn hạn chế [10].

Thứ tư, tội phạm xâm phạm tư pháp do cán bộ tư pháp là những

người có trình độ pháp lý, hiểu biết xã hội, được giáo dục về đạo đức, tác

phong của người cán bộ tư pháp; do vậy để điều tra những vụ án xâm phạm

hoạt động tư pháp phải là những điều tra viên có trình độ nghiệp vụ và năng

lực “hơn hẳn” họ. Nhưng đội ngũ điều tra viên của Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát nhân dân, ngoài một số ít được đào tạo trong các trường Đại học

78

Cảnh sát nhân dân, đại học An ninh nhân dân, công tác trong ngành Công an

nhân dân chuyển ngành, còn đa số không được đào tạo chuyên sâu về nghiệp

vụ điều tra. Vì vậy về năng lực nghiệp vụ, kỹ năng điều tra còn có những hạn

chế nhất định, chưa đáp ứng kịp yêu cầu đấu tranh phòng chống vi phạm và

tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp.

Thứ năm, số lượng cán bộ điều tra viên của Cơ quan điều tra, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay còn thiếu so với biên chế trong khi số vụ

việc phải tiến hành xác minh, điều tra lớn, mỗi vụ việc lại ở những địa

phương khác nhau nên có phần ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian xác

minh, điều tra. Các cán bộ, điều tra viên tuy có thâm niên công tác nhưng số

người tốt nghiệp chuyên ngành điều tra tội phạm không nhiều [10]. Việc bồi

dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ điều tra viên còn

chưa được chú trọng đúng mức [10].

Thứ sáu, công tác tuyên truyền về chức năng nhiệm vụ của ngành

Kiểm sát nhân dân, nhất là về hoạt động của Cơ quan điều tra của Viện kiểm

sát nhân dân mặc dù trong những năm gần đây đã được quan tâm song chưa

tương xứng nên vị trí, tầm quan trọng của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân

dân chưa xã hội tiếp nhận đúng giá trị. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt

động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân, những người bị cán bộ tư

79

pháp xâm phạm, gia đình của họ không tìm đúng “địa chỉ” để tố cáo, khiếu nại.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Từ những kết quả đạt được, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân

tối cao ngày càng khẳng định được vai trò và vị trí trong hệ thống các cơ quan

tư pháp, góp phần thực hiện có hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố

và kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân; được Đảng, Nhà

nước, các cơ quan, đơn vị hữu quan và nhân dân tin tưởng, ghi nhận. Vì vậy,

Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Bộ

luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự

năm 2015, theo đó Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm

quyền điều tra tội phạm xâm phạm tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ

xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật mà người phạm

tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát nhân

dân, cơ quan Thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.

Từ năm 2013 đến nay, sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, Cơ quan

điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tích cực giải quyết các nguồn tin này

một cách triệt để. Tỷ lệ giải quyết trung bình khoảng 85%. Tỷ lệ khởi tố vụ án

chỉ khoảng 20,5%. Kết quả này so với kết quả khởi tố vụ án hình sự của các Cơ

quan điều tra khác là không cao, một phần bởi vì đặc thù của loại án thuộc

thẩm quyền. Nhưng cũng cho ta thấy được vai trò quan trong của Cơ quan điều

tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong quá trình đấu tranh tội phạm, bảo vệ

pháp luật, bảo vệ quyền con người của nhóm người tham gia tố tụng.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã gặp những khó khăn, vướng mắc nhất định.

Khó khăn, vướng mắt này xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan và khách

quan khác nhau. Để phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được các yêu cầu về cải

cách tư pháp, nhằm đảm bảo quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, việc nghiên cứu,

80

đề ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn nêu tại Chương 3 là cần thiết.

Chương 3:

YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI

TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA CƠ QUAN

ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

3.1. Yêu cầu của bảo đảm quyền con ngƣời trong điều tra vụ án hình sự

của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi

mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thắng lợi quan

trọng trên nhiều lĩnh vực. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất

nước đã có nhiều khởi sắc và được quốc tế đánh giá cao. Nhiều chủ trương,

chính sách mới về kinh tế được ban hành, đáp ứng yêu cầu mở cửa, hội nhập

kinh tế quốc tế. Trong thời gian tới, tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế đòi

hỏi chúng ta phải tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh

của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến nhanh và vững chắc theo định hướng xã

hội chủ nghĩa. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền

bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự

và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình

thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân

phẩm; Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết

định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội

quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định” [29].

Chúng ta thực hiện các mục tiêu nói trên trong bối cảnh tình hình trong

nước và quốc tế có nhiều thuận lợi, cơ hội lớn đan xen với những khó khăn,

thách thức cũng rất lớn. Thuận lợi cơ bản của tình hình thế giới là cuộc cách

mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của khoa học công

81

nghệ thông tin và công nghệ sinh học, sẽ có tác động rất lớn và tích cực đến

việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xu thế toàn cầu hóa sẽ

dẫn đến việc cơ cấu lại nền kinh tế thế giới làm cho cuộc đấu tranh về trật tự

kinh tế thế giới sẽ diễn ra. Các nước đi sau như nước ta nếu chủ động được

trong tiến trình hội nhập, thì sẽ có cơ hội phát triển nhanh. Chúng ta cần tận

dụng tối đa những thuận lợi, cơ hội của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập, đồng

thời phải hạn chế những mặt trái, tiêu cực do nó gây ra. Thuận lợi lớn nhất

của tình hình trong nước là sự ổn định chính trị - xã hội là nền tảng vững chắc

tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên

cạnh đó, sản xuất của chúng ta phát triển với nhịp độ khả quan, hệ thống pháp

luật, cơ chế chính sách phù hợp đang phát huy trong đời sống kinh tế, xã hội.

Quan hệ chính trị, kinh tế, ngoại giao của nước ta đã được mở rộng nhiều trên

trường quốc tế.

Khó khăn lớn nhất là trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp,

chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh còn kém; trình độ công nghệ nhìn

chung còn lạc hậu khá xa so với các nước trong khu vực. Lĩnh vực xã hội còn

nhiều tồn tại, các tệ nạn xã hội phát triển, nếu không khắc phục sớm, thì sẽ

hạn chế lớn đến động lực phát triển.

Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi mỗi quốc

gia phải phát triển hệ thống pháp luật phải tương đồng với các nước ASEAN và

các nước khác trong khu vực và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây có thể nói là

yêu cầu mang tính khách quan, bởi lẽ nếu ta không phát triển hệ thống pháp

luật, thì nước ta rất khó hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.

Vì những lẽ đó, để phục vụ sự nghiệp đổi mới về kinh tế và thực hiện

được các mục tiêu đã đề ra, cần tiến hành đồng bộ các biện pháp, phát huy

sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kết hợp giữa sự phát huy nội lực

và nhân tố bên ngoài. Trong đó có việc nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con

82

người là yêu cầu mang tính cấp thiết hiện nay.

