BỘ NỘI VỤ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐỒNG MINH HOÀN
BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI – 2021
BỘ NỘI VỤ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐỒNG MINH HOÀN
BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THỊ HOA
HÀ NỘI – 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Đồng Minh Hoàn
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc và chân thành nhất cho phép em gửi lời cảm
ơn tới các thầy, cô Khoa Nhà nước – Pháp luật và Lý luận cơ sở, Học viện
Hành chính Quốc gia đã tận tình dạy dỗ và tạo điều kiện giúp đỡ em trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt em xin gửi lời cám ơn đến Tiến sĩ Lê Thị Hoa – là người thầy
trực tiếp dạy dỗ em trong quá trình học cũng như đã hướng dẫn, động viên và
tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho em trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Trong bài luận văn, chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót. Em mong muốn sẽ nhận được những ý kiến đóng góp từ thầy cô và
những người quan tâm đến đề tài để đề tài được hoàn thiện hơn và có ý nghĩa
thiết thực áp dụng trong thực tiễn cuộc sống.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH .................................................................................................. 8
1.1. Khái quát chung quyền của người khởi kiện trong vụ án hành chính ....... 8
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính ................................................... 8
1.1.2. Quyền của người khởi kiện trong vụ án hành chính ............................. 10
1.2. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành
chính ................................................................................................................ 18
1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết
các vụ án hành chính ....................................................................................... 18
1.2.2. Phương thức bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các
vụ án hành chính ............................................................................................. 25
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải
quyết các vụ án hành chính ............................................................................. 35
1.3.1. Mức độ hoàn thiện của các quy định pháp luật tố tụng hành chính ..... 35
1.3.2. Trách nhiệm của cơ quan quản lý hành chính, cơ quan được giao quyền
quản lý hành chính và người có thẩm quyền trong cơ quan quản lý hành chính
......................................................................................................................... 36
1.3.3. Năng lực và bản lĩnh của thẩm phán trong xét xử các vụ án hành chính
......................................................................................................................... 38
1.3.4. Trình độ hiểu biết pháp luật của người dân .......................................... 38
1.3.5. Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân .................................. 39
Chương 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................... 41
2.1. Khái quát về Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội ................................... 41
2.2. Thực trạng vụ án hành chính tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội .... 43
2.2.1. Vụ án sơ thẩm ....................................................................................... 43
2.2.2. Vụ án phúc thẩm ................................................................................... 44
2.3. Thực tiễn bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án
hành chính tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội ........................................ 45
2.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 45
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân ............................................................ 63
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH ................................................................................................ 73
3.1. Phương hướng bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các
vụ án hành chính ............................................................................................. 73
3.1.1. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành
chính với chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền con người,
quyền công dân................................................................................................ 74
3.1.2. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành
chính với bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ công lý ............................ 75
3.1.3. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành
chính với các nhiệm vụ cải cách tư pháp và cải cách hành chính................... 76
3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải
quyết các vụ án hành chính ............................................................................. 78
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 95
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, quyền con người, quyền công dân
không chỉ là quan tâm nội bộ của mỗi quốc gia mà đã trở thành vấn đề được
quốc tế hóa ngày càng sâu rộng. Một trong những chức năng quan trọng và là
tiêu chí đánh giá mức độ dân chủ của một Nhà nước, đó là việc tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm quyền công dân. Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thì vấn đề bảo đảm quyền công
dân phải được chú trọng hàng đầu, đặc biệt là trong các quan hệ tố tụng nói
chung và tố tụng hành chính nói riêng. Ở nước ta, chú trọng bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người dân trước sự xâm phạm của quyết định hành
chính, hành vi hành chính trái pháp luật, thể hiện ở cơ chế khởi kiện hành
chính ra Tòa án. Giá trị cơ bản, thiết yếu của việc cho phép cơ quan, tổ chức,
cá nhân được quyền khởi kiện vụ án hành chính và các biện pháp bảo đảm
thực hiện quyền khởi kiện thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta
trong việc bảo vệ và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Hoạt động thực hiện quyền khởi kiện hành chính ra Tòa án và cơ chế
bảo đảm quyền khởi kiện được thực thi trên thực tế đã và đang có tác dụng
tích cực thúc đẩy tinh thần, thái độ, trách nhiệm của cơ quan nhà nước mà chủ
yếu là cơ quan hành chính nhà nước trong việc tăng cường sự quan tâm, cẩn
trọng hơn khi ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính. Từ
đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động hành pháp, xây dựng nền
hành chính mạnh và trong sạch, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Trước yêu cầu thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng,
yêu cầu cụ thể hóa các quy định tại Hiến pháp năm 2013 và để đáp ứng đòi
hỏi từ thực tiễn, hệ thống pháp luật tố tụng hành chính theo thời gian đã từng
bước hoàn thiện, có tính thống nhất ngày càng cao, ghi nhận và bảo đảm
1
quyền con người, quyền công dân bằng pháp luật và bảo đảm quyền công dân
trong lĩnh vực này được thực hiện trên thực tế.
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (có hiệu lực từ 1-7-2016) đã khắc
phục những vướng mắc, bất cập của Luật Tố tụng hành chính năm 2010, tạo
cơ sở pháp lý đầy đủ và hoàn thiện hơn để Tòa Hành chính giải quyết các
khiếu kiện hành chính hiệu quả hơn, mang lại niềm tin của nhân dân đối với
Nhà nước. Thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền, nghĩa
vụ của mình; đề cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc
bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền
công dân. Điều này cũng đồng nghĩa là cá nhân, tổ chức càng có nhiều điều
kiện, cơ hội để bảo vệ các quyền của mình khi bị quyết định hành chính, hành
vi hành chính của hệ thống hành chính nhà nước và các cơ quan khác của nhà
nước xâm phạm tới.
Mặc dù vậy, thực tiễn hiện nay cho thấy quyền khởi kiện vụ án hành
chưa thực sự nhận được sự quan tâm đúng mức của cơ quan nhà nước và nhân
dân. Mặt khác, quá trình thực hiện các quyền của người khởi kiện chưa thực
sự được bảo đảm. Tình trạng vi phạm quyền của người khởi kiện vẫn còn tồn
tại ở một số Tòa án các cấp.
Thành phố Hà Nội với vị trí là thủ đô của cả nước, với diện tích rộng
lớn, phạm vi quản lý hành chính đa dạng, phức tạp, bên cạnh đó mật độ dân
cư đông đúc, trình độ dân trí không đồng đều đã dẫn đến những khác biệt so
với các địa phương khác. Diện tích thành phố Hà Nội được mở rộng (sát nhập
tỉnh Hà Tây cũ) dẫn đến sự đòi hỏi phải phát triển các cơ sở hạ tầng cho phù
hợp với tiêu chí thành phố trực thuộc Trung ương. Cụ thể đó là sự phát triển
các dự án đô thị hóa, xây dựng các cơ sở hạ tầng, đường xá…. Để thực hiện
được chủ trương này thì cơ quan hành chính ở địa phương phải ban hành rất
nhiều các quyết định hành chính như thu hồi đất đai, đền bù giải phóng mặt
bằng… dẫn đến phát sinh nhiều tranh chấp hành chính do những quyết định
hành chính này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của rất nhiều cá
2
nhân, tổ chức và hiệu quả tất yếu là yêu cầu khởi kiện vụ án hành chính tại
thành phố Hà Nội số lượng ngày càng tăng cao.
Thời gian qua, thông qua chức năng xét xử Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội đã xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của các quyết định hành chính,
hành vi hành chính nhằm đưa ra phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ
việc, từ đó, nhân danh nhà nước đưa ra phán quyết tương ứng với bản chất,
mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc là chỗ dựa của nhân dân
trong bảo vệ công lý, triệt để tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền
công dân. Tuy nhiên, hàng năm số lượng vụ án hành chính thụ lý ngày càng
cao nhưng số lượng vụ án được giải quyết lại chiếm tỉ lệ khá thấp. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp tăng cường bảo đảm
quyền của người khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính đặt ra rất cần
thiết trong tình hình hiện nay. Chính vì vậy, học viên mạnh dạn lựa chọn đề
tài “Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành
chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội" để làm luận văn cao học
Luật Hiến pháp – Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan đến tên đề tài hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào
được công bố. Các công trình được công bố đã nghiên cứu những vấn đề có
liên quan đến tên đề tài. Có thể kể đến các công trình sau:
Đề tài khoa học cấp nhà nước do Uông Chu Lưu (2006), Cải cách cơ
quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực xét
xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân, Đề tài khoa học cấp nhà nước mã số KX04-06, Hà Nội [25];
Bài viết của Đỗ Minh Khôi (2009), "Dân chủ đối với việc bảo đảm
quyền con người" trong cuốn Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên
ngành khoa học xã hội, Chủ biên, Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội [19];
3
Bài viết của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Thu Hương (2012), "Bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong pháp luật hành chính
Việt Nam (một số vấn đề có tính phương pháp luận, định hướng nghiên
cứu)''[32];
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Việt Nam (2013), Tranh tụng trong tố
tụng hành chính ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Luật văn thạc sĩ Luật học,
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội [26];
Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Hoa Lê (2013), Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội. [21];
Bài viết của Tường Duy Kiên (2016), "Cụ thể hóa các quy định mới về
quyền con người trong Hiến pháp năm 2013", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
[20];
Bài viết của Nguyễn Thị Thúy (2017), "Bảo đảm quyền con người
trong Luật Tố tụng hành chính năm 2015 - một số nhận xét và kiến
nghị", Nghiên cứu lập pháp, Số 9 (337), tr. 40 – 45 [66];
Bài viết của Nguyễn Thị Thủy (2017), "Bảo đảm quyền con người,
quyền công dân theo pháp luật Tố tụng hành chính", Thanh tra, Số 5, tr. 26 –
28 [61];
Bài viết của Nguyễn Thị Hà (2017), "Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam", tại trang
http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-at.aspx?ItemID=360 12];
Bài viết của Lê Ngọc Duy (2018), "Bảo vệ quyền con người, quyền
công dân trong Tố tụng hành chính theo Luật Tố tụng hành chính năm
2015", Tòa án nhân dân, Số 16, tr. 25 – 31 [62];
Bài viết của Bùi Thị Đào (2018), "Hoàn thiện Luật Tố tụng hành chính
bảo đảm quyền con người, quyền công dân", Nghiên cứu lập pháp, Số 20, tr.
10 – 14 [63];
4
Bài viết của Lê Ngọc Duy (2018), "Vai trò bảo vệ quyền con người,
quyền công dân trong tố tụng hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân ở Việt
Nam hiện nay", Khoa học Kiểm sát, Số 3, tr. 57 – 66 [65];
Bài viết của Cao Việt Hoàng (2019), ''Tòa án Nhân dân với việc bảo
đảm quyền con người (phần 2)'', tại trang
hvta.toaan.gov.vn/portal/pls/portal/docs/6124604.docx, [14].
Bài viết của Nguyễn Thị Minh Hà (2019), "Quyền con người của
đương sự trong tố tụng hành chính", Kiểm sát, Số 5, tr. 39-46 [64];
Bài viết của Nguyễn Minh Hà (2019), "Tiếp cận công lý trong tố tụng
hành chính" trong cuốn sách Công lý và quyền tiếp cận công lý, Nxb Hồng
Đức, Hà Nội [123];
Bài viết của Nguyễn Thị Hà, Đoàn Minh Trang (2020), "Bảo đảm
quyền con người trong hoạt động tố tụng hành chính", Tòa án nhân dân, Số 2,
tr. 25-31 [60];
Những công trình nói trên đã phần nào đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền
của con người trong lĩnh vực tố tụng nói chung và tố tụng hành chính nói
riêng ở những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, các công trình này chưa
nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên biệt về bảo đảm quyền của người
khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành
phố Hà Nội. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa thiết thực về mặt lý
luận cũng như về thực tiễn, đưa ra những giải pháp nhằm bảo vệ quyền của
người bị kiện trong vụ án hành chính, đáp ứng yêu cầu mà mục tiêu của Chiến
lược cải cách tư pháp đã đề ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý về bảo đảm quyền
của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính. Đồng thời, đánh
giá việc bảo đảm quyền của người khởi kiện tại Tòa án nhân dân Thành phố
Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người
khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính.
5
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện những mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào
giải quyết những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý về quyền của người khởi kiện
trong giải quyết các vụ án hành chính;
+ Nghiên cứu khái niệm, vai trò, phương thức bảo đảm quyền của
người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính.
+ Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền của người khởi kiện tại Tòa án
nhân dân Thành phố Hà Nội. Qua đó, làm sáng tỏ những kết quả đạt được,
hạn chế và nguyên nhân trong việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong
giải quyết các vụ án hành chính.
+ Đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm
quyền của người khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nhiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật về
bảo đảm quyền của khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính và thực tiễn
bảo đảm quyền của người khởi kiện qua hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu quyền của người khởi kiện và
việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong xét xử vụ án hành chính tại
Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.
Phạm vi không gian: Luận văn phân tích đánh giá việc bảo đảm quyền
của người khởi kiện trong xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành
phố Hà Nội.
Phạm vi thời gian: Những số liệu thống kê nhằm đánh giá thực trạng
việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong xét xử vụ án hành chính tại
Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến năm 2020.
6
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Nhà nước Việt Nam về quyền con người và bảo đảm quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong nghiên cứu là
phương pháp hệ thống, lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh luật học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về lý luận: Luận văn vận dụng lý luận về quyền con người và bảo
đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp để nghiên cứu về việc bảo đảm
quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính
- Về thực tiễn: Quá trình nghiên cứu sẽ phát hiện những vướng mắc,
hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về việc bảo đảm quyền của
người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính từ thực tiễn Tòa án
nhân dân Thành phố Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người khởi kiện
trong giải quyết các vụ án hành chính, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về bảo đảm quyền của
người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính.
Chương 2: Thực tiễn bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải
quyết các vụ án hành chính tại Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của
người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
NGƯỜI KHỞI KIỆN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái quát chung quyền của người khởi kiện trong vụ án hành
chính
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính
Quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động của Nhà nước được
thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội
dung là bảo đảm sự chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức thực hiện pháp luật đối với các cá
nhân, cơ quan, tổ chức trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội và hành
chính – chính trị. Hoạt động này được thực thi trên cơ sở pháp luật, đảm bảo
các quyền và lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Bởi vậy, trong quá trình
thực hiện quản lý hành chính nhà nước khó có thể tránh khỏi sự xung đột hay
tranh chấp về lợi ích, quan điểm áp dụng pháp luật giữa chủ thể quản lý hành
chính nhà nước và đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Những xung đột,
tranh chấp này chủ yếu xuất phát từ việc chủ thể quản lý hành chính nhà nước
đơn phương áp đặt ý chí của mình gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Khi những xung đột, tranh
chấp này bị đẩy lên cao, các bên phải đưa ra Tòa án có thẩm quyền để giải
quyết thì sẽ phát sinh vụ án hành chính. Vì vậy có thể khái quát về vụ án hành
chính là vụ việc phát sinh trên cơ sở tranh chấp trong các lĩnh vực quản lý
hành chính nhà nước.
Hiện nay khái niệm vụ án hành chính chưa được quy định cụ thể trong
một văn bản quy phạm pháp luật nào. Tuy nhiên, khi đề cập đến khái niệm
này, ta có thể hiểu như sau: “Vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp hành
chính phát sinh do cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức
khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
8
mình bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ
luật buộc thôi việc hoặc do Viện kiểm sát khởi tố theo quy định của pháp luật
tố tụng hành chính”.
Như vậy, có thể hiểu vụ án hành chính là vụ án phát sinh khi cá nhân,
cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp của quyết
định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc (công
chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống), quyết định
giải quyết khiếu nại và quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri
của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước và được
Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.
Vụ án hành chính có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, vụ án hành chính chỉ phát sinh khi có yêu cầu khởi kiện của
các chủ thể có quyền và được Tòa án thụ lý. Nếu yêu cầu khởi kiện là điều
kiện cần việc được Tòa án thụ lý là điều kiện đủ. Các chủ thể có thẩm quyền
là các cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, khi cho rằng quyền lợi của họ bị quyết định hành chính, hành
vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu
nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri xâm
phạm. Khởi kiện vụ án hành chính là sự kiện pháp lý đầu tiên trong quá trình
tố tụng hành chính, làm phát sinh mối quan hệ tố tụng giữa chủ thể khởi kiện
và Tòa án, là cơ sở để Tòa án thụ lý vụ án. Tòa án chỉ có thẩm quyền giải
quyết vụ án hành chính khi có yêu cầu khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ
chức nếu vụ án đó thuộc thẩm quyền của mình và đã được thụ lý.
Thứ hai, Tòa án phải giải quyết vụ án theo trình thụ thủ tục do pháp
luật tố tố tụng hành chính quy định. Tố tụng hành chính là một thủ tục tư pháp
riêng biệt, khác với tố tụng hình sự và tố tụng dân sự ở quan hệ pháp luật tố
tụng, ở chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật tố tụng, ở trình tự xét xử và thi
hành án, do đặc thù của các tranh chấp hành chính.
Thứ ba, đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là: 1) quyết định hành
9
chính (văn bản các biệt do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể và chỉ
được áp dụng một lần); 2) hành vi hành chính (hành vi thực hiện hoặc không
thực hiện nhiệm vụ công vụ); 3) quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức
(giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống); 4) quyết định
giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; 5) danh sách cử
tri (danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân, danh sách cử tri trưng cầu ý dân).
1.1.2. Quyền của người khởi kiện trong vụ án hành chính
Để hiểu rõ được quyền của người khởi kiện trong vụ án hành chính thì
trước hết cần hiểu thế nào là quyền khởi kiện: Quyền khởi kiện là quyền của
mỗi cá nhân hoặc cơ quan nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
hoặc của người khác. Khi khởi kiện, cá nhân, cơ quan, tổ chức nộp đơn khởi
kiện kèm theo các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình là hợp pháp đến
Tòa án có thẩm quyền để được giải quyết.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước có kỷ cương, kỷ luật. Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, điều hành, có thể có cơ quan hành
chính nhà nước và cán bộ, công chức có những quyết định hoặc hành vi trái
pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá
nhân, từ đó làm phát sinh các khởi kiện hành chính.
Khởi kiện vụ án hành chính chính là sự kiện pháp lý, là hành vi tố tụng
đầu tiên và thuộc quyền định đoạt của người khởi kiện, làm phát sinh quan hệ
pháp luật tố tụng hành chính giữa Tòa án với người tham gia tố tụng, cơ quan
và người tiến hành tố tụng khác. Không có khởi kiện vụ án hành chính thì
không thể phát sinh vụ án hành chính tại Tòa án.
10
Khởi kiện vụ án hành chính là sự kiện pháp lý đầu tiên làm phát sinh
quan hệ tố tụng hành chính, là sự thể hiện phản ứng của cá nhân, cơ quan, tổ
chức khi họ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
nhà nước xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, khởi
kiện vụ án hành chính không đơn thuần là một sự kiện pháp lý mà là quyền
con người, quyền công dân.
Điều 5 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định “Cơ quan, tổ chức,
cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật này”.
Đến nay chưa có khái niệm quyền khởi kiện vụ án hành chính được ghi
nhận trong các văn bản pháp luật. Tuy vậy, có thể hiểu: “Quyền khởi kiện vụ
án hành chính là việc cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước, theo quy định của
pháp luật tố tụng hành chính có quyền yêu cầu tòa án thụ lý án hành chính để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước, công
chức bị xâm hại bởi các quyết định hành chính, quyết định kỉ luật buộc thôi
việc”.
Quyền khởi kiện vụ án hành chính ở nước ta được ghi nhận lần đầu tiên
tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996, theo đó tại
Điều 1 quy định: “Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp
luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà án bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. Giá trị cơ bản, thiết yếu của việc cho
phép cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện vụ án hành chính và các
biện pháp bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện thể hiện sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước ta trong việc bảo vệ và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân. Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính trong thời gian qua của các
cấp Tòa án ở nước ta đã chứng minh được giá trị tích cực này.
Hoạt động thực hiện quyền khởi kiện hành chính ra Tòa án và cơ chế
bảo đảm quyền khởi kiện được thực thi trên thực tế đã và đang có tác dụng
tích cực thúc đẩy tinh thần, thái độ, trách nhiệm của cơ quan nhà nước mà chủ
11
yếu là cơ quan hành chính nhà nước trong việc tăng cường sự quan tâm, cẩn
trọng hơn khi ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính. Từ
đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động hành pháp, xây dựng nền
hành chính mạnh và trong sạch, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Tuy nhiên, quyền của người khởi kiện theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án hành chính năm 1996 rất hạn chế, cụ thể người khởi kiện chỉ có
quyền lựa chọn một trong hai hình thức khiếu nại đến Ủy ban nhân dân các
cấp hoặc khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính ra Tòa án…
Tức là khi ý chí của họ lựa chọn theo hình thức nào thì chỉ có thể chấp nhận
phán quyết của hình thức đó. Như vậy đồng nghĩa với việc quyền khởi kiện
của người khởi kiện bị hạn chế rất nhiều, nếu không đồng ý với kết quả trả lời
khiếu nại thì người bị thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành
chính… không có quyền khởi kiện ra Tòa án để tiếp tục được bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
Luật tố tụng hành chính năm 2015 ra đời đã ghi nhận một cách đầy đủ
quyền của người khởi kiện vụ án hành chính phù hợp với tình hình thực tiễn
cũng như nâng cao việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện.
Quyền khởi kiện vụ án hành chính được quy định chi tiết tại Điều 115
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 như sau:
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong
trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với
người có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định
của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết
nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó.
- Tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với việc giải quyết
khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trong trường hợp không
đồng ý với quyết định đó.
12
- Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án về danh sách cử tri trong trường hợp
đã khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời hạn giải
quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã
được giải quyết, nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại đó.
Từ những phân tích trên có thể hiểu “Quyền của người khởi kiện là tập
hợp các quyền mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có được khi tham gia quá trình
xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân.”
Theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính hiện nay, người khởi
kiện có các quyền cụ thể sau:
- Quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và quyền
khởi kiện vụ án hành chính: khởi nguồn cho quy trình tố tụng và được xem
như một quyền “hiến định”, quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp được quy định tại Điều 5, Luật Tố tụng hành chính năm 2015: “Cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà
án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật
này”. Tiếp theo đó, Điều 103, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về
quyền khởi kiện vụ án hành chính, trong đó quy định quyền khởi kiện đối với
các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định giải quyết khiếu
nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bầu cử đại biểu
Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện: được quy định
tại Điều 7, Luật Tố tụng hành chính năm 2015: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức
có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án hành chính. Toà án chỉ thụ lý giải
quyết vụ án hành chính khi có đơn khởi kiện của người khởi kiện. Trong quá
trình giải quyết vụ án hành chính, người khởi kiện có quyền rút, thay đổi, bổ
sung yêu cầu khởi kiện của mình theo quy định của Luật này”. Theo đó, cá
nhân, tổ chức có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án hành chính khi thấy
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành chính,
hành vi hành chính…. Người khởi kiện có quyền tự định đoạt trong việc đưa
13
ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc. Quyền tự định đoạt có thể được
xem là tiền đề để tiến hành các thủ tục tố tụng tiếp theo trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Bên cạnh quyền khởi kiện vụ
án hành chính, thì luật tố tụng hành chính cũng quy định rất rõ ràng về quyền
quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện thông qua việc trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính, người khởi kiện có quyền rút, thay đổi, bổ sung
yêu cầu khởi kiện của mình. Ngoài ra theo mô hình xây dựng Trung tâm hòa
giải thực hiện thí điểm tại Tòa án trong năm 2018, 2019 thì quyền quyết định
và tự định đoạt của người khởi kiện còn có thể được thực hiện trong quá trình
đối thoại trước khi Tòa án thụ lý vụ án hành chính nhằm hỗ trợ các bên thống
nhất giải quyết quan hệ pháp luật hành chính có tranh chấp. Như vậy, trước
khi Tòa án giải quyết vụ kiện hành chính, người khởi kiện có thể có nhiều sự
lựa chọn mà pháp luật cho phép. Mọi tác động bên ngoài ý chí của người khởi
kiện đều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận. Quyền tự định đoạt
thể hiện sự tôn trọng các quyền cơ bản của con người, trong đó vai trò của
người khởi kiện luôn được đề cao trông tất cả các giai đoạn tố tụng.
- Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại: Theo quy định tại Điều 6, Luật
Tố tụng hành chính năm 2015 thì: “Người khởi kiện có thể yêu cầu bồi thường
thiệt hại. Trong trường hợp này các quy định của pháp luật về trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước và pháp luật về tố tụng dân sự được áp dụng để
giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Quyền này cho phép người khởi
kiện kèm theo yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp xác định được
thiệt hại do hành vi hành chính, quyết định hành chính gây ra. Tuy nhiên cần
lưu ý là không phải yêu cầu bồi thường thiệt hại nào cũng được giải quyết
ngay trong vụ án hành chính, trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt
hại mà chưa có điều kiện để chứng minh thì Toà án có thể tách yêu cầu bồi
thường thiệt hại để giải quyết sau bằng một vụ án dân sự khác theo quy định
của pháp luật.
14
- Quyền được bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: được
quy định tại Điều 11, Luật Tố tụng hành chính năm 2015, theo đó: “Đương sự
tự mình hoặc có thể nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Toà án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện
quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”. Đối với người khởi kiện,
quyền này có thể hiểu là quyền yêu cầu người đại diện hoặc quyền yêu cầu
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Nghĩa là để bảo vệ tốt nhất cho
quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì người khởi kiện có quyền yêu cầu
người đại diện, thuê luật sư hoặc nhờ người khác am hiểu về pháp luật thay
họ đứng ra bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án. Toà án có
trách nhiệm bảo đảm cho người khởi kiện thực hiện quyền bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ. Đây cũng là quy định được Tòa án rất khuyến khích,
tránh trường hợp người không có kiến thức pháp luật, không có khả năng bảo
vệ cho mình dẫn đến những thiệt hại không đáng có cho họ do không thu thập
đủ chứng cứ để có thể bảo vệ quyền và lợi ích của chính mình.
- Quyền khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện: Mặc dù Luật TTHC
năm 2015 quy định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức quyền khởi kiện để yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp khi người khởi kiện nộp đơn thì bị Tòa án trả lại đơn khởi kiện.
Trong trường hợp bị trả lại đơn khởi kiện, pháp luật quy định cho người khởi
kiện quyền khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện. Điều 110, Luật TTHC năm
2015 quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với những trường hợp
bị trả lại đơn khởi kiện. Theo đó: “Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu
nại với Chánh án Toà án đã trả lại đơn khởi kiện”. Trong thời hạn 03 ngày
làm việc kể từ ngày nhận đơn khiếu nại, Chánh án Tòa án phải ra quyết định
giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật. Trường hợp không đồng ý
với quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án thì trong thời hạn 10 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người khởi
15
kiện có quyền khiếu nại lên Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp. Trong thời
hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án Toà án cấp
trên trực tiếp phải giải quyết. Quyết định của Chánh án Toà án cấp trên trực
tiếp là quyết định giải quyết cuối cùng. Ví dụ, Tòa án nhân dân cấp huyện trả
lại đơn khởi kiện thì người khởi kiện có quyền khiếu nại lần đầu lên Chánh án
Tòa án nhân dân huyện đó, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu
nại thì tiếp tục được khiếu nại lần 2 lên Chánh án tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 là quyết định giải quyết cuối cùng.
- Quyền đề nghị xét xử vắng mặt: Khi người khởi kiện có đơn đề nghị
Tòa án xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện của họ tham gia phiên tòa thì
người khởi kiện có thể vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm. Trong trường hợp này,
Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định.
- Quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch: Khi có căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch thuộc trường hợp luật quy định không được tham gia
tố tụng hoặc không vô tư khách quan khi thực hiện hoạt động tố tụng thì
người khởi kiện có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định và người phiên dịch nhằm đảm bảo tính khách quan của những
người này khi tham gia phiên tòa.
- Quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi
kiện: Trong suốt quá trình tố tụng và kể cả tại phiên tòa sơ thẩm, người khởi
kiện có quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện;
Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của người khởi
kiện nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu
cầu khởi kiện. Riêng trường hợp người khởi kiện rút một phần hoặc toàn bộ
yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp
nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu mà đương
sự đã rút. Tuy nhiên về nguyên tắc, nếu người khởi kiện rút đơn khởi kiện
trong giai đoạn này thì Tòa đình chỉ giải quyết vụ án, nghĩa là quyết định
16
hành chính bị kiện đương nhiên có hiệu lực. Vì vậy, người khởi kiện nên cân
nhắc về quyền lợi của mình trước khi rút đơn khởi kiện.
- Quyền yêu cầu Hội đồng xét xử công bố các tài liệu của vụ án, nghe
băng ghi âm, xem băng đĩa hình, đĩa ghi hình. Tại phiên tòa, người khởi kiện
có quyền yêu cầu Hội đồng xét xử công bố các tài liệu của vụ án, cho nghe
băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng đĩa hình, đĩa ghi hình, trừ trường hợp đặc biệt
cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật
nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu của
đương sự thì Hội đồng xét xử không công bố các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
- Quyền được cấp trích lục bản án, bản án, quyết định của Toà: Sau
khi tuyên án Tòa án có trách nhiệm cấp, gửi trích lục bản án, bản án cho
những cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan để những người này biết và thực
hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Điều 166 Luật Tố tụng hành chính quy định
về việc cấp, gửi trích lục bản án, bản án của tòa án như sau: Trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên toà, các đương sự được Toà án cấp
trích lục bản án. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày tuyên án, Toà án phải
cấp, gửi bản án cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn
30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng
cáo, kháng nghị, Toà án cấp, gửi bản án đã có hiệu lực pháp luật cho các
đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp, cơ
quan cấp trên trực tiếp của người bị kiện.
- Quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án: Trong
trường hợp người khởi kiện không đồng ý với phán quyết của Tòa án thì
người khởi kiện có quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án.
Theo quy định thì: “Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ
thẩm là 15 ngày, kể từ ngày Toà án tuyên án; trường hợp đương sự vắng mặt
tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc
được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú hoặc nơi có trụ
sở, trong trường hợp đương sự là cơ quan, tổ chức. Thời hạn kháng cáo đối
17
với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm
là 07 ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được
tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì”.
1.2. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án
hành chính
1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa bảo đảm quyền của người khởi kiện trong
giải quyết các vụ án hành chính
Theo từ điển tiếng Việt, bảo đảm được hiểu là làm cho chắc chắn thực
hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết để có thể thực
hiện được. Bảo đảm có thể hiểu là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn
được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết để có thể thực hiện được.
Bảo đảm các quyền con người, quyền công dân là việc tạo ra các tiền
đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công
dân, các tổ chức của công dân thực hiện được các quyền, tự do, lợi ích chính
đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận. Bảo đảm quyền công dân trong tố
tụng hành chính là bảo đảm quyền công dân trong hoạt động tư pháp, là việc
Nhà nước thiết lập các điều kiện cần thiết nhằm tôn trọng và thực hiện các
quyền công dân của các cá nhân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành
chính bằng con đường tố tụng
Đảm bảo quyền khởi kiện trong tố tụng hành chính có thể hiểu là tổng
thể các biện pháp, các cơ chế hỗ trợ hoặc tạo điều kiện cần thiết cho các
đương sự có thể thực hiện quyền khởi kiện. Đồng thời, việc đảm bảo này còn
được thực hiện thông qua chính các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng
như Tòa án, Viện kiểm sát. Chính các biện pháp và cơ chế này là cơ sở đảm
bảo tính khả thi của quyền khởi kiện, là cơ sở để quyền khởi kiện được thực
hiện một cách có hiệu quả trên thực tế nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của
người dân được pháp luật ghi nhận và bảo hộ.
18
Từ đó, khái niệm bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết
các vụ án hành chính là tạo cho các chủ thể có quyền khởi kiện có đủ các
điều kiện cần thiết, chắc chắn thực hiện được trên thực tế, quyền khởi kiện ra
Tòa án nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình thông qua các biện
pháp được pháp luật quy định.
Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành
chính là bảo đảm quyền công dân trong hoạt động tư pháp, là việc Nhà nước
thiết lập các điều kiện cần thiết nhằm tôn trọng và thực hiện các quyền công
dân của các cá nhân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính bằng con
đường tố tụng. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chủ thể bảo đảm
quyền của người khởi kiện là Tòa án nhân dân thông qua hoạt động xét xử.
Các vụ án hành chính được giải quyết bởi Tòa Hành chính nằm trong
hệ thống Tòa án nhân dân theo một cơ chế riêng được điều chỉnh bởi ngành
Luật Tố tụng hành chính. Các điều kiện pháp lý bảo đảm quyền công dân
trong tố tụng hành chính bao gồm: Có hệ thống pháp luật tố tụng hành chính
hợp hiến, có tính thống nhất, tính khả thi; có hệ thống Tòa Hành chính hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả với những thẩm phán hành chính có trình độ
chuyên môn tốt và đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng; có cơ chế kiểm
tra, giám sát chặt chẽ của Viện Kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết
vụ án hành chính; các phán quyết của Tòa hành chính phải được bảo đảm
thực thi.
Bảo đảm quyền khởi kiện có ý nghĩa thiết thực và hết sức quan trọng
đối với quyền lợi của công dân, mà trước hết là những chủ thể có quyền, lợi
ích hợp pháp bị xâm hại, đảm bảo tính khả thi trong quá trình thực thi quyền
khởi kiện trên thực tế.
Bên cạnh đó việc ghi nhận quyền khởi kiện vụ án hành chính và sự bảo
đảm của pháp luật trong việc thực hiện những quyền này góp phần nâng cao ý
thức pháp luật của các chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng hành chính nói
riêng và quan hệ pháp luật hành chính nói chung. Từ việc nâng cao ý thức
19
pháp luật của các chủ thể có liên quan, qua đó sẽ góp phần giảm thiểu vụ việc
bị xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp, từ đó giảm thiểu được những vụ kiện tụng
hành chính không cần thiết, gây tốn kém.
Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành
chính có ý nghĩa sau:
Thứ nhất, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ
án hành chính góp phần bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN hoạt động theo
Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, làm rõ bản chất của
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đó là Nhà nước của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Theo đó, Nhà nước pháp quyền thượng tôn Hiến pháp
và pháp luật, các quy định tại Hiến pháp là nền tảng cho toàn bộ hệ thống luật
pháp bởi những điều luật này sẽ được cụ thể hóa thành các bộ luật, luật để
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mọi chủ thể trong xã hội đều phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, ở Nhà nước pháp quyền có sự bình đẳng
giữa mọi người (nhà nước, tập thể và cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật),
không phân biệt đối xử trong việc công nhận, thụ hưởng và phát triển các
quyền con người, quyền công dân. Điều đó cho thấy, Nhà nước pháp quyền
phải xác lập được cơ chế bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện khi người
dân tham gia vào các quan hệ xã hội và khi có tranh chấp; đặc biệt khi phát
sinh tranh chấp hành chính giữa công dân với các cơ quan nhà nước hoặc với
người có thẩm quyền thì chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền phán xét việc tuân
thủ pháp luật của các bên và hệ thống Tòa án độc lập sẽ là bảo đảm cuối cùng
cho công dân có đủ khả năng và điều kiện bảo đảm quyền khởi kiện của mình
khi bị xâm hại. Do vậy, việc Nhà nước tạo các điều kiện pháp lý nhằm bảo đảm
quyền khởi kiện trong TTHC sẽ góp phần bảo đảm quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ hai, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án
hành chính góp phần thực hiện trách nhiệm của Nhà nước trước công dân.
20
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước chịu trách nhiệm trước
công dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công dân thực hiện các
nghĩa vụ trước nhà nước và xã hội, tức là trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền trong phạm vi thẩm quyền của mình phải có trách
nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đẩy xã hội hay
chí ít là lĩnh vực mình phụ trách đi lên, làm cho người dân được hưởng lợi,
lúc này trách nhiệm của nhà nước được hiểu là nghĩa vụ mà nhà nước phải
gánh vác. Theo đó, nhà nước là chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ công lý, bảo vệ,
bảo đảm quyền con người, bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân
thông qua việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã hội theo Hiến pháp
và pháp luật. Nhà nước chủ động, tích cực xây dựng hệ thống pháp luật, các
chương trình, kế hoạch và triển khai đồng bộ xuyên suốt các nội dung bảo
đảm quyền công dân trong các chương trình xây dựng pháp luật của Quốc
hội. Hiến pháp và pháp luật là cơ sở, căn cứ pháp lý để công dân thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ
hành chính. Hiến pháp được coi là công cụ quan trọng hàng đầu được Nhà
nước sử dụng để bảo đảm quyền công dân, là “điều kiện tiên quyết cho việc
đảm bảo các quyền cơ bản của công dân. Trong TTHC, nguyên tắc hiến định
đã được Luật TTHC năm 2015 cụ thể hóa là nguyên tắc: “Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, theo đó, trong quá
trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ảnh hưởng bởi bất cứ
cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào, việc ra phán quyết về tính hợp pháp của
quyết định hành chính, hành vi hành chính chỉ trên cơ sở quy định của pháp
luật. Mục đích của nguyên tắc này nhằm bảo đảm quyền khởi kiện, quyền
bình đẳng của người khởi kiện trước pháp luật, đồng thời tránh sự can thiệp,
tác động của các cơ quan hành pháp, lập pháp vào hoạt động xét xử của Tòa
án, tránh sự “tùy tiện” từ phía Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi đưa ra
các quyết định. Nhà nước bảo đảm nguyên tắc này được thực hiện trên thực tế
21
bằng các hình thức khác nhau trong đó có việc “nghiêm cấm các cơ quan, tổ
chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
dưới bất kỳ hình thức nào”. Có thể nói, Nhà nước bảo đảm sự độc lập của Tòa
Hành chính chính là bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung và
đảm bảo quyền của người khởi kiện nói riêng; là biểu hiện của sự chịu trách
nhiệm của Nhà nước trước công dân, bởi hiệu quả của công tác xét xử phụ
thuộc vào chính sự độc lập này.
Thứ ba, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án
hành chính góp phần nâng cao uy tín của Nhà nước. Với trách nhiệm là chủ
thể bảo đảm quyền công dân, Nhà nước có trách nhiệm ngăn chặn sự vi phạm
quyền công dân từ phía các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức
chính trị - xã hội và cá nhân, đồng thời Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho
công dân thực hiện được và tự bảo vệ các quyền công dân của mình trong các
lĩnh vực. Uy tín của Nhà nước được thể hiện rõ nét trong quan hệ giữa Nhà
nước và công dân, thông qua hoạt động của các cán bộ, công chức trong quá
trình thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, những hoạt
động quản lý này nếu có hiệu lực, hiệu quả, có kỷ luật, kỷ cương, có công
khai, minh bạch và đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất đạo đức và năng
lực chuyên môn tốt sẽ tạo dựng được niềm tin của người dân đối với các cơ
quan nhà nước, đặc biệt đối với Tòa án - là nơi cuối cùng người dân tin tưởng
sẽ giải quyết đến cùng mọi tranh chấp, trong đó có tranh chấp hành chính. Vì
vậy, các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân
dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân; lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân. Bảo đảm quyền khởi kiện trong
TTHC ngày một tốt hơn sẽ góp phần nâng cao uy tín của Nhà nước, giúp
người dân ngày một tin tưởng vào công lý.
Thứ tư, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án
hành chính góp phần đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực
trong hoạt động của bộ máy nhà nước, của cán bộ, công chức. Nhà nước được
22
tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, với phương hướng xây
dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, đấu tranh phòng
chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động của bộ máy nhà nước,
của cán bộ, công chức. Tham nhũng, quan liêu, tiêu cực là hành vi của người
lạm dụng chức vụ, quyền hạn hoặc cố ý làm trái quy định của pháp luật để
phục vụ lợi ích cá nhân nên đó là căn bệnh xã hội nguy hiểm cản trở sự phát
triển của đất nước và làm giảm niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà
nước. Để giải quyết vấn đề này, các cơ quan nhà nước, Chính phủ đã tăng
cường chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các thể chế, cơ chế,
chính sách (như xây dựng quy tắc ứng xử, trách nhiệm người đứng đầu, cải
cách thủ tục hành chính…) nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà
nước trên mọi lĩnh vực. Trong quan hệ hành chính phát sinh hàng ngày giữa
Nhà nước (đại diện là cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền) với công
dân, mọi quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của người có thẩm
quyền đều ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Do đó, trong quan hệ này dễ xảy ra tranh chấp, khiếu kiện hành chính. Với vai
trò là cơ quan giải quyết tranh chấp hành chính, trên cơ sở quy định của pháp
luật, Tòa Hành chính ra phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định, hành
vi hành chính bị khiếu kiện, qua đó bảo đảm quyền công dân nói chung và
quyền của người khởi kiện nói riêng. Đồng thời, việc buộc cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền phải thực hiện bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
đã góp phần tích cực nâng cao ý thức, tính chịu trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền trước người dân, góp phần đấu tranh, phòng
chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực của các cán bộ, công chức trong hoạt
động quản lý nhà nước.
Thứ năm, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ
án hành chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà
nước. Hoạt động giải quyết các vụ án hành chính được thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật, đặc biệt tại phiên tòa xét xử vụ án hành chính nếu
23
được tiến hành tốt, khoa học, khách quan sẽ tạo ra một cơ chế tư pháp độc lập
giám sát hoạt động hành pháp. Thông qua hoạt động xem xét tính hợp pháp
của quyết định hành chính, hành vi hành chính, Tòa Hành chính đã tác động
trực tiếp đến hoạt động quản lý hành chính nhà nước, đến người có thẩm
quyền, nhằm hạn chế, khắc phục những hậu quả pháp lý phát sinh từ hoạt
động của các chủ thể quản lý hành chính. Từ đó, góp phần nâng cao ý thức,
trách nhiệm trong hoạt động công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước,
người có thẩm quyền, ngăn ngừa những hành vi vi phạm quyền công dân từ
phía cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền. Bên cạnh đó, trong
quá trình giải quyết vụ án hành chính, nếu Toà án phát hiện được những văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án hành chính có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, pháp luật, Tòa án có quyền kiến nghị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc
bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật đó. Với nhiệm vụ này, Toà Hành chính đã
giữ vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hành chính,
nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ công chức, cơ quan nhà nước, đồng
thời góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.
Thứ sáu, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án
hành chính là cơ chế bảo đảm quyền công dân hữu hiệu nhất. Ở nước ta, theo
quy định của pháp luật, giải quyết tranh chấp hành chính được thực hiện
thông qua hai hình thức là: thủ tục khiếu nại - cơ quan hành chính nhà nước
hoặc cơ quan chuyên trách và thủ tục khiếu kiện tại Tòa Hành chính. Công
dân có quyền lựa chọn khiếu nại hành chính hoặc khởi kiện ra Tòa Hành
chính ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết tranh chấp mà không cần
phải qua giai đoạn “tiền tố tụng” như trước đây. Xét về bản chất thì TTHC là
một phương thức giải quyết các khiếu kiện hành chính, được tồn tại song song
với cơ chế giải quyết các khiếu nại hành chính bằng thủ tục giải quyết khiếu
nại. So với cơ chế giải quyết các khiếu nại hành chính bằng thủ tục giải quyết
khiếu nại hành chính thì TTHC có nhiều ưu điểm, hiệu quả giải quyết trực
24
tiếp hơn, bởi những lý do sau đây: Một là, trình tự thủ tục TTHC được quy
định cụ thể, chi tiết và chặt chẽ hơn so với trình tự, thủ tục giải quyết khiếu
nại hành chính (thủ tục đơn giản, gọn, có thể rút ngắn các giai đoạn kiểm tra,
xác minh); Hai là, mặc dù các quyết định giải quyết khiếu nại hay phán quyết
của Tòa án có hiệu lực pháp luật đều có tính bắt buộc thi hành đối với mọi cá
nhân, tổ chức, cơ quan liên quan nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên, nhưng trong trường hợp người dân vẫn không đồng ý với quyết
định giải quyết khiếu nại (qua các lần khiếu nại) thì họ còn có nơi lựa chọn
cuối cùng để gửi gắm niềm tin - nơi bảo vệ, bảo đảm quyền công dân của họ,
đó là Tòa án; Ba là, các khiếu kiện được giải quyết bởi một hệ thống cơ quan
chuyên trách độc lập với thủ tục tố tụng bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân
và cơ quan công quyền trước Toà án. Đây là điều không thể có được khi giải
quyết các khiếu nại hành chính theo thủ tục hành chính.
1.2.2. Phương thức bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải
quyết các vụ án hành chính
Trong quan hệ hành chính thì quan hệ giữa các chủ thể là quan hệ phục
tùng, thể hiện sự bất bình đẳng về ý chí giữa các bên tham gia quan hệ, một
bên là cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền quản lý hành chính và
một bên là đối tượng quản lý hành chính. Tuy nhiên trong quan hệ tố tụng
hành chính thì các bên bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Để không có
sự áp đặt ý chí trong quan hệ hành chính lên quan hệ tố tụng hành chính thì
việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính có
vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Quyền của người khởi kiện được bảo đảm bằng các phương thức sau:
Thứ nhất, bảo đảm về sự độc lập của Tòa án trong xét xử vụ án hành
chính
Để bảo đảm Tòa án thật sự có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị
đòi hỏi các nước phải áp dụng các biện pháp bảo đảm tính độc lập, chú trọng
đặc biệt tới việc bảo vệ Thẩm phán khỏi bất kỳ hình thức tác động nào trong
25
việc đưa ra các phán quyết. Các Thẩm phán không được để các định kiến cá
nhân tác động đến những phán quyết của mình. Bảo vệ quyền lợi của một bên
trái pháp luật dẫn đến gây thiệt hại cho bên kia. Các phán quyết của Tòa án
đối với bất kỳ vụ án nào, đối với bất kỳ cấp xét xử nào khi được đưa ra phải
đảm bảo chí công vô tư, khách quan, không chịu bất cứ sự can thiệp, hạn chế
bất hợp pháp của cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào. Các phán quyết này chỉ
và phải dựa trên cơ sở sự thật khách quan của vụ án và các quy định của pháp
luật hiện hành. Nói một cách khác, "pháp luật" là tối thượng, là căn cứ "duy
nhất" để thẩm phán và hội thẩm dựa vào đó mà quyết định. Cơ quan Tòa án
phải có cơ chế giám sát phù hợp để đảm bảo được sự vô tư trong quá trình xét
xử [23].
Vấn đề sự độc lập trong xét xử của Tòa án nói chung và của thẩm phán
nói riêng đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế như: "Các
nguyên tắc cơ bản về sự độc lập của tòa án" của Liên hợp quốc năm 1985;
"Khuyến nghị về tính độc lập, hiệu quả và vai trò của thẩm phán" của Ủy ban
các Bộ trưởng của Hội đồng châu Âu; "Hiến chương Quốc tế về thẩm phán"
của Hiệp hội Thẩm phán Quốc tế năm 1999. Đặc biệt là "Bộ Quy tắc Đạo đức
Tư pháp" Bangalore; được dự thảo tại Bangalore (Ấn Độ) năm 2001, sau khi
chỉnh lý tại Hội nghị bàn tròn các chánh án ở La-Hay (Hà Lan) đã được thông
qua tháng 11-2002 bởi Nhóm tư pháp về Tăng cường liêm chính tư pháp. Đây
là văn kiện mang tính toàn cầu thể hiện đầy đủ các quy tắc đạo đức nhằm mục
đích thiết lập các chuẩn mực đạo đức của Thẩm phán. Đó là các giá trị: độc
lập tư pháp; khách quan; liêm chính; sự chuẩn mực; bình đẳng; năng lực và sự
chuyên cần. Quy tắc này xác định tính vô tư, khách quan có tầm quan trọng
trong việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của Thẩm phán; đó không chỉ là yêu cầu
áp dụng đối với các quyết định được đưa ra, mà còn là yêu cầu áp dụng với cả
quá trình ra quyết định [56].
Ở Việt Nam Hiến pháp năm 2013 quy định Thẩm phán, hội thẩm xét
xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật và yêu cầu nguyên tắc độc lập xét xử của
26
Tòa án nhân dân, đặc biệt là Hội đồng xét xử ở mức độ cao hơn: nghiêm cấm
cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân.Việc bảm đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử có ý nghĩa quan trọng để quyền của con người được thực thi
đúng pháp luật, tránh tình trạng Thẩm phán, Hội thẩm bị tác động nên làm sai
lệch vụ án. Hiến pháp cũng quy định nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công
khai. Điều này không chỉ thể hiện tính minh bạch trong xét xử mà còn nhằm
thực hiện sự giám sát của nhân dân trong hoạt động xét xử. Theo các quy định
ở trên thì quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập
có thẩm quyền và không thiên vị đã được nội luật hóa một cách đầy đủ trong
pháp luật quốc gia Việt Nam. Đây là những quy định mang tính tích cực, phù
hợp với các quy định của luật nhân quyền quốc tế.
