intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người thực trạng và một số vấn đề đặt ra

Chia sẻ: ViConanDoyle2711 ViConanDoyle2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

97
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết chỉ ra một số thách thức trong bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người trên các phương diện kinh tế, xã hội, ngôn ngữ, văn hóa và phát triển dân số. Đặc biệt, hiện tượng mai một và mất dần bản sắc văn hóa ở các dân tộc thiểu số rất ít người đang ngày càng diễn ra ở nhiều phương diện của đời sống tộc người.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người thực trạng và một số vấn đề đặt ra

Bảo tồn văn hóa các dân tộc… 11<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> BẢO TỒN VĂN HÓA<br /> CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ RẤT ÍT NGƯỜI<br /> THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA<br /> Nguyễn Ngọc Thanh*<br /> Tóm tắt: Bài viết chỉ ra một số thách thức trong bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người trên<br /> các phương diện kinh tế, xã hội, ngôn ngữ, văn hóa và phát triển dân số. Đặc biệt, hiện tượng mai một và<br /> mất dần bản sắc văn hóa ở các dân tộc thiểu số rất ít người đang ngày càng diễn ra ở nhiều phương diện<br /> của đời sống tộc người. Ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời Đảng và Nhà nước đã quan<br /> tâm đến bảo vệ di sản văn hóa tộc người với những điều ghi trong Hiến pháp 1946 và gần đây, qua một số<br /> chính sách dân tộc cụ thể. Tuy nhiên, việc xây dựng chính sách còn bất cập, thiếu kế hoạch lâu dài nên<br /> hiệu quả còn thấp. Vì vậy, xây dựng chính sách bảo tồn văn hóa và phát triển các tộc người cần tiếp cận<br /> trên ba phương diện: dân số, văn hóa và phát triển kinh tế sẽ góp phần đảm bảo cho sự thành công của<br /> các chính sách, chương trình nói riêng; sự nghiệp phát triển các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung.<br /> Từ khóa: Dân tộc thiểu số rất ít người, thực trạng, bảo tồn văn hóa, phát triển.<br /> <br /> <br /> 1. Mở đầu * 2. Một số thách thức trong bảo tồn văn<br /> Việt Nam là một quốc gia - dân tộc đa tộc hóa các DTTS rất ít người<br /> người, trong đó có 53 dân tộc thiểu số Trong 53 DTTS ở Việt Nam, có 16 dân tộc<br /> (DTTS). Sự đa dạng về thành phần dân tộc và được xếp vào nhóm dân số rất ít người (dưới<br /> văn hóa là một đặc trưng của Việt Nam so với 10.000 người). Đó là các dân tộc: Rơ Măm, Ơ<br /> nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, đa dạng dân Đu, Brâu, Pu Péo, Si La, Ngái, Cống, Bố Y,<br /> tộc và các đặc điểm văn hóa cũng đặt ra Cơ Lao, Mảng, Lô Lô, Lự, Chứt, Pà Thẻn, La<br /> những thách thức nhất định cho công cuộc Ha, La Hủ, với dân số là 55.081 người, địa<br /> phát triển cộng đồng các dân tộc ở nước ta, bàn cư trú chủ yếu ở miền núi 11 tỉnh: Hà<br /> nhất là sự chênh lệch về nhịp độ phát triển<br /> Giang, Cao Bằng, Điện Biên, Lai Châu, Sơn<br /> kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, các vùng<br /> La, Lào Cai, Tuyên Quang, Thái Nguyên,<br /> miền. Bên cạnh các dân tộc cư trú ở những<br /> Quảng Bình, Nghệ An, Kon Tum (2). Các dân<br /> khu vực địa lý tự nhiên thuận lợi về canh tác<br /> tộc này có số phận lịch sử khác nhau, một số<br /> nông nghiệp và giao thương, trình độ sản<br /> dân tộc được hình thành tại chỗ hoặc di cư<br /> xuất cao, kinh tế ổn định; lại có những dân<br /> đến Việt Nam từ rất lâu đời; một số dân tộc<br /> tộc cư trú trên những địa bàn có điều