BỘ NỘI VỤ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐỒNG MINH HOÀN

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – 2021

BỘ NỘI VỤ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐỒNG MINH HOÀN

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LÊ THỊ HOA

HÀ NỘI – 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được

trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Đồng Minh Hoàn

LỜI CẢM ƠN

Với lòng biết ơn sâu sắc và chân thành nhất cho phép em gửi lời cảm

ơn tới các thầy, cô Khoa Nhà nước – Pháp luật và Lý luận cơ sở, Học viện

Hành chính Quốc gia đã tận tình dạy dỗ và tạo điều kiện giúp đỡ em trong

suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Đặc biệt em xin gửi lời cám ơn đến Tiến sĩ Lê Thị Hoa – là người thầy

trực tiếp dạy dỗ em trong quá trình học cũng như đã hướng dẫn, động viên và

tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho em trong suốt quá trình nghiên cứu và

hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Trong bài luận văn, chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế và

thiếu sót. Em mong muốn sẽ nhận được những ý kiến đóng góp từ thầy cô và

những người quan tâm đến đề tài để đề tài được hoàn thiện hơn và có ý nghĩa

thiết thực áp dụng trong thực tiễn cuộc sống.

Xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM

QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN

HÀNH CHÍNH .................................................................................................. 8

1.1. Khái quát chung quyền của người khởi kiện trong vụ án hành chính ....... 8

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính ................................................... 8

1.1.2. Quyền của người khởi kiện trong vụ án hành chính ............................. 10

1.2. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành

chính ................................................................................................................ 18

1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết

các vụ án hành chính ....................................................................................... 18

1.2.2. Phương thức bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các

vụ án hành chính ............................................................................................. 25

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải

quyết các vụ án hành chính ............................................................................. 35

1.3.1. Mức độ hoàn thiện của các quy định pháp luật tố tụng hành chính ..... 35

1.3.2. Trách nhiệm của cơ quan quản lý hành chính, cơ quan được giao quyền

quản lý hành chính và người có thẩm quyền trong cơ quan quản lý hành chính

......................................................................................................................... 36

1.3.3. Năng lực và bản lĩnh của thẩm phán trong xét xử các vụ án hành chính

......................................................................................................................... 38

1.3.4. Trình độ hiểu biết pháp luật của người dân .......................................... 38

1.3.5. Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân .................................. 39

Chương 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN

TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................... 41

2.1. Khái quát về Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội ................................... 41

2.2. Thực trạng vụ án hành chính tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội .... 43

2.2.1. Vụ án sơ thẩm ....................................................................................... 43

2.2.2. Vụ án phúc thẩm ................................................................................... 44

2.3. Thực tiễn bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án

hành chính tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội ........................................ 45

2.3.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 45

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân ............................................................ 63

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM

QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN

HÀNH CHÍNH ................................................................................................ 73

3.1. Phương hướng bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các

vụ án hành chính ............................................................................................. 73

3.1.1. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành

chính với chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền con người,

quyền công dân................................................................................................ 74

3.1.2. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành

chính với bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ công lý ............................ 75

3.1.3. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành

chính với các nhiệm vụ cải cách tư pháp và cải cách hành chính................... 76

3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải

quyết các vụ án hành chính ............................................................................. 78

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 95

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, quyền con người, quyền công dân

không chỉ là quan tâm nội bộ của mỗi quốc gia mà đã trở thành vấn đề được

quốc tế hóa ngày càng sâu rộng. Một trong những chức năng quan trọng và là

tiêu chí đánh giá mức độ dân chủ của một Nhà nước, đó là việc tôn trọng, bảo

vệ, bảo đảm quyền công dân. Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà

nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thì vấn đề bảo đảm quyền công

dân phải được chú trọng hàng đầu, đặc biệt là trong các quan hệ tố tụng nói

chung và tố tụng hành chính nói riêng. Ở nước ta, chú trọng bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của người dân trước sự xâm phạm của quyết định hành

chính, hành vi hành chính trái pháp luật, thể hiện ở cơ chế khởi kiện hành

chính ra Tòa án. Giá trị cơ bản, thiết yếu của việc cho phép cơ quan, tổ chức,

cá nhân được quyền khởi kiện vụ án hành chính và các biện pháp bảo đảm

thực hiện quyền khởi kiện thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta

trong việc bảo vệ và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Hoạt động thực hiện quyền khởi kiện hành chính ra Tòa án và cơ chế

bảo đảm quyền khởi kiện được thực thi trên thực tế đã và đang có tác dụng

tích cực thúc đẩy tinh thần, thái độ, trách nhiệm của cơ quan nhà nước mà chủ

yếu là cơ quan hành chính nhà nước trong việc tăng cường sự quan tâm, cẩn

trọng hơn khi ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính. Từ

đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động hành pháp, xây dựng nền

hành chính mạnh và trong sạch, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Trước yêu cầu thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng,

yêu cầu cụ thể hóa các quy định tại Hiến pháp năm 2013 và để đáp ứng đòi

hỏi từ thực tiễn, hệ thống pháp luật tố tụng hành chính theo thời gian đã từng

bước hoàn thiện, có tính thống nhất ngày càng cao, ghi nhận và bảo đảm

1

quyền con người, quyền công dân bằng pháp luật và bảo đảm quyền công dân

trong lĩnh vực này được thực hiện trên thực tế.

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (có hiệu lực từ 1-7-2016) đã khắc

phục những vướng mắc, bất cập của Luật Tố tụng hành chính năm 2010, tạo

cơ sở pháp lý đầy đủ và hoàn thiện hơn để Tòa Hành chính giải quyết các

khiếu kiện hành chính hiệu quả hơn, mang lại niềm tin của nhân dân đối với

Nhà nước. Thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền, nghĩa

vụ của mình; đề cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc

bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền

công dân. Điều này cũng đồng nghĩa là cá nhân, tổ chức càng có nhiều điều

kiện, cơ hội để bảo vệ các quyền của mình khi bị quyết định hành chính, hành

vi hành chính của hệ thống hành chính nhà nước và các cơ quan khác của nhà

nước xâm phạm tới.

Mặc dù vậy, thực tiễn hiện nay cho thấy quyền khởi kiện vụ án hành

chưa thực sự nhận được sự quan tâm đúng mức của cơ quan nhà nước và nhân

dân. Mặt khác, quá trình thực hiện các quyền của người khởi kiện chưa thực

sự được bảo đảm. Tình trạng vi phạm quyền của người khởi kiện vẫn còn tồn

tại ở một số Tòa án các cấp.

Thành phố Hà Nội với vị trí là thủ đô của cả nước, với diện tích rộng

lớn, phạm vi quản lý hành chính đa dạng, phức tạp, bên cạnh đó mật độ dân

cư đông đúc, trình độ dân trí không đồng đều đã dẫn đến những khác biệt so

với các địa phương khác. Diện tích thành phố Hà Nội được mở rộng (sát nhập

tỉnh Hà Tây cũ) dẫn đến sự đòi hỏi phải phát triển các cơ sở hạ tầng cho phù

hợp với tiêu chí thành phố trực thuộc Trung ương. Cụ thể đó là sự phát triển

các dự án đô thị hóa, xây dựng các cơ sở hạ tầng, đường xá…. Để thực hiện

được chủ trương này thì cơ quan hành chính ở địa phương phải ban hành rất

nhiều các quyết định hành chính như thu hồi đất đai, đền bù giải phóng mặt

bằng… dẫn đến phát sinh nhiều tranh chấp hành chính do những quyết định

hành chính này ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của rất nhiều cá

2

nhân, tổ chức và hiệu quả tất yếu là yêu cầu khởi kiện vụ án hành chính tại

thành phố Hà Nội số lượng ngày càng tăng cao.

Thời gian qua, thông qua chức năng xét xử Tòa án nhân dân thành phố

Hà Nội đã xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của các quyết định hành chính,

hành vi hành chính nhằm đưa ra phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ

việc, từ đó, nhân danh nhà nước đưa ra phán quyết tương ứng với bản chất,

mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc là chỗ dựa của nhân dân

trong bảo vệ công lý, triệt để tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền

công dân. Tuy nhiên, hàng năm số lượng vụ án hành chính thụ lý ngày càng

cao nhưng số lượng vụ án được giải quyết lại chiếm tỉ lệ khá thấp. Chính vì

vậy, việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải pháp tăng cường bảo đảm

quyền của người khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính đặt ra rất cần

thiết trong tình hình hiện nay. Chính vì vậy, học viên mạnh dạn lựa chọn đề

tài “Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành

chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội" để làm luận văn cao học

Luật Hiến pháp – Luật Hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Liên quan đến tên đề tài hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào

được công bố. Các công trình được công bố đã nghiên cứu những vấn đề có

liên quan đến tên đề tài. Có thể kể đến các công trình sau:

Đề tài khoa học cấp nhà nước do Uông Chu Lưu (2006), Cải cách cơ

quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực xét

xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,

vì dân, Đề tài khoa học cấp nhà nước mã số KX04-06, Hà Nội [25];

Bài viết của Đỗ Minh Khôi (2009), "Dân chủ đối với việc bảo đảm

quyền con người" trong cuốn Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên

ngành khoa học xã hội, Chủ biên, Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội [19];

3

Bài viết của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Thu Hương (2012), "Bảo

đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong pháp luật hành chính

Việt Nam (một số vấn đề có tính phương pháp luận, định hướng nghiên

cứu)''[32];

Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Việt Nam (2013), Tranh tụng trong tố

tụng hành chính ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Luật văn thạc sĩ Luật học,

Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội [26];

Luận văn thạc sĩ của Hoàng Thị Hoa Lê (2013), Một số vấn đề lý luận

và thực tiễn về xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, Đại học Luật Hà Nội, Hà

Nội. [21];

Bài viết của Tường Duy Kiên (2016), "Cụ thể hóa các quy định mới về

quyền con người trong Hiến pháp năm 2013", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp

[20];

Bài viết của Nguyễn Thị Thúy (2017), "Bảo đảm quyền con người

trong Luật Tố tụng hành chính năm 2015 - một số nhận xét và kiến

nghị", Nghiên cứu lập pháp, Số 9 (337), tr. 40 – 45 [66];

Bài viết của Nguyễn Thị Thủy (2017), "Bảo đảm quyền con người,

quyền công dân theo pháp luật Tố tụng hành chính", Thanh tra, Số 5, tr. 26 –

28 [61];

Bài viết của Nguyễn Thị Hà (2017), "Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng

tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam", tại trang

http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-at.aspx?ItemID=360 12];

Bài viết của Lê Ngọc Duy (2018), "Bảo vệ quyền con người, quyền

công dân trong Tố tụng hành chính theo Luật Tố tụng hành chính năm

2015", Tòa án nhân dân, Số 16, tr. 25 – 31 [62];

Bài viết của Bùi Thị Đào (2018), "Hoàn thiện Luật Tố tụng hành chính

bảo đảm quyền con người, quyền công dân", Nghiên cứu lập pháp, Số 20, tr.

10 – 14 [63];

4

Bài viết của Lê Ngọc Duy (2018), "Vai trò bảo vệ quyền con người,

quyền công dân trong tố tụng hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân ở Việt

Nam hiện nay", Khoa học Kiểm sát, Số 3, tr. 57 – 66 [65];

Bài viết của Cao Việt Hoàng (2019), ''Tòa án Nhân dân với việc bảo

đảm quyền con người (phần 2)'', tại trang

hvta.toaan.gov.vn/portal/pls/portal/docs/6124604.docx, [14].

Bài viết của Nguyễn Thị Minh Hà (2019), "Quyền con người của

đương sự trong tố tụng hành chính", Kiểm sát, Số 5, tr. 39-46 [64];

Bài viết của Nguyễn Minh Hà (2019), "Tiếp cận công lý trong tố tụng

hành chính" trong cuốn sách Công lý và quyền tiếp cận công lý, Nxb Hồng

Đức, Hà Nội [123];

Bài viết của Nguyễn Thị Hà, Đoàn Minh Trang (2020), "Bảo đảm

quyền con người trong hoạt động tố tụng hành chính", Tòa án nhân dân, Số 2,

tr. 25-31 [60];

Những công trình nói trên đã phần nào đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền

của con người trong lĩnh vực tố tụng nói chung và tố tụng hành chính nói

riêng ở những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, các công trình này chưa

nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên biệt về bảo đảm quyền của người

khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành

phố Hà Nội. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa thiết thực về mặt lý

luận cũng như về thực tiễn, đưa ra những giải pháp nhằm bảo vệ quyền của

người bị kiện trong vụ án hành chính, đáp ứng yêu cầu mà mục tiêu của Chiến

lược cải cách tư pháp đã đề ra.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.1. Mục đích

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý về bảo đảm quyền

của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính. Đồng thời, đánh

giá việc bảo đảm quyền của người khởi kiện tại Tòa án nhân dân Thành phố

Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người

khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính.

5

3.2. Nhiệm vụ

Để thực hiện những mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào

giải quyết những nhiệm vụ sau:

+ Nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý về quyền của người khởi kiện

trong giải quyết các vụ án hành chính;

+ Nghiên cứu khái niệm, vai trò, phương thức bảo đảm quyền của

người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính.

+ Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền của người khởi kiện tại Tòa án

nhân dân Thành phố Hà Nội. Qua đó, làm sáng tỏ những kết quả đạt được,

hạn chế và nguyên nhân trong việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong

giải quyết các vụ án hành chính.

+ Đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm

quyền của người khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nhiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật về

bảo đảm quyền của khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính và thực tiễn

bảo đảm quyền của người khởi kiện qua hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân

Thành phố Hà Nội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu quyền của người khởi kiện và

việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong xét xử vụ án hành chính tại

Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.

Phạm vi không gian: Luận văn phân tích đánh giá việc bảo đảm quyền

của người khởi kiện trong xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành

phố Hà Nội.

Phạm vi thời gian: Những số liệu thống kê nhằm đánh giá thực trạng

việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong xét xử vụ án hành chính tại

Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến năm 2020.

6

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng

Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam

và Nhà nước Việt Nam về quyền con người và bảo đảm quyền con người.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong nghiên cứu là

phương pháp hệ thống, lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh luật học.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

- Về lý luận: Luận văn vận dụng lý luận về quyền con người và bảo

đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp để nghiên cứu về việc bảo đảm

quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính

- Về thực tiễn: Quá trình nghiên cứu sẽ phát hiện những vướng mắc,

hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về việc bảo đảm quyền của

người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính từ thực tiễn Tòa án

nhân dân Thành phố Hà Nội.

- Đề xuất các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người khởi kiện

trong giải quyết các vụ án hành chính, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn

gồm 3 chương với kết cấu như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về bảo đảm quyền của

người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính.

Chương 2: Thực tiễn bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải

quyết các vụ án hành chính tại Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội

Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của

người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân

Thành phố Hà Nội

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA

NGƯỜI KHỞI KIỆN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

1.1. Khái quát chung quyền của người khởi kiện trong vụ án hành

chính

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính

Quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động của Nhà nước được

thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội

dung là bảo đảm sự chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ

quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức thực hiện pháp luật đối với các cá

nhân, cơ quan, tổ chức trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội và hành

chính – chính trị. Hoạt động này được thực thi trên cơ sở pháp luật, đảm bảo

các quyền và lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Bởi vậy, trong quá trình

thực hiện quản lý hành chính nhà nước khó có thể tránh khỏi sự xung đột hay

tranh chấp về lợi ích, quan điểm áp dụng pháp luật giữa chủ thể quản lý hành

chính nhà nước và đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Những xung đột,

tranh chấp này chủ yếu xuất phát từ việc chủ thể quản lý hành chính nhà nước

đơn phương áp đặt ý chí của mình gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp

pháp của đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Khi những xung đột, tranh

chấp này bị đẩy lên cao, các bên phải đưa ra Tòa án có thẩm quyền để giải

quyết thì sẽ phát sinh vụ án hành chính. Vì vậy có thể khái quát về vụ án hành

chính là vụ việc phát sinh trên cơ sở tranh chấp trong các lĩnh vực quản lý

hành chính nhà nước.

Hiện nay khái niệm vụ án hành chính chưa được quy định cụ thể trong

một văn bản quy phạm pháp luật nào. Tuy nhiên, khi đề cập đến khái niệm

này, ta có thể hiểu như sau: “Vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp hành

chính phát sinh do cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức

khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

8

mình bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ

luật buộc thôi việc hoặc do Viện kiểm sát khởi tố theo quy định của pháp luật

tố tụng hành chính”.

Như vậy, có thể hiểu vụ án hành chính là vụ án phát sinh khi cá nhân,

cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét tính hợp pháp của quyết

định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc (công

chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống), quyết định

giải quyết khiếu nại và quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri

của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước và được

Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.

Vụ án hành chính có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, vụ án hành chính chỉ phát sinh khi có yêu cầu khởi kiện của

các chủ thể có quyền và được Tòa án thụ lý. Nếu yêu cầu khởi kiện là điều

kiện cần việc được Tòa án thụ lý là điều kiện đủ. Các chủ thể có thẩm quyền

là các cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình, khi cho rằng quyền lợi của họ bị quyết định hành chính, hành

vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu

nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri xâm

phạm. Khởi kiện vụ án hành chính là sự kiện pháp lý đầu tiên trong quá trình

tố tụng hành chính, làm phát sinh mối quan hệ tố tụng giữa chủ thể khởi kiện

và Tòa án, là cơ sở để Tòa án thụ lý vụ án. Tòa án chỉ có thẩm quyền giải

quyết vụ án hành chính khi có yêu cầu khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ

chức nếu vụ án đó thuộc thẩm quyền của mình và đã được thụ lý.

Thứ hai, Tòa án phải giải quyết vụ án theo trình thụ thủ tục do pháp

luật tố tố tụng hành chính quy định. Tố tụng hành chính là một thủ tục tư pháp

riêng biệt, khác với tố tụng hình sự và tố tụng dân sự ở quan hệ pháp luật tố

tụng, ở chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật tố tụng, ở trình tự xét xử và thi

hành án, do đặc thù của các tranh chấp hành chính.

Thứ ba, đối tượng khởi kiện vụ án hành chính là: 1) quyết định hành

9

chính (văn bản các biệt do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm

quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể và chỉ

được áp dụng một lần); 2) hành vi hành chính (hành vi thực hiện hoặc không

thực hiện nhiệm vụ công vụ); 3) quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức

(giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống); 4) quyết định

giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; 5) danh sách cử

tri (danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu

Hội đồng nhân dân, danh sách cử tri trưng cầu ý dân).

1.1.2. Quyền của người khởi kiện trong vụ án hành chính

Để hiểu rõ được quyền của người khởi kiện trong vụ án hành chính thì

trước hết cần hiểu thế nào là quyền khởi kiện: Quyền khởi kiện là quyền của

mỗi cá nhân hoặc cơ quan nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

hoặc của người khác. Khi khởi kiện, cá nhân, cơ quan, tổ chức nộp đơn khởi

kiện kèm theo các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình là hợp pháp đến

Tòa án có thẩm quyền để được giải quyết.

Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta tiếp tục xây dựng

và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,

do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước có kỷ cương, kỷ luật. Nhà nước quản

lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ

nghĩa. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, điều hành, có thể có cơ quan hành

chính nhà nước và cán bộ, công chức có những quyết định hoặc hành vi trái

pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá

nhân, từ đó làm phát sinh các khởi kiện hành chính.

Khởi kiện vụ án hành chính chính là sự kiện pháp lý, là hành vi tố tụng

đầu tiên và thuộc quyền định đoạt của người khởi kiện, làm phát sinh quan hệ

pháp luật tố tụng hành chính giữa Tòa án với người tham gia tố tụng, cơ quan

và người tiến hành tố tụng khác. Không có khởi kiện vụ án hành chính thì

không thể phát sinh vụ án hành chính tại Tòa án.

10

Khởi kiện vụ án hành chính là sự kiện pháp lý đầu tiên làm phát sinh

quan hệ tố tụng hành chính, là sự thể hiện phản ứng của cá nhân, cơ quan, tổ

chức khi họ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan

nhà nước xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, khởi

kiện vụ án hành chính không đơn thuần là một sự kiện pháp lý mà là quyền

con người, quyền công dân.

Điều 5 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định “Cơ quan, tổ chức,

cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật này”.

Đến nay chưa có khái niệm quyền khởi kiện vụ án hành chính được ghi

nhận trong các văn bản pháp luật. Tuy vậy, có thể hiểu: “Quyền khởi kiện vụ

án hành chính là việc cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước, theo quy định của

pháp luật tố tụng hành chính có quyền yêu cầu tòa án thụ lý án hành chính để

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước, công

chức bị xâm hại bởi các quyết định hành chính, quyết định kỉ luật buộc thôi

việc”.

Quyền khởi kiện vụ án hành chính ở nước ta được ghi nhận lần đầu tiên

tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996, theo đó tại

Điều 1 quy định: “Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp

luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà án bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. Giá trị cơ bản, thiết yếu của việc cho

phép cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện vụ án hành chính và các

biện pháp bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện thể hiện sự quan tâm của Đảng

và Nhà nước ta trong việc bảo vệ và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của

công dân. Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính trong thời gian qua của các

cấp Tòa án ở nước ta đã chứng minh được giá trị tích cực này.

Hoạt động thực hiện quyền khởi kiện hành chính ra Tòa án và cơ chế

bảo đảm quyền khởi kiện được thực thi trên thực tế đã và đang có tác dụng

tích cực thúc đẩy tinh thần, thái độ, trách nhiệm của cơ quan nhà nước mà chủ

11

yếu là cơ quan hành chính nhà nước trong việc tăng cường sự quan tâm, cẩn

trọng hơn khi ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính. Từ

đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động hành pháp, xây dựng nền

hành chính mạnh và trong sạch, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Tuy nhiên, quyền của người khởi kiện theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết

các vụ án hành chính năm 1996 rất hạn chế, cụ thể người khởi kiện chỉ có

quyền lựa chọn một trong hai hình thức khiếu nại đến Ủy ban nhân dân các

cấp hoặc khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính ra Tòa án…

Tức là khi ý chí của họ lựa chọn theo hình thức nào thì chỉ có thể chấp nhận

phán quyết của hình thức đó. Như vậy đồng nghĩa với việc quyền khởi kiện

của người khởi kiện bị hạn chế rất nhiều, nếu không đồng ý với kết quả trả lời

khiếu nại thì người bị thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành

chính… không có quyền khởi kiện ra Tòa án để tiếp tục được bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của mình.

Luật tố tụng hành chính năm 2015 ra đời đã ghi nhận một cách đầy đủ

quyền của người khởi kiện vụ án hành chính phù hợp với tình hình thực tiễn

cũng như nâng cao việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện.

Quyền khởi kiện vụ án hành chính được quy định chi tiết tại Điều 115

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 như sau:

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết

định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc trong

trường hợp không đồng ý với quyết định, hành vi đó hoặc đã khiếu nại với

người có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định

của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết

nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi đó.

- Tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với việc giải quyết

khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trong trường hợp không

đồng ý với quyết định đó.

12

- Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án về danh sách cử tri trong trường hợp

đã khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhưng hết thời hạn giải

quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã

được giải quyết, nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại đó.

Từ những phân tích trên có thể hiểu “Quyền của người khởi kiện là tập

hợp các quyền mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có được khi tham gia quá trình

xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân.”

Theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính hiện nay, người khởi

kiện có các quyền cụ thể sau:

- Quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và quyền

khởi kiện vụ án hành chính: khởi nguồn cho quy trình tố tụng và được xem

như một quyền “hiến định”, quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp được quy định tại Điều 5, Luật Tố tụng hành chính năm 2015: “Cá

nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà

án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật

này”. Tiếp theo đó, Điều 103, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về

quyền khởi kiện vụ án hành chính, trong đó quy định quyền khởi kiện đối với

các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định giải quyết khiếu

nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bầu cử đại biểu

Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

- Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện: được quy định

tại Điều 7, Luật Tố tụng hành chính năm 2015: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức

có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án hành chính. Toà án chỉ thụ lý giải

quyết vụ án hành chính khi có đơn khởi kiện của người khởi kiện. Trong quá

trình giải quyết vụ án hành chính, người khởi kiện có quyền rút, thay đổi, bổ

sung yêu cầu khởi kiện của mình theo quy định của Luật này”. Theo đó, cá

nhân, tổ chức có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án hành chính khi thấy

quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định hành chính,

hành vi hành chính…. Người khởi kiện có quyền tự định đoạt trong việc đưa

13

ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc. Quyền tự định đoạt có thể được

xem là tiền đề để tiến hành các thủ tục tố tụng tiếp theo trong việc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Bên cạnh quyền khởi kiện vụ

án hành chính, thì luật tố tụng hành chính cũng quy định rất rõ ràng về quyền

quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện thông qua việc trong quá trình

giải quyết vụ án hành chính, người khởi kiện có quyền rút, thay đổi, bổ sung

yêu cầu khởi kiện của mình. Ngoài ra theo mô hình xây dựng Trung tâm hòa

giải thực hiện thí điểm tại Tòa án trong năm 2018, 2019 thì quyền quyết định

và tự định đoạt của người khởi kiện còn có thể được thực hiện trong quá trình

đối thoại trước khi Tòa án thụ lý vụ án hành chính nhằm hỗ trợ các bên thống

nhất giải quyết quan hệ pháp luật hành chính có tranh chấp. Như vậy, trước

khi Tòa án giải quyết vụ kiện hành chính, người khởi kiện có thể có nhiều sự

lựa chọn mà pháp luật cho phép. Mọi tác động bên ngoài ý chí của người khởi

kiện đều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận. Quyền tự định đoạt

thể hiện sự tôn trọng các quyền cơ bản của con người, trong đó vai trò của

người khởi kiện luôn được đề cao trông tất cả các giai đoạn tố tụng.

- Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại: Theo quy định tại Điều 6, Luật

Tố tụng hành chính năm 2015 thì: “Người khởi kiện có thể yêu cầu bồi thường

thiệt hại. Trong trường hợp này các quy định của pháp luật về trách nhiệm

bồi thường của Nhà nước và pháp luật về tố tụng dân sự được áp dụng để

giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Quyền này cho phép người khởi

kiện kèm theo yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp xác định được

thiệt hại do hành vi hành chính, quyết định hành chính gây ra. Tuy nhiên cần

lưu ý là không phải yêu cầu bồi thường thiệt hại nào cũng được giải quyết

ngay trong vụ án hành chính, trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt

hại mà chưa có điều kiện để chứng minh thì Toà án có thể tách yêu cầu bồi

thường thiệt hại để giải quyết sau bằng một vụ án dân sự khác theo quy định

của pháp luật.

14

- Quyền được bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: được

quy định tại Điều 11, Luật Tố tụng hành chính năm 2015, theo đó: “Đương sự

tự mình hoặc có thể nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình. Toà án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện

quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”. Đối với người khởi kiện,

quyền này có thể hiểu là quyền yêu cầu người đại diện hoặc quyền yêu cầu

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Nghĩa là để bảo vệ tốt nhất cho

quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì người khởi kiện có quyền yêu cầu

người đại diện, thuê luật sư hoặc nhờ người khác am hiểu về pháp luật thay

họ đứng ra bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án. Toà án có

trách nhiệm bảo đảm cho người khởi kiện thực hiện quyền bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của họ. Đây cũng là quy định được Tòa án rất khuyến khích,

tránh trường hợp người không có kiến thức pháp luật, không có khả năng bảo

vệ cho mình dẫn đến những thiệt hại không đáng có cho họ do không thu thập

đủ chứng cứ để có thể bảo vệ quyền và lợi ích của chính mình.

- Quyền khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện: Mặc dù Luật TTHC

năm 2015 quy định cho cá nhân, cơ quan, tổ chức quyền khởi kiện để yêu cầu

Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, trong một số

trường hợp khi người khởi kiện nộp đơn thì bị Tòa án trả lại đơn khởi kiện.

Trong trường hợp bị trả lại đơn khởi kiện, pháp luật quy định cho người khởi

kiện quyền khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện. Điều 110, Luật TTHC năm

2015 quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với những trường hợp

bị trả lại đơn khởi kiện. Theo đó: “Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ

ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu

nại với Chánh án Toà án đã trả lại đơn khởi kiện”. Trong thời hạn 03 ngày

làm việc kể từ ngày nhận đơn khiếu nại, Chánh án Tòa án phải ra quyết định

giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật. Trường hợp không đồng ý

với quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án thì trong thời hạn 10 ngày

làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người khởi

15

kiện có quyền khiếu nại lên Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp. Trong thời

hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án Toà án cấp

trên trực tiếp phải giải quyết. Quyết định của Chánh án Toà án cấp trên trực

tiếp là quyết định giải quyết cuối cùng. Ví dụ, Tòa án nhân dân cấp huyện trả

lại đơn khởi kiện thì người khởi kiện có quyền khiếu nại lần đầu lên Chánh án

Tòa án nhân dân huyện đó, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu

nại thì tiếp tục được khiếu nại lần 2 lên Chánh án tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 là quyết định giải quyết cuối cùng.

- Quyền đề nghị xét xử vắng mặt: Khi người khởi kiện có đơn đề nghị

Tòa án xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện của họ tham gia phiên tòa thì

người khởi kiện có thể vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm. Trong trường hợp này,

Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

- Quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,

người phiên dịch: Khi có căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng, người giám

định, người phiên dịch thuộc trường hợp luật quy định không được tham gia

tố tụng hoặc không vô tư khách quan khi thực hiện hoạt động tố tụng thì

người khởi kiện có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người

giám định và người phiên dịch nhằm đảm bảo tính khách quan của những

người này khi tham gia phiên tòa.

- Quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi

kiện: Trong suốt quá trình tố tụng và kể cả tại phiên tòa sơ thẩm, người khởi

kiện có quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện;

Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của người khởi

kiện nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu

cầu khởi kiện. Riêng trường hợp người khởi kiện rút một phần hoặc toàn bộ

yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp

nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu mà đương

sự đã rút. Tuy nhiên về nguyên tắc, nếu người khởi kiện rút đơn khởi kiện

trong giai đoạn này thì Tòa đình chỉ giải quyết vụ án, nghĩa là quyết định

16

hành chính bị kiện đương nhiên có hiệu lực. Vì vậy, người khởi kiện nên cân

nhắc về quyền lợi của mình trước khi rút đơn khởi kiện.

- Quyền yêu cầu Hội đồng xét xử công bố các tài liệu của vụ án, nghe

băng ghi âm, xem băng đĩa hình, đĩa ghi hình. Tại phiên tòa, người khởi kiện

có quyền yêu cầu Hội đồng xét xử công bố các tài liệu của vụ án, cho nghe

băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng đĩa hình, đĩa ghi hình, trừ trường hợp đặc biệt

cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật

nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu của

đương sự thì Hội đồng xét xử không công bố các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

- Quyền được cấp trích lục bản án, bản án, quyết định của Toà: Sau

khi tuyên án Tòa án có trách nhiệm cấp, gửi trích lục bản án, bản án cho

những cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan để những người này biết và thực

hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Điều 166 Luật Tố tụng hành chính quy định

về việc cấp, gửi trích lục bản án, bản án của tòa án như sau: Trong thời hạn 03

ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc phiên toà, các đương sự được Toà án cấp

trích lục bản án. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày tuyên án, Toà án phải

cấp, gửi bản án cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn

30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng

cáo, kháng nghị, Toà án cấp, gửi bản án đã có hiệu lực pháp luật cho các

đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp, cơ

quan cấp trên trực tiếp của người bị kiện.

- Quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án: Trong

trường hợp người khởi kiện không đồng ý với phán quyết của Tòa án thì

người khởi kiện có quyền kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án.

Theo quy định thì: “Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ

thẩm là 15 ngày, kể từ ngày Toà án tuyên án; trường hợp đương sự vắng mặt

tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc

được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú hoặc nơi có trụ

sở, trong trường hợp đương sự là cơ quan, tổ chức. Thời hạn kháng cáo đối

17

với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm

là 07 ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.

Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được

tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì”.

1.2. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án

hành chính

1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa bảo đảm quyền của người khởi kiện trong

giải quyết các vụ án hành chính

Theo từ điển tiếng Việt, bảo đảm được hiểu là làm cho chắc chắn thực

hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết để có thể thực

hiện được. Bảo đảm có thể hiểu là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn

được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết để có thể thực hiện được.

Bảo đảm các quyền con người, quyền công dân là việc tạo ra các tiền

đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công

dân, các tổ chức của công dân thực hiện được các quyền, tự do, lợi ích chính

đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận. Bảo đảm quyền công dân trong tố

tụng hành chính là bảo đảm quyền công dân trong hoạt động tư pháp, là việc

Nhà nước thiết lập các điều kiện cần thiết nhằm tôn trọng và thực hiện các

quyền công dân của các cá nhân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành

chính bằng con đường tố tụng

Đảm bảo quyền khởi kiện trong tố tụng hành chính có thể hiểu là tổng

thể các biện pháp, các cơ chế hỗ trợ hoặc tạo điều kiện cần thiết cho các

đương sự có thể thực hiện quyền khởi kiện. Đồng thời, việc đảm bảo này còn

được thực hiện thông qua chính các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng

như Tòa án, Viện kiểm sát. Chính các biện pháp và cơ chế này là cơ sở đảm

bảo tính khả thi của quyền khởi kiện, là cơ sở để quyền khởi kiện được thực

hiện một cách có hiệu quả trên thực tế nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của

người dân được pháp luật ghi nhận và bảo hộ.

18

Từ đó, khái niệm bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết

các vụ án hành chính là tạo cho các chủ thể có quyền khởi kiện có đủ các

điều kiện cần thiết, chắc chắn thực hiện được trên thực tế, quyền khởi kiện ra

Tòa án nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình thông qua các biện

pháp được pháp luật quy định.

Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành

chính là bảo đảm quyền công dân trong hoạt động tư pháp, là việc Nhà nước

thiết lập các điều kiện cần thiết nhằm tôn trọng và thực hiện các quyền công

dân của các cá nhân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính bằng con

đường tố tụng. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chủ thể bảo đảm

quyền của người khởi kiện là Tòa án nhân dân thông qua hoạt động xét xử.

Các vụ án hành chính được giải quyết bởi Tòa Hành chính nằm trong

hệ thống Tòa án nhân dân theo một cơ chế riêng được điều chỉnh bởi ngành

Luật Tố tụng hành chính. Các điều kiện pháp lý bảo đảm quyền công dân

trong tố tụng hành chính bao gồm: Có hệ thống pháp luật tố tụng hành chính

hợp hiến, có tính thống nhất, tính khả thi; có hệ thống Tòa Hành chính hoạt

động có hiệu lực, hiệu quả với những thẩm phán hành chính có trình độ

chuyên môn tốt và đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng; có cơ chế kiểm

tra, giám sát chặt chẽ của Viện Kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết

vụ án hành chính; các phán quyết của Tòa hành chính phải được bảo đảm

thực thi.

Bảo đảm quyền khởi kiện có ý nghĩa thiết thực và hết sức quan trọng

đối với quyền lợi của công dân, mà trước hết là những chủ thể có quyền, lợi

ích hợp pháp bị xâm hại, đảm bảo tính khả thi trong quá trình thực thi quyền

khởi kiện trên thực tế.

Bên cạnh đó việc ghi nhận quyền khởi kiện vụ án hành chính và sự bảo

đảm của pháp luật trong việc thực hiện những quyền này góp phần nâng cao ý

thức pháp luật của các chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng hành chính nói

riêng và quan hệ pháp luật hành chính nói chung. Từ việc nâng cao ý thức

19

pháp luật của các chủ thể có liên quan, qua đó sẽ góp phần giảm thiểu vụ việc

bị xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp, từ đó giảm thiểu được những vụ kiện tụng

hành chính không cần thiết, gây tốn kém.

Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án hành

chính có ý nghĩa sau:

Thứ nhất, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ

án hành chính góp phần bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN hoạt động theo

Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, làm rõ bản chất của

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đó là Nhà nước của Nhân dân, do

Nhân dân, vì Nhân dân. Theo đó, Nhà nước pháp quyền thượng tôn Hiến pháp

và pháp luật, các quy định tại Hiến pháp là nền tảng cho toàn bộ hệ thống luật

pháp bởi những điều luật này sẽ được cụ thể hóa thành các bộ luật, luật để

điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mọi chủ thể trong xã hội đều phải tuân thủ

Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, ở Nhà nước pháp quyền có sự bình đẳng

giữa mọi người (nhà nước, tập thể và cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật),

không phân biệt đối xử trong việc công nhận, thụ hưởng và phát triển các

quyền con người, quyền công dân. Điều đó cho thấy, Nhà nước pháp quyền

phải xác lập được cơ chế bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện khi người

dân tham gia vào các quan hệ xã hội và khi có tranh chấp; đặc biệt khi phát

sinh tranh chấp hành chính giữa công dân với các cơ quan nhà nước hoặc với

người có thẩm quyền thì chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền phán xét việc tuân

thủ pháp luật của các bên và hệ thống Tòa án độc lập sẽ là bảo đảm cuối cùng

cho công dân có đủ khả năng và điều kiện bảo đảm quyền khởi kiện của mình

khi bị xâm hại. Do vậy, việc Nhà nước tạo các điều kiện pháp lý nhằm bảo đảm

quyền khởi kiện trong TTHC sẽ góp phần bảo đảm quyền con người, quyền và

lợi ích hợp pháp của công dân trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.

Thứ hai, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án

hành chính góp phần thực hiện trách nhiệm của Nhà nước trước công dân.

20

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước chịu trách nhiệm trước

công dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công dân thực hiện các

nghĩa vụ trước nhà nước và xã hội, tức là trách nhiệm của các cơ quan nhà

nước, người có thẩm quyền trong phạm vi thẩm quyền của mình phải có trách

nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đẩy xã hội hay

chí ít là lĩnh vực mình phụ trách đi lên, làm cho người dân được hưởng lợi,

lúc này trách nhiệm của nhà nước được hiểu là nghĩa vụ mà nhà nước phải

gánh vác. Theo đó, nhà nước là chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ công lý, bảo vệ,

bảo đảm quyền con người, bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân

thông qua việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người,

quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã hội theo Hiến pháp

và pháp luật. Nhà nước chủ động, tích cực xây dựng hệ thống pháp luật, các

chương trình, kế hoạch và triển khai đồng bộ xuyên suốt các nội dung bảo

đảm quyền công dân trong các chương trình xây dựng pháp luật của Quốc

hội. Hiến pháp và pháp luật là cơ sở, căn cứ pháp lý để công dân thực hiện

các quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ

hành chính. Hiến pháp được coi là công cụ quan trọng hàng đầu được Nhà

nước sử dụng để bảo đảm quyền công dân, là “điều kiện tiên quyết cho việc

đảm bảo các quyền cơ bản của công dân. Trong TTHC, nguyên tắc hiến định

đã được Luật TTHC năm 2015 cụ thể hóa là nguyên tắc: “Thẩm phán, Hội

thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, theo đó, trong quá

trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị ảnh hưởng bởi bất cứ

cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào, việc ra phán quyết về tính hợp pháp của

quyết định hành chính, hành vi hành chính chỉ trên cơ sở quy định của pháp

luật. Mục đích của nguyên tắc này nhằm bảo đảm quyền khởi kiện, quyền

bình đẳng của người khởi kiện trước pháp luật, đồng thời tránh sự can thiệp,

tác động của các cơ quan hành pháp, lập pháp vào hoạt động xét xử của Tòa

án, tránh sự “tùy tiện” từ phía Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi đưa ra

các quyết định. Nhà nước bảo đảm nguyên tắc này được thực hiện trên thực tế

21

bằng các hình thức khác nhau trong đó có việc “nghiêm cấm các cơ quan, tổ

chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

dưới bất kỳ hình thức nào”. Có thể nói, Nhà nước bảo đảm sự độc lập của Tòa

Hành chính chính là bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung và

đảm bảo quyền của người khởi kiện nói riêng; là biểu hiện của sự chịu trách

nhiệm của Nhà nước trước công dân, bởi hiệu quả của công tác xét xử phụ

thuộc vào chính sự độc lập này.

Thứ ba, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án

hành chính góp phần nâng cao uy tín của Nhà nước. Với trách nhiệm là chủ

thể bảo đảm quyền công dân, Nhà nước có trách nhiệm ngăn chặn sự vi phạm

quyền công dân từ phía các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức

chính trị - xã hội và cá nhân, đồng thời Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho

công dân thực hiện được và tự bảo vệ các quyền công dân của mình trong các

lĩnh vực. Uy tín của Nhà nước được thể hiện rõ nét trong quan hệ giữa Nhà

nước và công dân, thông qua hoạt động của các cán bộ, công chức trong quá

trình thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Do đó, những hoạt

động quản lý này nếu có hiệu lực, hiệu quả, có kỷ luật, kỷ cương, có công

khai, minh bạch và đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất đạo đức và năng

lực chuyên môn tốt sẽ tạo dựng được niềm tin của người dân đối với các cơ

quan nhà nước, đặc biệt đối với Tòa án - là nơi cuối cùng người dân tin tưởng

sẽ giải quyết đến cùng mọi tranh chấp, trong đó có tranh chấp hành chính. Vì

vậy, các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân

dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân; lắng nghe ý

kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân. Bảo đảm quyền khởi kiện trong

TTHC ngày một tốt hơn sẽ góp phần nâng cao uy tín của Nhà nước, giúp

người dân ngày một tin tưởng vào công lý.

Thứ tư, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án

hành chính góp phần đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực

trong hoạt động của bộ máy nhà nước, của cán bộ, công chức. Nhà nước được

22

tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, với phương hướng xây

dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, đấu tranh phòng

chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động của bộ máy nhà nước,

của cán bộ, công chức. Tham nhũng, quan liêu, tiêu cực là hành vi của người

lạm dụng chức vụ, quyền hạn hoặc cố ý làm trái quy định của pháp luật để

phục vụ lợi ích cá nhân nên đó là căn bệnh xã hội nguy hiểm cản trở sự phát

triển của đất nước và làm giảm niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà

nước. Để giải quyết vấn đề này, các cơ quan nhà nước, Chính phủ đã tăng

cường chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện các thể chế, cơ chế,

chính sách (như xây dựng quy tắc ứng xử, trách nhiệm người đứng đầu, cải

cách thủ tục hành chính…) nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà

nước trên mọi lĩnh vực. Trong quan hệ hành chính phát sinh hàng ngày giữa

Nhà nước (đại diện là cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền) với công

dân, mọi quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của người có thẩm

quyền đều ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Do đó, trong quan hệ này dễ xảy ra tranh chấp, khiếu kiện hành chính. Với vai

trò là cơ quan giải quyết tranh chấp hành chính, trên cơ sở quy định của pháp

luật, Tòa Hành chính ra phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định, hành

vi hành chính bị khiếu kiện, qua đó bảo đảm quyền công dân nói chung và

quyền của người khởi kiện nói riêng. Đồng thời, việc buộc cơ quan nhà nước,

người có thẩm quyền phải thực hiện bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật

đã góp phần tích cực nâng cao ý thức, tính chịu trách nhiệm của các cơ quan

nhà nước, người có thẩm quyền trước người dân, góp phần đấu tranh, phòng

chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực của các cán bộ, công chức trong hoạt

động quản lý nhà nước.

Thứ năm, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ

án hành chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà

nước. Hoạt động giải quyết các vụ án hành chính được thực hiện theo đúng

quy định của pháp luật, đặc biệt tại phiên tòa xét xử vụ án hành chính nếu

23

được tiến hành tốt, khoa học, khách quan sẽ tạo ra một cơ chế tư pháp độc lập

giám sát hoạt động hành pháp. Thông qua hoạt động xem xét tính hợp pháp

của quyết định hành chính, hành vi hành chính, Tòa Hành chính đã tác động

trực tiếp đến hoạt động quản lý hành chính nhà nước, đến người có thẩm

quyền, nhằm hạn chế, khắc phục những hậu quả pháp lý phát sinh từ hoạt

động của các chủ thể quản lý hành chính. Từ đó, góp phần nâng cao ý thức,

trách nhiệm trong hoạt động công vụ của các cơ quan hành chính nhà nước,

người có thẩm quyền, ngăn ngừa những hành vi vi phạm quyền công dân từ

phía cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền. Bên cạnh đó, trong

quá trình giải quyết vụ án hành chính, nếu Toà án phát hiện được những văn

bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án hành chính có dấu

hiệu trái với Hiến pháp, pháp luật, Tòa án có quyền kiến nghị cơ quan nhà

nước có thẩm quyền hoặc đề nghị người có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc

bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật đó. Với nhiệm vụ này, Toà Hành chính đã

giữ vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật hành chính,

nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ công chức, cơ quan nhà nước, đồng

thời góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.

Thứ sáu, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án

hành chính là cơ chế bảo đảm quyền công dân hữu hiệu nhất. Ở nước ta, theo

quy định của pháp luật, giải quyết tranh chấp hành chính được thực hiện

thông qua hai hình thức là: thủ tục khiếu nại - cơ quan hành chính nhà nước

hoặc cơ quan chuyên trách và thủ tục khiếu kiện tại Tòa Hành chính. Công

dân có quyền lựa chọn khiếu nại hành chính hoặc khởi kiện ra Tòa Hành

chính ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết tranh chấp mà không cần

phải qua giai đoạn “tiền tố tụng” như trước đây. Xét về bản chất thì TTHC là

một phương thức giải quyết các khiếu kiện hành chính, được tồn tại song song

với cơ chế giải quyết các khiếu nại hành chính bằng thủ tục giải quyết khiếu

nại. So với cơ chế giải quyết các khiếu nại hành chính bằng thủ tục giải quyết

khiếu nại hành chính thì TTHC có nhiều ưu điểm, hiệu quả giải quyết trực

24

tiếp hơn, bởi những lý do sau đây: Một là, trình tự thủ tục TTHC được quy

định cụ thể, chi tiết và chặt chẽ hơn so với trình tự, thủ tục giải quyết khiếu

nại hành chính (thủ tục đơn giản, gọn, có thể rút ngắn các giai đoạn kiểm tra,

xác minh); Hai là, mặc dù các quyết định giải quyết khiếu nại hay phán quyết

của Tòa án có hiệu lực pháp luật đều có tính bắt buộc thi hành đối với mọi cá

nhân, tổ chức, cơ quan liên quan nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp

của các bên, nhưng trong trường hợp người dân vẫn không đồng ý với quyết

định giải quyết khiếu nại (qua các lần khiếu nại) thì họ còn có nơi lựa chọn

cuối cùng để gửi gắm niềm tin - nơi bảo vệ, bảo đảm quyền công dân của họ,

đó là Tòa án; Ba là, các khiếu kiện được giải quyết bởi một hệ thống cơ quan

chuyên trách độc lập với thủ tục tố tụng bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân

và cơ quan công quyền trước Toà án. Đây là điều không thể có được khi giải

quyết các khiếu nại hành chính theo thủ tục hành chính.

1.2.2. Phương thức bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải

quyết các vụ án hành chính

Trong quan hệ hành chính thì quan hệ giữa các chủ thể là quan hệ phục

tùng, thể hiện sự bất bình đẳng về ý chí giữa các bên tham gia quan hệ, một

bên là cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền quản lý hành chính và

một bên là đối tượng quản lý hành chính. Tuy nhiên trong quan hệ tố tụng

hành chính thì các bên bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Để không có

sự áp đặt ý chí trong quan hệ hành chính lên quan hệ tố tụng hành chính thì

việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính có

vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Quyền của người khởi kiện được bảo đảm bằng các phương thức sau:

Thứ nhất, bảo đảm về sự độc lập của Tòa án trong xét xử vụ án hành

chính

Để bảo đảm Tòa án thật sự có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị

đòi hỏi các nước phải áp dụng các biện pháp bảo đảm tính độc lập, chú trọng

đặc biệt tới việc bảo vệ Thẩm phán khỏi bất kỳ hình thức tác động nào trong

25

việc đưa ra các phán quyết. Các Thẩm phán không được để các định kiến cá

nhân tác động đến những phán quyết của mình. Bảo vệ quyền lợi của một bên

trái pháp luật dẫn đến gây thiệt hại cho bên kia. Các phán quyết của Tòa án

đối với bất kỳ vụ án nào, đối với bất kỳ cấp xét xử nào khi được đưa ra phải

đảm bảo chí công vô tư, khách quan, không chịu bất cứ sự can thiệp, hạn chế

bất hợp pháp của cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào. Các phán quyết này chỉ

và phải dựa trên cơ sở sự thật khách quan của vụ án và các quy định của pháp

luật hiện hành. Nói một cách khác, "pháp luật" là tối thượng, là căn cứ "duy

nhất" để thẩm phán và hội thẩm dựa vào đó mà quyết định. Cơ quan Tòa án

phải có cơ chế giám sát phù hợp để đảm bảo được sự vô tư trong quá trình xét

xử [23].

Vấn đề sự độc lập trong xét xử của Tòa án nói chung và của thẩm phán

nói riêng đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế như: "Các

nguyên tắc cơ bản về sự độc lập của tòa án" của Liên hợp quốc năm 1985;

"Khuyến nghị về tính độc lập, hiệu quả và vai trò của thẩm phán" của Ủy ban

các Bộ trưởng của Hội đồng châu Âu; "Hiến chương Quốc tế về thẩm phán"

của Hiệp hội Thẩm phán Quốc tế năm 1999. Đặc biệt là "Bộ Quy tắc Đạo đức

Tư pháp" Bangalore; được dự thảo tại Bangalore (Ấn Độ) năm 2001, sau khi

chỉnh lý tại Hội nghị bàn tròn các chánh án ở La-Hay (Hà Lan) đã được thông

qua tháng 11-2002 bởi Nhóm tư pháp về Tăng cường liêm chính tư pháp. Đây

là văn kiện mang tính toàn cầu thể hiện đầy đủ các quy tắc đạo đức nhằm mục

đích thiết lập các chuẩn mực đạo đức của Thẩm phán. Đó là các giá trị: độc

lập tư pháp; khách quan; liêm chính; sự chuẩn mực; bình đẳng; năng lực và sự

chuyên cần. Quy tắc này xác định tính vô tư, khách quan có tầm quan trọng

trong việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của Thẩm phán; đó không chỉ là yêu cầu

áp dụng đối với các quyết định được đưa ra, mà còn là yêu cầu áp dụng với cả

quá trình ra quyết định [56].