Đảm bảo về tính độc lập của Tòa án trong xét xử các vụ án hành chính
là yếu tố then chốt, quyết định đến kết quả giải quyết các vụ án hành chính.
Vì vậy, chỉ khi Tòa án được Nhà nước trao quyền cao hơn Ủy ban nhân dân
các cấp, không ràng buộc hay phụ thuộc vào Ủy ban nhân dân các cấp thì tính
độc lập của Tòa án mới phát huy được hết tác dụng trong giải quyết, xét xử
các vụ án hành chính.
Thứ hai, bảo đảm bằng nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng.
Luật tố tụng hành chính năm 2015 ra đời đã góp phần làm thay đổi
nhận thức của các cơ quan tố tụng, của những người tiến hành tố tụng trong
việc giải quyết các vụ án hành chính. Tại Điều 22 Luật tố tụng hành chính
năm 2015 quy định rõ về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng: “1. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải
tôn trọng Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân 2. Tòa án có nhiệm vụ
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân. Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
27
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. 3. Cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác
theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ
người chưa thành niên, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá
nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự. 4. Cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố tụng có hành
vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ
luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 5.
Người tiến hành tố tụng trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thì cơ
quan có người có hành vi vi phạm pháp luật đó phải bồi thường cho người bị
thiệt hại theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước”.
Có thể thấy cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được
Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật trao vào tay họ những quyền hạn
đồng thời cũng là trách nhiệm rất lớn với mong muốn quyền hạn và trách
nhiệm đó sẽ giúp những cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố
tụng mang lại lợi ích lớn nhất cho người dân đó là bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân…
Tuy nhiên, với quyền lực được trao lớn như vậy nếu những cơ quan
tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng không được trang bị đầy đủ
về mặt nhận thức thì quyền lực sẽ trở thành con dao hai lưỡi có thể đem lại lợi
ích cho người dân, cho xã hội nhưng cũng có thể bị lợi dụng để phục vụ
những lợi ích cá nhân. Do đó những cơ quan tiến hành tố tụng, những người
tiến hành tố tụng ngoài việc phải có bản lĩnh vững vàng, trang bị đầy đủ cho
28
mình kiến thức pháp luật thì hơn hết, họ phải nhận thức được chính xác về
quyền hạn và nhiệm vụ của mình trong việc giải quyết các vụ án đặc biệt là
vụ án hành chính, không để những lợi ích cá nhân hoặc những tác động từ bên
ngoài làm ảnh hưởng đến phán quyết của mình trong xét xử vụ án hành chính.
Nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc thu thập, đánh giá chứng cứ.
Nhận thức và sử dụng đúng quyền hạn của mình để nâng cao hiệu quả trong
việc thu thập chứng cứ làm căn cứ ban hành các phán quyết vụ án hành chính
đúng pháp luật. Nhận thức đầy đủ, chính xác về sự độc lập của Hội đồng xét
xử trong quá trình xét xử vụ án hành chính, không chịu sự chi phối, chỉ đạo về
đường lối xét xử của bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào khác. Nhận thức về
tính kịp thời trong việc kiểm sát các hoạt động tố tụng, ban hành các văn bản
kháng nghị, kiến nghị… theo thẩm quyền nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức
của những người tiến hành tố tụng trong giải quyết, xét xử các vụ án hành
chính.
Bảo đảm về nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như
những người tiến hành tố tụng là một bảo đảm quan trọng, mang lại rất nhiều
lợi ích không chỉ cho người dân mà còn mang lại lợi ích rất lớn cho chính các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vì bảo đảm này không chỉ
đơn thuần là bảo đảm tính đúng đắn trong thực thi pháp luật mà hơn hết bảo
đảm về nhận thức góp phần nâng cao hơn nữa về mặt tư duy, bản lĩnh và đạo
đức nghề nghiệp của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
trong thực thi quyền hạn và nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, bảo đảm bằng tranh tụng tại Tòa án
Tranh tụng tại phiên tòa là hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên
tòa bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên
và bác bỏ ý kiến, luận điểm của bên kia dưới sự điều khiển, quyết định của
Chủ tọa phiên tòa với vai trò trung gian, trọng tài. Bản chất của tranh tụng là
quá trình xác minh, làm rõ công khai và tranh luận giữa các bên dưới sự điều
khiển của Tòa án để phân tích, thẩm định, đánh giá chứng cứ nhằm xác định
29
sự thật khách quan của vụ án, tạo cơ sở để Tòa giải quyết vụ án khách quan,
đúng pháp luật [55].
Tranh tụng tại tòa án là quyền được trình bày ý kiến, quan điểm, tranh
luận về vụ án để các đương sự được thực hiện đầy đủ quyền trình bày ý kiến,
quan điểm, tranh luận về vụ án. Tranh tụng đã được thừa nhận trên phạm vi
toàn cầu và được ghi nhận tại Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của
Liên Hợp quốc ngày 10 tháng 12 năm 1948 với nội dung "Mọi người đều có
quyền hoàn toàn ngang nhau được phát biểu bình đẳng và công khai trước
Tòa án độc lập và không thiên vị, nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của
mình hoặc về việc buộc tội mình có cơ sở trước Tòa" [22].
Quyền tranh tụng tại tòa án được cụ thể trong Đoạn 3 của Bình luận
chung số 32 của Ủy ban nhân quyền như sau: Điều 14 có tính chất đặc biệt
phức tạp, kết hợp các đảm bảo khác nhau và phạm vi áp dụng khác nhau. Câu
thứ hai của khoản này cho phép các cá nhân được xét xử một cách công bằng
và tranh tụng trước một tòa án có thẩm quyền, độc lập [54].
Ở Việt Nam, tranh tụng tại phiên tòa là nội dung có ý nghĩa quan trọng
được qui định trong Hiến pháp năm 2013. Việc nâng cao chất lượng tranh
tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp
trong tiến trình cải cách tư pháp. Trong tố tụng hành chính, Tòa án có trách
nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử. Người khởi kiện có quyền
thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án
hành chính; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá
chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp
của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Trong quá trình xét xử, mọi tài
liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai,
trừ trường hợp không được công khai. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi
những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết
định.
30
Bảo đảm tranh tụng trước Tòa án là bảo đảm tính khách quan, công
bằng, dân chủ trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính nhằm làm căn cứ để xác
định sự thật vụ án, cơ sở để hội đồng xét xử ban hành bản án, quyết định đúng
đắn, khách quan, hợp pháp. Do đó Tòa án phải đảm bảo thực hiện đúng quy
định của pháp luật tố tụng, tạo điều kiện các đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ được tham gia tranh luận, trình bày ý kiến, xuất trình
tài liệu, chứng cứ. Bên cạnh đó, bản thân những người khởi kiện khi Tòa án
đảm bảo cho họ được quyền tranh tụng thì họ cũng phải biết cách tự bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa, nếu không thể tự
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì có thể nhờ người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật. Có như vậy việc Tòa án đảm
bảo điều kiện tranh tụng cho các bên đương sự mới được thực hiện một cách
đúng đắn nhất, mang lại hiệu quả cao nhất, giải quyết triệt để nhất yêu cầu của
các bên đương sự hay nói cách khác tranh tụng hiệu quả chính là bảo đảm tốt
nhất để giải quyết yêu cầu của người khởi kiện.
Thứ ba, đảm bảo chất lượng xét xử các vụ án hành chính.
Theo Kết luận số 92-KL/TW Ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chinh trị khóa IX về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo tinh thần Nghị quyết 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị, mục tiêu cải cách tư pháp là: "xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt
động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và
hiệu lực cao". Như vậy, có thể thấy, việc nâng cao chất lượng công tác xét xử
của tòa án là mục tiêu quan trọng của công cuộc cải cách tư pháp.
Đảm bảo chất lượng xét xử là một trong những đòi hỏi cấp thiết đảm
bảo quyền cho người khởi kiện khi khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.
Cũng theo số liệu báo cáo hàng năm cho thấy tỉ lệ số vụ án mà yêu cầu của
người khởi kiện được chấp nhận còn tương đối thấp (chiếm tỉ lệ khoảng
31
35%). Tuy điều này không phản ánh thấp việc đảm bảo chất lượng xét xử của
Tòa án nói chung nhưng phản ánh việc đảm bảo chất lượng xét xử liên quan
đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện trong vụ án
hành chính còn tồn tại nhiều vấn đề hạn chế.
Đảm báo chất lượng xét xử chính là tiêu chí quan trọng đánh giá mức
độ hoàn thành nhiệm vụ của ngành Tòa án, vì xét xử là nhiệm vụ quan trọng
và duy nhất mà Nhà nước giao cho Tòa án thực hiện. Chỉ khi Tòa án đảm bảo
chất lượng xét xử, không để xảy ra các vụ án bị cải, sửa, hủy thì mới đảm bảo
được chức năng nhiệm vụ của mình đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự nói chung, của người khởi kiện nói riêng.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử, thì ngành Tòa án cần tích cực
triển khai 14 giải pháp nâng cao chất lượng xét xử. Cụ thể: tăng cường công
tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật; đổi mới tổ chức phiên tòa theo tinh
thần cải cách tư pháp; nâng cao chất lượng bản án, quyết định của toà án;
công khai bản án, quyết định của tòa án trên Cổng thông tin điện tử Tòa án
nhân dân; nâng cao hiệu quả công tác hòa giải; tổ chức các phiên tòa rút kinh
nghiệm; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan
có liên quan trong quá trình giải quyết các loại vụ án; tăng cường công tác
kiểm tra, giám đốc việc xét xử; nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán; tăng
cường trách nhiệm của người đứng đầu; đổi mới thủ tục hành chính tư pháp
tại tòa án; đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các
tòa án; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của tòa án;
làm tốt công tác thi đua, khen thưởng.
Thứ năm, bảo đảm bằng chất lượng đội ngũ Thẩm phán, thư ký Tòa án
Những năm qua, nhất là sau khi Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức
Tòa án năm 2014 có hiệu lực thi hành, hệ thống tòa án đã chủ động xây dựng
và triển khai nhiều giải pháp về công tác cán bộ; thực hiện có hiệu quả cuộc
vận động xây dựng đội ngũ cán bộ, thẩm phán, thư ký vững vàng về bản lĩnh
32
chính trị, giỏi về chuyên môn, gắn liền với việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Với tư tưởng xuyên suốt là xây dựng, phát triển đội ngũ Thẩm phán,
thư ký theo hướng toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất, năng lực thực
tiễn trên nguyên tắc coi trọng cả “đức” và “tài”, “đức” là gốc; yêu cầu đặt ra
là chất lượng Thẩm phán, thư ký phải trên cơ sở thống nhất tiêu chuẩn về
phẩm chất và năng lực, phải vững vàng về bản lĩnh chính trị và giỏi về nghiệp
vụ nhằm thực hiện tốt nhất nhiệm vụ xét xử, bảo vệ công lý, quyền con người.
Theo đó, công tác cán bộ trong hệ thống Tòa án luôn bám sát nhiệm vụ chính
trị của ngành; đã thể chế hóa, cụ thể hóa nhiều chủ trương, quan điểm, giải
pháp của Đảng, Nhà nước về công tác này trong từng giai đoạn; tuân thủ triệt
để nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng
đối với công tác xây dựng và phát triển đội ngũ Thẩm phán, thư ký; bảo đảm
tính toàn diện trên tất cả các phương diện, từ chủ trương, cơ chế, chính sách
cho đến tổ chức quản lý; đồng thời, được tiến hành đồng bộ trên tất cả các
khâu từ quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, sử dụng. Đội ngũ Thẩm
phán, thư ký của Tòa án các cấp về cơ bản thường xuyên được đào tạo để
nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và các kiến thức
bổ trợ khác nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử. Đa số Thẩm phán, thư ký
Tòa án các cấp đều có lập trường tư tưởng vững vàng; có phẩm chất đạo đức
tốt; có trình độ, năng lực; tâm huyết với ngành, với nghề và hoàn thành các
nhiệm vụ được giao.
Trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc thực hiện các Nghị quyết của
Đảng về đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và tăng cường nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò, vị
trí của Tòa án trong hệ thống bộ máy nhà nước ngày càng được khẳng định
qua việc thực hiện tốt nhiệm vụ khi thẩm quyền được thay đổi, mở rộng để
đáp ứng điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (thành lập Toà Hành chính,
33
Toà Kinh tế, Toà Lao động tại Toà án nhân dân tối cao và tại các Toà án nhân
dân cấp tỉnh; tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án nhân dân cấp huyện). Chế độ
bầu Thẩm phán trước đây đã được thay thế bằng chế độ thi tuyển, bổ nhiệm
nhằm tiêu chuẩn hoá và nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán…
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, trong đó xác
định “Toà án là trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm”, nhiệm vụ xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp,
hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần cải cách tư pháp tại Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020”
là vô cùng cấp thiết. Cùng với việc củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy các Tòa
án nhân dân, thì việc rà soát lại đội ngũ Thẩm phán, thư ký về các tiêu chuẩn
chính trị, đạo đức phẩm chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh, kinh
nghiệm xã hội và thực tiễn công tác nhằm mục tiêu xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân cũng đã được tiến hành. Các Tòa án đã đánh giá
thực trạng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán các cấp để bố trí, sử dụng cán bộ hợp
lý; xác định lại nhu cầu biên chế của từng đơn vị phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, các kiến thức về
chuyên môn nghiệp vụ, kinh tế, xã hội…để xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm
phán vừa “hồng”, vừa “chuyên”; bản lĩnh, ngang tầm nhiệm vụ. Việc tuyển
dụng cán bộ, công chức Tòa án được thực hiện thông qua thi tuyển, cán bộ
được tuyển dụng làm Thư ký Tòa án – nguồn cán bộ để bổ nhiệm đội ngũ
Thẩm phán cho Toà án các cấp - phải có bằng cử nhân luật hệ chính quy. Thủ
tục xem xét và bổ nhiệm Thẩm phán và cán bộ có chức danh tư pháp của Tòa
án nhân dân được đổi mới, tiến hành kịp thời, bảo đảm các tiêu chuẩn về
chính trị, đạo đức phẩm chất và chuyên môn nghiệp vụ. Công tác luân chuyển
Thẩm phán, thư ký giữa Tòa án cùng cấp nhằm hạn chế những mặt tiêu cực
34
được quan tâm thực hiện. Việc điều động cán bộ, biệt phái Thẩm phán được
đẩy mạnh để tăng cường cho các đơn vị có số lượng án lớn phải giải quyết.
Công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành thường xuyên, kịp thời chấn chỉnh
các yếu kém trong công tác và kiên quyết xử lý nghiêm hoặc thanh lọc những
Thẩm phán, thư ký có vi phạm, thoái hóa, biến chất. Hàng năm, các Tòa án
đều có nhận xét, đánh giá về phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ Thẩm
phán, thư ký, xem xét về mức độ, khả năng hoàn thành nhiệm vụ và ý thức
nâng cao bản lĩnh chính trị; có những hình thức khen thưởng, vinh danh xứng
đáng đối với những người có thành tích cao trong công tác và xem xét trách
nhiệm đối với các trường hợp vi phạm quy chế công tác để có biện pháp xử
lý, bảo đảm nâng cao kỷ luật, kỷ cương của từng Thẩm phán, thư ký.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền của người khởi kiện
trong giải quyết các vụ án hành chính
Để việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết vụ án
hành chính đạt hiệu quả thì chúng ta cần phải hiểu được những yếu tố tác
động đến việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong vụ án hành chính để
đảm bảo những yếu tố này tác động tích cực đến việc bảo đảm quyền của
người khởi kiện.
1.3.1. Mức độ hoàn thiện của các quy định pháp luật tố tụng hành
chính
Luật tố tụng hành chính là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ tố tụng hành chính phát sinh giữa Tòa án với những người tham
gia tố tụng, những người tiến hành tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết
vụ án hành chính nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan và tổ chức. Nội dung Luật Tố tụng hành chính quy định các trình tự, thủ
tục tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hành chính, qui định các hành vi tố
tụng của Tòa án, Viện kiểm sát, người khởi kiện, người bị kiện và những
người tham gia tố tụng khác trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án hành
chính, thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính nhằm bảo đảm quyền và lợi
35
ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng. Trên cơ sở các qui định của Luật
Tố tụng hành chính các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
phải tiến hành tố tụng tuân thủ theo trình tự thủ tục luật định, đảm bảo cho
người tiến hành tố tụng có đủ thẩm quyền để ra các phán quyết, xác định tính
hợp pháp của đối tượng bị khởi kiện, tìm ra sự thật khách quan của vụ án, trên
cơ sở đó Tòa án có thể ra những phán quyết đúng đắn, góp phần bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bên cạnh đó Luật tố tụng hành chính qui định các
quyền và nghĩa vụ của đương sự và những người tham gia tố tụng khác, bảo
đảm tính dân chủ trong hoạt động xét xử vụ án hành chính cũng như yêu cầu
về năng lực của họ để thực hiện quyền và nghĩa vụ tô tụng. Để tạo điều kiện
thuận lợi và đảm bảo thi hành của Luật Tố tụng hành chính thì Hội đống
Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ban hành các Nghị quyết hướng dẫn thi
hành Luật Tố tụng hành chính. Đây là những văn bản có ý nghĩa quan trọng
giúp cho người tiến hành tố tụng áp dụng Luật Tố tụng hành chính thống nhất
và chính xác, đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia tố tụng. Với vai trò
quan trọng của pháp luật tố tụng hành chính thì việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền của các bên tham gia tố
tụng nói chung và của người khởi kiện nói riêng. Nếu hệ thống pháp luật hành
chính không phù hợp, không đồng bộ và thống nhất sẽ dẫn đến việc xét xử
các vụ án không đúng theo qui định của pháp luật dẫn đến hủy sửa bản án,
quyết định kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Các bên tham gia tố tụng lợi
dụng những kẽ hở của pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác.
1.3.2. Trách nhiệm của cơ quan quản lý hành chính, cơ quan được
giao quyền quản lý hành chính và người có thẩm quyền trong cơ quan
quản lý hành chính
Cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao quyền quản
lý nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước là
36
chủ thể quản lý hành chính nhà nước, đây là chủ thể đặc biệt và quan trọng
nắm quyền trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Trong vụ án hành
chính thì cơ quan quản lý hành chính, cơ quan được giao quyền quản lý hành
chính và người có thẩm quyền trong cơ quan quản lý hành chính tham gia tố
tụng với tư cách là người bị kiện trong vụ án hành chính và có quyền và nghĩa
vụ ngang với những người tham gia tố tụng khác. Cơ quan hành chính, cơ
quan quản lý hành chính, cơ quan được giao quyền quản lý hành chính và
người có thẩm quyền trong cơ quan quản lý hành chính phải tự mình tham gia
tố tụng hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng. Trường hợp người bị
kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị
kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền
phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật Tố tụng hành
chính. Như vậy người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện phải tham gia
trực tiếp vào quá trình giải quyết vụ án để đảm bảo đối thoại với người khởi
kiện, tranh luận với người bị kiện và đưa ra lập luận về đánh giá chứng cứ và
pháp luật áp dụng. Trong quá trình tố tụng nếu thấy rằng quyết định hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri không đúng qui định của
pháp luật thì có quyền sửa đổi hoặc hủy bỏ bị khởi kiện; dừng, khắc phục
hành vi hành chính bị khởi kiện. Để đảm bảo quyền khởi kiện, thì người bị
kiện phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng,
đảm bảo người khởi kiện biết rõ về quyết định hành chính, hành vi hành chính
và căn cứ ban hành hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định
giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri,
chứng minh tính đúng đắn, hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị khởi kiện tránh gây bức xúc trong nhân dân dẫn đến khiếu kiện đông
người, khiếu kiện kéo dài.
37
1.3.3. Năng lực và bản lĩnh của thẩm phán trong xét xử các vụ án
hành chính
Để Tòa án thực hiện tốt vai trò của mình, ra được các bản án nghiêm
minh, đảm bảo quyền của các bên tham gia tố tụng thì một một trong những
yêu cầu hàng đầu đó là Tòa án phải độc lập, trong đó bản lĩnh và năng lực của
thẩm phán có ý nghĩa rất quyết định trong quá trình giải quyết vụ án. Theo
tinh thần Hiến pháp, khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ căn cứ
vào các quy định của pháp luật để thực hiện nhiệm vụ của mình. Tòa án độc
lập với cơ quan Tòa án cấp trên, vì quan hệ giữa tòa án các cấp không phải là
quan hệ mệnh lệnh, hành chính mà chủ yếu là quan hệ tố tụng (mặc dù về mặc
tổ chức thì các tòa án địa phương chịu sự quản lý của Tòa án nhân dân tối
cao). Tòa án cấp dưới khi xét xử không phụ thuộc vào sự chỉ đạo cũng như
dựa dẫm vào ý kiến chỉ đạo của cơ quan Tòa án cấp trên. Đối với từng vụ án
cụ thể thì Tòa án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, các tài liệu
chứng cứ có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa để đưa ra phán
quyết cuối cùng. Tòa án cũng không được lệ thuộc vào các cơ quan, tổ chức ở
địa phương mặc dù Tòa án đóng trụ sở trên địa bàn và chịu sự lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp ủy cùng cấp và phải báo cáo trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.
Đồng thời trong nội bộ, các thành viên của Hội đồng xét xử phải độc lập với
nhau, và có quyền quyết định ngang nhau khi quyết định các vấn đề tại phiên
tòa, cùng nhau thống nhất để ban hành bản án trên cơ sở biếu quyết theo đa
số. Thẩm phán và Hội thẩm phải chịu trách nhiệm cá nhân về những quyết
định của mình.
1.3.4. Trình độ hiểu biết pháp luật của người dân
Trình độ hiểu biết pháp luật và thái độ chấp hành pháp luật tạo nên ý
thức pháp luật của người dân. Nếu công dân không hiểu biết pháp luật thì rất
khó khăn khi tiếp cận tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
hoặc có thể xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay,
việc thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đã có những kết quả tích
38
cực. Người dân, cơ quan, tổ chức đã có sự quan tâm hơn đến pháp luật, nhận
thức sâu sắc hơn về vai trò của pháp luật trong đời sống. Khi người dân hiểu
biết về pháp luật thì sẽ khó có thể nhận thức đúng đắn về các quy định pháp
luật thì sẽ họ biết được trình tự thủ tục để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình và mạnh dạn thực hiện các quyền; đồng thời tôn trọng các quyền và
lọi ích hợp pháp của người khác. Trong tố tụng hành chính người dân sẽ
mạnh dạn khởi kiện và có thể tự bảo vệ được quyền và lợi ích của mình trước
tòa án. Đây là một trong những điểm nhấn về kết quả của cải cách tư pháp,
khi Tòa án hành chính ngày càng mở rộng thẩm quyền xét xử, người dân ngày
càng có cơ hội lựa chọn các phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình trước các cơ quan công quyền.
1.3.5. Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Toà án và các chủ thể khác trong quá trình giải quyết các vụ án hành
chính nhằm đảm bảo hoạt động giải quyết các vụ án hành chính của tòa án kịp
thời, tuân thủ đúng qui định của pháp luật, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp
pháp của các tổ chức, cá nhân công dân.
Trong hoạt động kiểm sát các vụ án hành chính, Viện kiểm sát tham gia
kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý cho đến khi kết thúc việc giải quyết vụ
án, cụ thể: Kiểm sát việc thụ lý vụ án, giải quyết vụ án của Tòa án, thực hiện
việc nghiên cứu hồ sơ vụ án; xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ theo qui
định của Luật Tố tụng hành chính, thực hiện tham gia các phiên tòa, phiên
họp của Tòa án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án nhằm bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong hoạt động tố tụng, của người
tham gia tố tụng; đưa ra yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật. Trên cơ sở kết
quả xét xử tại phiên tòa và kết quả nghiên cứu bản án sơ thẩm vụ án hành
chính, nếu phát hiện có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc có vi
phạm nghiêm trọng về áp dụng pháp luật nội dung, ảnh hưởng đến quyền của
39
người khởi kiện thì Viện kiểm sát thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị,
kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Trong số các phương thức bảo vệ quyền con người thì bảo bảo vệ
quyền con người, quyền công dân bằng tòa án, thông qua thủ tục tư pháp là
hình thức bảo vệ cao nhất, công khai và minh bạch, có hiệu lực.