Tố tụng hình sự là hoạt động đặc thù của nhà nước nhằm phát hiện

chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,

không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội với đòi hỏi bảo đảm tính

công bằng của pháp luật; bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong

quá trình giải quyết vụ án hình sự ngày càng cao. Vấn đề bảo đảm quyền con

người đã được BLTTHS năm 2015 ghi nhận là nguyên tắc cơ bản và ngày

càng được hoàn thiện đã bảo đảm tốt hơn. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiến tới công cuộc xây

dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nâng cao chất

lượng xét xử án hình sự cũng như bảo đảm quyền con người ngày càng có

hiệu quả thì pháp luật về TTHS cần được sửa đổi bổ sung theo hai hướng:

1/ Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể là

CQĐT VKSNDTC và người tiến hành tố tụng;

2/ Có cơ chế cụ thể bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện quyền của

mình trong giai đoạn điều tra.

Liên quan đến cơ cấu, tổ chức, bộ máy và năng lực, trình độ, phẩm chất

của cán bộ trong CQĐT VKSNDTC, Chỉ thị số 01/ CT-VKSTC ngày

28/12/2018 của Viện trưởng VKSNDTC về Công tác ngành năm 2019 đã nêu

rõ: “Tập trung xây dựng Cơ quan điều tra VKSND tối cao vững mạnh, hoạt

động chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. VKSND

tối cao khẩn trương hoàn thành, triển khai Đề án tăng cường năng lực Cơ

quan điều tra VKSND tối cao; tiếp tục bổ sung biên chế, tăng cường cơ sở vật

chất, phương tiện, nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động điều tra. Tăng

cường các biện pháp để nắm đầy đủ, kịp thời thông tin về tội phạm thuộc

thẩm quyền, đặc biệt là tội phạm về tham nhũng, chức vụ trong lĩnh vực tư

83

pháp và xâm phạm hoạt động tư pháp. Thực hiện tốt công tác phòng ngừa tội

phạm trong lĩnh vực tư pháp, góp phần xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp

trong sạch, vững mạnh.

Thủ trưởng đơn vị thuộc VKSND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát

các cấp có trách nhiệm thu thập, quản lý và cung cấp đầy đủ, kịp thời những

thông tin, nguồn tin về tội phạm xảy ra trong lĩnh vực tư pháp ở địa phương

và phối hợp chặt chẽ trong việc xác minh, giải quyết và điều tra các vụ việc

thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND tối cao; chịu trách nhiệm về

việc không nắm, không cung cấp hoặc chậm cung cấp thông tin, nguồn tin về

tội phạm cho Cơ quan điều tra VKSND tối cao.”

Liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

mình trong quá trình giải quyết vụ án, liên quan trực tiếp quyền con người,

Viện trưởng VKSNDTC đã có những Chỉ thị trực tiếp như: Chỉ thị số 05/CT-

VKSTC ngày 15/5/2018 về tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân

dân trong kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự; Chỉ thị

số 02/CT-VKSTC ngày 22/3/2019 về tăng cường công tác phòng, chống tham

nhũng trong ngành Kiểm sát nhân dân… Những văn bản này đều cho thấy

ngành Kiểm sát nhân dân hết sức chú trọng tới CQĐT VKSNDTC, cũng như

đảm bảo tốt hành lang pháp lý, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực… bảo đảm

quyền con người được bảo vệ tối đa.

Hoàn thiện các chế định nhằm bảo đảm quyền con người trong tố tụng

hình sự nói chung và bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra nói

riêng cần đi đúng hướng, cần quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau:

Thứ nhất, phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám

sát và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo

đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ

quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tự

84

pháp; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững bản

chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân.

Thứ hai, phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh

các loại tội phạm, nhất là các loại tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về

tham nhũng, tội phạm có tổ chức; bảo đảm trật tự, kỷ cương, bảo đảm và tôn

trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.

Thứ ba, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào

công tác tư pháp. Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động,

đồng thời phải là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân

trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Thứ tư, xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, hiện đại,

góp phần xây dụng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Để chống oan, sai, các

cơ quan tư pháp cần nâng cao chất lượng hoạt động, đề cao trách nhiệm của

các cơ quan và cán bộ tư pháp trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế tố

tụng hình sự. Tăng cường công tác kiểm sát bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng

pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam, thì kiên quyết

không phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, quyết định tạm giữ, tạm

giam. Xây dựng, cải tạo, sửa chữa các nhà tạm giữ, trại tạm giam bảo đảm

đúng quy định của pháp luật. CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án các cấp phải chịu

trách nhiệm về những oan, sai trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng

hình sự thuộc phạm vi, thẩm quyền của mình.

Thứ năm, thực tế cho thấy những năm gần đây, mặc dù hàng năm số

lượng vụ án, bị can do CQĐT VKSNDTC đã khởi tố, điều tra không nhiều.

Tuy hoạt động điều tra của CQĐT VKSNDTC do Vụ thực hành quyền công tố

và kiểm sát án xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong

hoạt động tư pháp kiểm sát điều tra, nhưng hoạt động điều tra của CQĐT

VKSNDTC luôn bảo đảm tính khách quan, triệt để, hiệu quả và có ý nghĩa

85

phòng ngừa tội phạm, góp phần bảo đảm sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động

của các cơ quan tư pháp. Qua tổng kết thực hiện Luật tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân năm 2014 và BLTTHS năm 2015 đã khẳng định rằng, quy định về

thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC để điều tra các tội xâm phạm hoạt

động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ các cơ quan tư pháp là phù hợp với

thực tiễn và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này; đồng

thời góp phần tăng cường sự kiểm soát quyền lực tư pháp của các cơ quan tư

pháp, góp phần bảo đảm sự trong sạch, vững mạnh các cơ quan tư pháp.

Thứ sáu, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.

Bào chữa là quyền của người bị buộc tội được đưa ra những chứng cứ, lập

luận trước các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng để bảo vệ các

quyền và lợi ích hợp pháp không bị hạn chế bởi pháp luật của mình. Người bị

buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

Bị hại, đương sự (nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự) có quyền được thực hiện các biện

pháp hợp pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định

của pháp luật.

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một nguyên

tắc hiến định được quy định trong Hiến pháp: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm

giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc

người khác bào chữa” [29] hay được cụ thể hóa trong BLTTHS năm 2015:

“Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào

chữa” [31].

