intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

BỆNH HỌC THỰC HÀNH - ẨM CHỨNG

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

71
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ẩm chứng là loại tật bệnh lượng thủy dịch trong cơ thể tăng cao chủ yếu ứ đọng ở một bộ phận nào đó không chuyển hóa được. Chứng này có tên là ‘Tích Ẩm’ ghi trong sách Nội Kinh; Sách ‘Kim Quĩ Yếu Lược’ gọi là ‘Đàm Ẩm’. Tuy nhiên, dựa vào vị trí thủy ẩm tích chứa khác nhau, trong nghĩa rộng của bệnh danh Đàm ẩm, chia làm bốn loại: Loại ẩm tà lưu đọng ở dưới sườn gọi là Huyền ẩm; Ẩm tà tràn ra tay chân gọi là Dật ẩm; Ẩm tà phạm vào vùng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: BỆNH HỌC THỰC HÀNH - ẨM CHỨNG

  1. BỆNH HỌC THỰC HÀNH ẨM CHỨNG Đại Cương Ẩm chứng là loại tật bệnh lượng thủy d ịch trong cơ thể tăng cao chủ yếu ứ đọng ở một bộ phận nào đó không chuyển hóa được. Chứng này có tên là ‘Tích Ẩm’ ghi trong sách Nội Kinh; Sách ‘Kim Quĩ Yếu Lược’ gọi là ‘Đàm Ẩm’. Tuy nhiên, dựa vào vị trí thủy ẩm tích chứa khác nhau, trong nghĩa rộng của bệnh danh Đàm ẩm, chia làm bốn loại: Loạ i ẩm tà lưu đọng ở dướ i sườn gọ i là Huyền ẩ m; Ẩm tà tràn ra tay chân gọi là Dật ẩ m; Ẩm tà phạm vào vùng ngực và Phế, gọi là Chi ẩm. Ngoài ra, còn có các tên Vi ẩm, Lưu ẩm, Phục ẩ m v.v ... cũng đều vẫn thuộc bố n loại ẩm nói trên. Trong lâm sàng, các loại Viêm Khí Quản Mạn Tính, Hen Suyễn, Tràn Dịch Màng Phổi, Rối Loạn Tiêu Hóa, Tắc Ruột v.v... thuộc Y học hiện đại, ở giai đoạn nào đó, có thể đối chiế u với ẩm chứng để biện chứng luận trị.
  2. Nguyên Nhân Có thể do nội nhân và ngoại nhân. Nội nhân do dương khí bất túc, tân dịch vận hóa vô lực gây nên. Ngoạ i nhân do do cả m nhiễm hàn thấp lâu ngày hoặc tổn thương ăn uống, khiến dương khí bị uất không vận hóa được gây nên. Trong quá trình phát bệnh, hai loại này thường ảnh hưởng lẫn nhau. 1) Ngoạ i cảm hàn thấp: Khí hậu ẩm lạnh, hoặc lội nước dầm mưa, thủy thấp từ bên ngoài thấm vào, phần dương bảo vệ bên ngoài bị thương trước tiên, dần dần từ biểu vào lý, dương khí của nội tạng bị thấp tà làm khốn đốn đến không được thoải mái khiến cho thủy thấp ứ đọng mà thành bệnh. Sách ‘Tố Vấn’ viết: “Thấp tà thắng thì người ta bị ẩm tích lại mà thành chứng tâm thống”.. đó là chỉ trường hợp này. 2) Bị tồn thương do ăn uống - như uống nước lạnh hoặc ăn nhiều thứ sống lạnh, nóng và lạnh làm tổn thương nhau, dương khí ở trung tiêu bị uất kết, Tỳ không vận hóa được đọng lại thành chứng ẩm, như sách Kim Quỹ Yếu Lược viết: “Uống nước nhiều, ắt sẽ bị khó thở (suyễn), và ăn ít uống
  3. nhiều, nước đọng lại ở dưới Tâm. ... Nói lên ăn uống không điều độ, hoặc uống nước nhiều sẽ đọng lại thành chứng ẩm. 3) Dương khí suy yếu: Thủy dịch của cơ thể phải nhờ d ương khí mới biến hóa được. Người bị ốm lâu thể lực yếu hoặc vì tuổi cao khí yếu, dương khí Tỳ Thận bất túc, thủy dịch khó chuyển hóa, bị ứ đọng lại thành chứng ẩm. Sự trao đổi thủy dịch bình thường là do quá trình khí hóa thống nhất của ba tạng Tỳ Phế Thận hợp tác điều hòa với nhau. Trong đó Phế có tác dụng làm cho th ủy dịch lưu thông xuống dưới, Tỳ có công năng hấp thụ và chuyển vận đi lên, Thận có công năng phân biệ t trong đục, chưng cất thủy dịch và làm nhiệm vụ mở đóng. Dương khí của ba tạng này đầy đủ, phố i hợp với nhau, mới có thể hoàn thành sự hấp thụ, vận hành và bài tiết thủy dịch. Trong ba tạng, dương khí ở tạng Thận và rất quan trọng. Trong trường hợp bệnh lý, Phế Tỳ Thận ảnh hưởng lẫn nhau, như ngoại cảm hàn thấp, đầu tiên phạm Phế rồi mới đến Tỳ, Thận tổn thương. Bị tổn thương vì ăn uống thì Tỳ Vị bị hại, bệnh kéo dài sẽ lan tới Phế Thận. Chứng ẩm do dương hư là