Qua đó ta thấy, phương thức bảo vệ quyền con người bằng Tòa án
thông qua hoạt động tư pháp là phương thức bảo vệ cao nhất. Thực tế cho
thấy, có nhiều yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền của người khởi kiện
trong giải quyết vụ án hành chính, vì vậy để bảo đảm quyền của người khởi
kiện thì Tòa án áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính và các
quy định của pháp luật nội dung để giải quyết vụ án. Trong quá trình giải
quyết vụ án Tòa án bảo đảm người khởi kiện được quyền quyết định việc
khởi kiện, nội dung và phạm vi khởi kiện. Khi tiến hành các thủ tục tố tụng,
Tòa án tiến hành công khai đảm bảo sự bình đẳng, công bằng, không thiên
vị…nếu có thiệt hại họ có quyền yêu cầu bồi thường.
40
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát về Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng
là kinh đô của hầu hết các vương triều phong kiến tại Việt Nam trước đây. Do
đó, lịch sử Hà Nội gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử Việt Nam qua các
thời kỳ. Hà Nội nằm ở tả ngạn sông Đà và hai bên đồng bằng sông Hồng.
Phía Bắc giáp với tỉnh Vĩnh Phúc và Thái Nguyên, phía Nam giáp tỉnh Hòa
Bình, phía Đông giáp với tỉnh Bắc Ninh và Hưng Yên, còn phía Tây giáp tỉnh
Vĩnh Phúc. Sau khi được mở rộng, Hà Nội nằm trong top 17 Thủ đô có diện
tích lớn nhất thế giới với 3.324,92 km2. Với vị trí địa lý thuận lợi này, thành
phố này dễ dàng trở thành trung tâm kinh tế – chính trị, văn hóa, khoa học
quan trọng của cả nước. Hiện tại, bao gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện,
đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số với hơn 8 triệu người
(năm 2019). Tuy nhiên, nếu tính những người cư trú không đăng ký thì dân số
thực tế của thành phố này năm 2019 là gần 10 triệu người. Mật độ dân số của
Hà Nội là 2.398 người/km², mật độ giao thông là 105,2 xe/km² mặt đường.
Hiện nay, Hà Nội là một đô thị loại đặc biệt của Việt Nam.
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội là cơ quan xét xử tại Hà Nội. Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố
Hà Nội. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
Nhân danh Nhà nước xét xử các vụ án hình sự dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc
41
khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các
tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả
tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc
không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ
về tài sản, quyền nhân thân trên địa bàn thành phố.
Những ngày đầu thành lập, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội chỉ có 7
biên chế; về trình độ chuyên môn nghiệp vụ có 05 Cử nhân Luật và 02 Tú tài
(tốt nghiệp Trung học phổ thông ngày nay); về cơ cấu tổ chức, không có đơn
vị trực thuộc.
Đến nay, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có 197 người, trong đó có
55 Thẩm phán, 142 Thư ký và chức danh khác; về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ có 02 tiến sỹ Luật, 70 Thạc sỹ Luật, 125 cử nhân; về trình độ lý
luận chính trị có 35 người có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị. Cơ
cấu tổ chức của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội: Ủy ban Thẩm phán gồm
Chánh án, các Phó Chánh án và Chánh Tòa; Tòa chuyên trách gồm: Tòa Hình
sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Hành chính, Tòa Gia đình và
người chưa thành niên; Phòng chuyên môn gồm: Văn phòng, Phòng Kiểm tra
nghiệp vụ và thi hành án, Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và Thi đua khen
thưởng.
Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội còn được giao nhiệm
vụ quản lý 30 Tòa án nhân dân cấp huyện, thành phố Hà Nội về công tác tổ
chức cán bộ, tài chính kế toán. Hiện nay, các Tòa án nhân dân cấp huyện có
662 người, trong đó có 304 Thẩm phán, 358 Thư ký và chức danh khác; về
trình độ chuyên môn nghiệp vụ có 02 Tiến sỹ Luật, 107 Thạc sỹ Luật, 542 cử
nhân; về trình độ lý luận chính trị có 75 người có trình độ cử nhân và cao cấp
lý luận chính trị. Mỗi Tòa án nhân dân cấp quận, huyện có cơ cấu tổ chức
gồm 01 Chánh án, 02 Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký và 01 cán bộ phụ
trách tài chính kế toán.
42
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tổ chức tốt công tác xét xử các
loại vụ án, đặc biệt là các vụ án lớn, trọng điểm, phục vụ kịp thời nhiệm vụ
chính trị của Thủ đô. Hàng năm, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý,
giải quyết trên 3.000 vụ án các loại; Tòa án cấp quận, huyện hằng năm, thụ lý,
giải quyết 24.500 vụ án các loại, bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Chất
lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án được nâng cao, tỷ lệ án bị hủy, bị sửa
giảm rõ rệt; công tác tổ chức xét xử được quan tâm, đáp ứng yêu cầu của cải
cách tư pháp.
2.2. Thực trạng vụ án hành chính tại Tòa án Nhân dân thành phố
Hà Nội
2.2.1. Vụ án sơ thẩm
Có thể nhận thấy từ khi Luật tố tụng hành chính 2010 và Luật tố tụng
hành chính 2015 có hiệu lực thì việc thụ lý, giải quyết các vụ án hành chính
tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả nhất định.
Nhìn chung số lượng các vụ án hành chính thụ lý, giải quyết tại Tòa án nhân
dân Thành phố Hà Nội đều tăng qua các năm, được thể hiện cụ thể bằng bảng
số liệu sau:
Bảng 1. Thụ lý giải quyết án hành chính sơ thẩm của Toà án nhân dân
Thành phố Hà Nội trong các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019
và 9 tháng đầu năm 2020
Năm
9 tháng đầu
2015
2016
2017
2018
2019
năm 2020
Loại
Thụ
Giải
Thụ
Giải
Thụ
Giải
Thụ
Giải
Thụ
Giải
Thụ
Giải
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
lý
quyết
lý
quyết
lý
quyết
lý
quyết
lý
quyết
lý
quyết
52 31 59% 86 40 46% 122 68 58% 147 74 50,3% 129 84 65% 107 97 90%
183 52 28% 378 98 25% 533 125 23% 920 139 15% 1066 319 29% 1140 416 36%
Hành chính cấp huyện Hành chính cấp tỉnh Tổng 235 83 35% 464 138 29% 655 193 29% 1067 213 20% 1195 403 34% 1247 513 41%
Nguồn: [43; 44; 46; 47; 48; 49].
43
Qua số liệu thụ lý, giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm ở hai cấp huyện
và tỉnh thuộc Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2015
đến tháng 9 năm 2020 cho thấy tỉ lệ thụ lý vụ án hành chính ở cấp huyện và
cấp tỉnh đều tăng lên theo từng năm. Tỉ lệ thụ lý và giải quyết án hành chính ở
cấp huyện tương đối đồng đều, tỉ lệ thụ lý tăng lên thì tỷ lệ giải quyết cũng
tăng lên. Đặc biệt là 09 tháng năm 2020 tỷ lệ giải quyết vụ án hành chính ở
cấp huyện đạt gần như tuyệt đối là 90%. Từ ngày 01/7/2016, thẩm quyền của
Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội mở rộng hơn nhiều, cụ thể là các khiếu
kiện hành chính đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của
Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên đều
thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành
phố Hà Nội nên số liệu thụ lý của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội cao
hơn nhiều so với trước đây. Số lượng án hành chính của Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội được giải quyết cũng tăng lên, tuy nhiên so với số lượng hồ
sơ thụ lý thì không đáng kể nên tỷ lệ hồ sơ giải quyết được chỉ đạt ở mức từ
30% đến 40%/năm. Nhìn vào số liệu thụ lý tăng theo các năm có thể khẳng
định được người dân đã nhận thức được khi có vi phạm xảy ra trong lĩnh vực
hành chính thì quyền mà mình được bảo vệ là gì và dần thực hiện các quyền
của mình một cách đầy đủ hơn. Tòa án trong phạm vị chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của mình được phân công cũng đã bảo đảm được quyền khởi kiện
cho người dân.
2.2.2. Vụ án phúc thẩm
Theo Điều 173, Luật Tố tụng hành chính: “xét xử phúc thẩm là việc
Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà án
cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Theo
đó, chúng ta hiểu rằng việc xét xử phúc thẩm vụ án hành chính diễn ra khi có
một trong hai điều kiện là kháng cáo hoặc kháng nghị.
44
Bảng 2. Thụ lý giải quyết án hành chính phúc thẩm của Toà án nhân dân
Thành phố Hà Nội trong các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019
và 9 tháng đầu năm 2020
Năm
9 tháng đầu
2015
2016
2017
2018
2019
năm 2020
Thụ
Giải
Thụ
Giải
Thụ
Giải
Thụ
Giải
Thụ
Giải
Thụ
Giải
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
lý
quyết
lý
quyết
lý
quyết
lý
quyết
lý
quyết
lý
quyết
Cấp
phúc
50 43 86% 55 50 91% 69 60 87% 58 49 87% 43 34 87% 40 25 63%
thẩm
Nguồn: [43; 44; 46; 47; 48; 49].
Qua số liệu thụ lý, giải quyết án hành chính phúc thẩm trong giai đoạn
từ 2015 đến tháng 9 năm 2020 cho thấy giống như tỉ lệ án hành chính sơ
thẩm, tỉ lệ thụ lý án hành chính phúc thẩm cũng tăng lên theo từng năm. Tuy
nhiên số lượng vụ án hành chính phúc thẩm tăng không đáng kể, có sự ổn
định tương đối giữa các năm. Điều này thể hiện việc giải quyết các vụ án
hành chính tại cấp sơ thẩm tương đối tốt, số lượng vụ án hành chính bị kháng
cáo ít hơn nhiều so với số lượng án hành chính sơ thẩm đã được giải quyết,
không có vụ án hành chính bị Viện kiểm sát kháng nghị. Trong khi đó tỷ lệ
giải quyết án phúc thẩm so với tỷ lệ thụ lý tương đối cao, từ năm 2015 đến
năm 2019 đều đạt tỷ lệ trên 85%, chỉ riêng 9 tháng đầu năm 2020 do thời gian
ngắn hơn nên tỉ lệ giải quyết án phúc thẩm chưa đạt được tỉ lệ cao như các
năm trước.
2.3. Thực tiễn bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết
các vụ án hành chính tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội
2.3.1. Những kết quả đạt được
Qua thực tiễn xét xử, quyền của người khởi kiện trong giải quyết các
vụ án hành chính được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội bảo đảm thực hiện
với những kết quả như sau:
45
Thứ nhất, bảo đảm bằng quyền được bảo vệ bởi Tòa án
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội đã xem xét tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi
hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại
các vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri và quyết định bằng bản án, quyết định
của Tòa án. Trong những năm gần đây do số lượng án tập trung đến Tòa án
nhân dân Thành phố Hà Nội nên dẫn đến quá tải đối với các Thẩm phán. Từ
năm 2015 đến năm 2017 Tòa Hành chính chỉ có 04 thẩm phán trong khi đó số
vụ án thụ lý là 464 vụ án, từ giữa năm 2018 số lượng thẩm phán của Tòa hành
chính được tăng cường và đến hiện tại Tòa hành chính Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội có 12 thẩm phán với số vụ án thụ lý là 1247 tuy nhiên tỉ lệ giải
quyết án hành chính vẫn tương đối thấp, năm 2015 giải quyết đạt tỉ lệ 35%,
năm 2016 giải quyết đạt tỉ lệ 29%, năm 2017 giải quyết đạt tỉ lệ 29%, năm
2018 giải quyết đạt tỉ lệ 20%, năm 2019 giải quyết đạt tỉ lệ 34%, 9 tháng đầu
năm 2020 tỉ lệ giải quyết án hành chính đạt tỉ lệ 41% [43; 44; 46; 47; 48; 49].
Tỉ lệ án hành chính thấp là do thẩm quyền của Tòa án nhân dân Thành phố Hà
Nội mở rộng hơn nhiều, cụ thể là các khiếu kiện hành chính đối với các quyết
định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên đều thuộc thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội nên số liệu thụ lý của
Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội tăng cao hơn nhiều so với trước đây, tính
chất các vụ án ngày càng phức tạp, lực lượng thẩm phán mới của Tòa Hành
chính kinh nghiệm giải quyết án hành chính không nhiều nên dẫn đến tình
trạng án tồn cao. Tuy thời gian gần đây tỷ lệ án hành chính giải quyết đã được
tăng dần nhưng so với tỷ lệ hồ sơ thụ lý vẫn chưa đáp ứng được tình hình thực
tế cần giải quyết. Nhưng với số lượng các vụ án hành chính tăng theo từng
năm như vậy, chứng tỏ rằng quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức
ngày càng được bảo vệ, song tỉ lệ giải quyết án hành chính thấp đã ảnh hưởng
rất nhiều đến quyền của người khởi kiện.
46
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trong thời gian qua chủ yếu chỉ yêu
cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện để xác định đúng đối
tượng khởi kiện. Rất ít trường hợp người khởi kiện bị trả lại đơn khởi kiện,
trường hợp trả lại đơn chỉ xảy ra khi người khởi kiện khởi kiện không đúng
đối tượng của vụ án hành chính. Ví dụ: Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân
Tối cao, các tài liệu tập huấn năm 2012, 2013 và theo Bản án giám đốc thẩm
số 05/2014/HC-GĐT ngày 22/5/2014 về việc khiếu kiện quyết định hành
chính của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì việc khiếu kiện các
văn bản hành chính liên quan đến chính sách về quản lý nhà đất và chính sách
cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày
01/7/1991 không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do đó, hiện nay
Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội không thụ lý giải quyết đối với những
quyết định hành chính liên quan đến việc thực hiện các chính sách về quản lý
nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban
hành trước ngày 01/7/1991.
Thứ hai, bảm đảm bằng quyền bình đẳng trước Tòa án
Quan hệ hành chính trên thực tế được nhận định là quan hệ bất bình
đẳng giữa một bên là người có quyền và một bên là người buộc phải thực
hiện. Chính vì sự bất bình đẳng như vậy nên Luật Tố tụng hành chính năm
2015 đã ra đời với những quy định nhằm hạn chế tối đa sự bất bình đẳng đó,
bảo đảm quyền và lợi ích của các bên đương sự thật sự được cân bằng khi
tham gia giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án, các bên tham gia tố tụng có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau, có quyền bình đẳng với nhau trong suốt quá
trình tố tụng.
Quyền bình đẳng được thể hiện cụ thể ở các quy định như: Sau khi vụ
án được Tòa án thụ lý, trong quá trình Thẩm phán được phân công giải quyết
vụ án tiến hành xây dựng hồ sơ thì các bên đương sự đều có quyền bình đẳng
trong việc cung cấp chứng cứ cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Trong trường hợp các bên đương sự không thể tự mình thu thập
47
chứng cứ (đây là điều thường xuyên xảy ra trong các vụ án hành chính, đặc
biệt khi người khởi kiện là cá nhân) thì đương sự có quyền làm đơn yêu cầu
Tòa án thu thập chứng cứ vì trong tố tụng hành chính, phía các cơ quan nhà
nước có điều kiện thu thập, bổ sung chứng cứ để bảo vệ quyết định, hành vi
hành chính của mình. Cơ quan nhà nước có nhiều lợi thế khi tranh tụng.
Ngược lại, người khởi kiện đa phần là người dân chỉ có thể sử dụng chứng cứ
từ những nguồn thông tin công khai hoặc do chính các cơ quan nhà nước cung
cấp. Do vậy, để tạo sự bình đẳng, Điều 55 Luật TTHC 2015 quy định:“ Các
đương sự của vụ án có quyền: Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu
giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để
giao nộp cho Tòa án; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án buộc bên
đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý; đề
nghị Tòa án ra quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản
lý chứng cứ cung cấp chứng cứ; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng,
trưng cầu giám định, định giá tài sản; Được biết, ghi chép và sao chụp tài liệu,
chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu,
chứng cứ không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 96…” Sau
khi thu thập được các chứng cứ, thông qua phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ Tòa án công bố cho các bên đương sự biết toàn
bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Việc tham gia phiên họp công
khai chứng cứ để đảm bảo các đương sự được biết các tài liệu chứng cứ do
đương sự khác cung cấp để từ đó có phương hướng bảo vệ quyền của mình.
Vì đây là quyền vô cùng quan trọng đảm bảo cho kết quả của việc khởi kiện
nên trong các vụ án hành chính, các đương sự đã thực hiện và được thực hiện
tốt quyền này, nên hồ sơ được xây dựng đầy đủ, không có án hủy sửa liên
quan đến thu thập chứng cứ.
Các đương sự có quyền bình đẳng trong việc tham gia đối thoại. Phiên
đối thoại các bên phải được trình bày ý kiến, quan điểm của mình. Người khởi
48
kiện trình bày các ý kiến, quan điểm của mình về nội dung vụ án với người bị
kiện được tức là cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính và họ cũng được nghe người bị kiện phản hồi lý do ban hành các
quyết định hành chính, hành vi hành chính. Thông qua quyền được đối thoại
người khởi kiện, người bị kiện có thể xác định được lỗi hoặc vướng mắc đang
tồn tại từ đó thay đổi cách nhìn, thay đổi quan điểm để có thể có hướng giải
quyết mâu thuẫn một cách triệu để và hiệu quả nhất. Chính vì vậy, Tòa án
phải có nghĩa vụ đảm bảo các quyền này của các bên đương sự phải được
thực hiện. Thực tế Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã và đang đảm bảo
tốt các quyền này của các bên đương sự trong giải quyết vụ án hành chính.
Tuy nhiên hiện nay đang tồn tại một vấn đề khách quan gây cản trở lớn cho
việc Tòa án tổ chức tiến hành đối thoại giữa các bên đương sự đó là việc của
người bị kiện hoặc người đại diện của người bị kiện xin vắng mặt tại Tòa
trong nhiều vụ án. Đây cũng là một khó khăn cần tìm cách tháo gỡ để Tòa án
có thể đảm bảo việc tổ chức đối thoại giữa các bên.
Các đương sự bình đẳng trong việc trình bày yêu cầu, ý kiến, quan
điểm và đặt các câu hỏi với những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa,
theo trình tự thủ tục tại phiên tòa thì người khởi kiện trình bày về yêu cầu
khởi kiện, trình bày các căn cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện. Cũng như
vậy, người bị kiện có quyền trình bày quan điểm của mình về yêu cầu khởi
kiện, các căn cứ chứng minh cho việc chấp nhận một phần hoặc không chấp
nhận đối với yêu cầu khởi kiện; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình
bày ý kiến liên quan đến yêu cầu khởi kiện, yêu cầu độc lập (nếu có) cũng
như các ý kiến liên quan đến quyền và lợi ích của mình trong vụ án. Tại phiên
tòa các đương sự được đặt các câu hỏi với những người tham gia tố tụng còn
lại, trong trường hợp không tự đặt được câu hỏi thì có quyền đề nghị Hội
đồng xét xử hỏi để làm rõ. Sau khi kết thúc phần hỏi các bên đương sự có
được quyền trình bày ý kiến tranh luận để bảo vệ quan điểm của mình.
Các bên được bình đẳng trong việc xem xét đánh giá các chứng cứ của
49
Hội đồng xét xử. Trong quá trình xem xét đánh giá chứng cứ Hội đồng xét xử
phải đảm bảo tất cả các chứng cứ đều được xem xét đánh giá như nhau theo
qui định của pháp luật. Trên cơ sở đánh giá chứng cứ Hội đồng xét xử ban
hành các bản án, quyết định. Nếu yêu cầu của người khởi kiện có căn cứ thì
Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện và ngược lại, nếu các
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện không đủ hoặc không
có căn cứ thì Hội đồng xét xử sẽ không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
người khởi kiện. Trong thực tiễn cuả Tòa Hành chính Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội, tỉ lệ phán quyết chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện thấp hơn
so với việc không chấp nhận yêu cầu, nhưng cũng có nhiều vụ án đã được Tòa
án xác định đối tượng bị khởi kiện không đúng và Tòa án hủy quyết định
hành chính của cơ quan ban hành Quyết định. Thực tế đã có những sai sót của
Ủy ban nhân dân như chậm thực hiện các thủ tục bồi thường, hỗ trợ, giải
phóng mặt bằng tái định cư làm phát sinh thêm số tiền phải đền bù về chênh
lệch giá đất giữa thời điểm có quyết định thu hồi đất, phương án bồi thường
với thời điểm giải quyết bồi thường, hỗ trợ thiệt hại; việc kiểm kê hiện trạng
đất bị thu hồi còn chưa chính xác dẫn đến trường hợp quyết định bồi thường
đã ban hành phải thu hồi, hủy bỏ hoặc phải bổ sung nhiều lần do sai diện tích
đất, sai hiện trạng đất, sai loại đất, sót tài sản, sót đối tượng phải hỗ trợ; trong
việc thu thuế, truy thu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, việc
áp dụng pháp luật để xử lý đối với các hóa đơn liên quan đến các doanh
nghiệp bị coi là bỏ trốn vẫn còn trường hợp chưa chính xác, truy thu cả các
trường hợp thực sự có nghiệp vụ kinh tế phát sinh và hóa đơn của doanh
nghiệp dùng để khấu trừ thuế thực sự là hóa đơn hợp pháp...đã bị hủy và
người bị kiện đã phải thực hiện lại theo đúng qui định của pháp luật:
Tại Bản án sơ thẩm số 197/2018/HCST ngày 14/12/2018 Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng X Q
đối với Quyết định số 4674/QĐ-BGDĐT ngày 11/10/2013 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo “về việc thu hồi bằng tiến sĩ ngành của tế của ông Hoàng
50
X Q tại Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân” [34]. Sau khi nghiên cứu các tài
liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã xử chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện: Hủy Quyết định số 4674/QĐ-
BGDĐT ngày 11/10/2013 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo “về việc
thu hồi bằng tiến sĩ ngành của tế của ông Hoàng X Q tại Trường Đại học Kinh
tế Quốc Dân”; Kiến nghị Bộ GD&ĐT và các cơ quan chức năng có thẩm
quyền khôi phục lại học hàm, học vị cho ông Hoàng X Q do việc thực hiện
Quyết định số 4674/QĐ-BGDĐT ngày 11/10/2013 của Bộ trưởng Bộ giáo
dục và Đào tạo theo quy đinh; Đình chỉ việc giải quyết vụ án đối với yêu cầu
đòi bồi thường trách nhiệm dân sự của ông Hoàng X Q.
Tại Bản án sơ thẩm số 141/2019/HCST ngày 09/8/2019 Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Q và
bà Nguyễn Thị L về việc khiếu kiện quyết định thu hồi, hủy bỏ quyết định
giao đất [35]. Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án,
Hội đồng xét xử đã xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Q và bà
Nguyễn Thị L về việc hủy Quyết định số 2130/QĐ-UBND ngày 16/11/2016
của UBND huyện M; Tuyên hủy toàn bộ Quyết định số 2130/QĐ-UBND
ngày 16/11/2016 của UBND huyện M về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định số
392/2003/QĐ-UB ngày 13/8/2003 của UBND huyện M về việc giao 60m2 đất
cho hộ ông Lê Văn Q (L) tại thị trấn T huyện M làm nhà ở.
Qua đó có thể nhận thấy, việc xem xét, đánh giá chứng cứ và áp dụng
các qui định của pháp luật để ban hành cành các bản án đúng qui định của
pháp luật, bảo đảm quyền của người khởi kiện, quyền được bình đẳng trong
xem xét và đánh giá các chứng cứ đã được Tòa Hành chính Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ theo đúng quy
định của pháp luật.
Bên cạnh viêc đảm bảo quyền bình đẳng về nội dung xét xử thì Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội còn đảm bảo quyền bình đẳng cho đương sự cả về
mặt hình thức xét xử thể hiện qua việc thực hiện Thông tư số 01/2017/TT-
51
TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân Tối cao qui định
về phòng xử đối với từng loại vụ án. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã
bố trí phòng xử án bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án của các đương sự
đồng thời bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Tuy chỉ thay đổi về
mặt hình thức, nhưng đây có thể coi là một bước tiến lớn trong nhận thức về
cải cách tư pháp, có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo niềm tin của đương sự,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vào công bằng trong
giải quyết vụ án.
Thứ ba, bảo đảm bằng quyền được xét xử kịp thời, công bằng và công
khai, độc lập và không thiên vị.