Cũng giống như thủ tục thông thường, việc đảm bảo quyền bào chữa

của bị can, bị cáo khi áp dụng TTRG trong tố tụng hình sự vẫn được thực hiện

đầy đủ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là do thời hạn tiến hành tố tụng dối với các

vụ án hình sự được áp dụng TTRG rất ngắn thì việc thực hiện quyền bào chữa

86

đối với họ có được đảm bảo như các trường hợp thông thường khác hay

không. Với những vụ án áp dụng TTRG do tính chất đơn giản, rõ ràng thì có

lẽ cũng không cần có nhiều thời gian để chuẩn bị cho việc bào chữa như các

vụ án nghiêm trọng, phức tạp khác. Đồng thời, luật tố tụng hình sự cũng có

quy định người bào chữa có thể tham gia ngay từ khi người thực hiện hành vi

phạm tội trong trường hợp bị bắt, bị tạm giữ người có mặt tại trụ sở Cơ quan

điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra

hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Do đó, bị can, bị cáo vẫn có thể thực hiện

tốt quyền tự bào chữa của mình hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình theo

quy định của pháp luật.

Thứ bảy, bảo đảm quyền con người trong yêu cầu cải cách tư pháp

hình sự là phải đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống tố tụng hình sự công khai,

minh bạch, dân chủ, giản tiện, do tiếp cận; tăng cường hiệu lực, hiệu quả

các cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động tố tụng hình sự và đáp ứng yêu cầu

đổi mới chính sách hình sự trong thời gian tới.

Công khai, minh bạch, dân chủ, giản tiện, bảo đảm quyền tiếp cận,

quyền tham gia của người bị buộc tội luôn là đòi hỏi đối với quá trình thực

hiện quyền lực nhà nước. Là một dạng hoạt động quyền lực nhà nước (quyền

tư pháp), hoạt động tư pháp hình sự một mặt phải bảo đảm tính hiệu lực, hiệu

quả của cuộc đấu tranh phòng chồng tội phạm, đồng thời quá trình vận hành

các thủ tục tố tụng hình sự phải đáp ứng yêu cầu về tính công khai, minh

bạch, dân chủ, giản tiện, dễ tiếp cận đối với người dân. Xuất phát từ yêu cầu

này việc cải cách tư pháp hình sự cần loại bỏ những thủ tục rườm rà, phức

tạp, gây phiền hà cho người dân tiếp cận công lý, tiếp cận với quá trình giải

quyết vụ án; bổ sung các nội dung nhằm tăng cường tính công khai, minh

bạch của các quy định, thủ tục tố tụng hình sự... Không thể vì lý do cần giữ bí

mật điều tra mà gây khó khăn, tạo nên những cách trở giữa người dân với quá

87

trình giải quyết vụ án.

Trong Nhà nước pháp quyền, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà

nước là một hoạt động tất yếu và luôn giữ vị trí đặc biệt trong việc tổ chức và

thực thi quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm cho các quyền đó làm đúng chức

năng, nhiệm vụ của mình, không vượt khỏi phạm vi thẩm quyền, chức năng

đã được xác định. Xã hội càng phát triển quá trình dân chủ hoá trong xã hội

càng được mở rộng thì yêu cầu kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực

nhà nước càng cao.

Hoạt động tư pháp hình sự có nhiệm vụ xem xét, đưa ra các phán quyết

về tính đúng hay sai là tội phạm hay không phải là tội phạm, hình phạt áp

dụng, khôi phục lại trật tự xã hội đã bị xâm phạm, bảo vệ lợi ích hợp pháp và

chính đáng của công dân, của tập thể, của quốc gia và xã hội. Đồng thời, quá

trình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đó, pháp luật trao cho các cơ quan tư pháp

thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế tố tụng như biện pháp bắt,

tạm giữ, tạm giam... như vậy, hoạt động tư pháp hình sự mang trong nó

những thẩm quyền mạnh mẽ và có khả năng ảnh hưởng đến các quyền cơ bản

nhất của con người như quyền tự do, quyền sống. Xuất phát từ các đặc điểm

đó, hoạt động tư pháp hình sự cần và phải chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ

của nhiều cơ chế kiểm tra, giám sát khác nhau. Chính sự kiểm tra giám sát

chặt chẽ sẽ là điều kiện bảo đảm cho phán quyết của tư pháp là một giá trị

không gì có thể thay thế được, bảo đảm tính hiệu lực thi hành của các phán

quyết tư pháp.

Thực chất mối quan hệ giữa Luật Hình sự với Luật tố tụng Hình sự là

mối quan hệ giữa luật nội dung và luật hình thức. Trong mối quan hệ này, nội

dung có ý nghĩa quyết định hình thức. Nghị quyết 49-NQ/TW đặt ra nhiều

yêu cầu đối với việc hoàn thiện, đổi mới chính sách hình sự như: giảm hình

phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối

88

với một số loại tội phạm, quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy

hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, khoa

học, công nghệ và hội nhập quốc tế v. v. Do vậy, tăng cường bảo đảm quyền

bào chữa của bị cáo phải đáp ứng kịp thời những thay đổi về chính sách hình

sự trong thời gian tới.

3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền con ngƣời trong điều tra vụ án hình sự

của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao

3.2.1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật bảo đảm quyền con

người trong tố tụng hình sự

* Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tra

Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Vị trí và vai trò của CQĐT VKSNDTC đã được khẳng định trên cơ sở

quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn hoạt động. Tuy nhiên, để phát

huy hơn nữa hiệu quả hoạt động của CQĐT VKSNDTC cần hoàn thiện các

quy định để khẳng định “vững chắc” địa vị pháp lý của mình.

Hiến pháp năm 2013, tiếp tục khẳng định chức năng của Viện kiểm sát

nhân dân: là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm

sát nhân dân có nhiệm vụ bảo đảm pháp luật, bảo đảm quyền con người,

quyền công dân, bảo đảm chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm

pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư

pháp, với chủ trương xây dựng nền công tố mạnh, tăng cường trách nhiệm của

Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố

với hoạt động điều tra; Viện kiểm sát nhân dân ngày càng có vai trò quan

trọng, quyết định trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm

tội bằng nhiều biện pháp như: Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các

89

vụ án hình sự và trực tiếp điều tra một số loại tội phạm, trong đó, CQĐT

VKSNDTC là một trong những chủ thể bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm

vụ của ngành Kiểm sát, chống oan sai, chống bỏ lọt tội phạm, góp phần bảo

đảm trật tự pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền con người,

bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân.

Hoạt động điều tra là một quyền năng quan trọng và được ví như

“quyền công tố nối dài” của Viện kiểm sát nhân dân; không thể bảo đảm thực

hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nếu không có hoạt động

điều tra trực tiếp. Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và đấu

tranh phòng, chống các tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động

tư pháp nói riêng thì CQĐT VKSNDTC ngày càng phải được củng cố, tăng

cường để bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát và

đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, thì

CQĐT VKSNDTC điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội

phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm

tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ

quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. Với quy

định mở rộng thẩm quyền điều tra như trên, chúng ta thấy cần hoàn thiện chế

định này tại BLTTHS năm 2015 và Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự

cho phù hợp và đảm bảo tính thống nhất giữa các luật trong hệ thống pháp

luật Việt Nam.

* Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về bảo đảm

quyền con người trong giai đoạn điều tra.

- Hoàn thiện thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can

Từ sự phân tích trên, cần phải đổi mới thủ tục khởi tố bị can theo hướng:

Thứ nhất: Viện kiểm sát phải tự mình ra quyết định khởi tố bị can chứ

90

không để CQĐT ra quyết định khởi tố bị can và Viện kiểm sát phê chuẩn

quyết định này như hiện nay. Có thể nói nếu làm được điều này sẽ gắn kiểm

sát với điều tra một cách chặt chẽ hơn, thực hiện được yêu cầu cải cách tư

pháp, hướng tới bảo đảm tốt hơn quyền con người trong giai đoạn điều tra.

Thứ hai: hủy bỏ thẩm quyền khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử.

* Hoàn thiện các chế định pháp lý về người đại diện, người bào chữa

của người bị buộc tội:

- Đối với quy định về “người đại diện” và “người thân thích”, em cho

rằng BLTTHS cần bổ sung: Điều luật về địa vị pháp lý người đại diện của

người bị buộc tội, trong đó có các điều khoản về: định nghĩa người đại diện,

phạm vi các cá nhân thuộc diện người đại diện quy định theo hướng là những

người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự; quyền

và nghĩa vụ của người đại diện theo hướng ngoài quyền của người bào chữa,

người đại diện phải có các quyền nhằm thay mặt, nhân danh, lợi ích người bị

buộc tội trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; ngoài ra, điều luật phải

giải quyết được thủ lục lựa chọn người đại diện trong trường hợp người bị

buộc tội có nhiều người đại diện, hoặc thủ tục nếu người đại diện không thống

nhất được (ví dự như cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định

một trong số những người này, căn cứ trên cơ sở nguyện vọng của người bị

buộc tội, và kết quả kiểm tra người đại diện nào phù hợp, hiểu bị cáo, sống

với bị cáo…)…

- Sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 77 BLTTHS năm 2015: “Trường

hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này,

người bị buộc tội và người đại diện hoặc người thân thích của họ vẫn có

quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa” [31], theo hướng: đối

với nhóm người “Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể

tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi”.

Nhóm người này chỉ được quyền thay đổi người bào chữa mà không có quyền

91

từ chối người bào chữa.

- Đối với quy định người đại diện của người bị buộc tội có thể là người

bào chữa, em kiến nghị, hoặc là hủy bỏ quy định này hoặc giữ nguyên nhưng

phải bổ sung điều kiện là: Người đại diện của người bị buộc tội chỉ được là

người bào chữa khi họ hiểu biết rõ về pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng

hình sự.

- Bổ sung quy định: người bị buộc tội với tư cách bị cáo vẫn có quyền

lựa chọn người bào chữa, khi đó Hội đồng xét xử căn cứ các quy định để xem

xét hoãn phiên tòa để người bào chữa tiếp cận vụ án hình sự.

* Hoàn thiện quy định về trách nhiệm của người tiến hành tố tụng

trong bảo đảm quyền con người.

Quy định chặt chẽ hơn về trách nhiệm cá nhân của Thủ trưởng, Phó thủ

trưởng, Điều tra viên CQĐT trong việc ra lệnh bắt, thi hành lệnh bắt, tạm giữ,

tạm giam; đảm bảo việc áp dụng các căn cứ, trường hợp, trình tự, thủ tục về bắt,

tạm giữ, tạm giam người; chỉ bắt, tạm giữ, tạm giam người phạm tội khi thật sự

cần thiết và không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm trọng hơn.

Thực hiện đầy đủ những trình tự, thủ tục tố tụng trong hoạt động bắt, tạm giữ,

tạm giam, thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm quyền con người, các quyền và lợi

ích chính đáng của người bị bắt, tạm giữ, bị can, người bị tạm giam.

Khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có

quyền gặp, hỏi người bị buộc tội; Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị

tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời

khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau

mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào

chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; Có mặt trong hoạt động

đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy

định của Bộ luật này; Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo

trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến

92

hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; Xem biên bản về

hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến

người mà mình bào chữa [31]. Bộ luật không quy định cụ thể trường hợp nào

thì Điều tra viên phải đồng ý, trường hợp nào thì Điều tra viên có quyền

không đồng ý để người bào chữa hỏi người bị tạm giữ, bị can. Điều này dẫn

đến hệ quả là người bào chữa được hay không được hỏi người bị tạm giữ, bị

can hoàn toàn phụ thuộc ý chí chủ quan của Điều tra viên, do Điều tra viên

quyết định. Do vậy, BLTTHS cần quy định cụ thể các trường hợp người bào

chữa được quyền hỏi bị can, người bị tạm giữ cũng như tham gia một số hoạt

động điều tra cụ thể. Đặc biệt trong các trường hợp tham gia hỏi cung bị can,

lấy lời khai… người bào chữa chỉ được hỏi khi được sự đồng ý của Điều tra

viên. Vậy phải có quy định như thế nào để tránh trường hợp Điều tra viên vì ý

chí chủ quan của mình mà không có người bào chữa hỏi, ảnh hưởng tới quyền

của người bị buộc tội.

Hình thức pháp lý của việc truy nã một người là cơ quan thẩm quyền ra

“Quyết định truy nã” chứ không phải “Lệnh truy nã”. Bắt người đang bị truy

nã là bắt người đang bị cơ quan có thẩm quyền truy nã bằng “Quyết định truy

nã”; bắt người phạm tội quả tang là bắt người “đang thực hiện tội phạm hoặc

ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc đuổi bắt”. Không có

“Lệnh bắt” hoặc “Quyết định bắt” đối với người phạm tội quả tang. Về mặt

hình thức cũng như bản chất pháp lý, nội dung: “Người thi hành lệnh bắt

trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản” đã xác định phạm vi áp dụng/

giới hạn điều chỉnh của Điều luật này loại trừ/ không bao gồm biên bản bắt

người theo quyết định truy nã, biên bản bắt người phạm tội quả tang. Nội

dung này mâu thuẫn với tinh thần của chính Điều 84 và không bao quát hết

các hình thức pháp lý của thủ tục bắt người. BLTTHS nên có quy định cụ thể,

riêng biệt về Biên bản bắt người đang bị truy nã và biên bản bắt người phạm

tội quả tang. Do đó, nên nghiên cứu sửa đổi nội dung: “Người thi hành lệnh

bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản.”, thành: “Trong mọi trường

93

hợp, việc bắt người phải được lập biên bản.”.