kiện<br /> mới định cư ở Việt Nam trong những thế kỷ<br /> hết sức khắc nghiệt, đời sống bấp bênh, đói<br /> gần đây, cũng có dân tộc chỉ xuất hiện duy<br /> nghèo, bệnh tật. Hơn nữa, những điều tra<br /> nhất ở Việt Nam; trong khi số còn lại có<br /> quy mô lớn ở vùng dân tộc, miền núi cho<br /> thấy, tiến bộ đạt được trong xóa đói giảm không ít những đồng tộc ở các nước láng<br /> nghèo không đồng đều giữa các vùng và giềng... Quá trình tộc người gắn với các yếu tố<br /> giữa các nhóm dân tộc (1). lịch sử và địa lý tự nhiên khiến cho các dân<br /> tộc rất ít người có trình độ phát triển chênh<br /> lệch nhau, nhưng nhìn chung là thấp hơn hẳn<br /> *PGS.TS. Viện Dân tộc học - Viện Hàn lâm Khoa<br /> học xã hội Việt Nam.<br /> so với các tộc người dân số đông, định cư lâu<br /> 12 3 (43) - 2019: CHUYÊN ĐỀ: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY...<br /> <br /> <br /> đời ở những khu vực thuận lợi cho phát triển giao lưu hơn), đa số cư dân các DTTS rất ít<br /> và giao lưu (Thái, Tày, Mường, Chăm, Khơ người phải đối mặt với tình trạng đói nghèo,<br /> Me...). Sự chênh lệch này không đơn thuần thất học, chăm sóc sức khỏe hạn chế và điều<br /> chỉ là khoảng cách về đời sống mà còn lệ kiện sinh hoạt không đảm bảo, dễ bị ảnh<br /> thuộc về kinh tế, chính trị lẫn văn hoá, xã hội hưởng bởi thảm họa thiên tai (lũ quét, lũ<br /> vào những dân tộc đông dân hơn (chẳng hạn, ống, cháy rừng…). Báo cáo kết quả điều tra<br /> người La Ha, La Hủ, Cống, Si La... xưa kia bị thực trạng kinh tế - xã hội 53 DTTS năm<br /> lệ thuộc, làm nô lệ cho những chúa đất và các 2015 của Ủy ban Dân tộc cho biết:<br /> chức dịch người Thái; người Bố Y lệ thuộc hệ - Nhóm DTTS rất ít người có tỷ lệ hộ<br /> thống quản lý do người Tày, hay người<br /> nghèo rất cao. Có những dân tộc tỷ lệ hộ<br /> Hmông, người Dao chi phối)... Điều này đã<br /> nghèo lên đến trên 70%, như La Hủ, Mảng<br /> góp phần kìm hãm sự vươn lên và khẳng định<br /> và Chứt.<br /> mình của các dân tộc rất ít người một thời<br /> gian dài trong lịch sử, đồng thời để lại những - Khoảng 55,3% dân số nhóm DTTS rất ít<br /> hệ quả (về văn hóa, ngôn ngữ…) tác động người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết; tức<br /> không nhỏ đến sự vận động, phát triển của các là gần non nửa dân số thuộc diện mù chữ.<br /> dân tộc này trong hiện tại và tương lai. - Lực lượng lao động có trình độ ở các<br /> Trên con đường hội nhập vào mặt bằng DTTS rất ít người vẫn còn ít ỏi, đặc biệt là 4<br /> phát triển chung của các địa phương, vùng dân tộc La Hủ, Rơ Măm, Mảng và Brâu tỷ lệ<br /> miền và quốc gia, các DTTS rất ít người đang lao động đã qua đào tạo chỉ dưới 2,0%.<br /> đứng trước nhiều vấn đề cần giải quyết để<br /> - Khoảng cách đặc biệt xa từ nhà đến các<br /> từng bước hòa nhập và giảm khoảng cách phát<br /> cơ sở y tế là một thực trạng ở nhiều DTTS rất<br /> triển với mặt bằng chung của quốc gia.<br /> ít người. Ở người La Ha, La Hủ, Chứt, Mảng,<br /> Có thể thấy rằng, phần lớn các DTTS rất ít Cống bệnh viện cách nhà từ 32,6 đến 48km,<br /> người đã và đang phân bố ở những địa bàn xa người Rơ Măm và Ơ Đu bệnh viện cách nhà<br /> xôi, hẻo lánh, địa hình hiểm trở, cách xa đô từ 60,1 đến 72km.