Không chỉ riêng việc giải quyết các vụ án hành chính mà quyền được
xét xử kịp thời, công bằng và công khai, độc lập và không thiên vị là mục
đích và mục tiêu phải thực hiện của ngành Tòa án. Tòa án là nơi người khởi
kiện đặt niềm tin, là nơi đại diện cho Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của ngưởi dân vì vậy nếu không đảm bảo quyền trên cho người khởi
kiện thì hậu quả pháp lý do nó gây ra sẽ ảnh hưởng rất lớn đến người dân
không chỉ về mặt pháp luật và còn ảnh hưởng cả về kinh tế, sức khỏe của
người khởi kiện. Theo qui định của Luật Tố tụng hành chính, Tòa án xét xử
kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng. Tòa án xét xử công
khai. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của
dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật
kinh doanh, bí mật cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án có
thể xét xử kín.
Về quyền được xét xử kịp thời thì theo quy định tại Điều 30 Luật Tố
tụng hành chính năm 2015 qui định thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án là 04
tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp đối tượng khởi kiện là quyết
định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Đối
với vụ án phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể
quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử một lần, nhưng không quá 02
52
tháng. Căn cứ theo quy định về thời hạn xét xử trên có thể nhận thấy việc bảo
đảm quyền được xét xử kịp thời trong xét xử các vụ án hành chính tại Tòa án
nhân dân Thành phố Hà Nội trong nhiều vụ án chưa thực hiện tốt. Nhiều vụ
án hành chính bị kéo dài thời gian giải quyết kể từ khi thụ lý đến khi xét xử là
02 đến 03 năm, thậm chí có những vụ án kéo dài đến 06, 07 năm. Bên cạnh
đó, theo thống kê thì tỉ lệ giải quyết các vụ án hành chính từ năm 2015 đến 9
tháng đầu năm 2020 không năm nào đạt tỉ lệ do ngành Tòa án đề ra, thậm chí
năm 2018 tỉ lệ giải quyết án sơ thẩm chỉ đạt 20% (213 vụ giải quyết/1067 vụ
thụ lý) [43; 44; 46; 47; 48].
Về quyền được xét xử công bằng: trong thời gian qua Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội đã thực hiện khá tốt công tác xét xử, đảm bảo tính công
bằng trong xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích của người khởi kiện cũng như
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan trọng vụ án. Việc xét xử công bằng được thực hiện thông qua việc
đánh giá chứng cứ do các bên đương sự cung cấp, các tài liệu chứng cứ do
Tòa án thu thập được, các ý kiến trình bày của đương sự tại các buổi làm việc,
tại phiên tòa; Các ý kiến tranh luận để bảo vệ cho quan điểm và yêu cầu của
mỗi bên. Xong bên cạnh đó có những vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy, sửa
do việc đánh giá, thu thập chứng cứ của Tòa án chưa đảm bảo. Bản án hành
chính phúc thẩm số 39/2019/HC-PT ngày 09 tháng 8 năm 2019 về việc khiếu
kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội [37] sửa Bản án sơ thẩm số 01/2019/HC-ST ngày
27/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện ML. Nội dung vụ án: Năm 1966, gia
đình ông mua của ông Đỗ Văn Thiện 01 thửa đất diện tích 03 sào do gia đình
ông Thiện di cư lên Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Khi mua bán hai bên viết giấy tờ
cho nhau nhưng không thông qua chính quyền địa phương. Hai bên có chỉ
mốc giới cho nhau 4 góc đất là những bụi tre. Sau khi mua đất, gia đình ông
chuyển tới ở từ đó đến nay. Năm 1997 gia đình ông tiếp tục mua của ông
Tuấn bà Hoạt 01 thửa đất ao liền kề diện tích 180m2. Quá trình chuyển
53
nhượng hai bên có viết giấy tờ cho nhau nhưng không thông qua chính quyền
địa phương. Sau khi mua bán đất thì hàng năm ông Thiện vẫn đóng thuế đầy
đủ cho chính quyền địa phương. Năm 1974 khi HTX làm đường, ông đã hiến
cho HTX một phần diện tích đất và gia đình ông còn lại 1197m2 đất. Năm
2001 bà Vui tố cáo gia đình ông Thiện lấn chiếm lối đi của gia đình bà Vui.
Ủy ban nhân dân xã đã giải quyết và kiểm tra hiện trạng theo bản đồ năm
1985 kết luận gia đình ông không lấn chiếm ngõ đi của gia đình bà Vui và gia
đình ông dư thừa 150m2 đất. Không đồng ý với kết luận của Ủy ban xã, ông
Thiện đã khiếu nại lên Ủy ban huyện, Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành kết
luận số 63 ngày 17/8/2005 kết luận gia đình ông Thiện không lấn chiếm lối đi
chung và kết luận kiểm tra hiện trạng đất của gia đình ông và bản đồ nếu quá
diện tích chuyển nhượng thì xử lý theo quy định. Năm 2012 bà Vui tiếp tục tố
cáo gia đình ông lấn chiếm đất của tập thể. Ủy ban nhân dân xã tiếp tục giải
quyết và ban hành kết luận số 61 kết luận đất của gia đình ông tăng 150m2 so
với bản đồ năm 1985. Không đồng ý với kết luận số 61 ông Thiện khiếu nại
đề nghị căn cứ bản đồ năm 1958 để giải quyết nhưng không được chấp nhận
và Ủy ban nhân dân xã TV ban hành quyết định số 39 ngày 18/7/2013. Ông
Thiện tiếp tục khiếu nại thì Ủy ban nhân dân xã TV ban hành quyết định số
05 ngày 17/01/2014 giữ nguyên kết luận số 61 ngày 19/7/2012 và thay thế
quyết định số 39 ngày 18/7/2013 kết luận gia đình ông lấn chiếm 150m2 đất
của tập thể. Không đồng ý với quyết định 05 ông khiếu nại đến Ủy ban nhận
dân ML. UBND M L giải quyết khiếu nại và ban hành quyết định số 2652
ngày 09/5/2014 giữ nguyên quyết định số 05 của Ủy ban nhân dân xã TV.
Ông Thiện khởi kiện đề nghị Tòa án hủy cả hai quyết định trên. Lý do sửa
bản án: Tòa án cấp sơ thẩm đã có vi phạm không tiến hành lấy lời khai của bà
Đặng Thị Vui, không tiến hành xem xét thẩm định thửa đất nhà ông L. Như
vậy, trong quá trình xét xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm chưa thu
thập đầy đủ chứng cứ, chưa xem xét đánh giá các chứng cứ đầy đủ theo qui
54
định của pháp luật dẫn đến bản án bị sửa làm ảnh hưởng đến quyền của người
khởi kiện.
Ngoài ra, việc đảm bảo quyền được xét xử công bằng còn được Tòa án
thực hiện theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW và
Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị về nhiệm vụ cải cách tư pháp thì các
hoạt động của Tòa án được thực hiện các trình tự thủ tục công khai từ khâu
nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án đến bản án, quyết định
của Tòa án; Ngoài việc niêm yết, công bố công khai qui trình một cửa liên
thông thì các phiên tòa hành chính đều được thực hiện công khai. Bên cạnh đó
hàng năm mỗi thẩm phán thực hiện ít nhất một phiên tòa rút kinh nghiệm có
sự tham gia đánh giá của những người có chuyên môn nghiệp vụ bằng hoặc
cao hơn. Thực hiện Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/3/2017 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về việc công bố bản án, quyết
định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án, Tòa án nhân dân Thành phố Hà
Nội đã tiến hành công bố các bản án hành chính đầy đủ trên Cổng thông tin
điện tử của Tòa án tạo điều kiện cho người dân tiếp cận được với các bản án,
quyết định của Tòa án và thông qua đó thực hiện quyền giám sát của mình đối
với hoạt động của Tòa án. Như vậy, quyền được xét xử công khai đã được
Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội thực hiện tốt, bảo đảm quyền của người
khởi kiện.
Đối với khía cạnh độc lập và không thiên vị, có thể thấy ở nước ta hệ
thống tòa án được tổ chức theo cấp hành chính kết hợp với thẩm quyền, mô
hình tổ chức này đã tạo nên những hạn chế làm ảnh hưởng đến tính độc lập
của tòa án. Với cách tổ chức như vậy ít hay nhiều tòa án cũng phải chịu sự chi
phối của chính quyền địa phương, cá nhân người có chức vụ, quyền hạn trong
hệ thống các cơ quan Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội… Để
giảm bớt được sự hạn chế này Tòa án cần được trang bị một bộ khung pháp lý
phù hợp với để tuân thủ, thực hiện và trên thực tế kể từ khi Luật Tố tụng hành
chính năm 2015 có hiệu lực thì đã phần nào giảm đi được áp lực này.
55
Ngoài ra, vấn đề tài chính cũng là một trong những yếu tố chi phối sự
độc lập của tòa án. Điều này được thể hiện rất rõ ràng khi ngân sách cho hoạt
động xét xử của Tòa án vẫn chưa được độc lập, chưa có sự ưu tiên về tài
chính cho hoạt động của tòa án.
Về việc độc lập khi xét xử: Theo qui định thì thẩm phán độc lập khi xét
xử, tuy nhiên, theo trình tự thủ tục tố tụng hành chính thì sau khi xét xử sơ
thẩm nếu đương sự không đồng ý với bản án, quyết định thì có thể kháng cáo
theo trình tự thủ tục phúc thẩm, nên các Thẩm phán có tâm lý xin ý kiến của
Tòa án nhân dân cấp trên, thông thường là các lãnh đạo Tòa chuyên trách cấp
trên. Với tâm lý sợ án bị hủy, sửa nên các Thẩm phán thường hướng theo ý
kiến của Tòa cấp trên, như vậy thì không đảm bảo được sự độc lập nhất định
trong xét xử. Bên cạnh đó, sự độc lập của thẩm phán với Hội thẩm nhân dân
vẫn còn bị hạn chế. Theo qui định của Luật Tố tụng hành chính thì Hội thẩm
nhân dân ngang quyền với Thẩm phán, tức là Hội thẩm nhân dân và Thẩm
phán quyết định giải quyết mọi vấn đề của vụ án không kể về nội dung hay
thủ tục tố tụng, từ việc đọc hồ sơ vụ án, nghiên cứu chứng cứ, cho đến việc ra
Quyết định giải quyết vụ án. Số lượng Hội thẩm nhân dân chiếm 2/3 trong
thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, thẩm phán là người trực tiếp
xây dựng hồ sơ, các Hội thẩm nhân dân chỉ chỉ đến Tòa tiếp cận hồ sơ khi
Tòa án mở phiên tòa, với thời gian rất ngắn thì không thể hiểu được hết tình
tiết vụ án, chỉ qua quá trình tranh tụng tại phiên tòa thì hội thẩm nhân dân mới
hiểu được phần nào nội dung vụ án. Bên cạnh đó, trình độ pháp luật của Hội
thẩm nhân dân không đồng đều, xuất phát từ nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng
chủ yếu họ làm việc bên các sở, ban, ngành và các cơ quan đơn vị thuộc quản
lý của Nhà nước, các trường học, những người đang còn làm việc có ít thời
gian tham gia phiên tòa, còn những người đã nghỉ hưu mà có trình độ pháp
luật lại tham gia các công việc khác không tham gia công tác hội thẩm, vì
mức bồi dưỡng cho hội thẩm nhân dân không cao, họ có thể có được công
việc khác với mức lương cao hơn và ít trách nhiệm hơn. Với đặc thù của các
56
vụ án hành chính ở Thành phố Hà Nội đa số là xem xét tính hợp pháp của các
quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan quản lý hành
chính nhà nước, người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước
mà đa số là Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân nên tránh mời Hội
thẩm nhân dân đang làm việc tại các cơ thuộc Ủy ban nhân dân vì có thể ảnh
hưởng đến sự vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án. Chính vì
vậy, lực lượng Hội thẩm nhân dân đa số có trình độ pháp lý và chuyên môn
liên quan đến lĩnh vực hành chính còn nhiều hạn chế. Như vậy, việc đảm bảo
đảm sự độc lập giữa Hội thẩm nhân dân và Thẩm phán vẫn chưa đảm bảo. Rất
ít, hoặc hầu như không có vụ án nào có ý kiến bảo lưu quan điểm của Thẩm
phán hay Hội thẩm nhân dân.
Vì vậy, để bảo đảm quyền xét xử công bằng của người khởi kiện trong
giải quyết các vụ án nói chung và vụ án hành chính nói riêng thì điều kiện tiên
quyết nhất đó là Tòa án phải được độc lập.
Thứ tư, bảo đảm quyền tranh tụng tại Tòa án
Tranh tụng tại phiên tòa là thủ tục tố tụng đặc biệt trong quá trình Tòa
án giải quyết vụ án. Gọi là thủ tục tố tụng đặc biệt vì Tòa án công khai cho
mọi người (bao gồm: người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng, người
tham dự phiên tòa) biết về: Lời trình bày của đương sự, của người bảo vệ
quyền lợi ích của đương sự; các câu hỏi của Hội đồng xét xử; lời đối đáp của
các bên đương sự; phát biểu của Kiểm sát viên và Công khai cho mọi người
biết các tài liệu, chứng cứ, vật chứng của vụ án do các bên đương sự cung cấp
và Tòa án thu thập trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án. Các tài liệu, chứng
cứ, vật chứng của vụ án tuy các đương sự đã biết tại phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải từ trước khi Tòa án mở
phiên tòa sơ thẩm, nhưng vẫn phải công khai để đương sự kiểm tra, xác nhận
tài liệu, chứng cứ, vật chứng do đương sự cung cấp, giao nộp.
Theo qui định của Luật Tố tụng hành chính thì: Đương sự, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp, cung
57
cấp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án hành chính và có nghĩa vụ
thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát
biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ
yêu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người
khác theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Việc cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện
là quyền và nghĩa vụ của các đương sự, trong vụ án hành chính từ khi thụ lý
hồ sơ người khởi kiện phải nộp kèm theo các tài liệu chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu của mình, bên cạnh đó người khởi kiện cũng phải gửi các tài liệu
chứng cứ cho người bị kiện và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Sau khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án thì người bị kiện, người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan phải phán ánh ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi
kiện hoặc quan điểm của mình về nội dung vụ án gửi cho Tòa án cùng các tài
liệu chứng cứ kèm theo. Tuy nhiên thực tế người bị kiện rất chậm trễ trong
việc gửi ý kiến của mình đến Tòa án.
Theo qui định tại Điều 60 Luật Tố tụng hành chính thì: Trường hợp
người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì
người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được
ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này.
Với tinh thần của Điều luật là đảm bảo cho người bị kiện phải là người
có quyền quyết định. Các đối tượng khởi kiện vụ án hành chính ở Tòa án
nhân dân Thành phố Hà Nội đa số là các quyết định hành chính, hành vi hành
chính liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai, thuộc quyền quản lý của Ủy ban
nhân dân. Chủ tịch Ủy ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành công việc
của Ủy ban nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân huyện; lãnh đạo, chỉ
đạo các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân và các công việc khác.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân chỉ được ủy quyền cho các phó chủ tịch Ủy ban
nhân dân tham gia tố tụng, đồng thời cử chuyên viên phụ trách các lĩnh vực bị
58
khởi kiện tham gia vụ án với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị kiện. Tuy nhiên đa số các vụ án thì các Phó chủ tịch đều có
đơn xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án. Điều này phù hợp với qui
định của Luật Tố tụng hành chính, tuy nhiên lại gây khó khăn cho Tòa án
trong việc giải quyết vụ án khi thu thập chứng cứ như lấy lời khai, xác định sự
thật của vụ án. Thực tế đa số các vụ án không thể đối thoại được do người đại
diện theo ủy quyền của người bị kiện xin vắng mặt, như vậy không đạt được
mục đích của đối thoại là để cho người khởi kiện có cơ hội để đối thoại trực
tiếp với người bị kiện để làm rõ lý do có quyết định hành chính, hành vi hành
chính, người khởi kiện có thể trình bày tâm tư nguyện vọng của mình để
người bị kiện nếu thấy rằng quyết định hành chính hành vi hành chính của
mình trái qui định của pháp luật, chưa phù hợp với thực tiễn thì sẽ thu hồi, sửa
đổi bổ sung và ngược lại nếu quyết định hành chính phú hợp qui định của
pháp luật thì trình bày cho người khởi kiện để họ hiểu được chủ trương, chính
sách của địa phương là phù hợp, đúng pháp luật thì người dân sẽ rút yêu cầu
khởi kiện. Như vậy sẽ rút ngắn được thời gian giải quyết vụ án.
Bên cạnh đó, theo qui định của Luật Tố tụng hành chính thì tại phiên
tòa, trong phần tranh tụng, các đương sự được đặt câu hỏi với đương sự khác
nhằm làm sáng tỏ nội dung vụ án. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong
các tài liệu, chứng cứ do các bên xuất trình, Tòa sẽ phải chủ động, tích cực
thẩm vấn để làm rõ sự thật khách quan. Tranh tụng được thể hiện rõ nét trong
thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, đặc biệt là trong thủ tục tranh luận và đối đáp.
Theo khoản 2, Điều 152 Luật TTHC 2015: “HĐXX phải trực tiếp xác định
những tình tiết của vụ án tại phiên tòa bằng cách hỏi và nghe trình bày, tranh
luận trực tiếp về tình tiết, chứng cứ của vụ án của người khởi kiện, người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp
pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người
tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức được mời tham dự phiên tòa, nghe
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát”. Khi người bị kiện xin
59
vắng mặt thì Hội đồng xét xử, người khởi kiện không thể đặt các câu hỏi tại
phiên tòa để làm rõ những tình tiết các vụ án, mặc dù người bị kiện có phân
công cán bộ chuyên trách làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị kiện, nhưng theo qui định của Luật Tố tụng hành chính thì Hội đồng
xét xử, đương sự không có quyền đặt câu hỏi với người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị kiện, như vậy người khởi kiện đã bị hạn chế quyền
tranh tụng tại phiên tòa.
Thứ năm, bảo đảm quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
Trong quá trình khởi kiện vụ án hành chính mà người khởi kiện cho
rằng, các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc
thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh và lập danh sách cử tri của người bị kiện gây ra thiệt hại thì có quyền
yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính thực hiện việc giải
quyết bồi thường. Trong trường hợp này, đơn khởi kiện phải có nội dung: yêu
cầu xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ; nội dung yêu
cầu bồi thường; thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường; tài liệu, chứng cứ có
liên quan đến yêu cầu bồi thường. Trong trường hợp này, các quy định của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và pháp luật về tố tụng
dân sự được áp dụng để giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại. Thiệt hại
trong trường hợp này là thiệt hại thực tế do có quyết định hành chính, hành vi
hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri gây ra. Trường hợp
người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu bồi
thường thiệt hại thì có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Thực tế trong thời gian
qua tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, số lượng vụ án hành chính có yêu
cầu bồi thường thiệt hại rất ít so với số lượng án thụ lý, song hầu như không
có vụ án nào có yêu cầu bồi thường thiệt hại được chấp nhận. Nguyên nhân có
ít yêu cầu thiệt hại là do những người khởi kiện chỉ mong muốn Tòa án xem
xét các đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính chứ họ không nghĩ tới việc
60
yêu cầu bồi thường thiệt hại, bên cạnh đó một số người dân không biết rằng
họ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và không có yêu cầu. Một số vụ án
hành chính có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì Tòa án nhân dân sau khi xem
xét quyết định hành chính, hành vi hành chính… người bị kiện không vi phạm
qui định của pháp luật nên không có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
Qui định này tạm thời phù hợp trong bối cảnh Tòa hành chính vẫn là
một Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, thời gian qua tỉ lệ giải
quyết các vụ án hành chính ở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội thấp tỉ lệ án
tồn cao. Mặc dù số lượng thẩm phán của Tòa Hành chính được tăng cường,
tuy nhiên lượng án tập trung về Tòa hành chính cao dẫn đến quá tải trong giải
quyết vụ án. Lượng án tồn cao dẫn đến quyền được bảo vệ bằng Tòa án của
người khởi kiện bị giảm xuống.
Thứ sáu, bảo đảm quyền được bảo đảm về quyền bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp
Quyền này được quy định trong Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự và
Bộ luật tố tụng dân sự, người khởi kiện có thể tự mình bảo vệ hoặc có thể nhờ
luật sư, trợ giúp viên pháp lý hay người khác am hiểu về pháp luật bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Toà án có trách nhiệm bảo
đảm cho người khởi kiện thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ. Trong những năm qua Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội luôn đảm
bảo cho đương sự nói chung và người khởi kiện nói riêng quyền bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp. Tuy nhiên, do chi phí mời luật sự lớn hoặc những trở
ngại khách quan khác nên việc người khởi kiện có luật sư bào chữa hoặc
người trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình trong các
vụ án hành chính chưa cao, chiếm khoảng 30% số vụ án hành chính thụ lý,
giải quyết.
Thứ bảy, Bảo đảm quyền khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện
Khi người khởi kiện vụ án hành chính nộp đơn nhưng bị Tòa án trả lại
đơn khởi kiện thì Luật tố tụng hành chính quy định người khởi kiện được
61
quyền khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện. Trong thực tế số lượng khiếu
nại về việc trả lại đơn khởi kiện hầu như không có vì phần lớn Tòa án chỉ yêu
cầu sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện cho đúng với quy định của pháp luật.
Thậm chí có những trường hợp đương sự đã được Tòa án yêu cầu sửa đổi bổ
sung đơn khởi kiện để đúng đối tượng bị kiện là Ủy ban nhân dân nhưng
người khởi kiện vẫn kiên quyết khởi kiện người ký Quyết định là Chủ tịch Ủy
ban nhân dân, trong trường hợp này Tòa án không trả lại đơn khởi kiện mà
thụ lý và tự xác định đúng tư cách của người bị kiện trong vụ án hành chính.
Tòa án chỉ trả lại đơn trong trường hợp người khởi kiện không có quyền khởi
kiện. Đối với những khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội đều đảm bảo trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày
nhận đơn khiếu nại, Chánh án Tòa án Hà Nội ban hành quyết định giải quyết
khiếu nại gửi cho người khiếu nại và hướng dẫn người khiếu nại nếu không
đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án thì trong thời hạn 10
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người
khởi kiện có quyền khiếu nại lên Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp. Trong
thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án Toà án
cấp trên trực tiếp phải giải quyết. Quyết định của Chánh án Toà án cấp trên
trực tiếp sẽ là quyết định giải quyết cuối cùng.
Thứ tám, bảo đảm quyền đề nghị xét xử vắng mặt
Trên thực tế xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyền này
rất ít khi và thậm chí không xảy ra. Những người khởi kiện trong vụ án hành
chính chấp hành rất nghiêm túc giấy triệu tập của Tòa án, thậm chí dù Tòa án
không triệu tập, họ vẫn đến Tòa để hỏi han, theo dõi tình hình diễn biến hoạt
động tố tụng đang được Tòa án thực hiện đến đâu. Người khởi kiện luôn cố
gắng để tham gia phiên tòa, đối với trường hợp người khởi kiện không thể
đến tham gia được thì họ sẽ ủy quyền cho người khác thay mặt họ đến tham
gia phiên tòa để bảo đảm tốt nhất cho quyền và lợi ích của họ.
62
Thứ chín, bảo đảm quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch
Khi có căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch thuộc trường hợp quy định thì người khởi kiện có quyền yêu
cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định và người phiên dịch
nhằm đảm bảo tính khách quan của những người này khi tham gia phiên tòa.
Trên thực tế tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội chưa có vụ án hành chính
nào người khởi kiện có yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch.