Ở Việt Nam Hiến pháp năm 2013 quy định Thẩm phán, hội thẩm xét

xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật và yêu cầu nguyên tắc độc lập xét xử của

26

Tòa án nhân dân, đặc biệt là Hội đồng xét xử ở mức độ cao hơn: nghiêm cấm

cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân.Việc bảm đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt

động xét xử có ý nghĩa quan trọng để quyền của con người được thực thi

đúng pháp luật, tránh tình trạng Thẩm phán, Hội thẩm bị tác động nên làm sai

lệch vụ án. Hiến pháp cũng quy định nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử công

khai. Điều này không chỉ thể hiện tính minh bạch trong xét xử mà còn nhằm

thực hiện sự giám sát của nhân dân trong hoạt động xét xử. Theo các quy định

ở trên thì quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập

có thẩm quyền và không thiên vị đã được nội luật hóa một cách đầy đủ trong

pháp luật quốc gia Việt Nam. Đây là những quy định mang tính tích cực, phù

hợp với các quy định của luật nhân quyền quốc tế.

Đảm bảo về tính độc lập của Tòa án trong xét xử các vụ án hành chính

là yếu tố then chốt, quyết định đến kết quả giải quyết các vụ án hành chính.

Vì vậy, chỉ khi Tòa án được Nhà nước trao quyền cao hơn Ủy ban nhân dân

các cấp, không ràng buộc hay phụ thuộc vào Ủy ban nhân dân các cấp thì tính

độc lập của Tòa án mới phát huy được hết tác dụng trong giải quyết, xét xử

các vụ án hành chính.

Thứ hai, bảo đảm bằng nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, người

tiến hành tố tụng.

Luật tố tụng hành chính năm 2015 ra đời đã góp phần làm thay đổi

nhận thức của các cơ quan tố tụng, của những người tiến hành tố tụng trong

việc giải quyết các vụ án hành chính. Tại Điều 22 Luật tố tụng hành chính

năm 2015 quy định rõ về trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người

tiến hành tố tụng: “1. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải

tôn trọng Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân 2. Tòa án có nhiệm vụ

bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã

hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân. Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con

27

người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm

pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. 3. Cơ quan tiến hành

tố tụng, người tiến hành tố tụng phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác

theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ

người chưa thành niên, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá

nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự. 4. Cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố tụng có hành

vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ

luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 5.

Người tiến hành tố tụng trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có

hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thì cơ

quan có người có hành vi vi phạm pháp luật đó phải bồi thường cho người bị

thiệt hại theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà

nước”.

Có thể thấy cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được

Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật trao vào tay họ những quyền hạn

đồng thời cũng là trách nhiệm rất lớn với mong muốn quyền hạn và trách

nhiệm đó sẽ giúp những cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố

tụng mang lại lợi ích lớn nhất cho người dân đó là bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân…

Tuy nhiên, với quyền lực được trao lớn như vậy nếu những cơ quan

tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng không được trang bị đầy đủ

về mặt nhận thức thì quyền lực sẽ trở thành con dao hai lưỡi có thể đem lại lợi

ích cho người dân, cho xã hội nhưng cũng có thể bị lợi dụng để phục vụ

những lợi ích cá nhân. Do đó những cơ quan tiến hành tố tụng, những người

tiến hành tố tụng ngoài việc phải có bản lĩnh vững vàng, trang bị đầy đủ cho

28

mình kiến thức pháp luật thì hơn hết, họ phải nhận thức được chính xác về

quyền hạn và nhiệm vụ của mình trong việc giải quyết các vụ án đặc biệt là

vụ án hành chính, không để những lợi ích cá nhân hoặc những tác động từ bên

ngoài làm ảnh hưởng đến phán quyết của mình trong xét xử vụ án hành chính.

Nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc thu thập, đánh giá chứng cứ.

Nhận thức và sử dụng đúng quyền hạn của mình để nâng cao hiệu quả trong

việc thu thập chứng cứ làm căn cứ ban hành các phán quyết vụ án hành chính

đúng pháp luật. Nhận thức đầy đủ, chính xác về sự độc lập của Hội đồng xét

xử trong quá trình xét xử vụ án hành chính, không chịu sự chi phối, chỉ đạo về

đường lối xét xử của bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào khác. Nhận thức về

tính kịp thời trong việc kiểm sát các hoạt động tố tụng, ban hành các văn bản

kháng nghị, kiến nghị… theo thẩm quyền nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức

của những người tiến hành tố tụng trong giải quyết, xét xử các vụ án hành

chính.

Bảo đảm về nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như

những người tiến hành tố tụng là một bảo đảm quan trọng, mang lại rất nhiều

lợi ích không chỉ cho người dân mà còn mang lại lợi ích rất lớn cho chính các

cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vì bảo đảm này không chỉ

đơn thuần là bảo đảm tính đúng đắn trong thực thi pháp luật mà hơn hết bảo

đảm về nhận thức góp phần nâng cao hơn nữa về mặt tư duy, bản lĩnh và đạo

đức nghề nghiệp của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

trong thực thi quyền hạn và nhiệm vụ của mình.

Thứ ba, bảo đảm bằng tranh tụng tại Tòa án

Tranh tụng tại phiên tòa là hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên

tòa bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên

và bác bỏ ý kiến, luận điểm của bên kia dưới sự điều khiển, quyết định của

Chủ tọa phiên tòa với vai trò trung gian, trọng tài. Bản chất của tranh tụng là

quá trình xác minh, làm rõ công khai và tranh luận giữa các bên dưới sự điều

khiển của Tòa án để phân tích, thẩm định, đánh giá chứng cứ nhằm xác định

29

sự thật khách quan của vụ án, tạo cơ sở để Tòa giải quyết vụ án khách quan,

đúng pháp luật [55].

Tranh tụng tại tòa án là quyền được trình bày ý kiến, quan điểm, tranh

luận về vụ án để các đương sự được thực hiện đầy đủ quyền trình bày ý kiến,

quan điểm, tranh luận về vụ án. Tranh tụng đã được thừa nhận trên phạm vi

toàn cầu và được ghi nhận tại Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của

Liên Hợp quốc ngày 10 tháng 12 năm 1948 với nội dung "Mọi người đều có

quyền hoàn toàn ngang nhau được phát biểu bình đẳng và công khai trước

Tòa án độc lập và không thiên vị, nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của

mình hoặc về việc buộc tội mình có cơ sở trước Tòa" [22].

Quyền tranh tụng tại tòa án được cụ thể trong Đoạn 3 của Bình luận

chung số 32 của Ủy ban nhân quyền như sau: Điều 14 có tính chất đặc biệt

phức tạp, kết hợp các đảm bảo khác nhau và phạm vi áp dụng khác nhau. Câu

thứ hai của khoản này cho phép các cá nhân được xét xử một cách công bằng

và tranh tụng trước một tòa án có thẩm quyền, độc lập [54].

Ở Việt Nam, tranh tụng tại phiên tòa là nội dung có ý nghĩa quan trọng

được qui định trong Hiến pháp năm 2013. Việc nâng cao chất lượng tranh

tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp

trong tiến trình cải cách tư pháp. Trong tố tụng hành chính, Tòa án có trách

nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử. Người khởi kiện có quyền

thu thập, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án

hành chính; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá

chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp

của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Trong quá trình xét xử, mọi tài

liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai,

trừ trường hợp không được công khai. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi

những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết

định.

30

Bảo đảm tranh tụng trước Tòa án là bảo đảm tính khách quan, công

bằng, dân chủ trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính nhằm làm căn cứ để xác

định sự thật vụ án, cơ sở để hội đồng xét xử ban hành bản án, quyết định đúng

đắn, khách quan, hợp pháp. Do đó Tòa án phải đảm bảo thực hiện đúng quy

định của pháp luật tố tụng, tạo điều kiện các đương sự, người bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của họ được tham gia tranh luận, trình bày ý kiến, xuất trình

tài liệu, chứng cứ. Bên cạnh đó, bản thân những người khởi kiện khi Tòa án

đảm bảo cho họ được quyền tranh tụng thì họ cũng phải biết cách tự bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa, nếu không thể tự

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì có thể nhờ người bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật. Có như vậy việc Tòa án đảm

bảo điều kiện tranh tụng cho các bên đương sự mới được thực hiện một cách

đúng đắn nhất, mang lại hiệu quả cao nhất, giải quyết triệt để nhất yêu cầu của

các bên đương sự hay nói cách khác tranh tụng hiệu quả chính là bảo đảm tốt

nhất để giải quyết yêu cầu của người khởi kiện.

Thứ ba, đảm bảo chất lượng xét xử các vụ án hành chính.

Theo Kết luận số 92-KL/TW Ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc

tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chinh trị khóa IX về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo tinh thần Nghị quyết 49-

NQ/TW của Bộ Chính trị, mục tiêu cải cách tư pháp là: "xây dựng nền tư

pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước

hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt

động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và

hiệu lực cao". Như vậy, có thể thấy, việc nâng cao chất lượng công tác xét xử

của tòa án là mục tiêu quan trọng của công cuộc cải cách tư pháp.

Đảm bảo chất lượng xét xử là một trong những đòi hỏi cấp thiết đảm

bảo quyền cho người khởi kiện khi khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.

Cũng theo số liệu báo cáo hàng năm cho thấy tỉ lệ số vụ án mà yêu cầu của

người khởi kiện được chấp nhận còn tương đối thấp (chiếm tỉ lệ khoảng

31

35%). Tuy điều này không phản ánh thấp việc đảm bảo chất lượng xét xử của

Tòa án nói chung nhưng phản ánh việc đảm bảo chất lượng xét xử liên quan

đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện trong vụ án

hành chính còn tồn tại nhiều vấn đề hạn chế.

Đảm báo chất lượng xét xử chính là tiêu chí quan trọng đánh giá mức

độ hoàn thành nhiệm vụ của ngành Tòa án, vì xét xử là nhiệm vụ quan trọng

và duy nhất mà Nhà nước giao cho Tòa án thực hiện. Chỉ khi Tòa án đảm bảo

chất lượng xét xử, không để xảy ra các vụ án bị cải, sửa, hủy thì mới đảm bảo

được chức năng nhiệm vụ của mình đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự nói chung, của người khởi kiện nói riêng.

Để nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử, thì ngành Tòa án cần tích cực

triển khai 14 giải pháp nâng cao chất lượng xét xử. Cụ thể: tăng cường công

tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật; đổi mới tổ chức phiên tòa theo tinh

thần cải cách tư pháp; nâng cao chất lượng bản án, quyết định của toà án;

công khai bản án, quyết định của tòa án trên Cổng thông tin điện tử Tòa án

nhân dân; nâng cao hiệu quả công tác hòa giải; tổ chức các phiên tòa rút kinh

nghiệm; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan

có liên quan trong quá trình giải quyết các loại vụ án; tăng cường công tác

kiểm tra, giám đốc việc xét xử; nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán; tăng

cường trách nhiệm của người đứng đầu; đổi mới thủ tục hành chính tư pháp

tại tòa án; đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các

tòa án; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của tòa án;

làm tốt công tác thi đua, khen thưởng.

Thứ năm, bảo đảm bằng chất lượng đội ngũ Thẩm phán, thư ký Tòa án

Những năm qua, nhất là sau khi Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức

Tòa án năm 2014 có hiệu lực thi hành, hệ thống tòa án đã chủ động xây dựng

và triển khai nhiều giải pháp về công tác cán bộ; thực hiện có hiệu quả cuộc

vận động xây dựng đội ngũ cán bộ, thẩm phán, thư ký vững vàng về bản lĩnh

32

chính trị, giỏi về chuyên môn, gắn liền với việc học tập và làm theo tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Với tư tưởng xuyên suốt là xây dựng, phát triển đội ngũ Thẩm phán,

thư ký theo hướng toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất, năng lực thực

tiễn trên nguyên tắc coi trọng cả “đức” và “tài”, “đức” là gốc; yêu cầu đặt ra

là chất lượng Thẩm phán, thư ký phải trên cơ sở thống nhất tiêu chuẩn về

phẩm chất và năng lực, phải vững vàng về bản lĩnh chính trị và giỏi về nghiệp

vụ nhằm thực hiện tốt nhất nhiệm vụ xét xử, bảo vệ công lý, quyền con người.

Theo đó, công tác cán bộ trong hệ thống Tòa án luôn bám sát nhiệm vụ chính

trị của ngành; đã thể chế hóa, cụ thể hóa nhiều chủ trương, quan điểm, giải

pháp của Đảng, Nhà nước về công tác này trong từng giai đoạn; tuân thủ triệt

để nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng

đối với công tác xây dựng và phát triển đội ngũ Thẩm phán, thư ký; bảo đảm

tính toàn diện trên tất cả các phương diện, từ chủ trương, cơ chế, chính sách

cho đến tổ chức quản lý; đồng thời, được tiến hành đồng bộ trên tất cả các

khâu từ quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, sử dụng. Đội ngũ Thẩm

phán, thư ký của Tòa án các cấp về cơ bản thường xuyên được đào tạo để

nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và các kiến thức

bổ trợ khác nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử. Đa số Thẩm phán, thư ký

Tòa án các cấp đều có lập trường tư tưởng vững vàng; có phẩm chất đạo đức

tốt; có trình độ, năng lực; tâm huyết với ngành, với nghề và hoàn thành các

nhiệm vụ được giao.

Trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc thực hiện các Nghị quyết của

Đảng về đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam và tăng cường nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, vai trò, vị

trí của Tòa án trong hệ thống bộ máy nhà nước ngày càng được khẳng định

qua việc thực hiện tốt nhiệm vụ khi thẩm quyền được thay đổi, mở rộng để

đáp ứng điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển

kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (thành lập Toà Hành chính,

33

Toà Kinh tế, Toà Lao động tại Toà án nhân dân tối cao và tại các Toà án nhân

dân cấp tỉnh; tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án nhân dân cấp huyện). Chế độ

bầu Thẩm phán trước đây đã được thay thế bằng chế độ thi tuyển, bổ nhiệm

nhằm tiêu chuẩn hoá và nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán…

Thực hiện các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, trong đó xác

định “Toà án là trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm”, nhiệm vụ xây dựng

đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp,

hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần cải cách tư pháp tại Nghị quyết

số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng

tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020”

là vô cùng cấp thiết. Cùng với việc củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy các Tòa

án nhân dân, thì việc rà soát lại đội ngũ Thẩm phán, thư ký về các tiêu chuẩn

chính trị, đạo đức phẩm chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh, kinh

nghiệm xã hội và thực tiễn công tác nhằm mục tiêu xây dựng nền tư pháp

trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước

hiện đại, phục vụ nhân dân cũng đã được tiến hành. Các Tòa án đã đánh giá

thực trạng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán các cấp để bố trí, sử dụng cán bộ hợp

lý; xác định lại nhu cầu biên chế của từng đơn vị phù hợp với yêu cầu, nhiệm

vụ; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, các kiến thức về

chuyên môn nghiệp vụ, kinh tế, xã hội…để xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm

phán vừa “hồng”, vừa “chuyên”; bản lĩnh, ngang tầm nhiệm vụ. Việc tuyển

dụng cán bộ, công chức Tòa án được thực hiện thông qua thi tuyển, cán bộ

được tuyển dụng làm Thư ký Tòa án – nguồn cán bộ để bổ nhiệm đội ngũ

Thẩm phán cho Toà án các cấp - phải có bằng cử nhân luật hệ chính quy. Thủ

tục xem xét và bổ nhiệm Thẩm phán và cán bộ có chức danh tư pháp của Tòa

án nhân dân được đổi mới, tiến hành kịp thời, bảo đảm các tiêu chuẩn về

chính trị, đạo đức phẩm chất và chuyên môn nghiệp vụ. Công tác luân chuyển

Thẩm phán, thư ký giữa Tòa án cùng cấp nhằm hạn chế những mặt tiêu cực

34

được quan tâm thực hiện. Việc điều động cán bộ, biệt phái Thẩm phán được

đẩy mạnh để tăng cường cho các đơn vị có số lượng án lớn phải giải quyết.

Công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành thường xuyên, kịp thời chấn chỉnh

các yếu kém trong công tác và kiên quyết xử lý nghiêm hoặc thanh lọc những

Thẩm phán, thư ký có vi phạm, thoái hóa, biến chất. Hàng năm, các Tòa án

đều có nhận xét, đánh giá về phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ Thẩm

phán, thư ký, xem xét về mức độ, khả năng hoàn thành nhiệm vụ và ý thức

nâng cao bản lĩnh chính trị; có những hình thức khen thưởng, vinh danh xứng

đáng đối với những người có thành tích cao trong công tác và xem xét trách

nhiệm đối với các trường hợp vi phạm quy chế công tác để có biện pháp xử

lý, bảo đảm nâng cao kỷ luật, kỷ cương của từng Thẩm phán, thư ký.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền của người khởi kiện

trong giải quyết các vụ án hành chính

Để việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết vụ án

hành chính đạt hiệu quả thì chúng ta cần phải hiểu được những yếu tố tác

động đến việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong vụ án hành chính để

đảm bảo những yếu tố này tác động tích cực đến việc bảo đảm quyền của

người khởi kiện.

1.3.1. Mức độ hoàn thiện của các quy định pháp luật tố tụng hành

chính

Luật tố tụng hành chính là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh

các quan hệ tố tụng hành chính phát sinh giữa Tòa án với những người tham

gia tố tụng, những người tiến hành tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết

vụ án hành chính nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ

quan và tổ chức. Nội dung Luật Tố tụng hành chính quy định các trình tự, thủ

tục tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hành chính, qui định các hành vi tố

tụng của Tòa án, Viện kiểm sát, người khởi kiện, người bị kiện và những

người tham gia tố tụng khác trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án hành

chính, thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính nhằm bảo đảm quyền và lợi

35

ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng. Trên cơ sở các qui định của Luật

Tố tụng hành chính các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

phải tiến hành tố tụng tuân thủ theo trình tự thủ tục luật định, đảm bảo cho

người tiến hành tố tụng có đủ thẩm quyền để ra các phán quyết, xác định tính

hợp pháp của đối tượng bị khởi kiện, tìm ra sự thật khách quan của vụ án, trên

cơ sở đó Tòa án có thể ra những phán quyết đúng đắn, góp phần bảo vệ công

lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của

cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bên cạnh đó Luật tố tụng hành chính qui định các

quyền và nghĩa vụ của đương sự và những người tham gia tố tụng khác, bảo

đảm tính dân chủ trong hoạt động xét xử vụ án hành chính cũng như yêu cầu

về năng lực của họ để thực hiện quyền và nghĩa vụ tô tụng. Để tạo điều kiện

thuận lợi và đảm bảo thi hành của Luật Tố tụng hành chính thì Hội đống

Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ban hành các Nghị quyết hướng dẫn thi

hành Luật Tố tụng hành chính. Đây là những văn bản có ý nghĩa quan trọng

giúp cho người tiến hành tố tụng áp dụng Luật Tố tụng hành chính thống nhất

và chính xác, đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia tố tụng. Với vai trò

quan trọng của pháp luật tố tụng hành chính thì việc hoàn thiện hệ thống pháp

luật có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền của các bên tham gia tố

tụng nói chung và của người khởi kiện nói riêng. Nếu hệ thống pháp luật hành

chính không phù hợp, không đồng bộ và thống nhất sẽ dẫn đến việc xét xử

các vụ án không đúng theo qui định của pháp luật dẫn đến hủy sửa bản án,

quyết định kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Các bên tham gia tố tụng lợi

dụng những kẽ hở của pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của

người khác.

1.3.2. Trách nhiệm của cơ quan quản lý hành chính, cơ quan được

giao quyền quản lý hành chính và người có thẩm quyền trong cơ quan

quản lý hành chính

Cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao quyền quản

lý nhà nước và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước là

36

chủ thể quản lý hành chính nhà nước, đây là chủ thể đặc biệt và quan trọng

nắm quyền trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Trong vụ án hành

chính thì cơ quan quản lý hành chính, cơ quan được giao quyền quản lý hành

chính và người có thẩm quyền trong cơ quan quản lý hành chính tham gia tố

tụng với tư cách là người bị kiện trong vụ án hành chính và có quyền và nghĩa

vụ ngang với những người tham gia tố tụng khác. Cơ quan hành chính, cơ

quan quản lý hành chính, cơ quan được giao quyền quản lý hành chính và

người có thẩm quyền trong cơ quan quản lý hành chính phải tự mình tham gia

tố tụng hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng. Trường hợp người bị

kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị

kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền

phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các

quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật Tố tụng hành

chính. Như vậy người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện phải tham gia

trực tiếp vào quá trình giải quyết vụ án để đảm bảo đối thoại với người khởi

kiện, tranh luận với người bị kiện và đưa ra lập luận về đánh giá chứng cứ và

pháp luật áp dụng. Trong quá trình tố tụng nếu thấy rằng quyết định hành

chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về

quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri không đúng qui định của

pháp luật thì có quyền sửa đổi hoặc hủy bỏ bị khởi kiện; dừng, khắc phục

hành vi hành chính bị khởi kiện. Để đảm bảo quyền khởi kiện, thì người bị

kiện phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng,

đảm bảo người khởi kiện biết rõ về quyết định hành chính, hành vi hành chính

và căn cứ ban hành hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định

giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri,

chứng minh tính đúng đắn, hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành

chính bị khởi kiện tránh gây bức xúc trong nhân dân dẫn đến khiếu kiện đông

người, khiếu kiện kéo dài.

37

1.3.3. Năng lực và bản lĩnh của thẩm phán trong xét xử các vụ án

hành chính

Để Tòa án thực hiện tốt vai trò của mình, ra được các bản án nghiêm

minh, đảm bảo quyền của các bên tham gia tố tụng thì một một trong những

yêu cầu hàng đầu đó là Tòa án phải độc lập, trong đó bản lĩnh và năng lực của

thẩm phán có ý nghĩa rất quyết định trong quá trình giải quyết vụ án. Theo

tinh thần Hiến pháp, khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ căn cứ

vào các quy định của pháp luật để thực hiện nhiệm vụ của mình. Tòa án độc

lập với cơ quan Tòa án cấp trên, vì quan hệ giữa tòa án các cấp không phải là

quan hệ mệnh lệnh, hành chính mà chủ yếu là quan hệ tố tụng (mặc dù về mặc

tổ chức thì các tòa án địa phương chịu sự quản lý của Tòa án nhân dân tối

cao). Tòa án cấp dưới khi xét xử không phụ thuộc vào sự chỉ đạo cũng như

dựa dẫm vào ý kiến chỉ đạo của cơ quan Tòa án cấp trên. Đối với từng vụ án

cụ thể thì Tòa án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, các tài liệu

chứng cứ có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa để đưa ra phán

quyết cuối cùng. Tòa án cũng không được lệ thuộc vào các cơ quan, tổ chức ở

địa phương mặc dù Tòa án đóng trụ sở trên địa bàn và chịu sự lãnh đạo, chỉ

đạo của cấp ủy cùng cấp và phải báo cáo trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Đồng thời trong nội bộ, các thành viên của Hội đồng xét xử phải độc lập với

nhau, và có quyền quyết định ngang nhau khi quyết định các vấn đề tại phiên

tòa, cùng nhau thống nhất để ban hành bản án trên cơ sở biếu quyết theo đa

số. Thẩm phán và Hội thẩm phải chịu trách nhiệm cá nhân về những quyết

định của mình.

1.3.4. Trình độ hiểu biết pháp luật của người dân

Trình độ hiểu biết pháp luật và thái độ chấp hành pháp luật tạo nên ý

thức pháp luật của người dân. Nếu công dân không hiểu biết pháp luật thì rất

khó khăn khi tiếp cận tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;

hoặc có thể xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay,

việc thực hiện Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đã có những kết quả tích

38

cực. Người dân, cơ quan, tổ chức đã có sự quan tâm hơn đến pháp luật, nhận

thức sâu sắc hơn về vai trò của pháp luật trong đời sống. Khi người dân hiểu

biết về pháp luật thì sẽ khó có thể nhận thức đúng đắn về các quy định pháp

luật thì sẽ họ biết được trình tự thủ tục để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình và mạnh dạn thực hiện các quyền; đồng thời tôn trọng các quyền và

lọi ích hợp pháp của người khác. Trong tố tụng hành chính người dân sẽ

mạnh dạn khởi kiện và có thể tự bảo vệ được quyền và lợi ích của mình trước

tòa án. Đây là một trong những điểm nhấn về kết quả của cải cách tư pháp,

khi Tòa án hành chính ngày càng mở rộng thẩm quyền xét xử, người dân ngày

càng có cơ hội lựa chọn các phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình trước các cơ quan công quyền.

1.3.5. Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân

Viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật

của Toà án và các chủ thể khác trong quá trình giải quyết các vụ án hành

chính nhằm đảm bảo hoạt động giải quyết các vụ án hành chính của tòa án kịp

thời, tuân thủ đúng qui định của pháp luật, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp

pháp của các tổ chức, cá nhân công dân.