  4. phát từ bên trong, tuy chủ yếu là do Tỳ Thận, nhưng cũng có thể đi nghịch lên ảnh hưởng đến Phế, vì vậy trên lâm sàng có những loại chứng khác nhau. Biện Chứng Trước tiên cần phân biệt ẩm tà ứ đọng ở vị trí nào mới có thể có biện pháp điều tr ị. Ẩm tà lưu ở Vị Trường thì vùng trung quản có tiếng nước óc ách, uống nước vào thì mửa, hoặc trong ruột có tiếng sôi réo. Ẩm tà đọng ở Phế thường có chứng ho suyễn, khạc đờm có nhiều bọt trắng. Ẩm tà ở dưới hông sườn thì h ông sườn trướng đau, khi ho thì đau tăng. Ẩm tà ứ đọng ở Bàng quang thì bụng dưới căng cứng hoặc chướng đầy, tiểu tiện không thông... Đồng thời, còn căn c ứ vào các đặc điểm của bệnh như dương hư âm thịnh, hoặc bản hư tiêu thực, linh hoạt nắm vững hư hay thực, hoãn hay cấp, khi biệ n chứng mới xác đáng. Về phương diện điều tr ị, sách ‘Kim Quĩ Yếu Lược’ có nêu ra các phương pháp: tuyên tán, lợ i thủ y, trục thủy và ôn hóa khác nhau, và đề ra
  5. nguyên tắc "Bệnh đàm ẩ m, nên dùng thuốc ấm để hòa". Đó là do ẩm là dương tà, gặp lạ nh thì tụ, được ấm thì lưu thông, dù dùng thuốc tuyên tán, lợi thủy hay trục ẩm đều phải chú ý đến việc ôn hóa. Nếu nghiêng về dương hư, phải lấy kiện Tỳ ôn Thận làm chủ yế u, để củng cố gốc. Triệu Chứng Trên lâm sàng thường gặp các loại sau: Ẩm Tà Hại Phế Chứng: Ho suyễn, ngực đầ y, thậm chí không nằm được, đờ m nhiều, gặp thời tiết lạnh thì bệ nh tăng. Thoạt tiên có thể có biểu chứng: sốt, sợ lạnh, cơ thể đau, dần dà vùng mặt bị phù thũng nhẹ, lưỡi nhạt, mạch Huyền Khẩ n. Biện Chứng: Do ẩ m tà tích ở Phế, Phế khí không tuyên giáng, làm cho ho và ngực đầ y, không nằm được, đờ m nhiều. Thủy theo khí đưa lên làm cho phù thũng vùng mặt. Rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Huyền Khẩn là dấu hiệu hàn ẩ m thịnh ở trong. Điều tr ị: Ôn phế, hóa ẩ m, bình suyễn, chỉ khái.
  6. Chủ yếu dùng Ôn Phế Hóa Ẩm Thang (tức Tiểu Thanh Long Thang) gia giảm. Bài này vừa ôn Phế hóa ẩm, vừa biểu tán phong hàn, thích hợp với chứng do Hàn ở bên ngoài dẫn đến nội ẩm. Nếu ẩm tà lâu ngày uất lại hóa nhiệt, có thêm chứng dưới Tâm cứng đầy, sắc mặt sạ m, phiền khát mà uống nước không nhiều, rêu lưỡi vàng hoặc trắng vàng lẫn lộn. Mạch Trầm Khẩn, nên cần phải hành thủy, tán kết, thanh nhiệt, bổ hư, dùng Mộc Phòng Kỷ Thang gia giả m. Trong bài dùng cả hai vị Phòng Kỷ và Quế chi vừa hành thủy vừa làm tan khí kết, có thể tiêu được bỉ rắn ở d ưới Tâm; Thạch cao để thanh uất nhiệt, Nhân sâm để bổ hư phù chính. Sau khi uống thuốc, nếu dưới Tâm vẫn đầy, bỏ Thạch cao thêm Bạch linh, Mang tiêu để thông thủy, tán kết. Ẩm Ứ Đọng Ở Ngực Sườn. Chứng: Ngực sườn chướng đau, khi ho thì đau tăng, xoay mình và hít thở cũng đau, đôi khi hơi thở ngắn, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền. Biện chứng: Ngực sườn là con đường thăng giáng của khí cơ, nếu ẩm ứ đọng ở ngực sườn, cản trở lưu thông đường thở gây nên đau ngực và khó xoay chuyể n. Thủ y ẩm dồn ngược lên Phế do đó ho và ngắn hơi, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền là triệu chứng thủy ẩm ứ đọng trong cơ thể.