Về Biên bản tố tụng hình sự, BLTTHS quy định: khi tiến hành các hoạt

động tố tụng, bắt buộc phải lập biên bản theo mẫu quy định thống nhất; trong

biên bản ghi rõ địa điểm, ngày, giờ, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian

bắt đầu và thời gian kết thúc, nội dung của hoạt động tố tụng, những người

tiến hành, tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động tố tụng, những khiếu nại,

yêu cầu hoặc đề nghị của họ. Theo em, để tránh việc lợi dụng, lạm dụng hành

vi, hoạt động tố tụng hình sự nói chung, việc áp dụng, thi hành biện pháp bắt

người, tạm giữ đồ vật, tài liệu, hành vi, hoạt động tố tụng khác xâm hại quyền

con người, quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, bị can và đảm bảo Cơ

quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng tuân thủ tuyệt đối quy định

của BLTTHS về áp dụng, thi hành biện pháp bắt người, thu giữ đồ vật, tài

sản, tài liệu... đồng thời có căn cứ đối chiếu, chứng minh trách nhiệm của chủ

thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có vi phạm tố tụng, xâm hại quyền

con người, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bị can, BLTTHS cần quy

định: những biên bản tố tụng hình sự ghi nhận, phản ánh hoạt động tố tụng

hình sự do CQĐT, Viện kiểm sát tiến hành trong giai đoạn điều tra (và Tòa án

tiến hành trong giai đoạn xét xử) mà BLTTHS quy định phải thông báo được

lập thành nhiều bản. Số lượng bản căn cứ vào tính chất, yêu cầu thu thập, lưu

trữ biên bản đó. Đương sự, bị can là đối tượng chấp hành, có quyền, nghĩa vụ

tố tụng trực tiếp liên quan hoạt động, hành vi tố tụng hình sự được ghi nhận,

phản ánh trong biên bản, nhất là việc bắt người, giao nhận người bị bắt, biên

bản về việc tạm giữ đồ vật, tài sản, giao nhận đồ vật, tài liệu... phải được

nhận, lưu giữ ít nhất 01 bản. Do vậy, kiến nghị bổ sung thêm cụm từ: “Biên

bản về việc bắt người phải được giao cho người bị bắt một bản”.

* Hoàn thiện quy định về quyền im lặng và quyền được bào chữa của

bị can trong giai đoạn điều tra.

BLTTHS năm 2015 đã chuyển hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013

về quyền con người. Ngày 01/01/2018, BLTTHS năm 2015 có hiệu lực,

94

những quy định mới về quyền bào chữa như đã đề cập là bước tiến dài làm cơ

sở cho việc thực hiện công cuộc cải cách tư pháp, đảm bảo quyền con người,

quyền công dân. Em xin đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện

BLTTHS liên quan đến quyền bào chữa:

Thứ nhất, đối với việc ghi nhận đảm bảo quyền bào chữa cho người bị

bắt, cần bổ sung, mở rộng thêm điều kiện để được mời hoặc nhờ người bào chữa

hoặc quy định bổ sung cơ chế bảo đảm cho người bị bắt thực hiện quyền này.

Thứ hai, đối với quy định triệu tập người làm chứng hoặc yêu cầu đưa

thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét, cần quy định đầy đủ hơn trong suốt quá

trình diễn ra xét xử. Ở đây, mới chỉ dừng lại ở việc thủ tục bắt đầu phiên tòa,

vì vậy, cần bổ sung theo hướng trong suốt quá trình xét xử tại phiên tòa, nếu

lời khai của bị cáo mâu thuẫn, có xuất hiện một số tình tiết mới chưa thể hiện

trong hồ sơ vụ án, thì cả bên buộc tội và bên gỡ tội có quyền đề nghị triệu tập

thêm người làm chứng hoặc đưa ra vật chứng để xem xét toàn diện và khách

quan hơn. Các yêu cầu liên quan đến triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu

đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác

định sự thật khách quan của vụ án.

Thứ ba, cần quy định rõ rằng lời khai của người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo chỉ có giá trị pháp lý sau khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được cơ

quan tiến hành tố tụng thông báo và giải thích cụ thể các quyền và nghĩa vụ

của mình đặc biệt là quyền im lặng. Điều này là rất quan trọng bởi lẽ pháp

luật không quy định chính xác thuật ngữ “quyền im lặng” mà quy định là

quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải

nhận mình có tội.” Chính vì vậy, cần phải có sự giải thích rõ để người bị tạm

giữ, bị can, bị cáo hiểu và lựa chọn thực hiện quyền của mình hay không.

Thứ tư, quyền im lặng cần phải được thực hiện đồng bộ với những nội

dung khác như quyền được có luật sư hoặc người khác bào chữa, quyền được

95

cung cấp luật sư nếu bản thân không có khả năng tìm luật sư hay người bào

chữa khác; có quyền những không buộc phải chứng minh là mình vô tội;

quyền không đưa ra các chứng cứ bất lợi cho mình.

Pháp luật Việt Nam đã ghi nhận quyền này trong BLTTHS năm 2015 là

sự cụ thể hoá các cam kết của Việt Nam về bảo vệ quyền con người trong các

Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đồng thời cũng là cam kết của

Nhà nước Việt Nam đối với các công dân của mình về một nền tư pháp trong

sạch, bảo vệ tối đa quyền con người, quyền công dân của các cá nhân trong xã

hội, từ đó giúp ổn định và phát triển xã hội văn minh, giàu đẹp.

3.2.2. Hoàn thiện quy định về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Việc mở rộng thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC như đã phân

tích ở trên, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức điều tra

và thực tiễn công tác của CQĐT VKSNDTC những năm gần đây, thì việc chỉ

tổ chức CQĐT VKSTNDTC và Viện kiểm sát quân sự trung ương là chưa

hợp lý. Bởi lẽ địa bàn hoạt động rộng, lượng đơn (kêu oan, đơn khiếu nại, tố

cáo hành vi vi phạm trong hoạt động tư pháp) phải xác minh hàng năm lớn

phần nào ảnh hưởng đến kết quả phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm. Vì vậy

cần tổ chức CQĐT VKSNDTC theo hướng mở rộng thành các CQĐT, ở mỗi

khu vực (hoặc vùng, miền) được tổ chức một CQĐT thuộc Viện kiểm sát

nhân dân, và CQĐT ở khu vực (hoặc vùng, miền) đó có mối quan hệ với Viện

kiểm sát cấp cao trong hoạt động tố tụng hình sự.