Thứ mười, bảo đảm quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn
bộ yêu cầu khởi kiện
Trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, việc
thay đổi, bổ sung, rút một phần yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện trong
vụ án hành chính thường xuyên xảy ra, chiếm khoảng 25% số lượng vụ án
hành chính đang thụ lý, giải quyết. Nhưng việc rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện
lại rất ít vì nếu người khởi kiện rút đơn khởi kiện trong giai đoạn này thì Tòa
đình chỉ giải quyết vụ án, nghĩa là quyết định hành chính bị kiện đương nhiên
có hiệu lực. Do đó trường hợp người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện
chỉ xảy ra khi người bị kiện sửa chữa, thay đổi, hủy bỏ quyết định dẫn đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện đã được đảm bảo.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Với những kết quả đạt được, thì quyền khởi kiện nói riêng và quyền
của các đương sự trong giải quyết vụ án hành chính nói chung tại Tòa án nhân
dân Thành phố Hà Nội trong những năm qua đã có những bước tiến rõ rệt,
quyền của người khởi kiện đã được đảm bảo cơ bản, hầu hết các vụ án hành
chính khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện đều đã được Tòa án nhận đơn,
thụ lý, giải quyết.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có những hạn chế cần phải được khắc
phục như sau:
63
Thứ nhất, theo chỉ tiêu công tác do Tòa án nhân dân Tối cao đề ra thì tỉ
lệ giải quyết án hành chính giải quyết trong một năm phải đạt tỉ lệ 80%. Theo
số liệu thống kê cho thấy, tỉ lệ giải quyết án hành chính trong những từ 2015
đến 2020 tuy đã tăng lên theo từng năm nhưng tỉ lệ vụ án được giải quyết so
với tỉ lệ vụ án đã được thụ lý vẫn ở mức thấp năm 2015 giải quyết được 35%,
năm 2016 giảm xuống còn 29%, năm 2017 vẫn tiếp tục giữ ở mức 29%, năm
2018 tỉ lệ giải quyết giảm thấp chỉ đạt 20%, năm 2019 tỉ lệ giải quyết đạt 34%
và 09 tháng đầu năm 2020 tỉ lệ giải quyết có tăng lên đạt tỉ lệ 41% [43; 44;
46; 47; 48; 49].
Tình trạng không đảm bảo về thời gian xét xử theo quy định của Luật
tố tụng hành chính hiện vẫn đang là vấn đề bất cập. Rất nhiều vụ án hành
chính kể từ khi thụ lý đến khi đưa ra xét xử kéo dài hơn rất nhiều so với thời
gian tối đa 06 tháng mà luật tố tụng hành chính đã quy định. Vẫn còn án hành
chính bị cấp phúc thẩm hủy, sửa do lỗi của Thẩm phán như không xem xét
toàn diện nội dung vụ án, thu thập chứng cứ không đầy đủ, áp dụng pháp luật
thiếu chính xác, thậm chí là xác định sai đối tượng khởi kiện dẫn đến vụ án
kéo dài.
Nguyên tắc trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa Hành chính và Hội
đồng xét xử là “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” chưa được hiện thực hóa
tốt trong thực tiễn. Qua thực tế xét xử cho thấy, ở những vụ án mà ở đó
“người bị kiện” lại là cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương (Chủ tịch
UBND các cấp) thì “quyền độc lập xét xử” của Tòa án trong nhiều trường hợp
không còn có ý nghĩa thực tế nữa. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả xét xử vì lúc này tính khách quan, đúng pháp luật sẽ không còn nữa.
Thứ hai, hạn chế ở sự phối hợp từ phía người bị kiện (đặc biệt nhấn
mạnh chủ thể là Chủ tịch UBND) và sự phối hợp từ phía các cơ quan quản lý
hành chính cung cấp các chứng cứ, tài liệu. Việc không đưa ra giải quyết, xét
xử được án hành chính có nguyên nhân chủ yếu rất lớn từ phía chủ tịch
UBND các cấp, sau khi nhận được thông báo thụ lý vụ án của tòa án, nhưng
64
không kịp thời giao nộp văn bản ý kiến, tài liệu, chứng cứ; hoặc có giao nộp
nhưng không đầy đủ, trong đó cá biệt còn có Chủ tịch UBND không thực hiện
bất cứ yêu cầu nào của tòa án. Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính,
thời gian giao nộp văn bản ý kiến, tài liệu chứng cứ là 10 ngày kể từ ngày
nhận thông báo thụ lý án và người đại diện theo pháp luật là người đứng đầu
cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu chỉ có thể ủy quyền cho cấp phó tham
gia tố tụng. Tuy nhiên, đa số người được ủy quyền đều lấy lý do bận công tác
không tham gia đối thoại, tham gia phiên tòa, dẫn đến tòa án phải hoãn đi,
hoãn lại mất nhiều thời gian. Thực trạng trên đã và đang gây bức xúc đối với
tổ chức, công dân khi có vụ việc cần đến tòa giải quyết, ảnh hưởng xấu đến
chỉ tiêu, chất lượng giải quyết án hành chính; đồng thời, tạo ra áp lực đối với
thẩm phán, thư ký khi phải giải quyết án hành chính. Trên thực tế, việc lấy
các chứng cứ, tài liệu giấy tờ của người khởi kiện rất khó khăn, dễ làm đông
cứng quá trình bảo vệ quyền của chính họ và mất niềm tin vào pháp luật.
Thứ ba, thực tiễn chứng minh rằng, để tiếp cận được công lý, người dân
phải trải qua một hành trình pháp lý dài mà họ phải kiên trì theo đuổi, thậm
chí thắng kiện còn chờ để đấy và chờ thi hành án.
Điều này thể hiện rất rõ thông qua số liệu về tỷ lệ bản án quyết định bị
hủy, bị sửa trên tổng số vụ án hành chính đã giải quyết, xét xử qua các năm
đều cao. Năm 2019, tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy là 3,1%; bị sửa là 2,9%.
Thực tế này cho thấy, vẫn còn tồn tại khá phổ biến các vụ án hành chính ở
giai đoạn xét xử sở thẩm tại Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, người dân thường thua kiện, nhiều trường hợp chỉ đến phiên tòa
phúc thẩm, vụ án mới được xem xét khách quan và nghiêm túc, và nhiều
trường hợp, Tòa phúc thẩm có những phán quyết ngược lại và hủy án sơ
thẩm.
Bên cạnh đó, việc xét xử vụ án hành chính theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm vẫn tăng. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng này đó là trong giai đoạn
khởi kiện và thụ lý án hành chính, tòa án xác định đối tượng khởi kiện, thời
65
hiệu khởi kiện, trả lại đơn khởi kiện không đúng, thụ lý đơn khởi kiện không
đúng thẩm quyền; quyết định tạm đình chỉ vụ án không đúng; các hạn chế
trong xác minh tài liệu, chứng cứ; hạn chế trong chuyên môn, nghiệp vụ, đạo
đức nghề nghiệp của thẩm phán. Thực trạng này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động
tìm kiếm công lý của người dân, hay nói cách khác, cản trở sự tiếp cận quyền
của nhóm đối tượng này.
Thứ tư, nguyên tắc tranh tụng, đối thoại không được đảm bảo khi luật
cho phép xét xử vắng mặt người bị kiện. Tuy nhiên, ở tất cả các giai đoạn
này, người bị kiện thường vắng mặt với lý do bận công tác, đặc biệt đối với
các vụ kiện liên quan đến Chủ tịch UBND, UBND. Do đó, tính chất tranh
tụng, đối thoại trong xét xử án hành chính trên thực tiễn nhiều khi không được
đảm bảo trên thực tiễn. Hệ quả là quyền của người dân - người khởi kiện
trong nhiều trường hợp không được bảo đảm.
Những vấn đề tồn tại trên đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người khởi kiện.
Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, nguyên nhân khách quan
Có thể nói trước khi Luật tố tụng hành chính năm 2015 ra đời thì việc
thụ lý, giải quyết các vụ án hành chính tập trung chủ yếu ở Tòa án nhân dân
cấp huyện. Với hệ thống tòa án được tổ chức theo cấp hành chính kết hợp với
thẩm quyền, mô hình tổ chức này đã tạo nên những hạn chế làm ảnh hưởng
đến tính độc lập của tòa án. Với cách tổ chức như vậy ít hay nhiều tòa án cấp
huyện cũng phải chịu sự chi phối của chính quyền địa phương. Luật Tố tụng
hành chính năm 2015 ra đời đã qui định thẩm quyền giải quyết các vụ án hành
chính đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân
dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa
giới hành chính với Tòa án cấp tỉnh. Quy định về thẩm quyền này đã khắc
phục được tình trạng e ngại của các Thẩm phán cấp huyện trong việc quyết
định đối với các quyết định, hành vi của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch
66
Ủy ban nhân dân cấp huyện tạo tiền đề thuận lợi hơn trong xác định đường lối
và phương hướng giải quyết các vụ án hành chính. Nhưng song song với
thuận lợi và những khó khăn khi quy định đó lại tạo ra áp lực quá lớn cho các
Thẩm phán của Tòa Hành chính, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội. Việc
xác minh thu thập tài liệu chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa
Hành chính sẽ gặp khó khăn hơn vì khoảng cách địa lý và phạm vi địa lý rộng
hơn rất nhiều bao gồm 12 quận nội thành và 17 huyện, thị xã ngoại thành dẫn
đến tình trạng kéo dài thời gian giải quyết các vụ án hành chính.
Hệ thống Tòa án của nước ta hiện nay được tổ chức theo cấp hành
chính nên có ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án, với cách tổ chức như
hiện nay thì ít nhiều các Thẩm phán cũng bị chi phối bởi chính quyền địa
phương, người có chức vụ trong hệ thống cơ quan Đảng, Nhà nước…
Số lượng án hành chính phải giải quyết so với số lượng Thẩm phán của
Tòa hành chính là quá lớn. Từ năm 2015 đến năm 2017 số lượng thẩm phán
của Tòa hành chính chỉ có 04 thẩm phán với tổng số vụ án hành chính thụ lý
là 1354 vụ, như vậy số lượng hồ sơ mà mỗi thẩm phán được phân công giải
quyết là gần 400 hồ sơ. Từ năm 2018 đến năm 2020 số lượng thẩm phán của
Tòa hành chính đã được bổ sung tăng lên 12 thẩm phán, tuy nhiên tỷ lệ thuận
với nó là số vụ án hành chính thụ lý cũng tăng lên là 3499 vụ, như vậy số
lượng hồ sơ mà mỗi thẩm phán được phân công giải quyết vẫn là gần 300 hồ
sơ. Với số lượng hồ sơ phải giải quyết lớn như vậy nhưng số lượng thẩm phán
và thư ký chỉ được phân bổ theo chỉ tiêu cho phép nên trong thực hiện các
hoạt động tố tụng, nghiên cứu hồ sơ, thủ tục tống đạt cho đương sự cũng
không thể đảm bảo về thời gian theo quy định của Luật tố tụng cũng là một
nguyên nhân dẫn kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
Việc mời Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án hành chính cũng
gặp nhiều khó khăn. Do đa số các Hội thẩm nhân dân được cử tham gia công
tác xét xử là cán bộ công chức trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước,
nếu những hội thẩm nhân dân này tham gia xét xử thì cá nhân, cơ quan, tổ
67
chức sẽ nghĩ đến việc không đảm bảo sự vô tư khách quan trong quá trình xét
xử, lĩnh vực hành chính là lĩnh vực rộng bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội đòi hỏi hội thẩm nhân dân phải có kiến thức pháp lý và kiến thức
chuyên môn liên quan đến vụ án, việc mời được đúng những hội thẩm nhân
dân có chyên môn là rất khó vì công tác xét xử với đa số các Hội thẩm nhân
dân là kiêm nhiệm. Chế độ bồi dưỡng phiên tòa của Hội thẩm còn thấp so
với yêu cầu công việc, trách nhiệm của Hội thẩm.
Công tác thi tuyển Thấm phán, quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Thẩm
phán thực hiện còn chậm. Chế độ chính sách đối với Thẩm phán, thư ký hiện
vẫn hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, tương đương với quy định về ngạch
bậc lương công chức, tuy có phụ cấp của ngành nhưng chế độ lương được
hưởng của Thẩm phán, thư ký chưa tương xứng với trách nhiệm và yêu cầu
nhiệm vụ được giao, chưa thể hiện tính đặc thù trong hoạt động của Tòa án
nhân dân nhất là đối với các Thẩm phán giải quyết vụ án hành chính.
Chế độ đào tạo, bồi dưỡng cho các Thẩm phán giải quyết án hành chính
còn chưa đáp ứng được nhu cầu công việc. Có thể thấy, các quan hệ xã hội
được pháp luật hành chính điều chỉnh rất rộng, bao trùm mọi mặt của đời
sống xã hội, đòi hỏi các Thẩm phán giải quyết án hành chính phải nắm chắc
kiến thức pháp luật cũng như kiến thức xã hội. Tuy nhiên hiện nay chưa có
chế độ đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyện môn, chưa xây dựng
được phần mềm quản lý, tra cứu các văn bản hành chính cho thẩm phán hành
chính, trong khi các văn bản pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực quản lý
hành chính là khá lớn, mỗi khi giải quyết án hành chính thì các Thẩm phán
phải mất rất nhiều thời gian tự tìm hiểu và nghiên cứu. Trong khi đó số lượng
Thẩm phán bổ sung từ các quận huyện lên cũng phải mất một khoảng thời
gian nhất định để thích nghi với công việc mới.
Chưa có cơ chế hữu hiệu bảo đảm an toàn cho đội ngũ cán bộ, công
chức có chức danh tư pháp, nhất là đội ngũ Thẩm phán khi thi hành công vụ.
Trong nhiều trường hợp giải quyết đối với các khiếu kiện đông người, các
68
khiếu kiện mà người dân bức xúc có những lời lẽ, cử chỉ gây ảnh hưởng đến
tâm lý của Thẩm phán, Thư ký, thậm chí có những trường hợp đe dọa thẩm
phán, thư ký tại phòng làm việc, xong việc xử lý đối với những trường hợp
này chỉ mang tính tạm thời, chưa mang tính răn đe.
Quyền con người đang được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm thúc
đẩy và bảo vệ, tuy nhiên việc trang bị các kiến thức về quyền con người cho
Thẩm phán, Thư ký và cán bộ công chức Tòa án, Hội thẩm nhân dân vẫn còn
hạn chế. Chưa có một chương trình chuyên về quyền con người để tập huấn
cho những người làm công tác giải quyết, xét xử các vụ án, nên họ chưa nhận
thức được quyền con người nói chung và quyền của người khởi kiện nói riêng
và nhiệm vụ của họ là phải bảo vệ quyền con người, chính vì vậy vẫn còn có
những hành động thờ ơ khi xem xét giải quyết các vụ án, không thể hiện tinh
thần trách nhiệm của họ đối với công việc của mình dẫn đến xâm phạm đến
quyền của người khởi kiện.
Một số vụ án bị kéo dài thời gian giải quyết do các cơ quan, tổ chức có
liên quan chưa tích cực trong việc phối hợp chặt chẽ với Tòa án, chưa làm hết
trách nhiệm trong việc cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ theo
yêu cầu của Tòa án. Người bị kiện chậm thực hiện các yêu cầu của Tòa án
như cung cấp bản trình bày về yêu cầu của người khởi kiện, thủ tục ủy quyền,
cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh...
Bên cạnh đó, sau khi thụ lý vụ án Tòa án thực hiện việc tống đạt thông
báo thụ lý cho các đương sự, trong khoảng thời gian 15 ngày người bị kiện
phải có ý kiến với yêu cầu của người khởi kiện và nộp các tài liệu chứng cứ,
tuy nhiên rất nhiều vụ án, người bị kiện chậm nộp bản trình bày ý kiến và các
tài liệu chứng cứ kèm theo dẫn đến việc giải quyết vụ án chậm trễ.
Về hệ thống pháp luật tố tụng hành chính, Luật Tố tụng hành chính
năm 2015 ra đời là một bước tiến quan trọng để đảm bảo cho các vụ án hành
chính được giải quyết nhanh chóng kịp thời, đơn giản hóa thủ tục hành chính
đối với người dân khi khởi kiện tại Tòa án, tuy nhiên vẫn còn những điểm
69
chưa phù hợp như qui định về người đại diện theo ủy quyền của người bị
kiện. Theo quy định tại Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì người
bị kiện trong các vụ án hành chính là cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan,
tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan, tổ chức đó thì thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc người
có thẩm quyền chỉ được ủy quyền cho cấp phó tham gia tố tụng và cấp phó
không được ủy quyền cho người thứ ba. Tuy nhiên, trên thực tế người đại
diện theo pháp luật đều có văn bản ủy quyền cho cấp phó tham gia tố tụng và
cấp phó có văn bản xin được xét xử vắng mặt vì lý do bận công việc. Việc cấp
phó xin xét xử vắng mặt gây khó khăn trong việc giải quyết vụ án, Thẩm phán
không thể tổ chức đối thoại giữa các bên đương sự nhằm giúp cho họ lắng
nghe ý kiến của nhau về nội dung vụ án và tìm được tiếng nói chung nhằm
đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên giúp cho việc giải quyết
vụ án nhanh chóng. Việc vắng mặt của người bị kiện tại phiên tòa làm ảnh
hưởng đến việc hỏi, kiểm tra chứng cứ, tranh luận để làm rõ một số tình tiết
liên quan đến vụ án, không đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử dẫn
đến việc giải quyết vụ án không đảm bảo nhanh chóng, khách quan, triệt để.
Như chúng ta đã biết pháp luật hành chính điều chỉnh các quan hệ xã
hội có phạm vi rộng, các văn bản pháp luật trong lĩnh vực quản lý hành chính
khá nhiều, tuy trong thời gian qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, tuy nhiên vẫn tồn tại những hạn chế,
quá nhiều văn bản pháp luật được ban hành, các văn bản luật chủ yếu vẫn
mang tính chất định khung, khó áp dụng trực tiếp vào thực tiễn mà phải thông
qua các văn bản hướng dẫn, giải thích. Khi có quy định liên quan đến chức
năng của nhiều ngành thì mỗi ngành lại có những cách hiểu khác nhau, cách
giải thích khác nhau dẫn đến tình trạng cùng một vấn đề nhưng lại có nhiều
văn bản hướng dẫn khác nhau. Vẫn còn tình trạng văn bản mâu thuẫn và
chồng chéo khó áp dụng, dẫn đến các tranh chấp hành chính xảy ra trong nhân
dân.
70
Công tác thi hành án đối với án hành chính gặp nhiều khó khăn. Khi vụ
án hành chính đã xét xử xong, bản án có hiệu lực pháp luật nhưng các phán
quyết của Tòa chưa được thực thi nghiêm túc vì vậy quyền lợi của người dân
chưa được giải quyết triệt để.
Về cơ sở vật chất như trụ sở làm việc chật hẹp, trang thiết bị, phương
tiện làm việc còn thiếu thốn, lạc hậu, không đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ công tác hiện nay.
Thứ hai, nguyên nhân chủ quan
Để bảo đảm các vụ án hành chính được giải quyết đúng quy định của
pháp luật thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải độc lập, chỉ tuân theo
pháp luật, tuy nhiên với quy chế bổ nhiệm Thẩm phán hiện nay còn theo
nhiệm kỳ, tạo cho Thẩm phán áp lực sợ ảnh hưởng đến việc tái bổ nhiệm,
không đảm bảo được sự độc lập, vô tư khách quan khi ban hành các bản án,
quyết định.
Chất lượng, tinh thần trách nhiệm của Thẩm phán, Thư ký giải quyết án
hành chính không đồng đều, mỗi năm trung bình một thẩm phán có người giải
quyết được khoảng 40 vụ nhưng cũng có thẩm phán giải quyết được khoảng
70 vụ. Tâm lý chung của người quản lý là người làm được việc thì sẽ càng
giao nhiều trách nhiệm, nhưng người chưa tích cực làm việc thì lại giao ít
trách nhiệm hơn. Có thẩm phán, thư ký không chịu khó làm việc vì không có
cơ chế làm ít thì bị đuổi nên dẫn đến việc chây ỳ, mặc kệ. Chính vì vậy sẽ làm
ảnh hưởng đến tâm lý chung của thẩm phán, thư ký khi phải gánh vác nhiều
công việc hơn nhưng chế độ đãi ngộ lại vẫn chỉ hưởng ngang bằng với những
thẩm phán, thư ký thực hiện công việc ít hơn. Bên cạnh đó, tâm lý xử nhiều
thì khả năng bị hủy cũng sẽ nhiều cũng tạo tâm lý áp lực bị án hủy sửa ảnh
hưởng đến việc tái bổ nhiệm nên các Thẩm phán ngại đưa vụ án ra xét xử.
Chính sách đãi ngộ chưa hợp lý cũng như việc giải quyết án hành chính
khó hơn so với các loại án khác và do áp lực công việc nên một số Thẩm phán
có tâm lý không muốn giải quyết án hành chính. Có nhiều trường hợp được
71
Thẩm phán ở quận, huyện được luân chuyển về Tòa Hành chính xin ở làm
việc ở lại đơn vị cũ hoặc đến Tòa Hành chính một thời gian xin chuyển đến
đơn vị khác nên cũng không tập trung giải quyết án, như vậy sẽ ảnh hưởng
đến chất lượng và số lượng án giải quyết.
Như vậy ta thấy, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong vụ án hành
chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả nhất
định, chất lượng giải quyết các vụ án được nâng cao hơn, công tác đối thoại
được quan tâm. Đối với những vụ án được đưa ra xét xử, việc tranh tụng tại
phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp được chú trọng, quyền cung cấp
chứng cứ và tranh tụng nhằm làm rõ những vấn đề còn tranh chấp được tôn
trọng và không bị hạn chế về thời gian tranh tụng, quá trình tố tụng diễn ra
công khai, các bản án quyết định của Tòa án được công bố đầy đủ trên cổng
thông tin điện tử của Tòa án nhân dân Tối cao.... Tuy nhiên bên cạnh đó cũng
còn nhiều điểm hạn chế cần phải có những giải pháp khắc phục để bảo đảm
tốt hơn quyền của người khởi kiện nói riêng và quyền của các đương sự nói
chung.
72
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM
QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ
ÁN HÀNH CHÍNH
3.1. Phương hướng bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải
quyết các vụ án hành chính
Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân nói riêng và quyền của người khởi kiện nói chung đã được
Đảng ta đề ra và được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đó là Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Để đạt được mục tiêu lớn lao như vậy, đòi hỏi Nhà nước phải không
ngừng hoàn thiện về hệ thống pháp luật đồng thời phải nâng cao năng lực
thực thi pháp luật của Bộ máy nhà nước và đặc biệt chú trọng hoạt động bảo
vệ pháp luật vì hoạt động này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm sự
thành công của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Khi nói đến hoạt động bảo vệ pháp luật thì hoạt động của cơ quan tư pháp - mà
Tòa án nhân dân là trung tâm - hoạt động chủ yếu đảm bảo một xã hội thượng
tôn pháp luật. Trong lĩnh vực Tố tụng hành chính, thì vai trò của Tòa án nhân
dân đối với việc thực thi pháp luật lại càng mang tính cần thiết vì bản chất quan
hệ pháp luật Hành chính là quan hệ bất bình đẳng giữa một bên là cơ quan có
thẩm quyền và một bên là người thực hiện. Do đó việc Tòa án xem xét tính hợp
pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật
buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại đối với các quyết định giải
quyết vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri chính là đảm bảo cho việc thi hành
pháp luật của cơ quan hành chính vận hành đúng theo qui định của pháp luật,
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
73
Xuất phát từ mục tiêu, định hướng cải cách tư pháp, các phương hướng
đặt ra đối với việc giải quyết các vụ án hành chính để đảm bảo quyền của
người khởi kiện hiện nay là:
3.1.1. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án
hành chính với chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền con
người, quyền công dân
Tại Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số
44-CT/TW, ngày 20/7/2010, của Ban Bí thư khóa X về công tác nhân quyền
trong tình hình mới nêu rõ, việc thể chế hóa đường lối của Ðảng, hệ thống
pháp luật từng bước được hoàn thiện, đặc biệt là Quốc hội đã thông qua Hiến
pháp năm 2013; từ đó, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ, thực thi
quyền con người và ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm quyền con
người.
Tại Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện hiệu quả
Chỉ thị 44-CT/TW ngày 20/7/2010, của Ban Bí thư khóa X nêu rõ: Tiếp tục
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là hoàn
thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; đưa
các quy định về quyền con người vào cuộc sống một cách hiệu quả, thiết thực,
phù hợp điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam và các Điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa cải cách
tư pháp, cải cách hành chính; mở rộng, tăng cường dân chủ ở cơ sở. Phát huy
mạnh mẽ những thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, bảo
đảm ngày càng tốt hơn và thúc đẩy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực,
đặc biệt giảm nghèo bền vững và bảo đảm quyền của những nhóm dễ bị tổn
thương.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: Tiếp tục đẩy mạnh
việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật,
công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
74
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá
nhân [11].
Từ những khẳng định trên thể hiện: Ở Việt Nam, quan điểm của Đảng
Cộng sản nói chung, quan điểm về quyền con người và bảo vệ quyền con
người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp nói riêng là kim chỉ nam cho
mọi hành động của Nhà nước. Cho nên, việc bảo đảm một trong những quyền
của con người, quyền công dân đó là quyền của người khởi kiện cũng phải
được xây dựng dựa trên các quan điểm về bảo đảm và thúc đẩy quyền con
người của Đảng.