Trong hoạt động kiểm sát các vụ án hành chính, Viện kiểm sát tham gia

kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý cho đến khi kết thúc việc giải quyết vụ

án, cụ thể: Kiểm sát việc thụ lý vụ án, giải quyết vụ án của Tòa án, thực hiện

việc nghiên cứu hồ sơ vụ án; xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ theo qui

định của Luật Tố tụng hành chính, thực hiện tham gia các phiên tòa, phiên

họp của Tòa án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án nhằm bảo đảm

quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong hoạt động tố tụng, của người

tham gia tố tụng; đưa ra yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật. Trên cơ sở kết

quả xét xử tại phiên tòa và kết quả nghiên cứu bản án sơ thẩm vụ án hành

chính, nếu phát hiện có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc có vi

phạm nghiêm trọng về áp dụng pháp luật nội dung, ảnh hưởng đến quyền của

39

người khởi kiện thì Viện kiểm sát thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị,

kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Trong số các phương thức bảo vệ quyền con người thì bảo bảo vệ

quyền con người, quyền công dân bằng tòa án, thông qua thủ tục tư pháp là

hình thức bảo vệ cao nhất, công khai và minh bạch, có hiệu lực.

Qua đó ta thấy, phương thức bảo vệ quyền con người bằng Tòa án

thông qua hoạt động tư pháp là phương thức bảo vệ cao nhất. Thực tế cho

thấy, có nhiều yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền của người khởi kiện

trong giải quyết vụ án hành chính, vì vậy để bảo đảm quyền của người khởi

kiện thì Tòa án áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính và các

quy định của pháp luật nội dung để giải quyết vụ án. Trong quá trình giải

quyết vụ án Tòa án bảo đảm người khởi kiện được quyền quyết định việc

khởi kiện, nội dung và phạm vi khởi kiện. Khi tiến hành các thủ tục tố tụng,

Tòa án tiến hành công khai đảm bảo sự bình đẳng, công bằng, không thiên

vị…nếu có thiệt hại họ có quyền yêu cầu bồi thường.

40

Chương 2

THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN

TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN

NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Khái quát về Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội

Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng

là kinh đô của hầu hết các vương triều phong kiến tại Việt Nam trước đây. Do

đó, lịch sử Hà Nội gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử Việt Nam qua các

thời kỳ. Hà Nội nằm ở tả ngạn sông Đà và hai bên đồng bằng sông Hồng.

Phía Bắc giáp với tỉnh Vĩnh Phúc và Thái Nguyên, phía Nam giáp tỉnh Hòa

Bình, phía Đông giáp với tỉnh Bắc Ninh và Hưng Yên, còn phía Tây giáp tỉnh

Vĩnh Phúc. Sau khi được mở rộng, Hà Nội nằm trong top 17 Thủ đô có diện

tích lớn nhất thế giới với 3.324,92 km2. Với vị trí địa lý thuận lợi này, thành

phố này dễ dàng trở thành trung tâm kinh tế – chính trị, văn hóa, khoa học

quan trọng của cả nước. Hiện tại, bao gồm 12 quận, 1 thị xã và 17 huyện,

đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số với hơn 8 triệu người

(năm 2019). Tuy nhiên, nếu tính những người cư trú không đăng ký thì dân số

thực tế của thành phố này năm 2019 là gần 10 triệu người. Mật độ dân số của

Hà Nội là 2.398 người/km², mật độ giao thông là 105,2 xe/km² mặt đường.

Hiện nay, Hà Nội là một đô thị loại đặc biệt của Việt Nam.

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội là cơ quan xét xử tại Hà Nội. Tòa án

nhân dân thành phố Hà Nội có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố

Hà Nội. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có nhiệm vụ và quyền hạn sau:

Nhân danh Nhà nước xét xử các vụ án hình sự dân sự, hôn nhân và gia

đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc

41

khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các

tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả

tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc

không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ

về tài sản, quyền nhân thân trên địa bàn thành phố.

Những ngày đầu thành lập, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội chỉ có 7

biên chế; về trình độ chuyên môn nghiệp vụ có 05 Cử nhân Luật và 02 Tú tài

(tốt nghiệp Trung học phổ thông ngày nay); về cơ cấu tổ chức, không có đơn

vị trực thuộc.

Đến nay, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có 197 người, trong đó có

55 Thẩm phán, 142 Thư ký và chức danh khác; về trình độ chuyên môn

nghiệp vụ có 02 tiến sỹ Luật, 70 Thạc sỹ Luật, 125 cử nhân; về trình độ lý

luận chính trị có 35 người có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị. Cơ

cấu tổ chức của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội: Ủy ban Thẩm phán gồm

Chánh án, các Phó Chánh án và Chánh Tòa; Tòa chuyên trách gồm: Tòa Hình

sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Hành chính, Tòa Gia đình và

người chưa thành niên; Phòng chuyên môn gồm: Văn phòng, Phòng Kiểm tra

nghiệp vụ và thi hành án, Phòng Tổ chức cán bộ, thanh tra và Thi đua khen

thưởng.

Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội còn được giao nhiệm

vụ quản lý 30 Tòa án nhân dân cấp huyện, thành phố Hà Nội về công tác tổ

chức cán bộ, tài chính kế toán. Hiện nay, các Tòa án nhân dân cấp huyện có

662 người, trong đó có 304 Thẩm phán, 358 Thư ký và chức danh khác; về

trình độ chuyên môn nghiệp vụ có 02 Tiến sỹ Luật, 107 Thạc sỹ Luật, 542 cử

nhân; về trình độ lý luận chính trị có 75 người có trình độ cử nhân và cao cấp

lý luận chính trị. Mỗi Tòa án nhân dân cấp quận, huyện có cơ cấu tổ chức

gồm 01 Chánh án, 02 Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký và 01 cán bộ phụ

trách tài chính kế toán.

42

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tổ chức tốt công tác xét xử các

loại vụ án, đặc biệt là các vụ án lớn, trọng điểm, phục vụ kịp thời nhiệm vụ

chính trị của Thủ đô. Hàng năm, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý,

giải quyết trên 3.000 vụ án các loại; Tòa án cấp quận, huyện hằng năm, thụ lý,

giải quyết 24.500 vụ án các loại, bảo đảm đúng quy định của pháp luật. Chất

lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án được nâng cao, tỷ lệ án bị hủy, bị sửa

giảm rõ rệt; công tác tổ chức xét xử được quan tâm, đáp ứng yêu cầu của cải

cách tư pháp.

2.2. Thực trạng vụ án hành chính tại Tòa án Nhân dân thành phố

Hà Nội

2.2.1. Vụ án sơ thẩm

Có thể nhận thấy từ khi Luật tố tụng hành chính 2010 và Luật tố tụng

hành chính 2015 có hiệu lực thì việc thụ lý, giải quyết các vụ án hành chính

tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả nhất định.

Nhìn chung số lượng các vụ án hành chính thụ lý, giải quyết tại Tòa án nhân

dân Thành phố Hà Nội đều tăng qua các năm, được thể hiện cụ thể bằng bảng

số liệu sau:

Bảng 1. Thụ lý giải quyết án hành chính sơ thẩm của Toà án nhân dân

Thành phố Hà Nội trong các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019

và 9 tháng đầu năm 2020

Năm

9 tháng đầu

2015

2016

2017

2018

2019

năm 2020

Loại

Thụ

Giải

Thụ

Giải

Thụ

Giải

Thụ

Giải

Thụ

Giải

Thụ

Giải

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

quyết

quyết

quyết

quyết

quyết

quyết

52 31 59% 86 40 46% 122 68 58% 147 74 50,3% 129 84 65% 107 97 90%

183 52 28% 378 98 25% 533 125 23% 920 139 15% 1066 319 29% 1140 416 36%

Hành chính cấp huyện Hành chính cấp tỉnh Tổng 235 83 35% 464 138 29% 655 193 29% 1067 213 20% 1195 403 34% 1247 513 41%

Nguồn: [43; 44; 46; 47; 48; 49].

43

Qua số liệu thụ lý, giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm ở hai cấp huyện

và tỉnh thuộc Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2015

đến tháng 9 năm 2020 cho thấy tỉ lệ thụ lý vụ án hành chính ở cấp huyện và

cấp tỉnh đều tăng lên theo từng năm. Tỉ lệ thụ lý và giải quyết án hành chính ở

cấp huyện tương đối đồng đều, tỉ lệ thụ lý tăng lên thì tỷ lệ giải quyết cũng

tăng lên. Đặc biệt là 09 tháng năm 2020 tỷ lệ giải quyết vụ án hành chính ở

cấp huyện đạt gần như tuyệt đối là 90%. Từ ngày 01/7/2016, thẩm quyền của

Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội mở rộng hơn nhiều, cụ thể là các khiếu

kiện hành chính đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của

Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên đều

thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành

phố Hà Nội nên số liệu thụ lý của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội cao

hơn nhiều so với trước đây. Số lượng án hành chính của Tòa án nhân dân

thành phố Hà Nội được giải quyết cũng tăng lên, tuy nhiên so với số lượng hồ

sơ thụ lý thì không đáng kể nên tỷ lệ hồ sơ giải quyết được chỉ đạt ở mức từ

30% đến 40%/năm. Nhìn vào số liệu thụ lý tăng theo các năm có thể khẳng

định được người dân đã nhận thức được khi có vi phạm xảy ra trong lĩnh vực

hành chính thì quyền mà mình được bảo vệ là gì và dần thực hiện các quyền

của mình một cách đầy đủ hơn. Tòa án trong phạm vị chức năng, nhiệm vụ và

quyền hạn của mình được phân công cũng đã bảo đảm được quyền khởi kiện

cho người dân.

2.2.2. Vụ án phúc thẩm

Theo Điều 173, Luật Tố tụng hành chính: “xét xử phúc thẩm là việc

Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà án

cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Theo

đó, chúng ta hiểu rằng việc xét xử phúc thẩm vụ án hành chính diễn ra khi có

một trong hai điều kiện là kháng cáo hoặc kháng nghị.

44

Bảng 2. Thụ lý giải quyết án hành chính phúc thẩm của Toà án nhân dân

Thành phố Hà Nội trong các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019

và 9 tháng đầu năm 2020

Năm

9 tháng đầu

2015

2016

2017

2018

2019

năm 2020

Thụ

Giải

Thụ

Giải

Thụ

Giải

Thụ

Giải

Thụ

Giải

Thụ

Giải

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

quyết

quyết

quyết

quyết

quyết

quyết

Cấp

phúc

50 43 86% 55 50 91% 69 60 87% 58 49 87% 43 34 87% 40 25 63%

thẩm

Nguồn: [43; 44; 46; 47; 48; 49].

Qua số liệu thụ lý, giải quyết án hành chính phúc thẩm trong giai đoạn

từ 2015 đến tháng 9 năm 2020 cho thấy giống như tỉ lệ án hành chính sơ

thẩm, tỉ lệ thụ lý án hành chính phúc thẩm cũng tăng lên theo từng năm. Tuy

nhiên số lượng vụ án hành chính phúc thẩm tăng không đáng kể, có sự ổn

định tương đối giữa các năm. Điều này thể hiện việc giải quyết các vụ án

hành chính tại cấp sơ thẩm tương đối tốt, số lượng vụ án hành chính bị kháng

cáo ít hơn nhiều so với số lượng án hành chính sơ thẩm đã được giải quyết,

không có vụ án hành chính bị Viện kiểm sát kháng nghị. Trong khi đó tỷ lệ

giải quyết án phúc thẩm so với tỷ lệ thụ lý tương đối cao, từ năm 2015 đến

năm 2019 đều đạt tỷ lệ trên 85%, chỉ riêng 9 tháng đầu năm 2020 do thời gian

ngắn hơn nên tỉ lệ giải quyết án phúc thẩm chưa đạt được tỉ lệ cao như các

năm trước.

2.3. Thực tiễn bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết

các vụ án hành chính tại Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội

2.3.1. Những kết quả đạt được

Qua thực tiễn xét xử, quyền của người khởi kiện trong giải quyết các

vụ án hành chính được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội bảo đảm thực hiện

với những kết quả như sau:

45

Thứ nhất, bảo đảm bằng quyền được bảo vệ bởi Tòa án

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án nhân dân thành

phố Hà Nội đã xem xét tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi

hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại

các vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri và quyết định bằng bản án, quyết định

của Tòa án. Trong những năm gần đây do số lượng án tập trung đến Tòa án

nhân dân Thành phố Hà Nội nên dẫn đến quá tải đối với các Thẩm phán. Từ

năm 2015 đến năm 2017 Tòa Hành chính chỉ có 04 thẩm phán trong khi đó số

vụ án thụ lý là 464 vụ án, từ giữa năm 2018 số lượng thẩm phán của Tòa hành

chính được tăng cường và đến hiện tại Tòa hành chính Tòa án nhân dân thành

phố Hà Nội có 12 thẩm phán với số vụ án thụ lý là 1247 tuy nhiên tỉ lệ giải

quyết án hành chính vẫn tương đối thấp, năm 2015 giải quyết đạt tỉ lệ 35%,

năm 2016 giải quyết đạt tỉ lệ 29%, năm 2017 giải quyết đạt tỉ lệ 29%, năm

2018 giải quyết đạt tỉ lệ 20%, năm 2019 giải quyết đạt tỉ lệ 34%, 9 tháng đầu

năm 2020 tỉ lệ giải quyết án hành chính đạt tỉ lệ 41% [43; 44; 46; 47; 48; 49].

Tỉ lệ án hành chính thấp là do thẩm quyền của Tòa án nhân dân Thành phố Hà

Nội mở rộng hơn nhiều, cụ thể là các khiếu kiện hành chính đối với các quyết

định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ

tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên đều thuộc thẩm quyền giải quyết theo

thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội nên số liệu thụ lý của

Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội tăng cao hơn nhiều so với trước đây, tính

chất các vụ án ngày càng phức tạp, lực lượng thẩm phán mới của Tòa Hành

chính kinh nghiệm giải quyết án hành chính không nhiều nên dẫn đến tình

trạng án tồn cao. Tuy thời gian gần đây tỷ lệ án hành chính giải quyết đã được

tăng dần nhưng so với tỷ lệ hồ sơ thụ lý vẫn chưa đáp ứng được tình hình thực

tế cần giải quyết. Nhưng với số lượng các vụ án hành chính tăng theo từng

năm như vậy, chứng tỏ rằng quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức

ngày càng được bảo vệ, song tỉ lệ giải quyết án hành chính thấp đã ảnh hưởng

rất nhiều đến quyền của người khởi kiện.

46

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trong thời gian qua chủ yếu chỉ yêu

cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện để xác định đúng đối

tượng khởi kiện. Rất ít trường hợp người khởi kiện bị trả lại đơn khởi kiện,

trường hợp trả lại đơn chỉ xảy ra khi người khởi kiện khởi kiện không đúng

đối tượng của vụ án hành chính. Ví dụ: Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân

Tối cao, các tài liệu tập huấn năm 2012, 2013 và theo Bản án giám đốc thẩm

số 05/2014/HC-GĐT ngày 22/5/2014 về việc khiếu kiện quyết định hành

chính của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì việc khiếu kiện các

văn bản hành chính liên quan đến chính sách về quản lý nhà đất và chính sách

cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày

01/7/1991 không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do đó, hiện nay

Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội không thụ lý giải quyết đối với những

quyết định hành chính liên quan đến việc thực hiện các chính sách về quản lý

nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban

hành trước ngày 01/7/1991.

Thứ hai, bảm đảm bằng quyền bình đẳng trước Tòa án

Quan hệ hành chính trên thực tế được nhận định là quan hệ bất bình

đẳng giữa một bên là người có quyền và một bên là người buộc phải thực

hiện. Chính vì sự bất bình đẳng như vậy nên Luật Tố tụng hành chính năm

2015 đã ra đời với những quy định nhằm hạn chế tối đa sự bất bình đẳng đó,

bảo đảm quyền và lợi ích của các bên đương sự thật sự được cân bằng khi

tham gia giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án, các bên tham gia tố tụng có

quyền và nghĩa vụ ngang nhau, có quyền bình đẳng với nhau trong suốt quá

trình tố tụng.

Quyền bình đẳng được thể hiện cụ thể ở các quy định như: Sau khi vụ

án được Tòa án thụ lý, trong quá trình Thẩm phán được phân công giải quyết

vụ án tiến hành xây dựng hồ sơ thì các bên đương sự đều có quyền bình đẳng

trong việc cung cấp chứng cứ cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình. Trong trường hợp các bên đương sự không thể tự mình thu thập

47

chứng cứ (đây là điều thường xuyên xảy ra trong các vụ án hành chính, đặc

biệt khi người khởi kiện là cá nhân) thì đương sự có quyền làm đơn yêu cầu

Tòa án thu thập chứng cứ vì trong tố tụng hành chính, phía các cơ quan nhà

nước có điều kiện thu thập, bổ sung chứng cứ để bảo vệ quyết định, hành vi

hành chính của mình. Cơ quan nhà nước có nhiều lợi thế khi tranh tụng.

Ngược lại, người khởi kiện đa phần là người dân chỉ có thể sử dụng chứng cứ

từ những nguồn thông tin công khai hoặc do chính các cơ quan nhà nước cung

cấp. Do vậy, để tạo sự bình đẳng, Điều 55 Luật TTHC 2015 quy định:“ Các

đương sự của vụ án có quyền: Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu

giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để

giao nộp cho Tòa án; Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ

của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án buộc bên

đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang lưu giữ, quản lý; đề

nghị Tòa án ra quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản

lý chứng cứ cung cấp chứng cứ; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng,

trưng cầu giám định, định giá tài sản; Được biết, ghi chép và sao chụp tài liệu,

chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu,

chứng cứ không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 96…” Sau

khi thu thập được các chứng cứ, thông qua phiên họp kiểm tra việc giao nộp,

tiếp cận, công khai chứng cứ Tòa án công bố cho các bên đương sự biết toàn

bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Việc tham gia phiên họp công

khai chứng cứ để đảm bảo các đương sự được biết các tài liệu chứng cứ do

đương sự khác cung cấp để từ đó có phương hướng bảo vệ quyền của mình.

Vì đây là quyền vô cùng quan trọng đảm bảo cho kết quả của việc khởi kiện

nên trong các vụ án hành chính, các đương sự đã thực hiện và được thực hiện

tốt quyền này, nên hồ sơ được xây dựng đầy đủ, không có án hủy sửa liên

quan đến thu thập chứng cứ.

Các đương sự có quyền bình đẳng trong việc tham gia đối thoại. Phiên

đối thoại các bên phải được trình bày ý kiến, quan điểm của mình. Người khởi

48

kiện trình bày các ý kiến, quan điểm của mình về nội dung vụ án với người bị

kiện được tức là cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan

hành chính và họ cũng được nghe người bị kiện phản hồi lý do ban hành các

quyết định hành chính, hành vi hành chính. Thông qua quyền được đối thoại

người khởi kiện, người bị kiện có thể xác định được lỗi hoặc vướng mắc đang

tồn tại từ đó thay đổi cách nhìn, thay đổi quan điểm để có thể có hướng giải

quyết mâu thuẫn một cách triệu để và hiệu quả nhất. Chính vì vậy, Tòa án

phải có nghĩa vụ đảm bảo các quyền này của các bên đương sự phải được

thực hiện. Thực tế Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã và đang đảm bảo

tốt các quyền này của các bên đương sự trong giải quyết vụ án hành chính.

Tuy nhiên hiện nay đang tồn tại một vấn đề khách quan gây cản trở lớn cho

việc Tòa án tổ chức tiến hành đối thoại giữa các bên đương sự đó là việc của

người bị kiện hoặc người đại diện của người bị kiện xin vắng mặt tại Tòa

trong nhiều vụ án. Đây cũng là một khó khăn cần tìm cách tháo gỡ để Tòa án

có thể đảm bảo việc tổ chức đối thoại giữa các bên.

Các đương sự bình đẳng trong việc trình bày yêu cầu, ý kiến, quan

điểm và đặt các câu hỏi với những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa,

theo trình tự thủ tục tại phiên tòa thì người khởi kiện trình bày về yêu cầu

khởi kiện, trình bày các căn cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện. Cũng như

vậy, người bị kiện có quyền trình bày quan điểm của mình về yêu cầu khởi

kiện, các căn cứ chứng minh cho việc chấp nhận một phần hoặc không chấp

nhận đối với yêu cầu khởi kiện; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình

bày ý kiến liên quan đến yêu cầu khởi kiện, yêu cầu độc lập (nếu có) cũng

như các ý kiến liên quan đến quyền và lợi ích của mình trong vụ án. Tại phiên

tòa các đương sự được đặt các câu hỏi với những người tham gia tố tụng còn

lại, trong trường hợp không tự đặt được câu hỏi thì có quyền đề nghị Hội

đồng xét xử hỏi để làm rõ. Sau khi kết thúc phần hỏi các bên đương sự có

được quyền trình bày ý kiến tranh luận để bảo vệ quan điểm của mình.

Các bên được bình đẳng trong việc xem xét đánh giá các chứng cứ của

49

Hội đồng xét xử. Trong quá trình xem xét đánh giá chứng cứ Hội đồng xét xử

phải đảm bảo tất cả các chứng cứ đều được xem xét đánh giá như nhau theo

qui định của pháp luật. Trên cơ sở đánh giá chứng cứ Hội đồng xét xử ban

hành các bản án, quyết định. Nếu yêu cầu của người khởi kiện có căn cứ thì

Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện và ngược lại, nếu các

chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện không đủ hoặc không

có căn cứ thì Hội đồng xét xử sẽ không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của

người khởi kiện. Trong thực tiễn cuả Tòa Hành chính Tòa án nhân dân thành

phố Hà Nội, tỉ lệ phán quyết chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện thấp hơn

so với việc không chấp nhận yêu cầu, nhưng cũng có nhiều vụ án đã được Tòa

án xác định đối tượng bị khởi kiện không đúng và Tòa án hủy quyết định

hành chính của cơ quan ban hành Quyết định. Thực tế đã có những sai sót của

Ủy ban nhân dân như chậm thực hiện các thủ tục bồi thường, hỗ trợ, giải

phóng mặt bằng tái định cư làm phát sinh thêm số tiền phải đền bù về chênh

lệch giá đất giữa thời điểm có quyết định thu hồi đất, phương án bồi thường

với thời điểm giải quyết bồi thường, hỗ trợ thiệt hại; việc kiểm kê hiện trạng

đất bị thu hồi còn chưa chính xác dẫn đến trường hợp quyết định bồi thường

đã ban hành phải thu hồi, hủy bỏ hoặc phải bổ sung nhiều lần do sai diện tích

đất, sai hiện trạng đất, sai loại đất, sót tài sản, sót đối tượng phải hỗ trợ; trong

việc thu thuế, truy thu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, việc

áp dụng pháp luật để xử lý đối với các hóa đơn liên quan đến các doanh

nghiệp bị coi là bỏ trốn vẫn còn trường hợp chưa chính xác, truy thu cả các

trường hợp thực sự có nghiệp vụ kinh tế phát sinh và hóa đơn của doanh

nghiệp dùng để khấu trừ thuế thực sự là hóa đơn hợp pháp...đã bị hủy và

người bị kiện đã phải thực hiện lại theo đúng qui định của pháp luật:

Tại Bản án sơ thẩm số 197/2018/HCST ngày 14/12/2018 Tòa án nhân

dân thành phố Hà Nội xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng X Q

đối với Quyết định số 4674/QĐ-BGDĐT ngày 11/10/2013 của Bộ trưởng Bộ

Giáo dục và Đào tạo “về việc thu hồi bằng tiến sĩ ngành của tế của ông Hoàng

50

X Q tại Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân” [34]. Sau khi nghiên cứu các tài

liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã xử chấp nhận một

phần yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện: Hủy Quyết định số 4674/QĐ-

BGDĐT ngày 11/10/2013 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo “về việc

thu hồi bằng tiến sĩ ngành của tế của ông Hoàng X Q tại Trường Đại học Kinh

tế Quốc Dân”; Kiến nghị Bộ GD&ĐT và các cơ quan chức năng có thẩm

quyền khôi phục lại học hàm, học vị cho ông Hoàng X Q do việc thực hiện

Quyết định số 4674/QĐ-BGDĐT ngày 11/10/2013 của Bộ trưởng Bộ giáo

dục và Đào tạo theo quy đinh; Đình chỉ việc giải quyết vụ án đối với yêu cầu

đòi bồi thường trách nhiệm dân sự của ông Hoàng X Q.

Tại Bản án sơ thẩm số 141/2019/HCST ngày 09/8/2019 Tòa án nhân

dân thành phố Hà Nội xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Q và

bà Nguyễn Thị L về việc khiếu kiện quyết định thu hồi, hủy bỏ quyết định

giao đất [35]. Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án,

Hội đồng xét xử đã xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Q và bà

Nguyễn Thị L về việc hủy Quyết định số 2130/QĐ-UBND ngày 16/11/2016

của UBND huyện M; Tuyên hủy toàn bộ Quyết định số 2130/QĐ-UBND

ngày 16/11/2016 của UBND huyện M về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định số

392/2003/QĐ-UB ngày 13/8/2003 của UBND huyện M về việc giao 60m2 đất

cho hộ ông Lê Văn Q (L) tại thị trấn T huyện M làm nhà ở.

Qua đó có thể nhận thấy, việc xem xét, đánh giá chứng cứ và áp dụng

các qui định của pháp luật để ban hành cành các bản án đúng qui định của

pháp luật, bảo đảm quyền của người khởi kiện, quyền được bình đẳng trong

xem xét và đánh giá các chứng cứ đã được Tòa Hành chính Tòa án nhân dân

Thành phố Hà Nội thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ theo đúng quy

định của pháp luật.