<br /> thị, cách xa đồng bằng... Trước thập niên 50<br /> của thế kỷ XX, có những dân tộc trong số này - Về điều kiện sinh hoạt, 13/16 DTTS rất ít<br /> còn ở tình trạng biệt lập, khép kín, ít cơ hội người tỷ lệ hộ có nhà kiên cố dưới mức trung<br /> tiếp xúc với xã hội bên ngoài. Cá biệt có bình của 53 DTTS là 14,5%; 10/16 DTTS rất<br /> nhóm người Rục, Arem, Mã Liềng (nhóm địa ít người, tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ<br /> phương của dân tộc Chứt) ở miền núi phía tây sinh dưới mức trung bình, chiếm 73,3%. Hiện<br /> Quảng Bình sống hoàn toàn cô lập, chỉ biết tại, một số dân tộc như Ơ Đu, Rơ Măm, Si La,<br /> săn bắt hái lượm, lấy hang đá làm nhà và bị Lự và Brâu, lưới điện quốc gia đã bao phủ gần<br /> “nguyên thủy” hóa (3). như toàn bộ thôn bản (tỷ lệ hộ dùng điện lưới<br /> từ 99% đến 100%), thì vẫn còn những dân tộc<br /> Ngày nay, khoảng cách địa lý và khó<br /> có tỷ lệ dùng điện lưới dưới 80%; trong đó,<br /> khăn về giao thông đi lại vẫn là một trở lực<br /> đặc biệt là dân tộc Mảng, La Hủ và Lô Lô,<br /> rất lớn đối với các dân tộc này trong việc<br /> dưới 50,0% hộ có điện sinh hoạt (4).<br /> giao lưu học hỏi cũng như việc thụ hưởng<br /> lợi ích từ những chính sách, chương trình Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng DTTS rất<br /> phát triển quốc gia (không kể đến người ít người cũng còn nhiều bất cập, chậm được<br /> Ngái vốn có trình độ phát triển tương đối kiện toàn và củng cố, đặc biệt là vùng sâu,<br /> cao, lại cư trú ở những vùng thuận lợi cho vùng xa. Cán bộ cơ sở vừa thiếu vừa yếu, nhất<br /> Bảo tồn văn hóa các dân tộc… 13<br /> <br /> <br /> là cán bộ người dân tộc; các điều kiện cơ sở nhạc cụ truyền thống dưới 30%, thấp nhất là<br /> vật chất, các chế độ đãi ngộ cần thiết để hoạt người Ngái (8,49%) và Ơ Đu (10,55%) (5).<br /> động chưa đảm bảo. Một số cán bộ cơ sở<br /> Sự thay đổi dễ nhận thấy trong văn hóa vật<br /> không biết chữ hoặc chỉ đạt trình độ tiểu học, chất của các DTTS rất ít người là qua trang<br /> đa phần chưa qua đào tạo chuyên môn và phục và nhà ở. Hiện nay, phần lớn trẻ và nam<br /> quản lý Nhà nước. giới đều mặc âu phục. Phụ nữ vẫn mặc theo<br /> Về quản lý xã hội, các DTTS rất ít người là truyền thống, nhưng không phải là những<br /> những thành phần chịu ảnh hưởng mạnh của chiếc váy do chính bàn tay họ tự dệt, mà thay<br /> chính sách đất đai liên quan đến bảo vệ rừng bằng các loại vải bán ở thị trường hoặc những<br /> và hoạt động tái định cư phục vụ cho các dự chiếc váy may sẵn du nhập từ Trung Quốc.<br /> án thủy điện. Việc bố trí lại lực lượng lao Nhà ở trình tường, mái lợp ngói âm dương,<br /> động và di dịch dân cư làm tăng quá trình xen tường rào bằng đá một đặc trưng của các tộc<br /> cư mạnh mẽ giữa họ và các dân tộc khác, dẫn người vùng biên giới phía Bắc cũng đang dần<br /> đến những quan hệ mới nảy sinh cần được thay thế bằng nhà xây theo kiến trúc của các<br /> nhận thức và xử lý đúng đắn. tộc người bên kia biên giới<br /> <br /> Trong bối cảnh quá trình phát triển và Có thể nói, từ ngôn ngữ, các vật dụng<br /> tăng cường giao lưu, hội nhập đã và đang tác của cuộc sống hàng ngày, đến kiến trúc<br /> động mạnh mẽ đến đời sống vùng DTTS miền nhà ở, các lễ nghi trong đời sống xã hội<br /> núi, những điều kiện kể trên nhìn chung khiến (hôn nhân, tang ma, thờ cúng...) mang<br /> cho khả năng tự bảo tồn, phát huy văn hóa đậm nét bản sắc truyền thống và khác biệt<br /> truyền thống của nhóm DTTS rất ít người bị của từng tộc người ít còn được duy trì,<br /> hạn chế. thay vào đó là nét văn hóa của nhóm đa<br /> số. Hệ luỵ từ xu hướng này sẽ để lại<br /> Hiện tượng mai một và mất dần bản sắc những hậu quả khó lường, nó không đơn<br /> văn hóa (pha tạp, biến đổi, biến thái văn thuần chỉ là mai một bản sắc văn hoá<br /> hóa…) ở các DTTS rất ít người đang ngày truyền thống tộc người, mà kết hợp với<br /> càng diễn ra theo nhiều chiều cạnh khác nhau. các tác động kinh tế - xã hội khác có thể<br /> Việc chú ý bảo tồn, phát huy các giá trị văn dẫn đến không còn sự hiện diện của một<br /> hóa truyền thống tốt đẹp còn lơi lỏng nên xu số tộc người thiểu số trong tương lai (6).