Trong số các cơ quan tư pháp, người ta thường nhắc đến Tòa án nhân
dân như là hiện thân của công lý, của sự công bằng. Mỗi con người, mỗi công
dân trong một xã hội đều mong muốn khi xảy ra tranh chấp đặc biệt là tranh
chấp giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan có quyền lực thì các tổ chức, cá nhân
có chỗ dựa và niềm tin gửi đơn khởi kiện đến Tòa án - nơi họ có thể chắc
chắn rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ luôn luôn được sự bảo hộ đáng
tin cậy - cơ quan giữ vị trí trung tâm và có vai trò quyết định trong hệ thống
tư pháp.
3.1.2. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án
hành chính với bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ công lý
Theo qui định tại Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thì: Ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật [28]. Như vậy, Tòa án nhân dân là
cơ quan bảo vệ sự công bằng, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân thông qua việc thực hiện quyền tư pháp mà Nhà nước giao. Hoạt
động tư pháp đặc trưng của Tòa án đó là hoạt động xét xử, thông qua hoạt
động xét xử, Tòa án thể hiện là nơi trực tiếp bảo vệ công lý, bảo vệ tính thiêng
liêng, hiệu lực và sức mạnh của pháp luật. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, vị trí tối cao của pháp luật chỉ có thể đạt được khi pháp luật được
75
tuân thủ một cách nghiêm túc, triệt để. Trong tố tụng hành chính thì Tòa án
thụ lý, giải quyết các khiếu kiện hành chính liên quan đến hoạt động quản lý
hành chính nhà nước, Tòa án xem xét tính hợp pháp của các quyết định hành
chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải
khiếu nại vụ việc cạnh tranh và danh sách cử tri, phán quyết của Tòa án tuân
thủ pháp luật sẽ tạo nên một nền hành chính trong sạch, vì dân và đem lại
niềm tin cho nhân dân. Chính vì vậy, trong quá trình tố tụng hành chính, Tòa
án tuân thủ pháp luật, bảo vệ công lý ở mức độ nào thì quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức được bảo đảm đến chừng ấy.
3.1.3. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án
hành chính với các nhiệm vụ cải cách tư pháp và cải cách hành chính
Cải cách hành chính, cải cách tư pháp luôn là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm hàng đầu được Đảng, Trong các đường lối của Đảng, Hiến pháp
và pháp luật của Nhà nước luôn đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, nguyên tắc bình đẳng, công bằng, công khai, minh bạch
trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Để hoạt động của các cơ quan tư pháp
ngày càng nâng cao phù hợp với sự phát triển và đáp ứng được yêu cầu của xã
hội, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này trong đó có Nghị quyết số
49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Trong thời gian qua, nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách
tư pháp và cải cách hành chính được thể chế hóa trong Hiến pháp, pháp luật
và được triển khai đạt kết quả trên thực tế. Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng
định mục tiêu chiến lược là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ [11]. Hiến pháp năm 2013 khẳng
định: "Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện"
76
(Điều 3) [28]. Chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra mục tiêu "Xây dựng nền
tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có
hiệu quả và hiệu lực cao" [5]. Để thực hiện các mục tiêu, Chiến lược cải cách
tư pháp đã xác định 8 nhiệm vụ, trong đó nhiệm vụ bảo đảm quyền con người,
quyền công dân được đặt trong nhiệm vụ đầu tiên.
Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà
nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng
minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới thủ tục hành chính
trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp
cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến tòa án, tòa án có trách nhiệm nhận và
thụ lý đơn... tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm
sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước tòa án [5].
Để hiện thực hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Đối với
các cơ quan Tư pháp nói riêng cần chú trọng đến Chiến lược cải cách tư pháp.
Cụ thể phải đổi mới việc bố trí phòng xử hợp lý đối với từng loại vụ án, tổ
chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính
công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Đồng thời,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp...
Từ khi Luật tố tụng Hành chính được ban hành và có hiệu lực cùng với
sự phát triển của xã hội, các khiếu kiện hành chính có chiều hướng tăng về số
lượng và tính chất phức tạp. Bên cạnh đó, do nhận thức của người dân ngày
càng cao, các công ty tư vấn luật phát triển dẫn đến hòi hỏi của công dân và xã
hội đối với các cơ quan tư pháp cũng chặt chẽ và cao hơn rất nhiều so với trước
đây; Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo
vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp
77
luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm
và vi phạm pháp luật khác. Nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi hoạt động xét xử của
Tòa án nói chung và của Tòa Hành chính nói riêng phải đảm bảo thủ tục chặt
chẽ, đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra phải đảm bảo tính công khai, minh
bạch trong giải quyết vụ án. Chính vì vậy giải quyết vụ án hành chính không
thể tác rời với công cuộc cải cách tư pháp và cải cách hành chính ở nước ta.
3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người khởi kiện
trong giải quyết các vụ án hành chính
Từ những phân tích ở trên cho thấy việc đảm bảo quyền của người khởi
kiện trong các vụ án Hành chính đã được Tòa án thực hiện tốt, tuy nhiên bên
cạnh đó cũng còn những điểm hạn chế. Để khắc phục những hạn chế, đảm
bảo và nâng cao hơn nữa hoạt động bảo vệ quyền của người khởi kiện trong
các vụ án Hành chính đạt hiệu quả tốt hơn trong thời gian tới thì cần có những
giải pháp.
Thứ nhất, tổ chức hệ thống Tòa án hợp lý khoa học, bảo đảm Tòa án có
vị trí trung tâm, độc lập xét xử là trọng tâm của hoạt động quyền tư pháp
Theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW và theo Luật tổ chức Tòa án
nhân dân thì hệ thống tòa án xét xử theo thẩm quyền, không phụ thuộc vào
đơn vị hành chính, gồm: tòa án sơ thẩm được thành lập ở cấp quận, huyện; tòa
án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một
số vụ án được thành lập ở cấp tỉnh, thành phố; tòa án nhân dân cấp cao được
thành lập tại 04 thành phố lớn gồm thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ
và Đà Nẵng có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm
của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; Giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án,
quyết định của Tòa án thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đã có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị bằng Hội đồng ba Thẩm phán hoặc Hội đồng
toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tối
78
cao với nhiệm vụ chỉ thực hiện giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác;
Tòa án quân sự các cấp. Để thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp sau năm
2020, cần thiết phải tiếp tục thực hiện chủ trương thành lập tòa án sơ thẩm
khu vực theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW và Kết luận số 79-KL/TW,
ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị [6], với các lý do:
- Nguyên tắc và cách thức tổ chức của Tòa án nhân dân khác với
nguyên tắc và cách thức tổ chức của cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp.
Tòa án nhân dân tổ chức theo cấp xét xử, mỗi cấp tòa án chủ yếu thực hiện
chức năng của một cấp xét xử: sơ thẩm hoặc phúc thẩm.
- Tính độc lập, tuân thủ pháp luật của Tòa án nhân dân phải được xây
dựng trên cơ sở tính độc lập của từng cấp Tòa án, từng thẩm phán khi xét xử,
khi quan hệ giữa các cấp tòa án không phải là quan hệ hành chính, mà là quan
hệ pháp luật tố tụng.
- Xét xử sơ thẩm ở Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực có vai trò đặc biệt
quan trọng, tác động đến toàn bộ hoạt động của hệ thống tư pháp. Nếu thành
lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, với quy mô lớn hơn, số lượng án giải
quyết nhiều hơn sẽ tập trung được đội ngũ thẩm phán, chuyên môn hóa hoạt
động xét xử ở cấp sơ thẩm, tăng cơ hội tự đào tạo cho thẩm phán thông qua
việc cọ xát thực tiễn. Đồng thời tập trung đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện,
trang thiết bị làm việc cho các Tòa án nhân dân.
- Trên thế giới, phần lớn các nước tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm
quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Ở nước ta, việc tổ
chức Tòa án nhân dân theo thẩm quyền xét xử được triển khai thực hiện từ
1946-1959. Kinh nghiệm đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Thực tế hiện nay, cách thức tổ chức tòa án ở nước ta được tổ chức theo
đơn vị hành chính kết hợp với thẩm quyền như đã nói ở trên. Tòa án nhân dân
vẫn có nhiều sự ràng buộc với Ủy ban nhân dân. Với cơ cấu, tổ chức như vậy
dễ tạo ra nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sự độc lập của tư pháp, đặc biệt là
trong quá trình xét xử cũng như phán quyết của các tòa án.
79
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có hiệu lực, thì thẩm quyền giải
quyết các vụ án hành chính đối với các khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện là của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Qui định trên đã khắc phục
được phần nào tình trạng các bản án hành chính của Tòa án nhân dân cấp
huyện bị hủy sửa. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân thì tỉ
lệ giải quyết các vụ án hành chính trong những năm qua của Tòa Hành chính
Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội nói riêng, trong phạm vi cả nước nói
chung rất thấp. Năm 2014 tỉ lệ giải quyết án hành chính của Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội là 64%, năm 2015 là 55,46%, năm 2016 là 37,75%, năm
2017 là 29,45%, năm 2018 là 32,72%, 6 tháng đầu năm 2019 là 10,49% [43;
44; 46; 47; 48; 49], trong khi đó tỉ lệ giải quyết án hành chính sơ thẩm của
Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội thấp. Như vậy, giải pháp chuyển thẩm
quyền giải quyết các vụ án hành chính đối với các khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện đến Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết không giải quyết
dứt điểm được các vụ án hành chính, gây quá tải đối với Tòa án nhân dân cấp
tỉnh. Tuy hiện nay, lực lượng thẩm phán Tòa Hành chính đã được bổ sung
nhiều hơn trước, năm 2014 đến năm 2017 chỉ có 04 thấm phán, từ năm 2018
đến năm 2020 số lượng thẩm phán đã tăng lên là 12 người nhưng tỉ lệ giải
quyết so với tỷ lệ hồ sơ thụ lý chỉ đạt khoảng 30%.
Chính vì vậy, yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao vai trò của tòa án mà
trọng tâm là hoạt động xét xử, nhằm bảo vệ các quyền con người trong quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một điều cần thiết,
để cho cơ quan tư pháp thật sự trở thành chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo
vệ công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật.
Để làm được như vậy thì hệ thống Tòa án phải có cơ cấu tổ chức đảm
bảo sự độc lập với các cơ quan nhà nước khác theo như tinh thần Nghị quyết
49-NQ/TW: Tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào
80
đơn vị hành chính, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một
số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét
xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; tòa án thượng thẩm được tổ
chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao có
nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.
Theo đó, Toà án sơ thẩm khu vực là Toà án chỉ xét xử sơ thẩm các vụ
án theo quy định của pháp luật, được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành
chính cấp huyện. Toà án sơ thẩm khu vực phải bảo đảm có đủ năng lực xét xử
sơ thẩm các vụ án theo quy định của pháp luật và thuận tiện cho người tham
gia tố tụng trong khu vực đó. Căn cứ trên số lượng án thụ lý, số lượng dân
cư… để phân bổ biên chế, bảo đảm tòa án sơ thẩm khu vực sẽ không bị chi
phối bởi bất cứ đơn vị hành chính lãnh thổ nào.
Toà án phúc thẩm có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ án, quyết
định chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị vừa xét xử sơ thẩm một số vụ
án theo quy định của pháp luật, như vậy chức năng nhiệm vụ của Tòa phúc
thẩm sẽ giống như Tòa cấp tỉnh hiện nay nhưng Tòa phúc thẩm sẽ độc lập,
không phụ thuộc vào đơn vị hành chính lãnh thổ.
Việc tổ chức như vậy sẽ hạn chế được sự tác động của bộ máy hành
chính địa phương vào hoạt động xét xử của tòa án, đồng thời hạn chế được xu
hướng địa phương hóa hoạt động xét xử của tòa án. Khi đó Tòa Khu vực sẽ
độc lập hơn trong quá trình giải quyết, từ đó chuyển thẩm quyền giải quyết
các vụ án hành chính giải quyết các vụ án hành chính đối với các khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện về Tòa Khu vực địa phương, như vậy áp
lực giải quyết án hành chính đối với Tòa cấp tỉnh giảm xuống. Khi đó năng
lực, chất lượng xét xử của tòa án trong giải quyết vụ án hành chính tang lên, tỉ
lệ giải quyết án hành chính sẽ đảm bảo, không còn tình trạng biết rằng quyết
định hành chính, hành vi hành chính không đúng nhưng cũng không giám
81
tuyên là trái pháp luật, khi đó sẽ đảm bảo được quyền các đương sự nói chung
và quyền của người khởi kiện nói riêng.
Thứ hai, cần bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa
Theo yêu cầu của cải cách tư pháp, nhiều Nghị quyết của Đảng về cải
cách tư pháp, trong đó đặt ra yêu cầu phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện
các chứng cứ, ý kiến các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự, Kiểm sát viên ban hành những bản án, quyết định đúng
pháp luật, hợp tình, hợp lý. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận tranh tụng thành
một nguyên tắc, cụ thể là "Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm"
(Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013) [28], và được cụ thể hóa trong Luật
Tố tụng hành chính năm 2015.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành nói chung, Luật tố tụng
hành chính nói riêng thì mô hình tố tụng hành chính tại phiên tòa sơ thẩm và
phúc thẩm theo hướng tranh tụng. Tuy nhiên, để đảm bảo nguyên tắc tranh
tụng tại phiên tòa thì đảm bảo các đương sự phải có mặt và phải được tiếp cận
với các tài liệu chứng cứ do bên kia cung cấp.
Tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã thực hiện đầy đủ các thủ tục
tố tụng để các đương sự thực hiện quyền tranh tụng của mình. Tuy nhiên, như
phân tích ở trên hầu hết trong các vụ án hành chính thì người bị kiện thường
chậm trễ trong cung cấp các tài liệu, chứng cứ, và xin vắng mặt tại phiên tòa
vì theo qui định của Luật Tố tụng hành chính thì: Trường hợp người bị kiện là
cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ
được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải
tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này. Tuy nhiên, đa phần
các quyết định hành chính liên quan đến hoạt động quản lý của chình quyền
địa phương mà nhiều nhất là trong lĩnh vực quản lý đất đai. Ủy ban nhân dân
không thể nào cử một Phó Chủ tịch Ủy ban tham gia tố tụng tại Tòa, như vậy
82
công việc điều hành ủy ban sẽ chậm trễ, mà thực tế trong lĩnh vực quản lý đất
đai bao gồm rất nhiều lĩnh vực như thu hồi, bồi thường, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai… bên
cạnh đó còn các lĩnh vực khác như quản lý đô thị, xây dựng… Chủ tịch, hay
phó chủ tịch Ủy ban nhân dân không thể tham gia hết được, trong khi đó
những chuyên viên làm công tác trực tiếp với hồ sơ, họ hiểu rất kỹ hồ sơ
nhưng lại tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị kiện, họ bị hạn chế trong quá trình tranh tụng, Tòa án cũng
như các đương sự còn lại không được hỏi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Mà mục đích, ý nghĩa của phần tranh tụng tại phiên tòa là
nhằm làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ án hành chính, nhất là
các tình tiết mà những người tham gia tranh tụng còn có ý kiến khác nhau.
Đồng thời thông qua phần tranh tụng để giúp hội đồng xét xử sẽ có những
đánh giá, nhận định đầy đủ khách quan về nội dung vụ án, để làm căn cứ khi
nghị án và ra bản án hoặc quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục.
Việc xin xét xử vắng mặt như vậy về thực tế thì không trái quy định
của Luật, nhưng đã gây khó khăn rất nhiều cho công tác giải quyết án (như
không làm rõ được các nội dung liên qua đến việc khởi kiện, không đối thoại
trực tiếp để thỏa thuận được và trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện
cũng phải được sự đồng ý của người bị kiện…); đó là những nguyên nhân gây
kéo dài thời gian giải quyết vụ án và gây tốn kém thời gian, công sức và các
chi phí cho việc giải quyết.
Án hành chính chủ yếu là khởi kiện các quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong các lĩnh vực quản lý thuế, đất đai, lâm nghiệp, môi trường…
Do đó, loại án này liên quan đến nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong các
lĩnh vực quản lý nhà nước. Trong khi đó, một số Bộ luật, Luật và các văn bản
hướng dẫn lại thường xuyên sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung, bên cạnh đó, một số
văn bản pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo dẫn đến khó khăn trong việc áp
dụng cũng như giải quyết án.
83
Để khắc phục những bất cập, nên mở rộng quy định người được ủy
quyền, như Chủ tịch có thể ủy quyền cho thủ trưởng cơ quan chuyên môn là
thành viên của Ủy ban nhân dân tham gia tố tụng giải quyết án hành chính.
Đồng thời, rà soát tổng thể cơ chế, chính sách pháp luật về đất đai, sở hữu
nhà, quy hoạch, bồi thường, giải phóng mặt bằng… qua các thời kỳ để đảm
bảo việc áp dụng, hướng dẫn pháp luật được thống nhất trong hệ thống pháp
luật chuyên ngành và pháp luật về tố tụng.
Cần phải đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính
trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010 định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với nội dung:
Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình
đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia
và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng
tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ
quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất
lượng hoạt động tư pháp [5].
Ngoài những vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được, vụ án
khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn thì Tòa án
cần phải tạo điều kiện để các đương sự đối thoại với nhau, để tìm được sự
thống nhất về việc giải quyết vụ án, nếu không được thì Tòa án cũng lấy kết
quả đối thoại để làm căn cứ xét xử.
Tại phiên tòa, thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải tại điều kiện đề các bên
tham gia tranh tụng theo trình tự do Luật Tố tụng hành chính qui định. Các bên
đương sự được trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm,
lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp
và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự trong vụ án.
Chủ tọa phải tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình
bày hết ý kiến tại phiên tòa, không được hạn chế thời gian tranh tụng của các
84
đương sự nếu họ trình bày về những nội dung, tình tiết của vụ án.
Hội đồng xét xử phải căn cứ vào nội dung tranh tụng tại phiên tòa, và
các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ để ban hành phán quyết cuối cùng.
Thứ ba, nâng cao năng lực của thẩm phán, trang bị các kiến thức về
quyền con người nói chung và quyền con người trong hoạt động tư pháp nói
riêng cho người làm công tác xét xử.
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính thì người Thẩm phán giữ
vai trò rất quan trọng, từ giai đoạn xây dựng hồ sơ, thu thập chứng cứ, tổ chức
công khai chứng cứ và đối thoại đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa giữ vai trò quan trọng trong
trong việc đảm bảo quyền tranh tụng tại phiên tòa và điều này ảnh hưởng trực
tiếp đến việc ban hành bản án, quyết định giải quyết vụ án. Chính vì vậy, việc
nâng cao năng lực của thẩm phán rất quan trọng, vì một người thẩm phán có
năng lực sẽ góp phần ban hành các bản án, quyết định đúng qui định của pháp
luật đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, ngược lại, thẩm
phán không có năng lực sẽ ban hành những bản án, quyết định trái qui định
của pháp luật dẫn đến xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
dẫn đến vụ án bị hủy, sửa, kéo dài thời gian giải quyết án.
Để nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo phán quyết cuối cùng của Tòa
án đưa ra đúng qui định của pháp luật Tòa án nhân dân phải thực hiện chiến
lược cải cách tư pháp, trong đó xác định "Toà án là trung tâm, xét xử là hoạt
động trọng tâm", nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong
sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo tinh
thần cải cách tư pháp tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"
và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị "về Chiến lược
Cải cách tư pháp đến năm 2020" là vô cùng cấp thiết.
Xây dựng đội ngũ thẩm phán với các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức
phẩm chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh, kinh nghiệm xã hội và
85
thực tiễn công tác nhằm mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
nhân dân, phụng sự Tổ quốc [2].
Xây dựng, phát triển đội ngũ Thẩm phán theo hướng toàn diện cả về lý
luận chính trị, phẩm chất và năng lực thực tiễn trên cơ sở coi trọng cả "đức"
và "tài", lấy "đức" là gốc; điều quan trọng đặt ra là phải xây dựng chất lượng
cán bộ, Thẩm phán trên cơ sở thống nhất tiêu chuẩn về phẩm chất và năng
lực, phải vững vàng về bản lĩnh chính trị và giỏi về nghiệp vụ nhằm thực hiện
tốt nhất nhiệm vụ xét xử, bảo vệ công lý, quyền con người.
Tuân thủ triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự lãnh đạo
thống nhất của Đảng đối với công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ,
tiến hành đồng bộ trên tất cả các khâu từ quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển
dụng, sử dụng, đánh giá, phân công, phân cấp quản lý.
Để đảm bảo chất lượng của đội ngũ thẩm phán thì Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội phải thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá lại đội ngũ
thẩm phán, những người không đáp ứng được yêu cầu về năng lực, tinh thần
trách nhiệm hoặc phẩm chất, cần bố trí vào công việc khác hoặc đưa vào diện
cần xem xét khi thực hiện tinh giản biên chế. Thường xuyên thực hiện rút
kinh nghiệm án hủy, sửa, xác định rõ tính chất, mức độ sai phạm, thiếu sót và
trách nhiệm cá nhân của thẩm phán đối với vụ án bị hủy, sửa. Hàng năm, mỗi
thẩm phán phải đăng ký ít nhất một phiên tòa rút kinh nghiệm, các Tòa phải
thực hiện tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm nghiêm túc để đạt hiệu quả thực
chất, kịp thời khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong việc điều hành phiên
tòa, đảm bảo tranh tụng tại các phiên tòa.
Đề cao kỷ cương, kỷ luật nghiệp vụ; tăng cường công tác kiểm tra,
thanh tra trong hệ thống Toà án. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
nghiệp vụ; phát hiện sớm và khắc phục, xử lý kịp thời các trường hợp vi
phạm pháp luật, vi phạm quy chế nghiệp vụ trong hoạt động của Toà án nói
chung và trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án nói riêng theo đúng Quy
86
định về xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong Toà án nhân dân
được ban hành kèm theo Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017
của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
Tuân thủ đúng quy định của Nhà nước về công tác tuyển dụng; bảo
đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch nếu làm tốt công tác tuyển dụng sẽ tạo ra
một thế hệ cán bộ tốt, tạo nguồn lực phát triển đội ngũ Thẩm phán trong sạch,
vững mạnh. Xây dựng cơ chế thu hút cán bộ có trình độ; sinh viên tốt nghiệp
đại học chuyên ngành luật, chuyên ngành Toà án loại giỏi về công tác tại các
Toà án nhân dân.
Thường xuyên đào tạo cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp
về lý luận chính trị để họ nâng cao bản lĩnh chính trị, và đào tạo trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và các kiến thức bổ trợ khác nhằm thực hiện tốt nhiệm
vụ xét xử.
Để giải quyết tốt các vụ khiếu kiện hành chính có xu hướng ngày càng
tăng, cần đẩy mạnh việc bổ sung, kiện toàn đội ngũ Thẩm phán hành chính
các cấp. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo nghiệp vụ xét xử, đặc biệt là
nghiệp vụ xét xử hành chính để tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán hành chính.
Xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng hàng năm trên cơ sở rà soát,
đánh giá đội ngũ cán bộ, Thẩm phán và các nhiệm vụ trong từng thời kỳ. Chú
trọng việc đào tạo chuyên sâu sau đại học để xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm
phán giỏi trên từng lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Phối hợp, liên
kết với các trường đại học, trung tâm đào tạo khác cùng chuyên ngành để đa
dạng hoá loại hình đào tạo, bồi dưỡng.
Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức,
bản lĩnh nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán. Việc bồi dưỡng cần đi vào các
nội dung thiết thực, phương pháp bồi dưỡng cần thường xuyên thay đổi, cập
nhật phù hợp với từng giai đoạn.
Bên cạnh đó, Hội thẩm nhân dân cũng có vai trò quan trọng trong giải
quyết vụ án hành chính, việc Hội thẩm nhân dân tham gia phiên tòa bảo đảm
87
quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Hội thẩm là
những người sống tại các khu dân cư trên địa bàn và làm việc tại các cơ quan,
tổ chức, cơ sở sản xuất, nên có kinh nghiệm trong hoạt động xã hội, có vốn
kiến thức thực tế phong phú, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, vì vậy
các vị Hội thẩm hiểu rõ tình hình, hoàn cảnh, nguyên nhân, khi tham gia xét
xử giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan, phù hợp với quyền lợi và
nguyện vọng của nhân dân.