Bên cạnh viêc đảm bảo quyền bình đẳng về nội dung xét xử thì Tòa án

nhân dân thành phố Hà Nội còn đảm bảo quyền bình đẳng cho đương sự cả về

mặt hình thức xét xử thể hiện qua việc thực hiện Thông tư số 01/2017/TT-

51

TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân Tối cao qui định

về phòng xử đối với từng loại vụ án. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã

bố trí phòng xử án bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án của các đương sự

đồng thời bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Tuy chỉ thay đổi về

mặt hình thức, nhưng đây có thể coi là một bước tiến lớn trong nhận thức về

cải cách tư pháp, có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo niềm tin của đương sự,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vào công bằng trong

giải quyết vụ án.

Thứ ba, bảo đảm bằng quyền được xét xử kịp thời, công bằng và công

khai, độc lập và không thiên vị.

Không chỉ riêng việc giải quyết các vụ án hành chính mà quyền được

xét xử kịp thời, công bằng và công khai, độc lập và không thiên vị là mục

đích và mục tiêu phải thực hiện của ngành Tòa án. Tòa án là nơi người khởi

kiện đặt niềm tin, là nơi đại diện cho Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của ngưởi dân vì vậy nếu không đảm bảo quyền trên cho người khởi

kiện thì hậu quả pháp lý do nó gây ra sẽ ảnh hưởng rất lớn đến người dân

không chỉ về mặt pháp luật và còn ảnh hưởng cả về kinh tế, sức khỏe của

người khởi kiện. Theo qui định của Luật Tố tụng hành chính, Tòa án xét xử

kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng. Tòa án xét xử công

khai. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của

dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật

kinh doanh, bí mật cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án có

thể xét xử kín.

Về quyền được xét xử kịp thời thì theo quy định tại Điều 30 Luật Tố

tụng hành chính năm 2015 qui định thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án là 04

tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp đối tượng khởi kiện là quyết

định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Đối

với vụ án phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể

quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử một lần, nhưng không quá 02

52

tháng. Căn cứ theo quy định về thời hạn xét xử trên có thể nhận thấy việc bảo

đảm quyền được xét xử kịp thời trong xét xử các vụ án hành chính tại Tòa án

nhân dân Thành phố Hà Nội trong nhiều vụ án chưa thực hiện tốt. Nhiều vụ

án hành chính bị kéo dài thời gian giải quyết kể từ khi thụ lý đến khi xét xử là

02 đến 03 năm, thậm chí có những vụ án kéo dài đến 06, 07 năm. Bên cạnh

đó, theo thống kê thì tỉ lệ giải quyết các vụ án hành chính từ năm 2015 đến 9

tháng đầu năm 2020 không năm nào đạt tỉ lệ do ngành Tòa án đề ra, thậm chí

năm 2018 tỉ lệ giải quyết án sơ thẩm chỉ đạt 20% (213 vụ giải quyết/1067 vụ

thụ lý) [43; 44; 46; 47; 48].

Về quyền được xét xử công bằng: trong thời gian qua Tòa án nhân dân

Thành phố Hà Nội đã thực hiện khá tốt công tác xét xử, đảm bảo tính công

bằng trong xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích của người khởi kiện cũng như

quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ

liên quan trọng vụ án. Việc xét xử công bằng được thực hiện thông qua việc

đánh giá chứng cứ do các bên đương sự cung cấp, các tài liệu chứng cứ do

Tòa án thu thập được, các ý kiến trình bày của đương sự tại các buổi làm việc,

tại phiên tòa; Các ý kiến tranh luận để bảo vệ cho quan điểm và yêu cầu của

mỗi bên. Xong bên cạnh đó có những vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy, sửa

do việc đánh giá, thu thập chứng cứ của Tòa án chưa đảm bảo. Bản án hành

chính phúc thẩm số 39/2019/HC-PT ngày 09 tháng 8 năm 2019 về việc khiếu

kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Tòa án nhân

dân thành phố Hà Nội [37] sửa Bản án sơ thẩm số 01/2019/HC-ST ngày

27/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện ML. Nội dung vụ án: Năm 1966, gia

đình ông mua của ông Đỗ Văn Thiện 01 thửa đất diện tích 03 sào do gia đình

ông Thiện di cư lên Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Khi mua bán hai bên viết giấy tờ

cho nhau nhưng không thông qua chính quyền địa phương. Hai bên có chỉ

mốc giới cho nhau 4 góc đất là những bụi tre. Sau khi mua đất, gia đình ông

chuyển tới ở từ đó đến nay. Năm 1997 gia đình ông tiếp tục mua của ông

Tuấn bà Hoạt 01 thửa đất ao liền kề diện tích 180m2. Quá trình chuyển

53

nhượng hai bên có viết giấy tờ cho nhau nhưng không thông qua chính quyền

địa phương. Sau khi mua bán đất thì hàng năm ông Thiện vẫn đóng thuế đầy

đủ cho chính quyền địa phương. Năm 1974 khi HTX làm đường, ông đã hiến

cho HTX một phần diện tích đất và gia đình ông còn lại 1197m2 đất. Năm

2001 bà Vui tố cáo gia đình ông Thiện lấn chiếm lối đi của gia đình bà Vui.

Ủy ban nhân dân xã đã giải quyết và kiểm tra hiện trạng theo bản đồ năm

1985 kết luận gia đình ông không lấn chiếm ngõ đi của gia đình bà Vui và gia

đình ông dư thừa 150m2 đất. Không đồng ý với kết luận của Ủy ban xã, ông

Thiện đã khiếu nại lên Ủy ban huyện, Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành kết

luận số 63 ngày 17/8/2005 kết luận gia đình ông Thiện không lấn chiếm lối đi

chung và kết luận kiểm tra hiện trạng đất của gia đình ông và bản đồ nếu quá

diện tích chuyển nhượng thì xử lý theo quy định. Năm 2012 bà Vui tiếp tục tố

cáo gia đình ông lấn chiếm đất của tập thể. Ủy ban nhân dân xã tiếp tục giải

quyết và ban hành kết luận số 61 kết luận đất của gia đình ông tăng 150m2 so

với bản đồ năm 1985. Không đồng ý với kết luận số 61 ông Thiện khiếu nại

đề nghị căn cứ bản đồ năm 1958 để giải quyết nhưng không được chấp nhận

và Ủy ban nhân dân xã TV ban hành quyết định số 39 ngày 18/7/2013. Ông

Thiện tiếp tục khiếu nại thì Ủy ban nhân dân xã TV ban hành quyết định số

05 ngày 17/01/2014 giữ nguyên kết luận số 61 ngày 19/7/2012 và thay thế

quyết định số 39 ngày 18/7/2013 kết luận gia đình ông lấn chiếm 150m2 đất

của tập thể. Không đồng ý với quyết định 05 ông khiếu nại đến Ủy ban nhận

dân ML. UBND M L giải quyết khiếu nại và ban hành quyết định số 2652

ngày 09/5/2014 giữ nguyên quyết định số 05 của Ủy ban nhân dân xã TV.

Ông Thiện khởi kiện đề nghị Tòa án hủy cả hai quyết định trên. Lý do sửa

bản án: Tòa án cấp sơ thẩm đã có vi phạm không tiến hành lấy lời khai của bà

Đặng Thị Vui, không tiến hành xem xét thẩm định thửa đất nhà ông L. Như

vậy, trong quá trình xét xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm chưa thu

thập đầy đủ chứng cứ, chưa xem xét đánh giá các chứng cứ đầy đủ theo qui

54

định của pháp luật dẫn đến bản án bị sửa làm ảnh hưởng đến quyền của người

khởi kiện.

Ngoài ra, việc đảm bảo quyền được xét xử công bằng còn được Tòa án

thực hiện theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW và

Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị về nhiệm vụ cải cách tư pháp thì các

hoạt động của Tòa án được thực hiện các trình tự thủ tục công khai từ khâu

nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, xét xử vụ án đến bản án, quyết định

của Tòa án; Ngoài việc niêm yết, công bố công khai qui trình một cửa liên

thông thì các phiên tòa hành chính đều được thực hiện công khai. Bên cạnh đó

hàng năm mỗi thẩm phán thực hiện ít nhất một phiên tòa rút kinh nghiệm có

sự tham gia đánh giá của những người có chuyên môn nghiệp vụ bằng hoặc

cao hơn. Thực hiện Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP ngày 16/3/2017 của

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về việc công bố bản án, quyết

định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án, Tòa án nhân dân Thành phố Hà

Nội đã tiến hành công bố các bản án hành chính đầy đủ trên Cổng thông tin

điện tử của Tòa án tạo điều kiện cho người dân tiếp cận được với các bản án,

quyết định của Tòa án và thông qua đó thực hiện quyền giám sát của mình đối

với hoạt động của Tòa án. Như vậy, quyền được xét xử công khai đã được

Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội thực hiện tốt, bảo đảm quyền của người

khởi kiện.

Đối với khía cạnh độc lập và không thiên vị, có thể thấy ở nước ta hệ

thống tòa án được tổ chức theo cấp hành chính kết hợp với thẩm quyền, mô

hình tổ chức này đã tạo nên những hạn chế làm ảnh hưởng đến tính độc lập

của tòa án. Với cách tổ chức như vậy ít hay nhiều tòa án cũng phải chịu sự chi

phối của chính quyền địa phương, cá nhân người có chức vụ, quyền hạn trong

hệ thống các cơ quan Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội… Để

giảm bớt được sự hạn chế này Tòa án cần được trang bị một bộ khung pháp lý

phù hợp với để tuân thủ, thực hiện và trên thực tế kể từ khi Luật Tố tụng hành

chính năm 2015 có hiệu lực thì đã phần nào giảm đi được áp lực này.

55

Ngoài ra, vấn đề tài chính cũng là một trong những yếu tố chi phối sự

độc lập của tòa án. Điều này được thể hiện rất rõ ràng khi ngân sách cho hoạt

động xét xử của Tòa án vẫn chưa được độc lập, chưa có sự ưu tiên về tài

chính cho hoạt động của tòa án.

Về việc độc lập khi xét xử: Theo qui định thì thẩm phán độc lập khi xét

xử, tuy nhiên, theo trình tự thủ tục tố tụng hành chính thì sau khi xét xử sơ

thẩm nếu đương sự không đồng ý với bản án, quyết định thì có thể kháng cáo

theo trình tự thủ tục phúc thẩm, nên các Thẩm phán có tâm lý xin ý kiến của

Tòa án nhân dân cấp trên, thông thường là các lãnh đạo Tòa chuyên trách cấp

trên. Với tâm lý sợ án bị hủy, sửa nên các Thẩm phán thường hướng theo ý

kiến của Tòa cấp trên, như vậy thì không đảm bảo được sự độc lập nhất định

trong xét xử. Bên cạnh đó, sự độc lập của thẩm phán với Hội thẩm nhân dân

vẫn còn bị hạn chế. Theo qui định của Luật Tố tụng hành chính thì Hội thẩm

nhân dân ngang quyền với Thẩm phán, tức là Hội thẩm nhân dân và Thẩm

phán quyết định giải quyết mọi vấn đề của vụ án không kể về nội dung hay

thủ tục tố tụng, từ việc đọc hồ sơ vụ án, nghiên cứu chứng cứ, cho đến việc ra

Quyết định giải quyết vụ án. Số lượng Hội thẩm nhân dân chiếm 2/3 trong

thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, thẩm phán là người trực tiếp

xây dựng hồ sơ, các Hội thẩm nhân dân chỉ chỉ đến Tòa tiếp cận hồ sơ khi

Tòa án mở phiên tòa, với thời gian rất ngắn thì không thể hiểu được hết tình

tiết vụ án, chỉ qua quá trình tranh tụng tại phiên tòa thì hội thẩm nhân dân mới

hiểu được phần nào nội dung vụ án. Bên cạnh đó, trình độ pháp luật của Hội

thẩm nhân dân không đồng đều, xuất phát từ nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng

chủ yếu họ làm việc bên các sở, ban, ngành và các cơ quan đơn vị thuộc quản

lý của Nhà nước, các trường học, những người đang còn làm việc có ít thời

gian tham gia phiên tòa, còn những người đã nghỉ hưu mà có trình độ pháp

luật lại tham gia các công việc khác không tham gia công tác hội thẩm, vì

mức bồi dưỡng cho hội thẩm nhân dân không cao, họ có thể có được công

việc khác với mức lương cao hơn và ít trách nhiệm hơn. Với đặc thù của các

56

vụ án hành chính ở Thành phố Hà Nội đa số là xem xét tính hợp pháp của các

quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan quản lý hành

chính nhà nước, người có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước

mà đa số là Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân nên tránh mời Hội

thẩm nhân dân đang làm việc tại các cơ thuộc Ủy ban nhân dân vì có thể ảnh

hưởng đến sự vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án. Chính vì

vậy, lực lượng Hội thẩm nhân dân đa số có trình độ pháp lý và chuyên môn

liên quan đến lĩnh vực hành chính còn nhiều hạn chế. Như vậy, việc đảm bảo

đảm sự độc lập giữa Hội thẩm nhân dân và Thẩm phán vẫn chưa đảm bảo. Rất

ít, hoặc hầu như không có vụ án nào có ý kiến bảo lưu quan điểm của Thẩm

phán hay Hội thẩm nhân dân.

Vì vậy, để bảo đảm quyền xét xử công bằng của người khởi kiện trong

giải quyết các vụ án nói chung và vụ án hành chính nói riêng thì điều kiện tiên

quyết nhất đó là Tòa án phải được độc lập.

Thứ tư, bảo đảm quyền tranh tụng tại Tòa án

Tranh tụng tại phiên tòa là thủ tục tố tụng đặc biệt trong quá trình Tòa

án giải quyết vụ án. Gọi là thủ tục tố tụng đặc biệt vì Tòa án công khai cho

mọi người (bao gồm: người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng, người

tham dự phiên tòa) biết về: Lời trình bày của đương sự, của người bảo vệ

quyền lợi ích của đương sự; các câu hỏi của Hội đồng xét xử; lời đối đáp của

các bên đương sự; phát biểu của Kiểm sát viên và Công khai cho mọi người

biết các tài liệu, chứng cứ, vật chứng của vụ án do các bên đương sự cung cấp

và Tòa án thu thập trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án. Các tài liệu, chứng

cứ, vật chứng của vụ án tuy các đương sự đã biết tại phiên họp kiểm tra việc

giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải từ trước khi Tòa án mở

phiên tòa sơ thẩm, nhưng vẫn phải công khai để đương sự kiểm tra, xác nhận

tài liệu, chứng cứ, vật chứng do đương sự cung cấp, giao nộp.

Theo qui định của Luật Tố tụng hành chính thì: Đương sự, người bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp, cung

57

cấp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án hành chính và có nghĩa vụ

thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát

biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ

yêu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người

khác theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Việc cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện

là quyền và nghĩa vụ của các đương sự, trong vụ án hành chính từ khi thụ lý

hồ sơ người khởi kiện phải nộp kèm theo các tài liệu chứng cứ chứng minh

cho yêu cầu của mình, bên cạnh đó người khởi kiện cũng phải gửi các tài liệu

chứng cứ cho người bị kiện và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan.

Sau khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án thì người bị kiện, người có quyền

lợi và nghĩa vụ liên quan phải phán ánh ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi

kiện hoặc quan điểm của mình về nội dung vụ án gửi cho Tòa án cùng các tài

liệu chứng cứ kèm theo. Tuy nhiên thực tế người bị kiện rất chậm trễ trong

việc gửi ý kiến của mình đến Tòa án.

Theo qui định tại Điều 60 Luật Tố tụng hành chính thì: Trường hợp

người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì

người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được

ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy

đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này.

Với tinh thần của Điều luật là đảm bảo cho người bị kiện phải là người

có quyền quyết định. Các đối tượng khởi kiện vụ án hành chính ở Tòa án

nhân dân Thành phố Hà Nội đa số là các quyết định hành chính, hành vi hành

chính liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai, thuộc quyền quản lý của Ủy ban

nhân dân. Chủ tịch Ủy ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành công việc

của Ủy ban nhân dân, các thành viên Ủy ban nhân dân huyện; lãnh đạo, chỉ

đạo các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân và các công việc khác.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân chỉ được ủy quyền cho các phó chủ tịch Ủy ban

nhân dân tham gia tố tụng, đồng thời cử chuyên viên phụ trách các lĩnh vực bị

58

khởi kiện tham gia vụ án với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của người bị kiện. Tuy nhiên đa số các vụ án thì các Phó chủ tịch đều có

đơn xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án. Điều này phù hợp với qui

định của Luật Tố tụng hành chính, tuy nhiên lại gây khó khăn cho Tòa án

trong việc giải quyết vụ án khi thu thập chứng cứ như lấy lời khai, xác định sự

thật của vụ án. Thực tế đa số các vụ án không thể đối thoại được do người đại

diện theo ủy quyền của người bị kiện xin vắng mặt, như vậy không đạt được

mục đích của đối thoại là để cho người khởi kiện có cơ hội để đối thoại trực

tiếp với người bị kiện để làm rõ lý do có quyết định hành chính, hành vi hành

chính, người khởi kiện có thể trình bày tâm tư nguyện vọng của mình để

người bị kiện nếu thấy rằng quyết định hành chính hành vi hành chính của

mình trái qui định của pháp luật, chưa phù hợp với thực tiễn thì sẽ thu hồi, sửa

đổi bổ sung và ngược lại nếu quyết định hành chính phú hợp qui định của

pháp luật thì trình bày cho người khởi kiện để họ hiểu được chủ trương, chính

sách của địa phương là phù hợp, đúng pháp luật thì người dân sẽ rút yêu cầu

khởi kiện. Như vậy sẽ rút ngắn được thời gian giải quyết vụ án.

Bên cạnh đó, theo qui định của Luật Tố tụng hành chính thì tại phiên

tòa, trong phần tranh tụng, các đương sự được đặt câu hỏi với đương sự khác

nhằm làm sáng tỏ nội dung vụ án. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong

các tài liệu, chứng cứ do các bên xuất trình, Tòa sẽ phải chủ động, tích cực

thẩm vấn để làm rõ sự thật khách quan. Tranh tụng được thể hiện rõ nét trong

thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, đặc biệt là trong thủ tục tranh luận và đối đáp.

Theo khoản 2, Điều 152 Luật TTHC 2015: “HĐXX phải trực tiếp xác định

những tình tiết của vụ án tại phiên tòa bằng cách hỏi và nghe trình bày, tranh

luận trực tiếp về tình tiết, chứng cứ của vụ án của người khởi kiện, người bị

kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp

pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người

tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức được mời tham dự phiên tòa, nghe

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát”. Khi người bị kiện xin

59

vắng mặt thì Hội đồng xét xử, người khởi kiện không thể đặt các câu hỏi tại

phiên tòa để làm rõ những tình tiết các vụ án, mặc dù người bị kiện có phân

công cán bộ chuyên trách làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

người bị kiện, nhưng theo qui định của Luật Tố tụng hành chính thì Hội đồng

xét xử, đương sự không có quyền đặt câu hỏi với người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của người bị kiện, như vậy người khởi kiện đã bị hạn chế quyền

tranh tụng tại phiên tòa.

Thứ năm, bảo đảm quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại

Trong quá trình khởi kiện vụ án hành chính mà người khởi kiện cho

rằng, các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc

thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh

tranh và lập danh sách cử tri của người bị kiện gây ra thiệt hại thì có quyền

yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính thực hiện việc giải

quyết bồi thường. Trong trường hợp này, đơn khởi kiện phải có nội dung: yêu

cầu xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ; nội dung yêu

cầu bồi thường; thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường; tài liệu, chứng cứ có

liên quan đến yêu cầu bồi thường. Trong trường hợp này, các quy định của

pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và pháp luật về tố tụng

dân sự được áp dụng để giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại. Thiệt hại

trong trường hợp này là thiệt hại thực tế do có quyết định hành chính, hành vi

hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại

về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri gây ra. Trường hợp

người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu bồi

thường thiệt hại thì có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Thực tế trong thời gian

qua tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, số lượng vụ án hành chính có yêu

cầu bồi thường thiệt hại rất ít so với số lượng án thụ lý, song hầu như không

có vụ án nào có yêu cầu bồi thường thiệt hại được chấp nhận. Nguyên nhân có

ít yêu cầu thiệt hại là do những người khởi kiện chỉ mong muốn Tòa án xem

xét các đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính chứ họ không nghĩ tới việc

60

yêu cầu bồi thường thiệt hại, bên cạnh đó một số người dân không biết rằng

họ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và không có yêu cầu. Một số vụ án

hành chính có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì Tòa án nhân dân sau khi xem

xét quyết định hành chính, hành vi hành chính… người bị kiện không vi phạm

qui định của pháp luật nên không có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.

Qui định này tạm thời phù hợp trong bối cảnh Tòa hành chính vẫn là

một Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, thời gian qua tỉ lệ giải

quyết các vụ án hành chính ở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội thấp tỉ lệ án

tồn cao. Mặc dù số lượng thẩm phán của Tòa Hành chính được tăng cường,

tuy nhiên lượng án tập trung về Tòa hành chính cao dẫn đến quá tải trong giải

quyết vụ án. Lượng án tồn cao dẫn đến quyền được bảo vệ bằng Tòa án của

người khởi kiện bị giảm xuống.

Thứ sáu, bảo đảm quyền được bảo đảm về quyền bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp

Quyền này được quy định trong Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự và

Bộ luật tố tụng dân sự, người khởi kiện có thể tự mình bảo vệ hoặc có thể nhờ

luật sư, trợ giúp viên pháp lý hay người khác am hiểu về pháp luật bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án. Toà án có trách nhiệm bảo

đảm cho người khởi kiện thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của họ. Trong những năm qua Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội luôn đảm

bảo cho đương sự nói chung và người khởi kiện nói riêng quyền bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp. Tuy nhiên, do chi phí mời luật sự lớn hoặc những trở

ngại khách quan khác nên việc người khởi kiện có luật sư bào chữa hoặc

người trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình trong các

vụ án hành chính chưa cao, chiếm khoảng 30% số vụ án hành chính thụ lý,

giải quyết.

Thứ bảy, Bảo đảm quyền khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện

Khi người khởi kiện vụ án hành chính nộp đơn nhưng bị Tòa án trả lại

đơn khởi kiện thì Luật tố tụng hành chính quy định người khởi kiện được

61

quyền khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện. Trong thực tế số lượng khiếu

nại về việc trả lại đơn khởi kiện hầu như không có vì phần lớn Tòa án chỉ yêu

cầu sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện cho đúng với quy định của pháp luật.

Thậm chí có những trường hợp đương sự đã được Tòa án yêu cầu sửa đổi bổ

sung đơn khởi kiện để đúng đối tượng bị kiện là Ủy ban nhân dân nhưng

người khởi kiện vẫn kiên quyết khởi kiện người ký Quyết định là Chủ tịch Ủy

ban nhân dân, trong trường hợp này Tòa án không trả lại đơn khởi kiện mà

thụ lý và tự xác định đúng tư cách của người bị kiện trong vụ án hành chính.

Tòa án chỉ trả lại đơn trong trường hợp người khởi kiện không có quyền khởi

kiện. Đối với những khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, Tòa án nhân dân

thành phố Hà Nội đều đảm bảo trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày

nhận đơn khiếu nại, Chánh án Tòa án Hà Nội ban hành quyết định giải quyết

khiếu nại gửi cho người khiếu nại và hướng dẫn người khiếu nại nếu không

đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án thì trong thời hạn 10

ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người

khởi kiện có quyền khiếu nại lên Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp. Trong

thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án Toà án

cấp trên trực tiếp phải giải quyết. Quyết định của Chánh án Toà án cấp trên

trực tiếp sẽ là quyết định giải quyết cuối cùng.

Thứ tám, bảo đảm quyền đề nghị xét xử vắng mặt

Trên thực tế xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyền này

rất ít khi và thậm chí không xảy ra. Những người khởi kiện trong vụ án hành

chính chấp hành rất nghiêm túc giấy triệu tập của Tòa án, thậm chí dù Tòa án

không triệu tập, họ vẫn đến Tòa để hỏi han, theo dõi tình hình diễn biến hoạt

động tố tụng đang được Tòa án thực hiện đến đâu. Người khởi kiện luôn cố

gắng để tham gia phiên tòa, đối với trường hợp người khởi kiện không thể

đến tham gia được thì họ sẽ ủy quyền cho người khác thay mặt họ đến tham

gia phiên tòa để bảo đảm tốt nhất cho quyền và lợi ích của họ.

62

Thứ chín, bảo đảm quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng,

người giám định, người phiên dịch

Khi có căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng, người giám định,

người phiên dịch thuộc trường hợp quy định thì người khởi kiện có quyền yêu

cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định và người phiên dịch

nhằm đảm bảo tính khách quan của những người này khi tham gia phiên tòa.

Trên thực tế tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội chưa có vụ án hành chính

nào người khởi kiện có yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám

định, người phiên dịch.

Thứ mười, bảo đảm quyền thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn

bộ yêu cầu khởi kiện

Trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, việc

thay đổi, bổ sung, rút một phần yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện trong

vụ án hành chính thường xuyên xảy ra, chiếm khoảng 25% số lượng vụ án

hành chính đang thụ lý, giải quyết. Nhưng việc rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện

lại rất ít vì nếu người khởi kiện rút đơn khởi kiện trong giai đoạn này thì Tòa

đình chỉ giải quyết vụ án, nghĩa là quyết định hành chính bị kiện đương nhiên

có hiệu lực. Do đó trường hợp người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện

chỉ xảy ra khi người bị kiện sửa chữa, thay đổi, hủy bỏ quyết định dẫn đến

quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện đã được đảm bảo.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Với những kết quả đạt được, thì quyền khởi kiện nói riêng và quyền

của các đương sự trong giải quyết vụ án hành chính nói chung tại Tòa án nhân

dân Thành phố Hà Nội trong những năm qua đã có những bước tiến rõ rệt,

quyền của người khởi kiện đã được đảm bảo cơ bản, hầu hết các vụ án hành

chính khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện đều đã được Tòa án nhận đơn,

thụ lý, giải quyết.

Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có những hạn chế cần phải được khắc

phục như sau:

63

Thứ nhất, theo chỉ tiêu công tác do Tòa án nhân dân Tối cao đề ra thì tỉ

lệ giải quyết án hành chính giải quyết trong một năm phải đạt tỉ lệ 80%. Theo

số liệu thống kê cho thấy, tỉ lệ giải quyết án hành chính trong những từ 2015

đến 2020 tuy đã tăng lên theo từng năm nhưng tỉ lệ vụ án được giải quyết so

với tỉ lệ vụ án đã được thụ lý vẫn ở mức thấp năm 2015 giải quyết được 35%,

năm 2016 giảm xuống còn 29%, năm 2017 vẫn tiếp tục giữ ở mức 29%, năm

2018 tỉ lệ giải quyết giảm thấp chỉ đạt 20%, năm 2019 tỉ lệ giải quyết đạt 34%

và 09 tháng đầu năm 2020 tỉ lệ giải quyết có tăng lên đạt tỉ lệ 41% [43; 44;

46; 47; 48; 49].

Tình trạng không đảm bảo về thời gian xét xử theo quy định của Luật

tố tụng hành chính hiện vẫn đang là vấn đề bất cập. Rất nhiều vụ án hành

chính kể từ khi thụ lý đến khi đưa ra xét xử kéo dài hơn rất nhiều so với thời

gian tối đa 06 tháng mà luật tố tụng hành chính đã quy định. Vẫn còn án hành

chính bị cấp phúc thẩm hủy, sửa do lỗi của Thẩm phán như không xem xét

toàn diện nội dung vụ án, thu thập chứng cứ không đầy đủ, áp dụng pháp luật

thiếu chính xác, thậm chí là xác định sai đối tượng khởi kiện dẫn đến vụ án

kéo dài.

Nguyên tắc trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa Hành chính và Hội

đồng xét xử là “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” chưa được hiện thực hóa

tốt trong thực tiễn. Qua thực tế xét xử cho thấy, ở những vụ án mà ở đó

“người bị kiện” lại là cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương (Chủ tịch

UBND các cấp) thì “quyền độc lập xét xử” của Tòa án trong nhiều trường hợp

không còn có ý nghĩa thực tế nữa. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết

quả xét xử vì lúc này tính khách quan, đúng pháp luật sẽ không còn nữa.

Thứ hai, hạn chế ở sự phối hợp từ phía người bị kiện (đặc biệt nhấn

mạnh chủ thể là Chủ tịch UBND) và sự phối hợp từ phía các cơ quan quản lý

hành chính cung cấp các chứng cứ, tài liệu. Việc không đưa ra giải quyết, xét

xử được án hành chính có nguyên nhân chủ yếu rất lớn từ phía chủ tịch

UBND các cấp, sau khi nhận được thông báo thụ lý vụ án của tòa án, nhưng

64

không kịp thời giao nộp văn bản ý kiến, tài liệu, chứng cứ; hoặc có giao nộp

nhưng không đầy đủ, trong đó cá biệt còn có Chủ tịch UBND không thực hiện

bất cứ yêu cầu nào của tòa án. Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính,

thời gian giao nộp văn bản ý kiến, tài liệu chứng cứ là 10 ngày kể từ ngày

nhận thông báo thụ lý án và người đại diện theo pháp luật là người đứng đầu

cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu chỉ có thể ủy quyền cho cấp phó tham

gia tố tụng. Tuy nhiên, đa số người được ủy quyền đều lấy lý do bận công tác

không tham gia đối thoại, tham gia phiên tòa, dẫn đến tòa án phải hoãn đi,

hoãn lại mất nhiều thời gian. Thực trạng trên đã và đang gây bức xúc đối với

tổ chức, công dân khi có vụ việc cần đến tòa giải quyết, ảnh hưởng xấu đến

chỉ tiêu, chất lượng giải quyết án hành chính; đồng thời, tạo ra áp lực đối với

thẩm phán, thư ký khi phải giải quyết án hành chính. Trên thực tế, việc lấy

các chứng cứ, tài liệu giấy tờ của người khởi kiện rất khó khăn, dễ làm đông

cứng quá trình bảo vệ quyền của chính họ và mất niềm tin vào pháp luật.

Thứ ba, thực tiễn chứng minh rằng, để tiếp cận được công lý, người dân

phải trải qua một hành trình pháp lý dài mà họ phải kiên trì theo đuổi, thậm

chí thắng kiện còn chờ để đấy và chờ thi hành án.

Điều này thể hiện rất rõ thông qua số liệu về tỷ lệ bản án quyết định bị

hủy, bị sửa trên tổng số vụ án hành chính đã giải quyết, xét xử qua các năm

đều cao. Năm 2019, tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy là 3,1%; bị sửa là 2,9%.

Thực tế này cho thấy, vẫn còn tồn tại khá phổ biến các vụ án hành chính ở

giai đoạn xét xử sở thẩm tại Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân

cấp tỉnh, người dân thường thua kiện, nhiều trường hợp chỉ đến phiên tòa

phúc thẩm, vụ án mới được xem xét khách quan và nghiêm túc, và nhiều

trường hợp, Tòa phúc thẩm có những phán quyết ngược lại và hủy án sơ

thẩm.

Bên cạnh đó, việc xét xử vụ án hành chính theo thủ tục giám đốc thẩm,

tái thẩm vẫn tăng. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng này đó là trong giai đoạn

khởi kiện và thụ lý án hành chính, tòa án xác định đối tượng khởi kiện, thời

65

hiệu khởi kiện, trả lại đơn khởi kiện không đúng, thụ lý đơn khởi kiện không

đúng thẩm quyền; quyết định tạm đình chỉ vụ án không đúng; các hạn chế

trong xác minh tài liệu, chứng cứ; hạn chế trong chuyên môn, nghiệp vụ, đạo

đức nghề nghiệp của thẩm phán. Thực trạng này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động

tìm kiếm công lý của người dân, hay nói cách khác, cản trở sự tiếp cận quyền

của nhóm đối tượng này.

Thứ tư, nguyên tắc tranh tụng, đối thoại không được đảm bảo khi luật

cho phép xét xử vắng mặt người bị kiện. Tuy nhiên, ở tất cả các giai đoạn

này, người bị kiện thường vắng mặt với lý do bận công tác, đặc biệt đối với

các vụ kiện liên quan đến Chủ tịch UBND, UBND. Do đó, tính chất tranh

tụng, đối thoại trong xét xử án hành chính trên thực tiễn nhiều khi không được

đảm bảo trên thực tiễn. Hệ quả là quyền của người dân - người khởi kiện

trong nhiều trường hợp không được bảo đảm.

Những vấn đề tồn tại trên đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến quyền và lợi

ích hợp pháp của người khởi kiện.

Nguyên nhân của những hạn chế

Thứ nhất, nguyên nhân khách quan

Có thể nói trước khi Luật tố tụng hành chính năm 2015 ra đời thì việc

thụ lý, giải quyết các vụ án hành chính tập trung chủ yếu ở Tòa án nhân dân

cấp huyện. Với hệ thống tòa án được tổ chức theo cấp hành chính kết hợp với

thẩm quyền, mô hình tổ chức này đã tạo nên những hạn chế làm ảnh hưởng

đến tính độc lập của tòa án. Với cách tổ chức như vậy ít hay nhiều tòa án cấp

huyện cũng phải chịu sự chi phối của chính quyền địa phương. Luật Tố tụng

hành chính năm 2015 ra đời đã qui định thẩm quyền giải quyết các vụ án hành

chính đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân

dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa

giới hành chính với Tòa án cấp tỉnh. Quy định về thẩm quyền này đã khắc

phục được tình trạng e ngại của các Thẩm phán cấp huyện trong việc quyết

định đối với các quyết định, hành vi của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch

66

Ủy ban nhân dân cấp huyện tạo tiền đề thuận lợi hơn trong xác định đường lối

và phương hướng giải quyết các vụ án hành chính. Nhưng song song với

thuận lợi và những khó khăn khi quy định đó lại tạo ra áp lực quá lớn cho các

Thẩm phán của Tòa Hành chính, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội. Việc

xác minh thu thập tài liệu chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa

Hành chính sẽ gặp khó khăn hơn vì khoảng cách địa lý và phạm vi địa lý rộng

hơn rất nhiều bao gồm 12 quận nội thành và 17 huyện, thị xã ngoại thành dẫn

đến tình trạng kéo dài thời gian giải quyết các vụ án hành chính.

Hệ thống Tòa án của nước ta hiện nay được tổ chức theo cấp hành

chính nên có ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án, với cách tổ chức như

hiện nay thì ít nhiều các Thẩm phán cũng bị chi phối bởi chính quyền địa

phương, người có chức vụ trong hệ thống cơ quan Đảng, Nhà nước…

Số lượng án hành chính phải giải quyết so với số lượng Thẩm phán của

Tòa hành chính là quá lớn. Từ năm 2015 đến năm 2017 số lượng thẩm phán

của Tòa hành chính chỉ có 04 thẩm phán với tổng số vụ án hành chính thụ lý

là 1354 vụ, như vậy số lượng hồ sơ mà mỗi thẩm phán được phân công giải

quyết là gần 400 hồ sơ. Từ năm 2018 đến năm 2020 số lượng thẩm phán của

Tòa hành chính đã được bổ sung tăng lên 12 thẩm phán, tuy nhiên tỷ lệ thuận

với nó là số vụ án hành chính thụ lý cũng tăng lên là 3499 vụ, như vậy số

lượng hồ sơ mà mỗi thẩm phán được phân công giải quyết vẫn là gần 300 hồ

sơ. Với số lượng hồ sơ phải giải quyết lớn như vậy nhưng số lượng thẩm phán

và thư ký chỉ được phân bổ theo chỉ tiêu cho phép nên trong thực hiện các

hoạt động tố tụng, nghiên cứu hồ sơ, thủ tục tống đạt cho đương sự cũng

không thể đảm bảo về thời gian theo quy định của Luật tố tụng cũng là một

nguyên nhân dẫn kéo dài thời gian giải quyết vụ án.

Việc mời Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án hành chính cũng

gặp nhiều khó khăn. Do đa số các Hội thẩm nhân dân được cử tham gia công

tác xét xử là cán bộ công chức trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước,

nếu những hội thẩm nhân dân này tham gia xét xử thì cá nhân, cơ quan, tổ

67

chức sẽ nghĩ đến việc không đảm bảo sự vô tư khách quan trong quá trình xét

xử, lĩnh vực hành chính là lĩnh vực rộng bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống

xã hội đòi hỏi hội thẩm nhân dân phải có kiến thức pháp lý và kiến thức

chuyên môn liên quan đến vụ án, việc mời được đúng những hội thẩm nhân

dân có chyên môn là rất khó vì công tác xét xử với đa số các Hội thẩm nhân

dân là kiêm nhiệm. Chế độ bồi dưỡng phiên tòa của Hội thẩm còn thấp so

với yêu cầu công việc, trách nhiệm của Hội thẩm.

Công tác thi tuyển Thấm phán, quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Thẩm

phán thực hiện còn chậm. Chế độ chính sách đối với Thẩm phán, thư ký hiện

vẫn hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, tương đương với quy định về ngạch

bậc lương công chức, tuy có phụ cấp của ngành nhưng chế độ lương được

hưởng của Thẩm phán, thư ký chưa tương xứng với trách nhiệm và yêu cầu

nhiệm vụ được giao, chưa thể hiện tính đặc thù trong hoạt động của Tòa án

nhân dân nhất là đối với các Thẩm phán giải quyết vụ án hành chính.

Chế độ đào tạo, bồi dưỡng cho các Thẩm phán giải quyết án hành chính

còn chưa đáp ứng được nhu cầu công việc. Có thể thấy, các quan hệ xã hội

được pháp luật hành chính điều chỉnh rất rộng, bao trùm mọi mặt của đời

sống xã hội, đòi hỏi các Thẩm phán giải quyết án hành chính phải nắm chắc

kiến thức pháp luật cũng như kiến thức xã hội. Tuy nhiên hiện nay chưa có

chế độ đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyện môn, chưa xây dựng

được phần mềm quản lý, tra cứu các văn bản hành chính cho thẩm phán hành

chính, trong khi các văn bản pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực quản lý

hành chính là khá lớn, mỗi khi giải quyết án hành chính thì các Thẩm phán

phải mất rất nhiều thời gian tự tìm hiểu và nghiên cứu. Trong khi đó số lượng

Thẩm phán bổ sung từ các quận huyện lên cũng phải mất một khoảng thời

gian nhất định để thích nghi với công việc mới.

Chưa có cơ chế hữu hiệu bảo đảm an toàn cho đội ngũ cán bộ, công

chức có chức danh tư pháp, nhất là đội ngũ Thẩm phán khi thi hành công vụ.

Trong nhiều trường hợp giải quyết đối với các khiếu kiện đông người, các

68

khiếu kiện mà người dân bức xúc có những lời lẽ, cử chỉ gây ảnh hưởng đến

tâm lý của Thẩm phán, Thư ký, thậm chí có những trường hợp đe dọa thẩm

phán, thư ký tại phòng làm việc, xong việc xử lý đối với những trường hợp

này chỉ mang tính tạm thời, chưa mang tính răn đe.

Quyền con người đang được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm thúc

đẩy và bảo vệ, tuy nhiên việc trang bị các kiến thức về quyền con người cho

Thẩm phán, Thư ký và cán bộ công chức Tòa án, Hội thẩm nhân dân vẫn còn

hạn chế. Chưa có một chương trình chuyên về quyền con người để tập huấn

cho những người làm công tác giải quyết, xét xử các vụ án, nên họ chưa nhận

thức được quyền con người nói chung và quyền của người khởi kiện nói riêng

và nhiệm vụ của họ là phải bảo vệ quyền con người, chính vì vậy vẫn còn có

những hành động thờ ơ khi xem xét giải quyết các vụ án, không thể hiện tinh

thần trách nhiệm của họ đối với công việc của mình dẫn đến xâm phạm đến

quyền của người khởi kiện.

Một số vụ án bị kéo dài thời gian giải quyết do các cơ quan, tổ chức có

liên quan chưa tích cực trong việc phối hợp chặt chẽ với Tòa án, chưa làm hết

trách nhiệm trong việc cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ theo

yêu cầu của Tòa án. Người bị kiện chậm thực hiện các yêu cầu của Tòa án

như cung cấp bản trình bày về yêu cầu của người khởi kiện, thủ tục ủy quyền,

cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh...

Bên cạnh đó, sau khi thụ lý vụ án Tòa án thực hiện việc tống đạt thông

báo thụ lý cho các đương sự, trong khoảng thời gian 15 ngày người bị kiện

phải có ý kiến với yêu cầu của người khởi kiện và nộp các tài liệu chứng cứ,

tuy nhiên rất nhiều vụ án, người bị kiện chậm nộp bản trình bày ý kiến và các

tài liệu chứng cứ kèm theo dẫn đến việc giải quyết vụ án chậm trễ.

Về hệ thống pháp luật tố tụng hành chính, Luật Tố tụng hành chính

năm 2015 ra đời là một bước tiến quan trọng để đảm bảo cho các vụ án hành

chính được giải quyết nhanh chóng kịp thời, đơn giản hóa thủ tục hành chính

đối với người dân khi khởi kiện tại Tòa án, tuy nhiên vẫn còn những điểm

69

chưa phù hợp như qui định về người đại diện theo ủy quyền của người bị

kiện. Theo quy định tại Điều 60 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì người

bị kiện trong các vụ án hành chính là cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan,

tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước hoặc người có thẩm

quyền trong cơ quan, tổ chức đó thì thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc người

có thẩm quyền chỉ được ủy quyền cho cấp phó tham gia tố tụng và cấp phó

không được ủy quyền cho người thứ ba. Tuy nhiên, trên thực tế người đại

diện theo pháp luật đều có văn bản ủy quyền cho cấp phó tham gia tố tụng và

cấp phó có văn bản xin được xét xử vắng mặt vì lý do bận công việc. Việc cấp

phó xin xét xử vắng mặt gây khó khăn trong việc giải quyết vụ án, Thẩm phán

không thể tổ chức đối thoại giữa các bên đương sự nhằm giúp cho họ lắng

nghe ý kiến của nhau về nội dung vụ án và tìm được tiếng nói chung nhằm

đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên giúp cho việc giải quyết

vụ án nhanh chóng. Việc vắng mặt của người bị kiện tại phiên tòa làm ảnh

hưởng đến việc hỏi, kiểm tra chứng cứ, tranh luận để làm rõ một số tình tiết

liên quan đến vụ án, không đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử dẫn

đến việc giải quyết vụ án không đảm bảo nhanh chóng, khách quan, triệt để.

Như chúng ta đã biết pháp luật hành chính điều chỉnh các quan hệ xã

hội có phạm vi rộng, các văn bản pháp luật trong lĩnh vực quản lý hành chính

khá nhiều, tuy trong thời gian qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to

lớn trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, tuy nhiên vẫn tồn tại những hạn chế,

quá nhiều văn bản pháp luật được ban hành, các văn bản luật chủ yếu vẫn

mang tính chất định khung, khó áp dụng trực tiếp vào thực tiễn mà phải thông

qua các văn bản hướng dẫn, giải thích. Khi có quy định liên quan đến chức

năng của nhiều ngành thì mỗi ngành lại có những cách hiểu khác nhau, cách

giải thích khác nhau dẫn đến tình trạng cùng một vấn đề nhưng lại có nhiều

văn bản hướng dẫn khác nhau. Vẫn còn tình trạng văn bản mâu thuẫn và

chồng chéo khó áp dụng, dẫn đến các tranh chấp hành chính xảy ra trong nhân

dân.

70

Công tác thi hành án đối với án hành chính gặp nhiều khó khăn. Khi vụ

án hành chính đã xét xử xong, bản án có hiệu lực pháp luật nhưng các phán

quyết của Tòa chưa được thực thi nghiêm túc vì vậy quyền lợi của người dân

chưa được giải quyết triệt để.

Về cơ sở vật chất như trụ sở làm việc chật hẹp, trang thiết bị, phương

tiện làm việc còn thiếu thốn, lạc hậu, không đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu

cầu nhiệm vụ công tác hiện nay.

Thứ hai, nguyên nhân chủ quan

Để bảo đảm các vụ án hành chính được giải quyết đúng quy định của

pháp luật thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải độc lập, chỉ tuân theo

pháp luật, tuy nhiên với quy chế bổ nhiệm Thẩm phán hiện nay còn theo

nhiệm kỳ, tạo cho Thẩm phán áp lực sợ ảnh hưởng đến việc tái bổ nhiệm,

không đảm bảo được sự độc lập, vô tư khách quan khi ban hành các bản án,

quyết định.

Chất lượng, tinh thần trách nhiệm của Thẩm phán, Thư ký giải quyết án

hành chính không đồng đều, mỗi năm trung bình một thẩm phán có người giải

quyết được khoảng 40 vụ nhưng cũng có thẩm phán giải quyết được khoảng

70 vụ. Tâm lý chung của người quản lý là người làm được việc thì sẽ càng

giao nhiều trách nhiệm, nhưng người chưa tích cực làm việc thì lại giao ít

trách nhiệm hơn. Có thẩm phán, thư ký không chịu khó làm việc vì không có

cơ chế làm ít thì bị đuổi nên dẫn đến việc chây ỳ, mặc kệ. Chính vì vậy sẽ làm

ảnh hưởng đến tâm lý chung của thẩm phán, thư ký khi phải gánh vác nhiều

công việc hơn nhưng chế độ đãi ngộ lại vẫn chỉ hưởng ngang bằng với những

thẩm phán, thư ký thực hiện công việc ít hơn. Bên cạnh đó, tâm lý xử nhiều

thì khả năng bị hủy cũng sẽ nhiều cũng tạo tâm lý áp lực bị án hủy sửa ảnh

hưởng đến việc tái bổ nhiệm nên các Thẩm phán ngại đưa vụ án ra xét xử.

Chính sách đãi ngộ chưa hợp lý cũng như việc giải quyết án hành chính

khó hơn so với các loại án khác và do áp lực công việc nên một số Thẩm phán

có tâm lý không muốn giải quyết án hành chính. Có nhiều trường hợp được

71

Thẩm phán ở quận, huyện được luân chuyển về Tòa Hành chính xin ở làm

việc ở lại đơn vị cũ hoặc đến Tòa Hành chính một thời gian xin chuyển đến

đơn vị khác nên cũng không tập trung giải quyết án, như vậy sẽ ảnh hưởng

đến chất lượng và số lượng án giải quyết.

Như vậy ta thấy, bảo đảm quyền của người khởi kiện trong vụ án hành

chính tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả nhất

định, chất lượng giải quyết các vụ án được nâng cao hơn, công tác đối thoại

được quan tâm. Đối với những vụ án được đưa ra xét xử, việc tranh tụng tại

phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp được chú trọng, quyền cung cấp

chứng cứ và tranh tụng nhằm làm rõ những vấn đề còn tranh chấp được tôn

trọng và không bị hạn chế về thời gian tranh tụng, quá trình tố tụng diễn ra

công khai, các bản án quyết định của Tòa án được công bố đầy đủ trên cổng

thông tin điện tử của Tòa án nhân dân Tối cao.... Tuy nhiên bên cạnh đó cũng

còn nhiều điểm hạn chế cần phải có những giải pháp khắc phục để bảo đảm

tốt hơn quyền của người khởi kiện nói riêng và quyền của các đương sự nói

chung.

72

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM

QUYỀN CỦA NGƯỜI KHỞI KIỆN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ

ÁN HÀNH CHÍNH

3.1. Phương hướng bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải

quyết các vụ án hành chính

Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc bảo đảm quyền con người,

quyền công dân nói riêng và quyền của người khởi kiện nói chung đã được

Đảng ta đề ra và được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đó là Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Để đạt được mục tiêu lớn lao như vậy, đòi hỏi Nhà nước phải không

ngừng hoàn thiện về hệ thống pháp luật đồng thời phải nâng cao năng lực

thực thi pháp luật của Bộ máy nhà nước và đặc biệt chú trọng hoạt động bảo

vệ pháp luật vì hoạt động này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm sự

thành công của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Khi nói đến hoạt động bảo vệ pháp luật thì hoạt động của cơ quan tư pháp - mà

Tòa án nhân dân là trung tâm - hoạt động chủ yếu đảm bảo một xã hội thượng

tôn pháp luật. Trong lĩnh vực Tố tụng hành chính, thì vai trò của Tòa án nhân

dân đối với việc thực thi pháp luật lại càng mang tính cần thiết vì bản chất quan

hệ pháp luật Hành chính là quan hệ bất bình đẳng giữa một bên là cơ quan có

thẩm quyền và một bên là người thực hiện. Do đó việc Tòa án xem xét tính hợp

pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật

buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại đối với các quyết định giải

quyết vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri chính là đảm bảo cho việc thi hành

pháp luật của cơ quan hành chính vận hành đúng theo qui định của pháp luật,

bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

73

Xuất phát từ mục tiêu, định hướng cải cách tư pháp, các phương hướng

đặt ra đối với việc giải quyết các vụ án hành chính để đảm bảo quyền của

người khởi kiện hiện nay là:

3.1.1. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án

hành chính với chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo vệ quyền con

người, quyền công dân

Tại Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số

44-CT/TW, ngày 20/7/2010, của Ban Bí thư khóa X về công tác nhân quyền

trong tình hình mới nêu rõ, việc thể chế hóa đường lối của Ðảng, hệ thống

pháp luật từng bước được hoàn thiện, đặc biệt là Quốc hội đã thông qua Hiến

pháp năm 2013; từ đó, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ, thực thi

quyền con người và ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm quyền con

người.

Tại Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện hiệu quả

Chỉ thị 44-CT/TW ngày 20/7/2010, của Ban Bí thư khóa X nêu rõ: Tiếp tục

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là hoàn

thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; đưa

các quy định về quyền con người vào cuộc sống một cách hiệu quả, thiết thực,

phù hợp điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam và các Điều ước

quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chú trọng và đẩy mạnh hơn nữa cải cách

tư pháp, cải cách hành chính; mở rộng, tăng cường dân chủ ở cơ sở. Phát huy

mạnh mẽ những thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, bảo

đảm ngày càng tốt hơn và thúc đẩy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực,

đặc biệt giảm nghèo bền vững và bảo đảm quyền của những nhóm dễ bị tổn

thương.

Tại Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: Tiếp tục đẩy mạnh

việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch,

vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật,

công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,

74

lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá

nhân [11].

Từ những khẳng định trên thể hiện: Ở Việt Nam, quan điểm của Đảng

Cộng sản nói chung, quan điểm về quyền con người và bảo vệ quyền con

người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp nói riêng là kim chỉ nam cho

mọi hành động của Nhà nước. Cho nên, việc bảo đảm một trong những quyền

của con người, quyền công dân đó là quyền của người khởi kiện cũng phải

được xây dựng dựa trên các quan điểm về bảo đảm và thúc đẩy quyền con

người của Đảng.