<br /> hướng của thanh niên hiện nay là hướng vào<br /> Dân số và phát triển ở các DTTS rất ít<br /> cái mới, cái hiện đại mà quên đi những gì tổ<br /> người cũng là một vấn đề đáng phải suy nghĩ,<br /> tiên để lại.<br /> 5 dân tộc Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu<br /> Kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội có dân số dưới 1.000 người, chủ yếu sống ở<br /> của 53 DTTS đã cung cấp dữ liệu so sánh hữu một làng và thuộc diện cần phải bảo tồn đặc<br /> ích cho việc làm rõ sự mai một và mất dần biệt. Trong đó, hai dân tộc Pu Péo và Si La<br /> bản sắc văn hóa truyền thống của 16 tộc người dân số giảm đi đáng kể giữa hai cuộc Tổng<br /> có dân số ít. Theo đó, điển hình đáng lo ngại điều tra dân số và nhà ở gần đây nhất, năm<br /> nhất của việc không biết tiếng mẹ đẻ, người Ơ dân tộc từ 1.000 đến dưới 5.000 người là Lô<br /> Đu chỉ còn 27,7% số người nói được ngôn Lô, Mảng, Cơ Lao, Bố Y, Cống tuy có nguy<br /> ngữ của dân tộc mình, người Cơ Lao (45,5%), cơ thấp hơn nhưng tốc độ tăng dân số cũng<br /> Ngái (50,8%), La Chí (64,4%) và La Ha rất chậm (7). Nhiều ý kiến cho rằng, các<br /> (67,3%). Đặc biệt có 5 dân tộc tỷ lệ người biết DTTS rất ít người đang đứng trước nguy cơ<br /> đến bài hát truyền thống, điệu múa và sử dụng suy thoái giống nòi; nguyên nhân là vì nạn<br /> 14 3 (43) - 2019: CHUYÊN ĐỀ: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY...<br /> <br /> <br /> tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, ở 16 30A, Chương trình hỗ trợ nhà ở cho các hộ<br /> DTTS rất ít người, tỷ lệ tảo hôn là 8,8%o nghèo, Chương trình 5 triệu hécta rừng... đã<br /> (trung bình 53 dân tộc là 6,5%o), tỷ lệ hôn có tác dụng đưa các DTTS - bao gồm cả các<br /> nhân cận huyết thống là 41,3% (trung bình dân tộc rất ít người - từng bước hòa nhập<br /> 53 dân tộc là 21,0%), tập quán sinh đẻ lạc vào sự phát triển chung của đất nước.<br /> hậu, tỷ lệ suy dinh dưỡng cao... làm tuổi thọ<br /> Nhận thức về hoàn cảnh đặc biệt và những<br /> của họ thấp hơn rất nhiều so với mặt bằng<br /> nguy cơ đối với các DTTS rất ít người, thời<br /> chung của cả nước (8).<br /> gian gần đây, Đảng và Nhà nước đã có<br /> Các DTTS rất ít người chủ yếu sống ở địa những động thái cụ thể đối với các tộc<br /> bàn vùng sâu, vùng xa, cũng là vùng nhạy người này. Bên cạnh một số điều được quy<br /> cảm về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã định trong Hiến pháp, Nghị quyết, Nghị<br /> hội. Đời sống thiếu đầy đủ và các nguy cơ đe định liên quan đến chính sách dân tộc và<br /> dọa đối với sự tồn tại lâu dài của tộc người công tác dân tộc, vấn đề DTTS rất ít người<br /> tạo cơ hội cho các lực lượng thù địch lợi đã được giải quyết qua một số Đề án, Dự<br /> dụng để xuyên tạc, phủ nhận những thành án cụ thể được ban hành theo các Quyết<br /> quả trong chính sách dân tộc của Việt Nam. định của Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ<br /> Điều đó cũng có nghĩa rằng sự quan tâm giải Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Cụ thể, 5<br /> quyết thỏa đáng những vấn đề thực tiễn đang dân tộc có dân số dưới 1.000 người là Si<br /> xảy đến đối với các DTTS rất ít