Tuy nhiên chất lượng của đội ngũ hội thẩm nhân dân còn hạn chế vì
vậy để hoạt động xét xử bảo đảm qui định của pháp luật thì Hội thẩm nhân
dân phải là những người có kiến thức pháp lý, kiến thức xã hội và có tâm với
công tác xét xử, vì vậy phải có cơ chế để lựa chọn những người có kiến thức
pháp luật, có kiến thức xã hội phong phú, thực sự đại diện cho tiếng nói của
nhân dân để bầu làm Hội thẩm nhân dân, thường xuyên bồi dưỡng, tập huấn
nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm, đáp ứng yêu cầu công tác giải quyết, xét xử
các loại vụ án.
Điều 102 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định nhiệm vụ của Tòa án là
"bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân" [28]. Quy định này vừa thể chế hóa mục tiêu của Chiến lược
cải cách tư pháp là "xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý" [5], vừa phản ánh khát vọng của nhân dân về
một Tòa án đại diện cho công lý trong Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân. Việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là nhiệm vụ trọng tâm mà
Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới. Để Tòa án thực hiện được nhiệm vụ
của mình thì từng thẩm phán phải hiểu được quyền con người và cơ chế,
phương thức bảo vệ quyền con người ở Việt Nam. Giáo dục quyền con người
đang được triển khai vào cuộc sống. Ngày 05/9/2017 Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 1309/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án đưa nội dung
quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân
88
đã chứng tỏ nhà nước ta đã đánh giá vai trò quan trọng của việc giáo dục
quyền con người. Đối với các Thẩm phán là những người thực hiện nhiệm vụ
xét xử, hàng ngày thực hiện các công việc bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, vì vậy nếu không có kiến thức về quyền con người sẽ dẫn đến vi
phạm quyền con người. Nếu các Thẩm phán được trang bị kiến thức về quyền
con người nói chung và quyền con người trong lĩnh vực tư pháp nói riêng, đó
là các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị. Hiện nay, việc giáo dục
quyền con người cho các Thẩm phán chưa được thực hiện một cách bài bản,
nên thực tế vẫn còn vi phạm các quyền con người như quyền bình đẳng,
quyền tự định đoạt, quyền được xét xử kịp thời, không thiên vị…Vì vậy, cần
phải giáo dục quyền con người nói chung và quyền con người trong lĩnh vực
Tư pháp nói riêng một cách có hệ thống, đảm bảo mỗi thẩm phán đều có kiến
thức về quyền con người, bảo đảm cho các phán quyết của Tòa án đúng qui
định của pháp luật, bảo đảm quyền của các đương sự nói chung và quyền của
người khởi kiện nói riêng.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo
đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính.
Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020 đã chỉ rõ:
Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình
đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia
và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng
tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ
quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất
lượng hoạt động tư pháp [4].
Để bảo vệ các quyền con người trong hoạt động tư pháp, mà cụ thể là
các quyền của người khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính thì hệ thống
pháp luật Tố tụng hành chính, pháp luật tổ chức Tòa án phải bảo đảm quyền
89
con người, đặc biệt là đảm bảo quyền con người trong khởi kiện các vụ án
hành chính.
Đối với Luật tố tụng hành chính, cần quy định một khoảng thời hạn
nhất định để bên bị kiện cung cấp lời khai, các tài liệu, chứng cứ chứng mang
tính hợp pháp quyết định hay hành vi bị khởi kiện của mình. Những quy định
như vậy sẽ đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên trong quá trình tố tụng hành
chính. Nếu bên bị kiện không hợp tác, cố tình trốn tránh cần xây dựng các chế
tài xử lý nghiêm khắc để tránh xảy ra tình trạng này.
Nâng cao vai trò của người trợ giúp pháp lý, luật sư bào chữa cho
người khởi kiện khi người khởi kiện không hiểu biết rõ về các quy định của
pháp luật tố tụng hành chính và các văn bản có liên quan đến lĩnh vực hành
chính cần khiếu kiện.
Về việc ủy quyền tham gia tố tụng hành chính của người đứng đầu cơ
quan đơn vị có quyền ủy quyền cho các trưởng, phó phòng ban, cơ quan
chuyên môn tham gia tố tụng để đảm bảo quyền của các đương sự được tham
đối thoại, tranh tụng tại phiên tòa, để đảm bảo bản án, quyết định được ban
hành hợp tình, hợp lý, đúng pháp luật.
Hoạt động xét xử của Tòa án được coi là biểu hiện tập trung nhất của
quyền tư pháp, thể hiện sự bình đẳng trước pháp luật đối với tất cả các cá
nhân, tổ chức. Do đó, để tăng cường tính độc lập của Thẩm phán hành chính,
cần nghiên cứu hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính theo hướng bổ nhiệm
Thẩm phán không có nhiệm kỳ, xác định rõ ràng Thẩm phán là chức danh
nghề nghiệp chứ không phải chức vụ quản lý. Trao cho Tòa án thẩm quyền
lớn hơn Ủy ban nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính
hoặc ban hành các chế tài quy định về việc bắt buộc người bị kiện phải hợp
tác, phải có mặt khi Tòa án triệu tập, cung cấp các tài liệu chứng cứ để giải
quyết vụ án.
Đối với Hội thẩm nhân dân, cần lựa chọn những người có nhiều kiến
thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính nhà nước và hiểu biết sâu sắc về
90
quyền con người, quyền công dân bên cạnh các điều kiện khác.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động của Tòa Hành chính
theo tinh thần cải cách Tư pháp, thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực, tạo điều
kiện thuận lợi nhất và các yếu tố cần thiết, dễ dàng để người dân đặt niềm tin
vào Tòa Hành chính, coi Tòa Hành chính là chỗ dựa vững chắc và cao nhất để
bảo đảm quyền của họ.
Tòa án nhân dân Tối cao kịp thời hướng dẫn áp dụng pháp luật thống
nhất trong phạm vi cả nước, để tránh án bị hủy sửa do cách hiểu pháp luật
khác nhau.
Thứ năm, tăng cường giám sát của Nhà nước và giám sát của xã hội.
Một trong những nhiệm vụ Nghị quyết số 49-NQ/TW đề ra là: "Hoàn
thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân đối với cơ quan tư pháp" [5]. Vì vậy, cần đẩy mạnh việc hoàn thiện
cơ chế giám sát của cơ quan dân cử đối với công tác xét xử: Cần đổi mới
phương thức, nội dung và phạm vi giám sát của Quốc hội theo hướng Quốc
hội thực hiện giám sát tối cao đối với hoạt động của Tòa án nhưng không làm
thay đổi công việc xem xét, kết luận về việc xét xử các vụ án cụ thể của vụ
án; không can thiệp, kết luận việc xét xử sai đúng của tòa án, cũng không kiến
nghị về tội danh hay mức án cụ thể. Qua đó, nhằm đảm bảo pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm hoạt động Tòa án đúng các quy định pháp luật; Việc giám
sát của cơ quan dân cử cần tập trung thực hiện theo hình thức giám sát theo
chuyên đề, theo vấn đề liên quan đến công tác xét xử như chuyên đề án quá
hạn, án tạm đình chỉ lâu năm… nhằm mục đích hỗ trợ và tạo điều kiện cho
Tòa án thực hiện tốt các chức năng.
Bảo đảm hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, của nhân dân đối với
hoạt động tố tụng của Toà án trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án hành
chính nói riêng và các loại án nói chung. Thực hiện Hiến pháp năm 2013 Luật
Tố tụng hành chính năm 2015; theo đó, thẩm quyền của Tòa án được mở
rộng, quyền của các chức danh tư pháp được nâng lên, nhưng đòi hỏi phải
91
nâng cao năng lực, trình độ và bản lĩnh của người Thẩm phán, yêu cầu phải
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo nguyên lý quyền lực Nhà nước
phải có sự kiểm soát.
Việc công khai các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trên Cổng
thông tin điện tử mà hệ thống Tòa án vừa tiến hành là một trong những cơ chế
hữu hiệu để các tầng lớp nhân dân tham gia vào quá trình giám sát đối với
hoạt động xét xử của Tòa án, góp phần nâng cao chất lượng xét xử, tăng
cường trách nhiệm và kỷ luật của Thẩm phán theo tinh thần "Trách nhiệm, kỷ
cương, chất lượng, vì công lý". Vì vậy cần phải đảm bảo hoạt động công bố
bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử Tòa án được thực hiện theo
đúng các quy định tại Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.
Như vậy, để phát huy những thành tựu đã đạt được và khắc phục những
hạn chế trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, bảo đảm tốt quyền của
người khởi kiện tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, thì Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội phải thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng về cải
cách tư pháp, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, tiến hành các thủ
tục tố tụng theo trình tự thủ tục luật định, đảm bảo xây dựng đội ngũ thẩm
phán có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi chuyên môn, thực hiện tốt việc
tuyển chọn hội thẩm nhân có trình độ chuyên môn bảo cho việc cho xét xử.
Bên cạnh đó cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật Tố tụng hành chính và
pháp luật nội dung, các hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật được ban
hành kịp thời, bên cạnh đó cần có sự giám sát chặt chẽ của nhà nước và xã hội
đối với hoạt động của Tòa án.
Với tình hình kinh tế, xã hội phát triển như hiện nay ở nước ta, đặc biệt
là tình hình phát triển của thủ đô Hà Nội thì tình trạng khiếu kiện các vụ án
hành chính ngày càng tăng cao. Là thủ đô của cả nước nên Hà Nội không có
những đặc thù vùng miền riêng biệt… Nói như vậy để thấy rằng những giải
pháp mà Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cần nhìn nhận và áp dụng trong
92
hoạt động tố tụng của mình để đảm bảo quyền của của người khởi kiện trong
vụ án hành chính cũng không nằm ngoài những giải pháp chung đã được đề
cập ở phần trên. Tuy nhiên với tình trạng dân số ngày càng tăng, các khiếu
kiện hành chính ngày càng nhiều thì Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cũng
cần có những giải pháp để giải quyết tình trạng án hành chính tốn đọng, đảm
bảo quyền của người khởi kiện được thực hiện và giải quyết triệt để nhất.
Thứ sáu, tang cường Thẩm phán giải quyết các vụ án hành chính: Tòa
hành chính Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội với số lượng thẩm phán ít
nhưng số lượng thụ lý án hành chính lại quá nhiều không thể tránh khỏi tình
trạng các vụ án tồn đọng không thể giải quyết kịp thời. Giải pháp cho tình
trạng này là cần thiết phải tăng cường thêm Thẩm phán giải quyết án hành
chính. Tuy nhiên do chỉ tiêu biên chế của Tòa hành chính đã được quy định
nên việc tăng cường thêm biên chế Thẩm phán giải quyết án của Tòa hành
chính là không thể thực hiện. Nhưng với cơ cấu tổ chức như hiện tại, mỗi Tòa
án nhân dân cấp quận, huyện đang có biên chế 03 thẩm phán trung cấp bao
gồm: 01 chánh án và 02 phó chánh án. Do đó để giải quyết tình trạng này,
Tòa hành chính Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cần sử dụng 03 thẩm phán
trung cấp ở cấp quận, huyện để tăng cường giải quyết án hành chính dưới
hình thức là thẩm phán tăng cường của Tòa hành chính. Cụ thể: Phân hồ sơ
cho các thẩm phán Trung cấp hiện có biên chế tại Tòa án cấp quận, huyện.
Với số lượng 30 quận, huyện nhân với 03 thẩm phán thì số lượng thẩm phán
giải quyết án hành chính sẽ tăng lên là 90 người đồng nghĩa với việc giải
quyết vụ án hành chính sẽ đảm bảo về thời gian giải quyết vụ án hành chính
nói chung và đảm bảo về quyền của người khởi kiện trong vụ án hành chính
nói riêng.
Thứ bảy, tổ chức các buổi hòa giải đối thoại trực tiếp tại địa điểm Ủy
ban nhân dân nơi có khiếu kiện : do tính chất đặc thù của vụ án hành chính
nên người bị kiện thường có đơn xin vắng mặt tại Tòa án. Vấn đề này gây khó
khăn cho Tòa án trong việc tổ chức đối thoại giữa các bên đương sự. Như đã
93
trình bày ở trên, đối thoại trong vụ án hành chính có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, giúp người khởi kiện, người bị kiện và những đương sự khác trong vụ
án hành chính nhận thức được việc khởi kiện, quyết định bị khởi kiện, hành vi
bị khởi kiện… có đúng hay không đúng để từ có đó phương hướng khắc phục
như rút đơn khởi kiện hoặc hủy bỏ, sửa chữa quyết định hành chính đã ban
hành, hành vi hành chính đã thực hiện… Do đó, để khắc phục tình trạng này,
Tòa hành chính Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội nên khuyến khích thẩm
phán, thư ký tổ chức các buổi hòa giải đối thoại trực tiếp tại địa điểm Ủy ban
nhân dân nơi có khiếu kiện để người bị kiện không có lý do xin vắng mặt
đồng thời có thể cung cấp ngay được các tài liệu chứng cứ Tòa án yêu cầu.
Đây cũng là một giải pháp cần thực hiện ngay để đảm bảo việc giải quyết vụ
án được triệt để.
Thứ tám, kiến nghị với Ủy ban nhân dân các cấp tạo điều kiện về đầu
mối chuyên trách liên hệ để giải quyết các thủ tục liên quan đến vụ án hành
chính: để Tòa án liên hệ được với người có thẩm quyền giải quyết vụ kiện
hành chính của Ủy ban nhân dân cũng là một điều tương đối bất cập vì để ban
hành một Quyết định hành chính cần căn cứ rất nhiều tài liệu của các phòng
ban khác nhau. Do đó, khi Tòa án cần thu thập tài liệu chứng cứ sẽ gặp rất
nhiều khó khăn trong việc liên hệ với ai, phòng ban nào để có thể thu thập tài
liệu chứng cứ một cách đầy đủ và nhanh nhất. Tránh tình trạng thu thập
chứng cứ trong thời gian dài dẫn đến vụ án bị kéo dài, không đảm bảo quyền
và nghĩa vụ cho các đương sự trong vụ án hành chính. Vì vậy Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội cần kiến nghị với Ủy ban nhân dân các cấp tạo điều
kiện về đầu mối chuyên trách liên hệ để giải quyết các thủ tục liên quan đến
vụ án hành chính.
94
KẾT LUẬN
Như vậy, thông qua những quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử
các vụ án Hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, chúng ta thấy
được phần nào thực trạng việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong các
vụ án Hành chính của Nhà nước và pháp luật Việt Nam nói chung và hệ thống
ngành tư pháp nói riêng. Nó là sự cụ thể hóa của Hiến pháp, các văn bản chỉ
đạo của Đảng, Luật tố tụng hành chính cùng những văn bản quy phạm pháp
luật có liên quan trong việc giải quyết các vụ án hành chính. Những quy định
hợp lý của Luật tố tụng hành chính và việc xét xử đúng đắn, chính xác của
Tòa án sẽ đảm bảo cho người khởi kiện trong các vụ án nói chung và người
khởi kiện trong vụ án Hành chính nói riêng được thực hiện đầy đủ các quyền
mà pháp luật đã quy định, bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi
bị xâm phạm không chỉ trong quan hệ Hành chính mà còn giúp củng cố niềm
tin của toàn xã hội đối với việc bảo vệ công lý.
Việt Nam là nước đang phát triển, trong tiến trình hội nhập và tiến lên
xã hội chủ nghĩa thì mục tiêu đảm bảo các quyền con người, quyền công dân
là một trong những mục tiêu quan trọng được thế giới quan tâm chú ý. Vì vậy,
đảm bảo quyền cho người khởi kiện cũng là mục tiêu đảm bảo quyền con
người, quyền công dân đặc biệt là bảo đảm quyền của người khởi kiện trong
giải quyết các vụ án hành chính càng cần được chú trọng vì đây là điều quan
trọng giúp củng cố vững chắc niềm tin của người dân vào chính quyền và vào
sự công bằng của pháp luật.
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2010), Chỉ thị số 44-CT/TW ngày
20/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác nhân quyền
trong tình hình mới, Hà Nội.
2. Nguyễn Hòa Bình (2017), ''Xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán vững
vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ nhằm thực hiện tốt nhiệm
vụ xét xử, bảo vệ công lý'', tại trang http://noichinh.vn/cong-tac-noi-
chinh/201709/xay-dung-doi-ngu-can-bo-tham-phan-vung-vang-ve-ban-
linh-chinh-tri-gioi-ve-nghiep-vu-nham-thuc-hien-tot-nhiem-vu-xet-xu-
bao-ve-cong-ly, [truy cập ngày 12/11/2020].
3. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 02/05/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/07/2010 của Bộ
Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm
sát và Cơ quan điều tra, Hà Nội.
7. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ
Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, Hà Nội.
8. Đại học Đà Lạt (2017), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam,
96
Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
9. Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận và pháp luật về
quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng
Trung ương Đảng, Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Hà (2017), "Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam", tại trang http://tcdcpl.moj.gov.vn
/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=360, [truy cập ngày
05/11/2020]
13. Nguyễn Minh Hà (2019), "Tiếp cận công lý trong tố tụng hành chính"
trong cuốn sách Công lý và quyền tiếp cận công lý, Nxb Hồng Đức, Hà
Nội.
14. Cao Việt Hoàng (2019, ''Tòa án Nhân dân với việc bảo đảm quyền con
người (phần 2)'', tại trang
hvta.toaan.gov.vn/portal/pls/portal/docs/6124604.docx, [truy cập ngày
16/3/2019].
15. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình cao cấp lý
luận chính trị Lý Luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
16. Học viện Chính trị khu vực II (2017), Quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về quyền con người, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
17. Học viện Khoa học Xã hội (2015), Quyền con người, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
18. Học viện Tư pháp (2012), Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án hành
chính, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
19. Đỗ Minh Khôi (2009), "Dân chủ đối với việc bảo đảm quyền con người"
trong cuốn Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học
97
xã hội, Chủ biên, Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. Tường Duy Kiên (2016), "Cụ thể hóa các quy định mới về quyền con
người trong Hiến pháp năm 2013", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13
(13/317), tr.3-9.
21. Hoàng Thị Hoa Lê (2013), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xét xử
sơ thẩm vụ án hành chính, Luật văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội.
22. Liên Hợp quốc (1948), ''Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm
1948'', tại trang https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-
su/Tuyen-ngon-quoc-te-nhan-quyen-1948/65774/noi-dung.aspx, [truy
cập ngày 19/10/2020].
23. Liên Hợp quốc (1966), ''Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự
năm 1966'', tại trang https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-
khac/Cong-uoc-quoc-te-ve-quyen-dan-su-va-chinh-tri-270274.aspx,
[truy cập ngày 19/10/2020].
24. Liên Hợp quốc (2006), Hỏi đáp về quyền con người, New York và
Giơnevơ.
25. Uông Chu Lưu (2006), Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống
các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Đề tài khoa học
cấp nhà nước mã số KX04-06, Hà Nội.
26. Nguyễn Việt Nam (2013), Tranh tụng trong tố tụng hành chính ở Việt
Nam - Lý luận và thực tiễn, Luật văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội.
27. Quốc hội (2003), Nghị quyết 23/2003/QH11 của Quốc hội về nhà đất do
nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính
sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày
01/7/1991, Hà Nội.
28. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.
98
29. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án năm 2014, Hà Nội.
30. Quốc hội (2015), Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Hà Nội.
31. Quốc hội (2011), Luật Khiếu nại năm 2011, Hà Nội.
32. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Thu Hương (2012), "Bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân trong pháp luật hành chính Việt Nam
(một số vấn đề có tính phương pháp luận, định hướng nghiên cứu)'', tại
trang http://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/56473/1/1121-1-
2184-1-10-20160520.pdf, [truy cập ngày 12/10/2020].
33. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 1309/QĐ-TTg ngày
05/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án đưa nội
dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo
dục quốc dân, Hà Nội.
34. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (năm 2018) - Bản án sơ thẩm số
197/2018/HCST ngày 14/12/2018 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét
xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng X Q đối với Quyết định số
4674/QĐ-BGDĐT ngày 11/10/2013 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo “về việc thu hồi bằng tiến sĩ ngành của tế của ông Hoàng X Q tại
Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân”.
35. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội (2019) - Bản án sơ thẩm số
141/2019/HCST ngày 09/8/2019 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét
xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Q và bà Nguyễn Thị L về
việc khiếu kiện quyết định thu hồi, hủy bỏ quyết định giao đất.
36. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội (2019), Bản án số 741/2017/HC-PT
ngày 15 tháng 8 năm 2017 về việc khiếu kiện quyết định hành chính về
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
37. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hà Nội (2019) - Bản án hành
chính phúc thẩm số 39/2019/HC-PT ngày 09 tháng 8 năm 2019 về việc
khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội
99
38. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2019) - Bản án sơ thẩm số
01/2019/HC-ST ngày 27/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện ML.
39. Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2015), Báo cáo tổng kết công tác
năm 2015, Hà Nội.
40. Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2016), Báo cáo tổng kết công tác
năm 2016, Hà Nội.
41. Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2017), Báo cáo tổng kết công tác
năm 2075, Hà Nội.
42. Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2085), Báo cáo tổng kết công tác
năm 2018, Hà Nội.
43. Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2019), Báo cáo tổng kết công tác
năm 2019, Hà Nội.
44. Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2015), Báo cáo tổng kết công tác 9
tháng đầu năm 2015, Hà Nội.
45. Toà Hành chính - Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (1515), Báo cáo
tổng kết công tác năm 2015, Hà Nội.
46. Toà Hành chính - Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2016), Báo cáo
tổng kết công tác năm 2016, Hà Nội.
47. Toà Hành chính - Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2017), Báo cáo
tổng kết công tác năm 2017, Hà Nội.
48. Toà Hành chính - Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2018), Báo cáo
tổng kết công tác năm 2018, Hà Nội.
49. Tòa Hành chính - Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội (2019), Báo cáo
tổng kết công tác năm 2018, Hà Nội.
50. Toà Hành chính - Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2020), Báo cáo
công tác 9 tháng đầu năm 2020, Hà Nội..
51. Toà án nhân dân tối cao (2017), Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP ngày
16/3/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về việc công
bố bản án, quyết định trên cổng thông tin điện tử của toà án, Hà Nội.
100
52. Toà án nhân dân tối cao (2017), Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày
19/6/2017 ban hành quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư
pháp trong toà án nhân dân, Hà Nội.
53. Toà án nhân dân tối cao (2017), Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC
ngày 28/7/2017 của Tòa án nhân dân Tối cao qui định về phòng xử án,
Hà Nội.
54. Trung tâm nghiên cứu quyền con người (2002), Một số văn kiện quốc tế
về quyền con người, Hà Nội.
55. Viện khoa học pháp lý (2005), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách
khoa, Hà Nội,.
56. Nguyễn Tất Viễn (2019), ''Xây dựng cơ chế giám sát liêm chính tư pháp,
kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào Việt Nam'', Kỷ yếu Hội thảo Khoa
học Chiến lược cải cách tư pháp trong Tòa án nhân dân, định hướng đến
năm 2030, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.
57. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2015), Quyền con người, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
58. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2009), Quyền con người, tiếp cận đa ngành
và liên ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
59. Wolfgang Benedek (chủ biên, 2008), Tìm hiểu về quyền con người,
2008, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
60. Nguyễn Thị Hà, Đoàn Minh Trang (2020), "Bảo đảm quyền con người
trong hoạt động tố tụng hành chính", Tòa án nhân dân, Số 2, tr. 25-31.
61. Nguyễn Thị Thủy (2017), "Bảo đảm quyền con người, quyền công dân
theo pháp luật Tố tụng hành chính", Thanh tra, Số 5, tr. 26 - 28.
62. Lê Ngọc Duy (2018), "Bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong
Tố tụng hành chính theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015", Tòa án
nhân dân, Số 16, tr. 25 - 31.
63. Bùi Thị Đào (2018), "Hoàn thiện Luật Tố tụng hành chính bảo đảm quyền
con người, quyền công dân", Nghiên cứu lập pháp, Số 20, tr. 10 - 14.
101
64. Nguyễn Thị Minh Hà (2019), "Quyền con người của đương sự trong tố
tụng hành chính", Kiểm sát, Số 5, tr. 39-46.
65. Lê Ngọc Duy (2018), "Vai trò bảo vệ quyền con người, quyền công dân
trong tố tụng hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện
nay", Khoa học Kiểm sát, Số 3, tr. 57 - 66.
66. Bài viết của Nguyễn Thị Thúy (2017), "Bảo đảm quyền con người trong
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 - một số nhận xét và kiến
nghị", Nghiên cứu lập pháp, Số 9(337), tr. 40 – 45.
102