Trong số các cơ quan tư pháp, người ta thường nhắc đến Tòa án nhân

dân như là hiện thân của công lý, của sự công bằng. Mỗi con người, mỗi công

dân trong một xã hội đều mong muốn khi xảy ra tranh chấp đặc biệt là tranh

chấp giữa cá nhân, tổ chức với cơ quan có quyền lực thì các tổ chức, cá nhân

có chỗ dựa và niềm tin gửi đơn khởi kiện đến Tòa án - nơi họ có thể chắc

chắn rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ luôn luôn được sự bảo hộ đáng

tin cậy - cơ quan giữ vị trí trung tâm và có vai trò quyết định trong hệ thống

tư pháp.

3.1.2. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án

hành chính với bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ công lý

Theo qui định tại Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thì: Ở nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân

về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo

vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật [28]. Như vậy, Tòa án nhân dân là

cơ quan bảo vệ sự công bằng, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân thông qua việc thực hiện quyền tư pháp mà Nhà nước giao. Hoạt

động tư pháp đặc trưng của Tòa án đó là hoạt động xét xử, thông qua hoạt

động xét xử, Tòa án thể hiện là nơi trực tiếp bảo vệ công lý, bảo vệ tính thiêng

liêng, hiệu lực và sức mạnh của pháp luật. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, vị trí tối cao của pháp luật chỉ có thể đạt được khi pháp luật được

75

tuân thủ một cách nghiêm túc, triệt để. Trong tố tụng hành chính thì Tòa án

thụ lý, giải quyết các khiếu kiện hành chính liên quan đến hoạt động quản lý

hành chính nhà nước, Tòa án xem xét tính hợp pháp của các quyết định hành

chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải

khiếu nại vụ việc cạnh tranh và danh sách cử tri, phán quyết của Tòa án tuân

thủ pháp luật sẽ tạo nên một nền hành chính trong sạch, vì dân và đem lại

niềm tin cho nhân dân. Chính vì vậy, trong quá trình tố tụng hành chính, Tòa

án tuân thủ pháp luật, bảo vệ công lý ở mức độ nào thì quyền và lợi ích hợp

pháp của cá nhân, tổ chức được bảo đảm đến chừng ấy.

3.1.3. Bảo đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết các vụ án

hành chính với các nhiệm vụ cải cách tư pháp và cải cách hành chính

Cải cách hành chính, cải cách tư pháp luôn là một trong những nhiệm

vụ trọng tâm hàng đầu được Đảng, Trong các đường lối của Đảng, Hiến pháp

và pháp luật của Nhà nước luôn đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ

quyền con người, nguyên tắc bình đẳng, công bằng, công khai, minh bạch

trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Để hoạt động của các cơ quan tư pháp

ngày càng nâng cao phù hợp với sự phát triển và đáp ứng được yêu cầu của xã

hội, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này trong đó có Nghị quyết số

49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Trong thời gian qua, nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách

tư pháp và cải cách hành chính được thể chế hóa trong Hiến pháp, pháp luật

và được triển khai đạt kết quả trên thực tế. Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng

định mục tiêu chiến lược là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân

chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,

phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ [11]. Hiến pháp năm 2013 khẳng

định: "Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công

nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực

hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người

có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện"

76

(Điều 3) [28]. Chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra mục tiêu "Xây dựng nền

tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng

bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có

hiệu quả và hiệu lực cao" [5]. Để thực hiện các mục tiêu, Chiến lược cải cách

tư pháp đã xác định 8 nhiệm vụ, trong đó nhiệm vụ bảo đảm quyền con người,

quyền công dân được đặt trong nhiệm vụ đầu tiên.

Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà

nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng

minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới thủ tục hành chính

trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp

cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến tòa án, tòa án có trách nhiệm nhận và

thụ lý đơn... tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm

sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước tòa án [5].

Để hiện thực hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Đối với

các cơ quan Tư pháp nói riêng cần chú trọng đến Chiến lược cải cách tư pháp.

Cụ thể phải đổi mới việc bố trí phòng xử hợp lý đối với từng loại vụ án, tổ

chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của

người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính

công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các

phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Đồng thời,

phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp...

Từ khi Luật tố tụng Hành chính được ban hành và có hiệu lực cùng với

sự phát triển của xã hội, các khiếu kiện hành chính có chiều hướng tăng về số

lượng và tính chất phức tạp. Bên cạnh đó, do nhận thức của người dân ngày

càng cao, các công ty tư vấn luật phát triển dẫn đến hòi hỏi của công dân và xã

hội đối với các cơ quan tư pháp cũng chặt chẽ và cao hơn rất nhiều so với trước

đây; Các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo

vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp

77

luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm

và vi phạm pháp luật khác. Nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi hoạt động xét xử của

Tòa án nói chung và của Tòa Hành chính nói riêng phải đảm bảo thủ tục chặt

chẽ, đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra phải đảm bảo tính công khai, minh

bạch trong giải quyết vụ án. Chính vì vậy giải quyết vụ án hành chính không

thể tác rời với công cuộc cải cách tư pháp và cải cách hành chính ở nước ta.

3.2. Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền của người khởi kiện

trong giải quyết các vụ án hành chính

Từ những phân tích ở trên cho thấy việc đảm bảo quyền của người khởi

kiện trong các vụ án Hành chính đã được Tòa án thực hiện tốt, tuy nhiên bên

cạnh đó cũng còn những điểm hạn chế. Để khắc phục những hạn chế, đảm

bảo và nâng cao hơn nữa hoạt động bảo vệ quyền của người khởi kiện trong

các vụ án Hành chính đạt hiệu quả tốt hơn trong thời gian tới thì cần có những

giải pháp.

Thứ nhất, tổ chức hệ thống Tòa án hợp lý khoa học, bảo đảm Tòa án có

vị trí trung tâm, độc lập xét xử là trọng tâm của hoạt động quyền tư pháp

Theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW và theo Luật tổ chức Tòa án

nhân dân thì hệ thống tòa án xét xử theo thẩm quyền, không phụ thuộc vào

đơn vị hành chính, gồm: tòa án sơ thẩm được thành lập ở cấp quận, huyện; tòa

án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một

số vụ án được thành lập ở cấp tỉnh, thành phố; tòa án nhân dân cấp cao được

thành lập tại 04 thành phố lớn gồm thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ

và Đà Nẵng có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm

của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực

pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; Giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án,

quyết định của Tòa án thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đã có hiệu lực

pháp luật nhưng bị kháng nghị bằng Hội đồng ba Thẩm phán hoặc Hội đồng

toàn thể Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tối

78

cao với nhiệm vụ chỉ thực hiện giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác;

Tòa án quân sự các cấp. Để thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp sau năm

2020, cần thiết phải tiếp tục thực hiện chủ trương thành lập tòa án sơ thẩm

khu vực theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW và Kết luận số 79-KL/TW,

ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị [6], với các lý do:

- Nguyên tắc và cách thức tổ chức của Tòa án nhân dân khác với

nguyên tắc và cách thức tổ chức của cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp.

Tòa án nhân dân tổ chức theo cấp xét xử, mỗi cấp tòa án chủ yếu thực hiện

chức năng của một cấp xét xử: sơ thẩm hoặc phúc thẩm.

- Tính độc lập, tuân thủ pháp luật của Tòa án nhân dân phải được xây

dựng trên cơ sở tính độc lập của từng cấp Tòa án, từng thẩm phán khi xét xử,

khi quan hệ giữa các cấp tòa án không phải là quan hệ hành chính, mà là quan

hệ pháp luật tố tụng.

- Xét xử sơ thẩm ở Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực có vai trò đặc biệt

quan trọng, tác động đến toàn bộ hoạt động của hệ thống tư pháp. Nếu thành

lập Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, với quy mô lớn hơn, số lượng án giải

quyết nhiều hơn sẽ tập trung được đội ngũ thẩm phán, chuyên môn hóa hoạt

động xét xử ở cấp sơ thẩm, tăng cơ hội tự đào tạo cho thẩm phán thông qua

việc cọ xát thực tiễn. Đồng thời tập trung đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện,

trang thiết bị làm việc cho các Tòa án nhân dân.

- Trên thế giới, phần lớn các nước tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm

quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Ở nước ta, việc tổ

chức Tòa án nhân dân theo thẩm quyền xét xử được triển khai thực hiện từ

1946-1959. Kinh nghiệm đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Thực tế hiện nay, cách thức tổ chức tòa án ở nước ta được tổ chức theo

đơn vị hành chính kết hợp với thẩm quyền như đã nói ở trên. Tòa án nhân dân

vẫn có nhiều sự ràng buộc với Ủy ban nhân dân. Với cơ cấu, tổ chức như vậy

dễ tạo ra nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sự độc lập của tư pháp, đặc biệt là

trong quá trình xét xử cũng như phán quyết của các tòa án.

79

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có hiệu lực, thì thẩm quyền giải

quyết các vụ án hành chính đối với các khiếu kiện quyết định hành chính,

hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp huyện là của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Qui định trên đã khắc phục

được phần nào tình trạng các bản án hành chính của Tòa án nhân dân cấp

huyện bị hủy sửa. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân thì tỉ

lệ giải quyết các vụ án hành chính trong những năm qua của Tòa Hành chính

Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội nói riêng, trong phạm vi cả nước nói

chung rất thấp. Năm 2014 tỉ lệ giải quyết án hành chính của Tòa án nhân dân

Thành phố Hà Nội là 64%, năm 2015 là 55,46%, năm 2016 là 37,75%, năm

2017 là 29,45%, năm 2018 là 32,72%, 6 tháng đầu năm 2019 là 10,49% [43;

44; 46; 47; 48; 49], trong khi đó tỉ lệ giải quyết án hành chính sơ thẩm của

Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội thấp. Như vậy, giải pháp chuyển thẩm

quyền giải quyết các vụ án hành chính đối với các khiếu kiện quyết định hành

chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban

nhân dân cấp huyện đến Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết không giải quyết

dứt điểm được các vụ án hành chính, gây quá tải đối với Tòa án nhân dân cấp

tỉnh. Tuy hiện nay, lực lượng thẩm phán Tòa Hành chính đã được bổ sung

nhiều hơn trước, năm 2014 đến năm 2017 chỉ có 04 thấm phán, từ năm 2018

đến năm 2020 số lượng thẩm phán đã tăng lên là 12 người nhưng tỉ lệ giải

quyết so với tỷ lệ hồ sơ thụ lý chỉ đạt khoảng 30%.

Chính vì vậy, yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao vai trò của tòa án mà

trọng tâm là hoạt động xét xử, nhằm bảo vệ các quyền con người trong quá

trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một điều cần thiết,

để cho cơ quan tư pháp thật sự trở thành chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo

vệ công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật.

Để làm được như vậy thì hệ thống Tòa án phải có cơ cấu tổ chức đảm

bảo sự độc lập với các cơ quan nhà nước khác theo như tinh thần Nghị quyết

49-NQ/TW: Tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào

80

đơn vị hành chính, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một

số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét

xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; tòa án thượng thẩm được tổ

chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao có

nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp

luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm.

Theo đó, Toà án sơ thẩm khu vực là Toà án chỉ xét xử sơ thẩm các vụ

án theo quy định của pháp luật, được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành

chính cấp huyện. Toà án sơ thẩm khu vực phải bảo đảm có đủ năng lực xét xử

sơ thẩm các vụ án theo quy định của pháp luật và thuận tiện cho người tham

gia tố tụng trong khu vực đó. Căn cứ trên số lượng án thụ lý, số lượng dân

cư… để phân bổ biên chế, bảo đảm tòa án sơ thẩm khu vực sẽ không bị chi

phối bởi bất cứ đơn vị hành chính lãnh thổ nào.

Toà án phúc thẩm có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ án, quyết

định chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị vừa xét xử sơ thẩm một số vụ

án theo quy định của pháp luật, như vậy chức năng nhiệm vụ của Tòa phúc

thẩm sẽ giống như Tòa cấp tỉnh hiện nay nhưng Tòa phúc thẩm sẽ độc lập,

không phụ thuộc vào đơn vị hành chính lãnh thổ.

Việc tổ chức như vậy sẽ hạn chế được sự tác động của bộ máy hành

chính địa phương vào hoạt động xét xử của tòa án, đồng thời hạn chế được xu

hướng địa phương hóa hoạt động xét xử của tòa án. Khi đó Tòa Khu vực sẽ

độc lập hơn trong quá trình giải quyết, từ đó chuyển thẩm quyền giải quyết

các vụ án hành chính giải quyết các vụ án hành chính đối với các khiếu kiện

quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện,

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện về Tòa Khu vực địa phương, như vậy áp

lực giải quyết án hành chính đối với Tòa cấp tỉnh giảm xuống. Khi đó năng

lực, chất lượng xét xử của tòa án trong giải quyết vụ án hành chính tang lên, tỉ

lệ giải quyết án hành chính sẽ đảm bảo, không còn tình trạng biết rằng quyết

định hành chính, hành vi hành chính không đúng nhưng cũng không giám

81

tuyên là trái pháp luật, khi đó sẽ đảm bảo được quyền các đương sự nói chung

và quyền của người khởi kiện nói riêng.

Thứ hai, cần bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa

Theo yêu cầu của cải cách tư pháp, nhiều Nghị quyết của Đảng về cải

cách tư pháp, trong đó đặt ra yêu cầu phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ

yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện

các chứng cứ, ý kiến các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của các đương sự, Kiểm sát viên ban hành những bản án, quyết định đúng

pháp luật, hợp tình, hợp lý. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận tranh tụng thành

một nguyên tắc, cụ thể là "Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm"

(Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013) [28], và được cụ thể hóa trong Luật

Tố tụng hành chính năm 2015.

Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành nói chung, Luật tố tụng

hành chính nói riêng thì mô hình tố tụng hành chính tại phiên tòa sơ thẩm và

phúc thẩm theo hướng tranh tụng. Tuy nhiên, để đảm bảo nguyên tắc tranh

tụng tại phiên tòa thì đảm bảo các đương sự phải có mặt và phải được tiếp cận

với các tài liệu chứng cứ do bên kia cung cấp.

Tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã thực hiện đầy đủ các thủ tục

tố tụng để các đương sự thực hiện quyền tranh tụng của mình. Tuy nhiên, như

phân tích ở trên hầu hết trong các vụ án hành chính thì người bị kiện thường

chậm trễ trong cung cấp các tài liệu, chứng cứ, và xin vắng mặt tại phiên tòa

vì theo qui định của Luật Tố tụng hành chính thì: Trường hợp người bị kiện là

cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ

được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người được ủy quyền phải

tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy đủ các quyền

và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này. Tuy nhiên, đa phần

các quyết định hành chính liên quan đến hoạt động quản lý của chình quyền

địa phương mà nhiều nhất là trong lĩnh vực quản lý đất đai. Ủy ban nhân dân

không thể nào cử một Phó Chủ tịch Ủy ban tham gia tố tụng tại Tòa, như vậy

82

công việc điều hành ủy ban sẽ chậm trễ, mà thực tế trong lĩnh vực quản lý đất

đai bao gồm rất nhiều lĩnh vực như thu hồi, bồi thường, cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai… bên

cạnh đó còn các lĩnh vực khác như quản lý đô thị, xây dựng… Chủ tịch, hay

phó chủ tịch Ủy ban nhân dân không thể tham gia hết được, trong khi đó

những chuyên viên làm công tác trực tiếp với hồ sơ, họ hiểu rất kỹ hồ sơ

nhưng lại tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của người bị kiện, họ bị hạn chế trong quá trình tranh tụng, Tòa án cũng

như các đương sự còn lại không được hỏi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự. Mà mục đích, ý nghĩa của phần tranh tụng tại phiên tòa là

nhằm làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ án hành chính, nhất là

các tình tiết mà những người tham gia tranh tụng còn có ý kiến khác nhau.

Đồng thời thông qua phần tranh tụng để giúp hội đồng xét xử sẽ có những

đánh giá, nhận định đầy đủ khách quan về nội dung vụ án, để làm căn cứ khi

nghị án và ra bản án hoặc quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục.

Việc xin xét xử vắng mặt như vậy về thực tế thì không trái quy định

của Luật, nhưng đã gây khó khăn rất nhiều cho công tác giải quyết án (như

không làm rõ được các nội dung liên qua đến việc khởi kiện, không đối thoại

trực tiếp để thỏa thuận được và trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện

cũng phải được sự đồng ý của người bị kiện…); đó là những nguyên nhân gây

kéo dài thời gian giải quyết vụ án và gây tốn kém thời gian, công sức và các

chi phí cho việc giải quyết.

Án hành chính chủ yếu là khởi kiện các quyết định hành chính, hành vi

hành chính trong các lĩnh vực quản lý thuế, đất đai, lâm nghiệp, môi trường…

Do đó, loại án này liên quan đến nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong các

lĩnh vực quản lý nhà nước. Trong khi đó, một số Bộ luật, Luật và các văn bản

hướng dẫn lại thường xuyên sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung, bên cạnh đó, một số

văn bản pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo dẫn đến khó khăn trong việc áp

dụng cũng như giải quyết án.

83

Để khắc phục những bất cập, nên mở rộng quy định người được ủy

quyền, như Chủ tịch có thể ủy quyền cho thủ trưởng cơ quan chuyên môn là

thành viên của Ủy ban nhân dân tham gia tố tụng giải quyết án hành chính.

Đồng thời, rà soát tổng thể cơ chế, chính sách pháp luật về đất đai, sở hữu

nhà, quy hoạch, bồi thường, giải phóng mặt bằng… qua các thời kỳ để đảm

bảo việc áp dụng, hướng dẫn pháp luật được thống nhất trong hệ thống pháp

luật chuyên ngành và pháp luật về tố tụng.

Cần phải đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính

trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến

năm 2010 định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ

Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với nội dung:

Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình

đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia

và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng

tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ

quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất

lượng hoạt động tư pháp [5].

Ngoài những vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được, vụ án

khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn thì Tòa án

cần phải tạo điều kiện để các đương sự đối thoại với nhau, để tìm được sự

thống nhất về việc giải quyết vụ án, nếu không được thì Tòa án cũng lấy kết

quả đối thoại để làm căn cứ xét xử.

Tại phiên tòa, thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải tại điều kiện đề các bên

tham gia tranh tụng theo trình tự do Luật Tố tụng hành chính qui định. Các bên

đương sự được trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm,

lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp

và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự trong vụ án.

Chủ tọa phải tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình

bày hết ý kiến tại phiên tòa, không được hạn chế thời gian tranh tụng của các

84

đương sự nếu họ trình bày về những nội dung, tình tiết của vụ án.

Hội đồng xét xử phải căn cứ vào nội dung tranh tụng tại phiên tòa, và

các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ để ban hành phán quyết cuối cùng.

Thứ ba, nâng cao năng lực của thẩm phán, trang bị các kiến thức về

quyền con người nói chung và quyền con người trong hoạt động tư pháp nói

riêng cho người làm công tác xét xử.

Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính thì người Thẩm phán giữ

vai trò rất quan trọng, từ giai đoạn xây dựng hồ sơ, thu thập chứng cứ, tổ chức

công khai chứng cứ và đối thoại đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa giữ vai trò quan trọng trong

trong việc đảm bảo quyền tranh tụng tại phiên tòa và điều này ảnh hưởng trực

tiếp đến việc ban hành bản án, quyết định giải quyết vụ án. Chính vì vậy, việc

nâng cao năng lực của thẩm phán rất quan trọng, vì một người thẩm phán có

năng lực sẽ góp phần ban hành các bản án, quyết định đúng qui định của pháp

luật đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, ngược lại, thẩm

phán không có năng lực sẽ ban hành những bản án, quyết định trái qui định

của pháp luật dẫn đến xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,

dẫn đến vụ án bị hủy, sửa, kéo dài thời gian giải quyết án.

Để nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo phán quyết cuối cùng của Tòa

án đưa ra đúng qui định của pháp luật Tòa án nhân dân phải thực hiện chiến

lược cải cách tư pháp, trong đó xác định "Toà án là trung tâm, xét xử là hoạt

động trọng tâm", nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong

sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo tinh

thần cải cách tư pháp tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ

Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"

và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị "về Chiến lược

Cải cách tư pháp đến năm 2020" là vô cùng cấp thiết.

Xây dựng đội ngũ thẩm phán với các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức

phẩm chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh, kinh nghiệm xã hội và

85

thực tiễn công tác nhằm mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững

mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ

nhân dân, phụng sự Tổ quốc [2].

Xây dựng, phát triển đội ngũ Thẩm phán theo hướng toàn diện cả về lý

luận chính trị, phẩm chất và năng lực thực tiễn trên cơ sở coi trọng cả "đức"

và "tài", lấy "đức" là gốc; điều quan trọng đặt ra là phải xây dựng chất lượng

cán bộ, Thẩm phán trên cơ sở thống nhất tiêu chuẩn về phẩm chất và năng

lực, phải vững vàng về bản lĩnh chính trị và giỏi về nghiệp vụ nhằm thực hiện

tốt nhất nhiệm vụ xét xử, bảo vệ công lý, quyền con người.

Tuân thủ triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự lãnh đạo

thống nhất của Đảng đối với công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ,

tiến hành đồng bộ trên tất cả các khâu từ quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển

dụng, sử dụng, đánh giá, phân công, phân cấp quản lý.

Để đảm bảo chất lượng của đội ngũ thẩm phán thì Tòa án nhân dân

Thành phố Hà Nội phải thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá lại đội ngũ

thẩm phán, những người không đáp ứng được yêu cầu về năng lực, tinh thần

trách nhiệm hoặc phẩm chất, cần bố trí vào công việc khác hoặc đưa vào diện

cần xem xét khi thực hiện tinh giản biên chế. Thường xuyên thực hiện rút

kinh nghiệm án hủy, sửa, xác định rõ tính chất, mức độ sai phạm, thiếu sót và

trách nhiệm cá nhân của thẩm phán đối với vụ án bị hủy, sửa. Hàng năm, mỗi

thẩm phán phải đăng ký ít nhất một phiên tòa rút kinh nghiệm, các Tòa phải

thực hiện tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm nghiêm túc để đạt hiệu quả thực

chất, kịp thời khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong việc điều hành phiên

tòa, đảm bảo tranh tụng tại các phiên tòa.

Đề cao kỷ cương, kỷ luật nghiệp vụ; tăng cường công tác kiểm tra,

thanh tra trong hệ thống Toà án. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra

nghiệp vụ; phát hiện sớm và khắc phục, xử lý kịp thời các trường hợp vi

phạm pháp luật, vi phạm quy chế nghiệp vụ trong hoạt động của Toà án nói

chung và trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án nói riêng theo đúng Quy

86

định về xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong Toà án nhân dân

được ban hành kèm theo Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017

của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

Tuân thủ đúng quy định của Nhà nước về công tác tuyển dụng; bảo

đảm chặt chẽ, công khai, minh bạch nếu làm tốt công tác tuyển dụng sẽ tạo ra

một thế hệ cán bộ tốt, tạo nguồn lực phát triển đội ngũ Thẩm phán trong sạch,

vững mạnh. Xây dựng cơ chế thu hút cán bộ có trình độ; sinh viên tốt nghiệp

đại học chuyên ngành luật, chuyên ngành Toà án loại giỏi về công tác tại các

Toà án nhân dân.

Thường xuyên đào tạo cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp

về lý luận chính trị để họ nâng cao bản lĩnh chính trị, và đào tạo trình độ

chuyên môn nghiệp vụ và các kiến thức bổ trợ khác nhằm thực hiện tốt nhiệm

vụ xét xử.

Để giải quyết tốt các vụ khiếu kiện hành chính có xu hướng ngày càng

tăng, cần đẩy mạnh việc bổ sung, kiện toàn đội ngũ Thẩm phán hành chính

các cấp. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo nghiệp vụ xét xử, đặc biệt là

nghiệp vụ xét xử hành chính để tạo nguồn bổ nhiệm Thẩm phán hành chính.

Xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng hàng năm trên cơ sở rà soát,

đánh giá đội ngũ cán bộ, Thẩm phán và các nhiệm vụ trong từng thời kỳ. Chú

trọng việc đào tạo chuyên sâu sau đại học để xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm

phán giỏi trên từng lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Phối hợp, liên

kết với các trường đại học, trung tâm đào tạo khác cùng chuyên ngành để đa

dạng hoá loại hình đào tạo, bồi dưỡng.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức,

bản lĩnh nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán. Việc bồi dưỡng cần đi vào các

nội dung thiết thực, phương pháp bồi dưỡng cần thường xuyên thay đổi, cập

nhật phù hợp với từng giai đoạn.

Bên cạnh đó, Hội thẩm nhân dân cũng có vai trò quan trọng trong giải

quyết vụ án hành chính, việc Hội thẩm nhân dân tham gia phiên tòa bảo đảm

87

quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Hội thẩm là

những người sống tại các khu dân cư trên địa bàn và làm việc tại các cơ quan,

tổ chức, cơ sở sản xuất, nên có kinh nghiệm trong hoạt động xã hội, có vốn

kiến thức thực tế phong phú, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, vì vậy

các vị Hội thẩm hiểu rõ tình hình, hoàn cảnh, nguyên nhân, khi tham gia xét

xử giúp cho việc xét xử chính xác, khách quan, phù hợp với quyền lợi và

nguyện vọng của nhân dân.