người sẽ La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu được đưa<br /> đem lại hiệu quả chính trị là nâng cao lòng tự vào danh sách cần quan tâm đặc biệt. Từ<br /> hào, tự tôn dân tộc, chống lại những âm mưu năm 2005, các chương trình hỗ trợ phát<br /> phá hoại, chia rẽ, gây mất ổn định và đoàn triển 5 dân tộc này đã được thực hiện bên<br /> kết dân tộc. cạnh các chương trình hỗ trợ giảm nghèo<br /> 3. Chính sách bảo tồn văn hóa và phát toàn quốc khác. Trong những năm tiếp<br /> triển các tộc người có dân số rất ít người theo, Chính phủ phê duyệt nhiều đề án, dự<br /> án quan trọng khác như Đề án “Phát triển<br /> Từ giữa thế kỷ XX đến nay, chính sách<br /> giáo dục đối với các dân tộc rất ít người<br /> dân tộc của Việt Nam đã không ngừng hoàn<br /> giai đoạn 2010 - 2015” (2010); Đề án “Bảo<br /> thiện. Đảng và Nhà nước ta đã từng bước<br /> tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam<br /> xây dựng khung chính sách dân tộc được<br /> đến năm 2020” (2011) và Dự án “Bảo tồn<br /> đánh giá là tiến bộ cả về quan điểm lẫn hành<br /> khẩn cấp và hỗ trợ, tăng cường năng lực<br /> động, đồng thời cũng phù hợp với đa số các<br /> bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc, bài<br /> diễn ngôn quốc tế liên quan đến vấn đề dân<br /> trừ hủ tục ở vùng đồng bào DTTS” (2013);<br /> tộc trong một quốc gia đa dân tộc. Với việc<br /> Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội vùng các<br /> đặt ra và tuân thủ 3 nguyên tắc “bình đẳng”,<br /> dân tộc: Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao”<br /> “đoàn kết”, “tương trợ”, chính sách dân tộc<br /> (2011); gần đây nhất là Đề án “Hỗ trợ phát<br /> luôn được quan tâm, chú trọng nhằm thiết<br /> triển kinh tế - xã hội các DTTS rất ít người<br /> lập sự bình đẳng và hòa nhập phát triển,<br /> củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất giai đoạn 2016 - 2025” (2016).<br /> của cộng đồng các dân tộc. Nhiều chính Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta,<br /> sách, giải pháp của Chính phủ nhằm hỗ trợ chính sách nhất định phải được các tộc người<br /> nâng cao đời sống các DTTS trên cả nước thụ hưởng, hướng tới phát triển kinh tế, nâng<br /> đã được triển khai và gặt hái được nhiều cao đời sống người dân, nhưng phải gìn giữ<br /> thành tựu đáng kể. Chương trình 135, 134, được bản sắc văn hóa của họ. Điều này xuất<br /> Bảo tồn văn hóa các dân tộc… 15<br /> <br /> <br /> phát từ nhận thức bảo tồn để phát triển và phát để tránh sự đầu tư dàn trải, không đúng trọng<br /> triển giúp cho việc bảo tồn tốt hơn, là sự cân tâm. Hiệu quả của chính sách văn hóa được<br /> bằng giữa bảo vệ các giá trị văn hóa dân tộc xem xét trước hết ở chỗ người thực thi chính<br /> và sự hội nhập quốc tế. Theo đó, chính sách sách làm cách nào để nhận diện được trọng<br /> bảo tồn và phát triển các DTTS rất ít người ở tâm của sự bảo tồn, sau đó là việc đưa phát<br /> Việt Nam nên được nghiên cứu xây dựng dựa hiện đó gắn với chuỗi các hành động tiếp<br /> trên 3 yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau: theo, bao gồm cả việc lôi kéo, thuyết phục<br /> Thứ nhất,bảo tồn và phát triển dân số tộc cộng đồng cùng hành động. Ở đây, để nâng<br /> người: lịch sử thường cho thấy, các cộng đồng cao chất lượng đánh giá, có thể xem xét thêm<br /> về yếu tố chuyên môn và đạo đức, tâm huyết,<br /> tộc người có dân số rất ít người dù có giàu bản<br /> trách nhiệm nghề nghiệp của người được giao<br /> sắc như thế nào thì cũng có nguy cơ bị ảnh<br /> nhiệm vụ đánh giá các giá trị văn hóa.