Trên cơ sở chủ trương, định hướng cải cách tư pháp và tổng kết thực

tiễn hoạt động của CQĐT, cần đổi mới về tổ chức và hoạt động của CQĐT

VKSNDTC theo hướng:

Thứ nhất, đổi mới phải đáp ứng được tính chất đặc thù đấu tranh phòng

chống tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp hiện nay và xu hướng diễn biến

96

của loại tội phạm này trong thời gian tới; với phương châm phát hiện kịp thời,

xử lý nghiêm minh các hành vi có dấu hiệu tội phạm, làm rõ nguyên nhân điều

kiện phát sinh tội phạm để kiến nghị phòng ngừa. Để thực hiện được yêu cầu

này cần, nâng cao năng lực phát hiện điều tra tội phạm, thực hiện cơ chế phối

hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra tội phạm với các công tác kiểm sát nhằm

bảo đảm thực hiện tốt các chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Thực hiện các biện pháp nâng

cao chất lượng, hiệu quả điều tra, xử lý các tội phạm thuộc thẩm quyền có căn

cứ, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.

Thứ hai, đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐT VKSNDTC theo

nguyên tắc bảo đảm tăng cường sự phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng các

cấp, trong đó có hệ thống CQĐT khác của lực lượng công an nhân dân và

Quân đội nhân dân. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống

Viện kiểm sát nhân, trong đó Cơ điều tra Viện kiểm sát nhân dân giữ vai trò

nòng cốt, Viện kiểm sát nhân dân các cấp phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực từ

việc phát hiện, khởi tố, điều tra, xử lý tội phạm thuộc thẩm quyền.

Biện pháp thực hiện là, tăng cường công tác phối hợp trong và ngoài

ngành kiểm sát bảo đảm nắm được đầy đủ, kịp thời các thông tin về tội xâm

phạm hoạt động tư pháp xảy ra, đồng thời phối hợp trong công tác kiểm tra,

xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án thuộc

thẩm quyền. Trong đó, công tác phối hợp với Viện kiểm sát các cấp phải được

thực hiện thường xuyên, liên tục và chặt chẽ. Trọng tâm công tác phối hợp

với CQĐT VKSNDTC là nhằm trao đổi, cung cấp thông tin về tội phạm và

giải quyết những khó khăn vướng mắc trong công tác nghiệp vụ điều tra tội

phạm, quản lý giam giữ, giám định tư pháp...

3.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ, kiến thức về quyền

con người và đạo đức nghề nghiệp của điều tra viên, cán bộ điều tra

Trong thời gian qua, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân từng

97

bước được kiện toàn cả về số lượng và chất lượng.

Riêng đối với Điều tra viên nói chung và Điều tra viên của CQĐT

VKSNDTC nói riêng là một chức danh tư pháp độc lập, hoạt động của điều

tra viên là điều tra, xác minh tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực,

phấn đấu và kết quả đáng ghi nhận thì công tác tổ chức bộ máy và đội ngũ cán

bộ, điều tra viên của CQĐT VKSNDTC vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu

kém. Đội ngũ cán bộ, Điều tra viên còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và

năng lực nghiệp vụ. Do vậy, cần phải xây dựng và hoàn thiện chế định pháp

lý về điều tra viên, trong đó cần ban hành pháp luật về điều tra viên để quy

định tiêu chuẩn đạo đức, phẩm chất chính trị, trình độ pháp luật, chuyên môn

nghiệp vụ cũng như quyền hạn và nghĩa vụ của chức danh này. Xác định rõ

chế độ đãi ngộ cũng như cách thức tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm chức

danh điều tra viên để từ đó xác định mô hình, chương trình đào tạo, đảm bảo

chính quy hóa lực lượng điều tra viên.

Trong thời gian tới, cần thường xuyên đẩy mạnh công tác quy hoạch,

đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như lý luận

chính trị cho đội ngũ cán bộ, điều tra viên của CQĐT VKSNDTC.

Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Điều tra viên của CQĐT

VKSNDTC là một giải pháp thiết thực cho việc nâng cao hiệu quả chất lượng

điều tra. Để nâng cao chất lượng đội ngũ này, trước tiên phải đổi mới quy

trình tuyển chọn, bổ nhiệm kỹ càng chức danh Điều tra viên. Làm tốt công tác

này, các cơ quan tư pháp sẽ tuyển chọn và thu hút được những cán bộ tâm

huyết với ngành, những người có đủ đức và tài để bổ nhiệm vào các chức

danh của CQĐT VKSNDTC. Trong quá trình tuyển chọn đội ngũ cán bộ,

Điều tra viên cần đặc biệt chú ý đến tư cách đạo đức, bản lĩnh chính trị và

trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mỗi người, để đáp ứng yêu cầu của ngành

98

cũng như yêu cầu cải cách tư pháp trong thời điểm hiện nay.

3.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của cơ quan dân cử và

xã hội trong hoạt động của cơ quan điều tra

Hiến pháp 2013 đã xác định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng

lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Vì vậy, hoạt động của các cơ quan tư pháp nói

chung cũng như hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, CQĐT VKSNDTC và

từng cán bộ, Điều tra viên thuộc cơ quan này, đều được đặt dưới sự lãnh đạo

chặt chẽ của Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của các cán bộ,

điều tra viên CQĐT VKSNDTC được thể hiện ở chỗ: tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng trong việc giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của tổ chức đảng và

đảng viên, chăm lo công tác quy hoạch, tuyển chọn, bố trí sử dụng đúng năng

lực của đảng viên cũng như việc chỉ đạo giải quyết những vụ việc quan trọng,

phức tạp. Tuy nhiên, Đảng không bao biện làm thay mà phải tôn trọng những

quyền năng độc lập của cán bộ, Điều tra viên. Đối với Ban cán sự Đảng Viện

kiểm sát nhân dân tối cao và Đảng ủy CQĐT thì cần thường xuyên kiểm tra,

giám sát hoạt động của từng Chi bộ thành viên, có những chỉ đạo kịp thời đối

với những vụ việc phức tạp, được dư luận chú ý, đảm bảo hoạt động của

CQĐT VKSNDTC được thực hiện đúng quan điểm, đường lối của Đảng, pháp

luật của Nhà nước. Trong thời gian tới cần tăng cường hơn nữa sự lãnh chỉ đạo

của các cấp ủy Đảng để từng bước khắc phục những hạn chế, sai sót trong hoạt

động tư pháp của các cơ quan tư pháp hạn chế các tội phạm xâm phạm hoạt

động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc cơ quan tư pháp.