Tuy nhiên chất lượng của đội ngũ hội thẩm nhân dân còn hạn chế vì

vậy để hoạt động xét xử bảo đảm qui định của pháp luật thì Hội thẩm nhân

dân phải là những người có kiến thức pháp lý, kiến thức xã hội và có tâm với

công tác xét xử, vì vậy phải có cơ chế để lựa chọn những người có kiến thức

pháp luật, có kiến thức xã hội phong phú, thực sự đại diện cho tiếng nói của

nhân dân để bầu làm Hội thẩm nhân dân, thường xuyên bồi dưỡng, tập huấn

nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm, đáp ứng yêu cầu công tác giải quyết, xét xử

các loại vụ án.

Điều 102 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định nhiệm vụ của Tòa án là

"bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã

hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân" [28]. Quy định này vừa thể chế hóa mục tiêu của Chiến lược

cải cách tư pháp là "xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,

nghiêm minh, bảo vệ công lý" [5], vừa phản ánh khát vọng của nhân dân về

một Tòa án đại diện cho công lý trong Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,

vì dân. Việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là nhiệm vụ trọng tâm mà

Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới. Để Tòa án thực hiện được nhiệm vụ

của mình thì từng thẩm phán phải hiểu được quyền con người và cơ chế,

phương thức bảo vệ quyền con người ở Việt Nam. Giáo dục quyền con người

đang được triển khai vào cuộc sống. Ngày 05/9/2017 Thủ tướng Chính phủ đã

ban hành Quyết định số 1309/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án đưa nội dung

quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân

88

đã chứng tỏ nhà nước ta đã đánh giá vai trò quan trọng của việc giáo dục

quyền con người. Đối với các Thẩm phán là những người thực hiện nhiệm vụ

xét xử, hàng ngày thực hiện các công việc bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, vì vậy nếu không có kiến thức về quyền con người sẽ dẫn đến vi

phạm quyền con người. Nếu các Thẩm phán được trang bị kiến thức về quyền

con người nói chung và quyền con người trong lĩnh vực tư pháp nói riêng, đó

là các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị. Hiện nay, việc giáo dục

quyền con người cho các Thẩm phán chưa được thực hiện một cách bài bản,

nên thực tế vẫn còn vi phạm các quyền con người như quyền bình đẳng,

quyền tự định đoạt, quyền được xét xử kịp thời, không thiên vị…Vì vậy, cần

phải giáo dục quyền con người nói chung và quyền con người trong lĩnh vực

Tư pháp nói riêng một cách có hệ thống, đảm bảo mỗi thẩm phán đều có kiến

thức về quyền con người, bảo đảm cho các phán quyết của Tòa án đúng qui

định của pháp luật, bảo đảm quyền của các đương sự nói chung và quyền của

người khởi kiện nói riêng.

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo

đảm quyền của người khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính.

Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm

2020 đã chỉ rõ:

Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình

đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia

và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng

tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ

quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất

lượng hoạt động tư pháp [4].

Để bảo vệ các quyền con người trong hoạt động tư pháp, mà cụ thể là

các quyền của người khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính thì hệ thống

pháp luật Tố tụng hành chính, pháp luật tổ chức Tòa án phải bảo đảm quyền

89

con người, đặc biệt là đảm bảo quyền con người trong khởi kiện các vụ án

hành chính.

Đối với Luật tố tụng hành chính, cần quy định một khoảng thời hạn

nhất định để bên bị kiện cung cấp lời khai, các tài liệu, chứng cứ chứng mang

tính hợp pháp quyết định hay hành vi bị khởi kiện của mình. Những quy định

như vậy sẽ đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên trong quá trình tố tụng hành

chính. Nếu bên bị kiện không hợp tác, cố tình trốn tránh cần xây dựng các chế

tài xử lý nghiêm khắc để tránh xảy ra tình trạng này.

Nâng cao vai trò của người trợ giúp pháp lý, luật sư bào chữa cho

người khởi kiện khi người khởi kiện không hiểu biết rõ về các quy định của

pháp luật tố tụng hành chính và các văn bản có liên quan đến lĩnh vực hành

chính cần khiếu kiện.

Về việc ủy quyền tham gia tố tụng hành chính của người đứng đầu cơ

quan đơn vị có quyền ủy quyền cho các trưởng, phó phòng ban, cơ quan

chuyên môn tham gia tố tụng để đảm bảo quyền của các đương sự được tham

đối thoại, tranh tụng tại phiên tòa, để đảm bảo bản án, quyết định được ban

hành hợp tình, hợp lý, đúng pháp luật.

Hoạt động xét xử của Tòa án được coi là biểu hiện tập trung nhất của

quyền tư pháp, thể hiện sự bình đẳng trước pháp luật đối với tất cả các cá

nhân, tổ chức. Do đó, để tăng cường tính độc lập của Thẩm phán hành chính,

cần nghiên cứu hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính theo hướng bổ nhiệm

Thẩm phán không có nhiệm kỳ, xác định rõ ràng Thẩm phán là chức danh

nghề nghiệp chứ không phải chức vụ quản lý. Trao cho Tòa án thẩm quyền

lớn hơn Ủy ban nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính

hoặc ban hành các chế tài quy định về việc bắt buộc người bị kiện phải hợp

tác, phải có mặt khi Tòa án triệu tập, cung cấp các tài liệu chứng cứ để giải

quyết vụ án.

Đối với Hội thẩm nhân dân, cần lựa chọn những người có nhiều kiến

thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính nhà nước và hiểu biết sâu sắc về

90

quyền con người, quyền công dân bên cạnh các điều kiện khác.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động của Tòa Hành chính

theo tinh thần cải cách Tư pháp, thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực, tạo điều

kiện thuận lợi nhất và các yếu tố cần thiết, dễ dàng để người dân đặt niềm tin

vào Tòa Hành chính, coi Tòa Hành chính là chỗ dựa vững chắc và cao nhất để

bảo đảm quyền của họ.

Tòa án nhân dân Tối cao kịp thời hướng dẫn áp dụng pháp luật thống

nhất trong phạm vi cả nước, để tránh án bị hủy sửa do cách hiểu pháp luật

khác nhau.

Thứ năm, tăng cường giám sát của Nhà nước và giám sát của xã hội.

Một trong những nhiệm vụ Nghị quyết số 49-NQ/TW đề ra là: "Hoàn

thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của

nhân dân đối với cơ quan tư pháp" [5]. Vì vậy, cần đẩy mạnh việc hoàn thiện

cơ chế giám sát của cơ quan dân cử đối với công tác xét xử: Cần đổi mới

phương thức, nội dung và phạm vi giám sát của Quốc hội theo hướng Quốc

hội thực hiện giám sát tối cao đối với hoạt động của Tòa án nhưng không làm

thay đổi công việc xem xét, kết luận về việc xét xử các vụ án cụ thể của vụ

án; không can thiệp, kết luận việc xét xử sai đúng của tòa án, cũng không kiến

nghị về tội danh hay mức án cụ thể. Qua đó, nhằm đảm bảo pháp chế xã hội

chủ nghĩa, bảo đảm hoạt động Tòa án đúng các quy định pháp luật; Việc giám

sát của cơ quan dân cử cần tập trung thực hiện theo hình thức giám sát theo

chuyên đề, theo vấn đề liên quan đến công tác xét xử như chuyên đề án quá

hạn, án tạm đình chỉ lâu năm… nhằm mục đích hỗ trợ và tạo điều kiện cho

Tòa án thực hiện tốt các chức năng.

Bảo đảm hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, của nhân dân đối với

hoạt động tố tụng của Toà án trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án hành

chính nói riêng và các loại án nói chung. Thực hiện Hiến pháp năm 2013 Luật

Tố tụng hành chính năm 2015; theo đó, thẩm quyền của Tòa án được mở

rộng, quyền của các chức danh tư pháp được nâng lên, nhưng đòi hỏi phải

91

nâng cao năng lực, trình độ và bản lĩnh của người Thẩm phán, yêu cầu phải

tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo nguyên lý quyền lực Nhà nước

phải có sự kiểm soát.

Việc công khai các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trên Cổng

thông tin điện tử mà hệ thống Tòa án vừa tiến hành là một trong những cơ chế

hữu hiệu để các tầng lớp nhân dân tham gia vào quá trình giám sát đối với

hoạt động xét xử của Tòa án, góp phần nâng cao chất lượng xét xử, tăng

cường trách nhiệm và kỷ luật của Thẩm phán theo tinh thần "Trách nhiệm, kỷ

cương, chất lượng, vì công lý". Vì vậy cần phải đảm bảo hoạt động công bố

bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử Tòa án được thực hiện theo

đúng các quy định tại Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao.

Như vậy, để phát huy những thành tựu đã đạt được và khắc phục những

hạn chế trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, bảo đảm tốt quyền của

người khởi kiện tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, thì Tòa án nhân dân

Thành phố Hà Nội phải thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng về cải

cách tư pháp, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, tiến hành các thủ

tục tố tụng theo trình tự thủ tục luật định, đảm bảo xây dựng đội ngũ thẩm

phán có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi chuyên môn, thực hiện tốt việc

tuyển chọn hội thẩm nhân có trình độ chuyên môn bảo cho việc cho xét xử.

Bên cạnh đó cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật Tố tụng hành chính và

pháp luật nội dung, các hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật được ban

hành kịp thời, bên cạnh đó cần có sự giám sát chặt chẽ của nhà nước và xã hội

đối với hoạt động của Tòa án.

Với tình hình kinh tế, xã hội phát triển như hiện nay ở nước ta, đặc biệt

là tình hình phát triển của thủ đô Hà Nội thì tình trạng khiếu kiện các vụ án

hành chính ngày càng tăng cao. Là thủ đô của cả nước nên Hà Nội không có

những đặc thù vùng miền riêng biệt… Nói như vậy để thấy rằng những giải

pháp mà Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cần nhìn nhận và áp dụng trong

92

hoạt động tố tụng của mình để đảm bảo quyền của của người khởi kiện trong

vụ án hành chính cũng không nằm ngoài những giải pháp chung đã được đề

cập ở phần trên. Tuy nhiên với tình trạng dân số ngày càng tăng, các khiếu

kiện hành chính ngày càng nhiều thì Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cũng

cần có những giải pháp để giải quyết tình trạng án hành chính tốn đọng, đảm

bảo quyền của người khởi kiện được thực hiện và giải quyết triệt để nhất.

Thứ sáu, tang cường Thẩm phán giải quyết các vụ án hành chính: Tòa

hành chính Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội với số lượng thẩm phán ít

nhưng số lượng thụ lý án hành chính lại quá nhiều không thể tránh khỏi tình

trạng các vụ án tồn đọng không thể giải quyết kịp thời. Giải pháp cho tình

trạng này là cần thiết phải tăng cường thêm Thẩm phán giải quyết án hành

chính. Tuy nhiên do chỉ tiêu biên chế của Tòa hành chính đã được quy định

nên việc tăng cường thêm biên chế Thẩm phán giải quyết án của Tòa hành

chính là không thể thực hiện. Nhưng với cơ cấu tổ chức như hiện tại, mỗi Tòa

án nhân dân cấp quận, huyện đang có biên chế 03 thẩm phán trung cấp bao

gồm: 01 chánh án và 02 phó chánh án. Do đó để giải quyết tình trạng này,

Tòa hành chính Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cần sử dụng 03 thẩm phán

trung cấp ở cấp quận, huyện để tăng cường giải quyết án hành chính dưới

hình thức là thẩm phán tăng cường của Tòa hành chính. Cụ thể: Phân hồ sơ

cho các thẩm phán Trung cấp hiện có biên chế tại Tòa án cấp quận, huyện.

Với số lượng 30 quận, huyện nhân với 03 thẩm phán thì số lượng thẩm phán

giải quyết án hành chính sẽ tăng lên là 90 người đồng nghĩa với việc giải

quyết vụ án hành chính sẽ đảm bảo về thời gian giải quyết vụ án hành chính

nói chung và đảm bảo về quyền của người khởi kiện trong vụ án hành chính

nói riêng.

Thứ bảy, tổ chức các buổi hòa giải đối thoại trực tiếp tại địa điểm Ủy

ban nhân dân nơi có khiếu kiện : do tính chất đặc thù của vụ án hành chính

nên người bị kiện thường có đơn xin vắng mặt tại Tòa án. Vấn đề này gây khó

khăn cho Tòa án trong việc tổ chức đối thoại giữa các bên đương sự. Như đã

93

trình bày ở trên, đối thoại trong vụ án hành chính có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng, giúp người khởi kiện, người bị kiện và những đương sự khác trong vụ

án hành chính nhận thức được việc khởi kiện, quyết định bị khởi kiện, hành vi

bị khởi kiện… có đúng hay không đúng để từ có đó phương hướng khắc phục

như rút đơn khởi kiện hoặc hủy bỏ, sửa chữa quyết định hành chính đã ban

hành, hành vi hành chính đã thực hiện… Do đó, để khắc phục tình trạng này,

Tòa hành chính Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội nên khuyến khích thẩm

phán, thư ký tổ chức các buổi hòa giải đối thoại trực tiếp tại địa điểm Ủy ban

nhân dân nơi có khiếu kiện để người bị kiện không có lý do xin vắng mặt

đồng thời có thể cung cấp ngay được các tài liệu chứng cứ Tòa án yêu cầu.

Đây cũng là một giải pháp cần thực hiện ngay để đảm bảo việc giải quyết vụ

án được triệt để.

Thứ tám, kiến nghị với Ủy ban nhân dân các cấp tạo điều kiện về đầu

mối chuyên trách liên hệ để giải quyết các thủ tục liên quan đến vụ án hành

chính: để Tòa án liên hệ được với người có thẩm quyền giải quyết vụ kiện

hành chính của Ủy ban nhân dân cũng là một điều tương đối bất cập vì để ban

hành một Quyết định hành chính cần căn cứ rất nhiều tài liệu của các phòng

ban khác nhau. Do đó, khi Tòa án cần thu thập tài liệu chứng cứ sẽ gặp rất

nhiều khó khăn trong việc liên hệ với ai, phòng ban nào để có thể thu thập tài

liệu chứng cứ một cách đầy đủ và nhanh nhất. Tránh tình trạng thu thập

chứng cứ trong thời gian dài dẫn đến vụ án bị kéo dài, không đảm bảo quyền

và nghĩa vụ cho các đương sự trong vụ án hành chính. Vì vậy Tòa án nhân

dân thành phố Hà Nội cần kiến nghị với Ủy ban nhân dân các cấp tạo điều

kiện về đầu mối chuyên trách liên hệ để giải quyết các thủ tục liên quan đến

vụ án hành chính.

94

KẾT LUẬN

Như vậy, thông qua những quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử

các vụ án Hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, chúng ta thấy

được phần nào thực trạng việc bảo đảm quyền của người khởi kiện trong các

vụ án Hành chính của Nhà nước và pháp luật Việt Nam nói chung và hệ thống

ngành tư pháp nói riêng. Nó là sự cụ thể hóa của Hiến pháp, các văn bản chỉ

đạo của Đảng, Luật tố tụng hành chính cùng những văn bản quy phạm pháp

luật có liên quan trong việc giải quyết các vụ án hành chính. Những quy định

hợp lý của Luật tố tụng hành chính và việc xét xử đúng đắn, chính xác của

Tòa án sẽ đảm bảo cho người khởi kiện trong các vụ án nói chung và người

khởi kiện trong vụ án Hành chính nói riêng được thực hiện đầy đủ các quyền

mà pháp luật đã quy định, bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi

bị xâm phạm không chỉ trong quan hệ Hành chính mà còn giúp củng cố niềm

tin của toàn xã hội đối với việc bảo vệ công lý.

Việt Nam là nước đang phát triển, trong tiến trình hội nhập và tiến lên

xã hội chủ nghĩa thì mục tiêu đảm bảo các quyền con người, quyền công dân

là một trong những mục tiêu quan trọng được thế giới quan tâm chú ý. Vì vậy,

đảm bảo quyền cho người khởi kiện cũng là mục tiêu đảm bảo quyền con

người, quyền công dân đặc biệt là bảo đảm quyền của người khởi kiện trong

giải quyết các vụ án hành chính càng cần được chú trọng vì đây là điều quan

trọng giúp củng cố vững chắc niềm tin của người dân vào chính quyền và vào

sự công bằng của pháp luật.

95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2010), Chỉ thị số 44-CT/TW ngày

20/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác nhân quyền

trong tình hình mới, Hà Nội.

2. Nguyễn Hòa Bình (2017), ''Xây dựng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán vững

vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ nhằm thực hiện tốt nhiệm

vụ xét xử, bảo vệ công lý'', tại trang http://noichinh.vn/cong-tac-noi-

chinh/201709/xay-dung-doi-ngu-can-bo-tham-phan-vung-vang-ve-ban-

linh-chinh-tri-gioi-ve-nghiep-vu-nham-thuc-hien-tot-nhiem-vu-xet-xu-

bao-ve-cong-ly, [truy cập ngày 12/11/2020].

3. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ

Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian

tới, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 02/05/2005 của Bộ

Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

6. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/07/2010 của Bộ

Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm

sát và Cơ quan điều tra, Hà Nội.

7. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ

Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020, Hà Nội.

8. Đại học Đà Lạt (2017), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam,

96

Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

9. Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận và pháp luật về

quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng

Trung ương Đảng, Hà Nội.

12. Nguyễn Thị Hà (2017), "Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ

thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam", tại trang http://tcdcpl.moj.gov.vn

/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=360, [truy cập ngày

05/11/2020]

13. Nguyễn Minh Hà (2019), "Tiếp cận công lý trong tố tụng hành chính"

trong cuốn sách Công lý và quyền tiếp cận công lý, Nxb Hồng Đức, Hà

Nội.

14. Cao Việt Hoàng (2019, ''Tòa án Nhân dân với việc bảo đảm quyền con

người (phần 2)'', tại trang

hvta.toaan.gov.vn/portal/pls/portal/docs/6124604.docx, [truy cập ngày

16/3/2019].

15. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình cao cấp lý

luận chính trị Lý Luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Lý luận

chính trị, Hà Nội.

16. Học viện Chính trị khu vực II (2017), Quan điểm của Đảng Cộng sản

Việt Nam về quyền con người, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

17. Học viện Khoa học Xã hội (2015), Quyền con người, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

18. Học viện Tư pháp (2012), Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án hành

chính, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

19. Đỗ Minh Khôi (2009), "Dân chủ đối với việc bảo đảm quyền con người"

trong cuốn Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học

97

xã hội, Chủ biên, Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

20. Tường Duy Kiên (2016), "Cụ thể hóa các quy định mới về quyền con

người trong Hiến pháp năm 2013", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13

(13/317), tr.3-9.

21. Hoàng Thị Hoa Lê (2013), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xét xử

sơ thẩm vụ án hành chính, Luật văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà

Nội, Hà Nội.

22. Liên Hợp quốc (1948), ''Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm

1948'', tại trang https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-

su/Tuyen-ngon-quoc-te-nhan-quyen-1948/65774/noi-dung.aspx, [truy

cập ngày 19/10/2020].

23. Liên Hợp quốc (1966), ''Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự

năm 1966'', tại trang https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-

khac/Cong-uoc-quoc-te-ve-quyen-dan-su-va-chinh-tri-270274.aspx,

[truy cập ngày 19/10/2020].

24. Liên Hợp quốc (2006), Hỏi đáp về quyền con người, New York và

Giơnevơ.

25. Uông Chu Lưu (2006), Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống

các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Đề tài khoa học

cấp nhà nước mã số KX04-06, Hà Nội.

26. Nguyễn Việt Nam (2013), Tranh tụng trong tố tụng hành chính ở Việt

Nam - Lý luận và thực tiễn, Luật văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà

Nội, Hà Nội.

27. Quốc hội (2003), Nghị quyết 23/2003/QH11 của Quốc hội về nhà đất do

nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính

sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày

01/7/1991, Hà Nội.

28. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.

98

29. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án năm 2014, Hà Nội.

30. Quốc hội (2015), Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Hà Nội.

31. Quốc hội (2011), Luật Khiếu nại năm 2011, Hà Nội.

32. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Thu Hương (2012), "Bảo đảm, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân trong pháp luật hành chính Việt Nam

(một số vấn đề có tính phương pháp luận, định hướng nghiên cứu)'', tại

trang http://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/56473/1/1121-1-

2184-1-10-20160520.pdf, [truy cập ngày 12/10/2020].

33. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 1309/QĐ-TTg ngày

05/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án đưa nội

dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo

dục quốc dân, Hà Nội.

34. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (năm 2018) - Bản án sơ thẩm số

197/2018/HCST ngày 14/12/2018 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét

xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng X Q đối với Quyết định số

4674/QĐ-BGDĐT ngày 11/10/2013 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào

tạo “về việc thu hồi bằng tiến sĩ ngành của tế của ông Hoàng X Q tại

Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân”.

35. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội (2019) - Bản án sơ thẩm số

141/2019/HCST ngày 09/8/2019 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét

xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Q và bà Nguyễn Thị L về

việc khiếu kiện quyết định thu hồi, hủy bỏ quyết định giao đất.

36. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội (2019), Bản án số 741/2017/HC-PT

ngày 15 tháng 8 năm 2017 về việc khiếu kiện quyết định hành chính về

việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

37. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hà Nội (2019) - Bản án hành

chính phúc thẩm số 39/2019/HC-PT ngày 09 tháng 8 năm 2019 về việc

khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Tòa

án nhân dân thành phố Hà Nội

99

38. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2019) - Bản án sơ thẩm số

01/2019/HC-ST ngày 27/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện ML.

39. Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2015), Báo cáo tổng kết công tác

năm 2015, Hà Nội.

40. Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2016), Báo cáo tổng kết công tác

năm 2016, Hà Nội.

41. Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2017), Báo cáo tổng kết công tác

năm 2075, Hà Nội.

42. Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2085), Báo cáo tổng kết công tác

năm 2018, Hà Nội.

43. Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2019), Báo cáo tổng kết công tác

năm 2019, Hà Nội.

44. Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2015), Báo cáo tổng kết công tác 9

tháng đầu năm 2015, Hà Nội.

45. Toà Hành chính - Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (1515), Báo cáo

tổng kết công tác năm 2015, Hà Nội.

46. Toà Hành chính - Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2016), Báo cáo

tổng kết công tác năm 2016, Hà Nội.

47. Toà Hành chính - Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2017), Báo cáo

tổng kết công tác năm 2017, Hà Nội.

48. Toà Hành chính - Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2018), Báo cáo

tổng kết công tác năm 2018, Hà Nội.

49. Tòa Hành chính - Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội (2019), Báo cáo

tổng kết công tác năm 2018, Hà Nội.

50. Toà Hành chính - Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội (2020), Báo cáo

công tác 9 tháng đầu năm 2020, Hà Nội..

51. Toà án nhân dân tối cao (2017), Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP ngày

16/3/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về việc công

bố bản án, quyết định trên cổng thông tin điện tử của toà án, Hà Nội.

100

52. Toà án nhân dân tối cao (2017), Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày

19/6/2017 ban hành quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư

pháp trong toà án nhân dân, Hà Nội.

53. Toà án nhân dân tối cao (2017), Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC

ngày 28/7/2017 của Tòa án nhân dân Tối cao qui định về phòng xử án,

Hà Nội.

54. Trung tâm nghiên cứu quyền con người (2002), Một số văn kiện quốc tế

về quyền con người, Hà Nội.

55. Viện khoa học pháp lý (2005), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách

khoa, Hà Nội,.

56. Nguyễn Tất Viễn (2019), ''Xây dựng cơ chế giám sát liêm chính tư pháp,

kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào Việt Nam'', Kỷ yếu Hội thảo Khoa

học Chiến lược cải cách tư pháp trong Tòa án nhân dân, định hướng đến

năm 2030, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.

57. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2015), Quyền con người, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

58. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2009), Quyền con người, tiếp cận đa ngành

và liên ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. Wolfgang Benedek (chủ biên, 2008), Tìm hiểu về quyền con người,

2008, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

60. Nguyễn Thị Hà, Đoàn Minh Trang (2020), "Bảo đảm quyền con người

trong hoạt động tố tụng hành chính", Tòa án nhân dân, Số 2, tr. 25-31.

61. Nguyễn Thị Thủy (2017), "Bảo đảm quyền con người, quyền công dân

theo pháp luật Tố tụng hành chính", Thanh tra, Số 5, tr. 26 - 28.

62. Lê Ngọc Duy (2018), "Bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong

Tố tụng hành chính theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015", Tòa án

nhân dân, Số 16, tr. 25 - 31.

63. Bùi Thị Đào (2018), "Hoàn thiện Luật Tố tụng hành chính bảo đảm quyền

con người, quyền công dân", Nghiên cứu lập pháp, Số 20, tr. 10 - 14.

101

64. Nguyễn Thị Minh Hà (2019), "Quyền con người của đương sự trong tố

tụng hành chính", Kiểm sát, Số 5, tr. 39-46.

65. Lê Ngọc Duy (2018), "Vai trò bảo vệ quyền con người, quyền công dân

trong tố tụng hành chính của Viện Kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện

nay", Khoa học Kiểm sát, Số 3, tr. 57 - 66.

66. Bài viết của Nguyễn Thị Thúy (2017), "Bảo đảm quyền con người trong

Luật Tố tụng hành chính năm 2015 - một số nhận xét và kiến

nghị", Nghiên cứu lập pháp, Số 9(337), tr. 40 – 45.

102