<br /> hưởng về văn hóa cao khi cư trú gần hoặc<br /> xen lẫn các cộng đồng có dân số đông hơn, Cách đây hơn 30 năm, đã có lời cảnh báo<br /> đặc biệt là các nhóm bị xé lẻ, cư trú phân về tình trạng nhiễu loạn văn hóa đương diễn<br /> tán ra nhiều khu vực, có lịch sử di cư lâu ra ở nước ta với những mức độ khác nhau, ở<br /> dài. Trên thực tế, việc kiểm soát dân số là những địa phương, tộc người khác nhau,<br /> một trong những lĩnh vực khó khăn nhất được thể hiện ở tình hình chưa ổn định trong<br /> trong quản lý quốc gia. Phát triển dân số đời sống nói chung và văn hóa nói riêng, ở<br /> tộc người, vì vậy, gắn với các biện pháp những ý kiến dường như khác nhau giữa các<br /> khuyến khích sinh sản đối với các tộc nhà nghiên cứu, và quần chúng nhân dân về<br /> người có dân số rất ít người. Trong một vài những biểu hiện hành vi văn hóa trong xã<br /> trường hợp, chính sách bảo tồn và phát hội, mặc dầu không ai không tán thành<br /> triển dân số tộc người có thể chuyển trọng đường lối, phương châm xây dựng văn hóa<br /> tâm từ khuyến khích sinh đẻ sang nâng cao của Đảng (8). Đến nay lời cảnh báo đó vẫn<br /> chất lượng dân số. Chất lượng dân số ở đây còn nguyên giá trị.<br /> thể hiện qua các yếu tố đầu vào như tỷ lệ<br /> Nhìn chung, bảo tồn và phát huy các giá trị<br /> suy dinh dưỡng, tỷ lệ tử vong, tuổi thọ<br /> văn hóa tộc người tại Việt Nam thường tiếp<br /> trung bình, tần suất mắc các bệnh, đặc biệt<br /> cận trên hai phương diện văn hóa vật thể và<br /> là các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Các<br /> văn hóa phi vật thể. Văn hóa vật thể bao gồm:<br /> khía cạnh xã hội như nhu cầu và nhận thức<br /> nhà cửa, trang phục, ẩm thực, nhạc cụ,<br /> của người dân, khả năng cung ứng các dịch<br /> phương tiện sản xuất, đi lại... Văn hóa phi vật<br /> vụ chăm sóc sức khỏe, vệ sinh - môi trường<br /> thể gồm: phong tục, tập quán, tri thức địa<br /> và đẩy lùi dịch bệnh, củng cố hệ thống y phương, tổ chức xã hội, lễ hội, văn học, nghệ<br /> tế… hiệu quả sử dụng tri thức địa phương thuật dân gian. Ngôn ngữ thường được nhắc<br /> trong đối phó với bệnh tật, các thực hành đến như một lĩnh vực đặc thù đã có chính sách<br /> văn hóa ảnh hưởng đến chất lượng dân số riêng (mặc dù có thể xếp vào văn hóa phi vật<br /> (phong tục sinh đẻ và nuôi con, tảo hôn và thể). Vấn đề quan trọng hơn là phải xác định<br /> hôn nhân cận huyết) cần được xem xét, được các lĩnh vực, yếu tố cần ưu tiên bảo tồn<br /> phân tích thấu đáo. khẩn cấp, đồng thời đánh giá được việc đáp<br /> Thứ hai, bảo tồn và phát huy các giá trị ứng các nhu cầu và sự tham gia của người dân<br /> văn hóa tộc người: văn hóa là lĩnh vực rất về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của<br /> rộng nên việc bảo tồn và phát huy cần tập chính họ theo quan điểm phát triển bền vững<br /> trung vào những giá trị độc đáo của tộc người về văn hóa. Vì vậy, đề xuất giải pháp cần chỉ<br /> 16 3 (43) - 2019: CHUYÊN ĐỀ: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY...<br /> <br /> <br /> rõ làm thế nào để người dân có thể tiếp cận Các DTTS rất ít người chủ yếu sống ở địa<br /> các nguồn lực từ những chương trình văn hóa bàn vùng sâu, vùng xa, cũng là vùng nhạy<br /> đã được thực thi, cũng như quyền của họ đối cảm về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã<br /> với các phương tiện hay môi trường nền tảng hội. Đời sống thiếu thốn và các nguy cơ đe<br /> cho sự đảm bảo duy trì các yếu tố truyền dọa đối với sự tồn tại lâu dài của các tộc<br /> thống (ví dụ như rừng, thiết chế nhà cộng người tạo cơ hội cho các lực lượng thù địch<br /> đồng, luật tục). lợi dụng để xuyên tạc, phủ nhận những thành<br /> Thứ ba, phát triển đời sống kinh tế - xã quả trong chính sách dân tộc của Việt Nam.