Các cơ quan đại biểu dân cử cần tăng cường sự phối hợp với các cơ quan

hữu quan để giám sát chặt chẽ hơn nữa việc chấp hành pháp luật của các cơ

quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra vụ

án hình sự, góp phần đảm bảo việc giải quyết vụ án công bằng, đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế mức thấp nhận việc điều tra, truy tố, xét xử

99

oan, sai, bỏ lọt tội phạm; giám sát quá trình bồi thường cho người bị oan và xác

định rõ trách nhiệm cá nhân của những người đã trực tiếp tiến hành tố tụng để

xảy ra oan, sai nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

TANDTC, VKSNDTC đã tích cực, khẩn trương nghiên cứu, giải quyết, trả lời

đối với 36/36 khiếu nại cử trị (đạt 100%); quán triệt tinh thần Nghị quyết 49 để

bảo đảm nâng cao trách nhiệm của các cán bộ tư pháp và xử lý nghiêm minh

đối với những người vi phạm, ví dụ như xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp

trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và

của nhân dân (giám sát xã hội) đối với cơ quan tư pháp; bảo đảm cơ sở vật

chất cho hoạt động tư pháp; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cơ

quan tư pháp; có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao

động của cán bộ tư pháp. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh

tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp v.v…

3.2.5. Tăng cường công tác tổ chức giám sát thi hành pháp luật trong tố

tụng hình sự

Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động, hành vi tố tụng của

CQĐT, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên cần được thực hiện

nghiêm chỉnh, thường xuyên, liên tục, không để xảy ra oan sai, oan sai chậm

được phát hiện, kéo dài. Kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm khắc hoạt động,

hành vi tố tụng xâm phạm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự. Việc xử lý hành vi xâm hại quyền con người trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự không được nể nang người có chức vụ, không lấy mục đích bảo

đảm pháp luật biện minh cho hành vi xâm hại quyền con người, đảm bảo sự

nghiêm minh của pháp luật, răn đe, làm gương cho những người đang hoặc có

ý định vi phạm.

Song song với hoạt động kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các vi phạm

quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Nhà nước cần xây

dựng, áp dụng, duy trì cơ chế quản lý đặc thù đối với hoạt động tố tụng hình

100

sự của CQĐT, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên. Đảm bảo các điều

kiện làm việc, an toàn tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của Điều tra

viên, Kiểm sát viên và thân nhân của họ, đảm bảo tính độc lập, tự chủ của các

chủ thể này trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, tích cực, chủ động trong

việc bảo đảm quyền con người.

3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động cho Cơ quan điều

tra Viện kiểm sát nhân dân, các chế độ chính sách đãi ngộ phù hợp đối với

cán bộ, Điều tra viên

Cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của CQĐT, Viện kiểm sát nhân

dân hiện nay còn thiếu và lạc hậu ảnh hưởng đến chất lượng công tác điều tra. Vì

vậy, tăng cường cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho cán bộ, điều tra viên

góp phần nâng cao chất lượng công tác điều tra các vụ án xâm phạm hoạt động

tư pháp. Một vấn đề cũng cần phải quan tâm là hoạt động điều tra là hoạt động

đặc thù nên cán bộ, Điều tra viên cần chế độ lương, phụ cấp và các khoản đãi

ngộ đặc thù đảm bảo điều kiện ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, không bị

dao động, sa ngã trước mọi tác động cám dỗ, mua chuộc trong quá trình thực

101

hiện nhiệm vụ được giao.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Chúng ta thấy rằng quyền con người nói chung là quyền tối thượng của

một cá nhân, mà bất kỳ xã hội nào, pháp luật nào cũng cần phải ưu tiên bảo

vệ. Ngành Kiểm sát nhân dân đã hết sức chú trọng tới CQĐT VKSNDTC,

cũng như đảm bảo tốt hành lang pháp lý, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực…

bảo đảm quyền con người được bảo vệ tối đa.

Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung và bảo đảm

quyền con người trong giai đoạn điều tra nói riêng cần đi đúng hướng, cần

quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau: phải thực hiện đúng đường lối, chủ

trương của Đảng, bám sát và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong

từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,

phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,

hành pháp và tự pháp; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ

nghĩa, giữ vững bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phải ngăn ngừa có hiệu quả và

xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm, nhất là các loại tội xâm phạm

an ninh quốc gia, tội phạm về tham nhũng, tội phạm có tổ chức; bảo đảm trật

tự, kỷ cương, bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp

của các tổ chức và công dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội

tham gia vào công tác tư pháp; xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch,

vững mạnh, hiện đại, góp phần xây dụng Nhà nước pháp quyền Việt Nam;

bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của bị hại, đương sự.

Trên cơ sở những yêu cầu đó, em xin đề xuất một số giải pháp bảo đảm

quyền con người trong điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra Viện kiểm

sát nhân dân tối cao: rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật bảo đảm

102

quyền con người trong tố tụng hình sự; hoàn thiện quy định về tổ chức và

hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đào tạo, bồi

dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ, kiến thức về quyền con người và đạo đức

nghề nghiệp của điều tra viên, cán bộ điều tra; tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng, giám sát của cơ quan dân cử và xã hội trong hoạt động của cơ quan

điều tra; tăng cường công tác tổ chức giám sát thi hành pháp luật trong tố tụng

hình sự; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động cho Cơ quan điều

tra Viện kiểm sát nhân dân, các chế độ chính sách đãi ngộ phù hợp đối với

103

cán bộ, Điều tra viên.

KẾT LUẬN

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã đạt được những

thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước có những bước chuyển mình

căn bản và toàn diện về mọi mặt, kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống nhân

dân được cải thiện rõ rệt, hệ thống chính trị, khối đại đoàn kết dân tộc được

củng cố và tăng cường. Chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được

giữ vững. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên rất nhiều, tạo nên thế và

lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.

Tuy nhiên, do tác động tiêu cực bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường,

của quá trình hội nhập, của những khuyết điểm và yếu kém đã nảy sinh những

vấn đề phức tạp, trong đó có tình hình tội phạm và một số tệ nạn xã hội có

chiều hướng tăng với tính chất và mức độ phạm tội ngày càng nguy hiểm,

hàng loạt các vụ án hình sự nghiêm trọng đã xảy ra.

Việc nhận thức chân lý khách quan của vụ án hình sự là một quá trình

hết sức phức tạp được tạo bởi các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá các

chứng cứ do các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện phù hợp với các quy định

của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Vì vậy quá trình chứng minh trong vụ

án hình sự phải được thực hiện một cách khoa học nhằm xác đinh đúng người

đúng tội, không bỏ lọt tội phạm hoặc không làm oan sai người vô tội bởi không

giống như vụ án dân sự hoặc vụ án hành chính, vụ án hình sự có ảnh hưởng rất

lớn tới quyền con người, tới sinh mạng chính trị và những quyền về nhân thân,

tài sản khác của con người... Chính vì vậy, quá trình đi tìm sự thật của vụ án

đồng thời phải gắn bó với việc bảo đảm các quyền con người cơ bản ấy.