<br /> Điều đó cũng có nghĩa rằng sự quan tâm giải<br /> hội: là một trọng tâm quan trọng của mục tiêu<br /> quyết thỏa đáng những vấn đề thực tiễn đang<br /> phát triển tộc người. Đây là quá trình nâng cao<br /> xảy đến đối với các DTTS rất ít người sẽ<br /> điều kiện sống về vật chất và tinh thần của<br /> đem lại hiệu quả chính trị là nâng cao lòng tự<br /> con người qua việc sản xuất ra của cải vật<br /> hào, tự tôn dân tộc, chống lại những âm mưu<br /> chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất<br /> phá hoại, chia rẽ, gây mất ổn định và đoàn<br /> lượng học vấn phổ thông. Trên thực tế, chính<br /> kết dân tộc.<br /> sách cho phát triển kinh tế - xã hội thường<br /> được ưu tiên hàng đầu trong hệ thống các Trong bối cảnh mà việc bảo tồn và phát<br /> chính sách dân tộc ở Việt Nam. triển các DTTS rất ít người ở Việt Nam đang<br /> được Nhà nước và xã hội rất quan tâm, sự ra<br /> Tính bền vững của phát triển tộc người chủ<br /> đời của một số chính sách riêng cho các<br /> yếu được xem xét qua mối quan hệ giữa phát<br /> DTTS rất ít người đã bước đầu đáp ứng đòi<br /> triển kinh tế - xã hội đối với bảo tồn, phát huy<br /> hỏi của thực tiễn. Nhưng, có lẽ do mới triển<br /> văn hóa để phát triển bền vững. Bản chất của<br /> khai, hoặc triển khai theo từng giai đoạn,<br /> việc này là tìm kiếm các giải pháp giải quyết<br /> thiếu tính đồng bộ nên các chính sách này<br /> các mục tiêu của chính sách và hiệu quả mang<br /> chưa để lại ấn tượng sâu sắc trong cộng đồng<br /> lại, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.<br /> và dư luận xã hội. Những thảo luận từ các<br /> 4. Kết luận và khuyến nghị cuộc hội thảo khoa học, trên phương tiện<br /> Có thể nói, ở một tương lai không xa, nếu thông tin đại chúng, cho thấy, quá trình xây<br /> không có những biện pháp cụ thể đối với vấn dựng chính sách còn thiếu những giải pháp<br /> đề nâng cao số lượng, chất lượng dân số và bảo toàn diện, thiếu lộ trình có tính chiến lược<br /> tồn văn hóa của các DTTS rất ít người, nguy cơ theo hướng phát triển bền vững và việc áp<br /> suy thoái đến mức tiêu vong là hoàn toàn có dụng thiếu linh hoạt với từng tộc người. Cho<br /> thể xảy ra. Đây không chỉ là một tổn thất cho nên, trong thời điểm hiện tại, việc đánh giá<br /> tính đa dạng tộc người, đa dạng văn hóa của một cách khoa học và đề xuất các giải pháp<br /> thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, mà nâng cao hiệu quả của chính sách bảo tồn và<br /> hơn hết, là một thiệt hại không thể bù đắp cho phát triển các DTTS rất ít người là hết sức<br /> chính người dân của các tộc người này. Vấn đề cần thiết và cấp bách; góp phần đảm bảo cho<br /> càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn bởi sự nghiệp phát triển các DTTS ở Việt Nam<br /> Việt Nam đã tham gia Công ước Bảo vệ và nói chung./.<br /> phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa N.N.T<br /> (năm 2007), trong đó cam kết về trách nhiệm<br /> _______________________<br /> bảo vệ và phát huy sự đa dạng các biểu đạt văn<br /> hóa phong phú của cộng đồng các dân tộc trên 1. Ngân hàng Thế giới (2012), Khởi đầu tốt,<br /> lãnh thổ đất nước. nhưng chưa phải đã hoàn thành: Thành tựu ấn<br /> Bảo tồn văn hóa các dân tộc… 17<br /> <br /> <br /> tượng của Việt Nam trong giảm nghèo và những 4. Ủy ban Dân tộc (2015), Tờ trình số 12/TTr-<br /> thách thức mới, Hà Nội, tr. 5, 20-23. UBND về “Phê duyệt đề án Hỗ trợ phát triển kinh<br /> tế, xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn<br /> 2. Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.<br /> 2016 - 2025”, Hà Nội.<br /> 3. Nguyễn Ngọc Thanh (1991), “Ghi chép dân<br /> tộc học về người Rục ở Quảng Bình”, Tạp chí Dân 5, 6. Ủy ban Dân tộc (2017), Tổng quan thực<br /> tộc học, số 4, tr. 67. trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số, Hà<br /> Nội, tr. 58-59.<br /> - Nguyễn Ngọc Thanh (2002), “Một lời kêu cứu<br /> từ thực trạng người Rục”, trong: Tính đa đạng của 7. Ủy ban Dân tộc - UNDP (2010), “Nghiên<br /> Văn hóa Việt Nam những tiếp cận về sự bảo tồn, cứu thực trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu<br /> UNESCO - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn số và đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân<br /> quốc gia, Hà Nội, tr. 143. lực vùng dân tộc và miền núi”, Dự án: Tăng cường<br /> năng lực cho Ủy ban Dân tộc xây dựng thực hiện<br /> - Bế Viết Đẳng (chủ biên - 1996), Các dân và giám sát chính sách dân tộc, VIE02/001-<br /> tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế, xã hội ở SEDEMA & EMPCD.<br /> miền núi, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.<br /> 180-181. 8. Ủy ban Dân tộc (2015), bđd.<br /> <br /> - Lê Duy Đại (2001), “Đặc điểm dân số các 9. Đặng Nghiêm Vạn (1986), “Bảo vệ và phát<br /> dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, in trong, Các dân triển đặc điểm dân tộc trong văn hóa Việt Nam”,<br /> tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX, Nxb. Chính trị Tạp chí Dân tộc học, số 4 (52), tr.37.<br /> Quốc gia, Hà Nội, tr. 419. Tài liệu tham khảo khác<br /> - Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc Viện Dân tộc học (1984), Các dân tộc ít người ở<br /> gia dân tộc Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Việt Nam: Các tỉnh phía Nam, Nxb. Khoa học xã<br /> Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, hội, Hà Nội.<br /> tr. 364.<br /> <br /> Nguyễn Ngọc Thanh: Preserving the culture of smaller ethnic minorities: situation and<br /> arising problems<br /> The paper identifies some challenges in preservation of culture of smaller ethnic minorities in terms of<br /> economic, social, language, culture and population development aspects. The risk of degradation and<br /> gradual losing of cultural identity of ethnic minorities in many aspects of life is increasingly. Since the<br /> establishment of the Democratic Republic of Vietnam, the Communist Party of Vietnam and State have<br /> paid attention to protection of ethnic cultural heritage which was stated in the 1946 Constitution and<br /> recently, has been reflected in a number of specific ethnic policies. However, policy impacts are limited<br /> due to inadequacies and a lack of long-term perspective in policy formulation. Therefore, policies of ethnic<br /> cultural preservation and development should be formulated based on three approaches of population,<br /> culture and economic development, which will contribute to the success of policies and programs in<br /> particular and development of ethnic minorities in Vietnam in general.<br /> <br /> Keywords: Smaller ethnic minorities, reality, cultural preservation, development.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1