Bảo đảm quyền con người là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, được

cộng đồng quốc tế cũng như các quốc gia quan tâm nghiên cứu, thực hiện. Đây

cũng là một trong những đặc tính quan trọng của Nhà nước pháp quyền. Là

104

Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nhà nước Việt Nam luôn

đặt con người ở vị trí trung tâm trong việc xây dựng, thực hiện chính sách kinh

tế, xã hội và tạo mọi điều kiện để con người phát triển. Đảng và Nhà nước ta

luôn xác định bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân là nhân tố cơ bản bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững. Thông qua đó

xây dựng, bảo đảm nền dân chủ, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước,

tạo động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội.

Quá trình hình thành và phát triển Nhà nước Việt Nam gắn liền với quá

trình nghiên cứu, khẳng định, bảo đảm thực hiện, bảo đảm các quyền con

người. Ngay từ những ngày đầu thành lập Nhà nước, quyền con người, quyền

công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật. Trong đó có quyền

con người và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung, bảo

đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng. Các

giai đoạn phát triển pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ 1945 đến nay đã

từng bước xây dựng, kế thừa và phát triển, hoàn thiện các nguyên tắc tố tụng

hình sự; các quy định về quyền hạn, trách nhiệm của Cơ quan tiến hành tố

tụng, Người tiến hành tố tụng, quyền, nghĩa vụ của Ntham gia tố tụng; các

biện pháp ngăn chặn; các trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, tạo cơ sở pháp lý

ngày càng vững chắc cho việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự

nói chung, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng.

Tổng hợp kết quả nghiên cứu, khái quát, đánh giá thực tiễn hoạt động

của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân, dự báo tình hình, luận văn đã

góp phần làm rõ thêm về địa vị pháp lý, đánh giá thực trạng pháp luật về thẩm

quyền và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân; trên cơ sở

đó, đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về Cơ quan điều tra Viện kiểm

sát nhân dân. Các giải pháp đó sẽ là cơ sở để nâng cao địa vị pháp lý của Cơ

quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động

105

điều tra của các cơ quan tiến hành tố tụng hiện nay. Hoàn thiện pháp luật về

Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân thực sự là một yêu cầu bức xúc hiện

nay. Thực hiện tốt yêu cầu này chắc chắn sẽ tạo ra một Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát nhân dân vững mạnh, góp phần thực hiện các mục tiêu cải cách tư

pháp, đẩy nhanh tiến trình xây dựng đất nước, góp phần thực hiện mục tiêu

106

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ Ba (khoá VIII), Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “Về một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005“Về

Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến

năm 2010, định hướng đến năm 2020”, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 “Về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Bình (1993), “Bàn về quyền con người”, Tạp chí Cộng sản, số 5.

6. Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn

xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội.

7. Lê Cảm (2004), "Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng

hình sự", Tạp chí Kiểm sát, số 2.

8. Lê Cảm (2006), “Các nguyên tắc cơ bản của cải cách tư pháp trong giai

đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân

dân, số 01, tr.11-18.

9. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự

Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

10. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008, 2009, 2010,

2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018), Báo cáo tổng kết

năm, Hà Nội.

11. Hà Hùng Cường (2000), “Việt Nam nỗ lực xây dựng và hoàn thiện

107

pháp luật bảo đảm các quyền con người”, Báo nhân dân, Hà Nội.

12. Hà Hùng Cường (2014), “Hiến pháp năm 2013 tạo nền tảng pháp lý

vững chắc cho việc đẩy mạnh cải cách tư pháp theo Chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020”, Tạp chí Cộng sản.

13. Đại hội đồng Liên hợp quốc (1950), Tuyên ngôn thế giới về nhân

quyền, ngày 10/12/1948, Hà Nội.

14. Đại hội đồng Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền

dân sự và chính trị, ngày 16/12/1966, Hà Nội.

15. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Bùi Kiên Điện (2008), Điều tra vụ án hình sự nhìn từ một vụ án, Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 405.

17. Đỗ Văn Đương, “Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với

trách nhiệm, quyền hạn tư pháp và sửa đổi, bổ sung chế định chứng cứ

trong Bộ luật Tố tụng hình sự”, Tạp chí Thông tin khoa học, Trường

Đại học kiểm sát, Hà Nội.

18. Trần Ngọc Đường, Hành vi hợp pháp - nhân tố bảo đảm quyền con

người, quyền và nghĩa vụ công dân. Chuyên khảo quyền con người,

quyền công dân, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

19. Đoàn Thị Ngọc Hải (2015), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng

hình sự - một số vấn đề cần trao đổi, Nghiên cứu trao đổi – Bài đăng

trên trang báo điện tử của Bộ Tư pháp.

20. Hoàng Văn Hảo, Chu Thành (1993), “Quyền con người và quyền công

dân”, Tạp chí Cộng sản, số 5.

21. Ngũ Quang Hồng (2011), Nghiên cứu so sánh về điều tra trong Luật tố

tụng hình sự của Trung Quốc và Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 44.

22. Phạm Mạnh Hùng (chủ biên) (2015), Giáo trình Luật tố tụng hình sự

108

Việt Nam, Nxb, Công an nhân dân, tr. 14.

23. Nguyễn Quang Hiền (2008), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng

hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sỹ luật học - Viện nhà nước và pháp

luật, Hà Nội, tr. 99.

24. Đinh Thế Hưng (2010), Bảo đảm quyền con người trong Tố tụng hình

sự, Tham luận hội thảo cấp Viện Nhà nước và Pháp luật.

25. Khoa Luật – trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người

– Tập tài liệu chuyên đề của Liên hợp quốc, Nxb. Công an nhân dân, tr.

34, 43.

26. Nguyễn Văn Mạnh (2000), “Quyền chính trị của phụ nữ trong công ước

về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và trong pháp luật

Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3.

27. Hoàng Phê (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.

28. Nguyễn Thái Phúc (2009), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng

hình sự, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (báo cáo cơ sở), Hà Nội.

29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946, 1959,

1980, 1992, 2013), Hiến pháp, Hà Nội.

30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Bộ luật

hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố

tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (Điều 58, Điều 62, Điều

66, Điều 63, Điều 64, Điều 65, Điều 20, Điều 16).

32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tổ

chức Cơ quan điều tra hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Hoàng Thị Minh Sơn và nhóm tác giả (2009), Hoàn thiện pháp luật tố tụng

hình sự nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp, Đề

109

tài nghiên cứu khoa học cấp trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội.

34. Võ Văn Tài, Trịnh Anh Tuấn (2015), “Nguồn gốc, bản chất, phạm vi áp

dụng của “Quyền im lặng” trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học

pháp lý, số 3.

35. Lê Minh Thông (1998), “Hoàn thiện pháp luật về quyền con người trong

điều kiện phát huy dân chủ ở nước ta ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, số 12.

36. Đỗ Xuân Toán (2018), Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng

hình sự, Luận văn Thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

37. Bùi Bảo Trâm (2008), Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật – Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

38. Phùng Văn Tửu (1999), Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, pháp luật

của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư

110

pháp, Hà Nội.