  7. Điều tr ị: Công trục thủy ẩm. Dùng bài Thập Táo Thang gia giảm. Phương này trục ẩ m hạ mạnh, chỉ được dùng khi ẩ m tà ủng thực mà chính khí chưa suy. Trong bài có Cam toại, Nguyên hoa, Đại kích, trục thủy mạnh, liều lượng nên dùng vừa phải. Nếu bệnh ở loại chính hư tà thực, có thể dùng Đình Lịch Đạ i Táo Tả Phế Thang hợp với Tam Tử Thang gia giả m. Ẩm Ứ đọng ở Trường Vị Chứng: Hình thể gầ y ố m, ăn uống kém, trong dạ dầ y có tiếng nước óc ách hoặc sôi, tiêu lỏng, sợ lạnh, nhất là vùng lưng, đôi khi chóng mặt, hoa mắt, hồi hộp, ngắn hơi, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Hoạt. - Biện chứng: Tỳ Vị kiện vận mất chức năng cho nên ăn uống sút kém, thủy cốc không hóa ra chất tinh vi để nuôi dưỡng cơ thể c ho nên gầy còm. Thủy ẩ m đọng ở trong dạ dày hoặc chả y xuống ruột, không chuyển hóa được, uống vào dễ mửa hoặc bụng óc ách, sôi, tiêu lỏng. Thanh dương b ị ẩm tà ngăn trở không phát huy được, cho nên sợ lạnh, chóng mặt, hoa mắt. Thủy ẩm tràn lên Tâm Phế, làm cho hồi hộp, ngắn hơi; Rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Hoạt là hiện tượng hàn ẩm ứ đọng. Điều tr ị: Ôn dương, lợi thủy.
  8. Dùng bài Linh Quế Truật Cam Thang để lợi ẩm và ôn Tỳ d ương. Trong bài có Phục linh vị đạm, có tác dụng thấ m dẫn nước chảy xuống dưới; Quế, Cam thảo để ôn dương hóa khí; Bạch truật kiện Tỳ trừ thấp. Nếu nôn mửa, chóng mặt, thêm Bán hạ, Sinh khương đế hòa Vị, giáng nghịch. Dương hư nặng, có thể dùng thêm Can khương, Nhục quế để lấy tân ôn trợ d ương, hiệu quả càng nhanh. Bệnh tình khá nặng có triệu chứng vùng bụng chướng đầy, sôi bụng, táo bón, miệng khô, lưỡi ráo, rêu lưỡ i trắng nhớt hoặc vàng tro, mạch Trầm Huyền, đó là ẩ m tà đọng ở Trường Vị lâu ngày hóa nhiệt, điều trị theo phép lợi thủy, trục ẩm, dùn g bài Kỷ Tiêu Lịch Hoàng Hoàn gồ m những vị cay đắng, có tác dụng tuyên tiết để tiêu thủy. Có đằng trước và đằng sau khiến thủy ẩm bài tiết theo đường đại, tiểu tiện. Ẩm Tà Ứ Đọng Ở Bàng Quang Chứng: Bụng dưới chướng đầy, tiểu tiện không thông, chóng mặt, hoa mắt, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Hoạt. Biện chứng: Ẩm tà ứ đọng ở Bàng quang, khí hóa không lợi cho nên bụng dưới chướng đầ y mà tiểu ít. Nước tràn lên trên thì gây nên chóng mặt,
  9. hoa mắt. Rêu lưỡi trắng, mạch Huyền Hoạt đều là chứng hậu của thủy ẩ m ứ đọn g. Điều tr ị: Hóa khí, hành thủy. Phương dược 1: Dùng bài Ngũ Linh Tán. Trong bài có Quế chi, Bạch truật để ôn dương hóa khí; Phục linh, Trư linh, Trạch tả để đưa nước chảy xuống, đồng thời có công hóa khí hành thủy. Nếu bụng dưới co cứng cảm giác lạnh, suyễn, hơi thở ngắn, ớn lạnh, chân tay lạnh, lưỡi bệu mà nhuận, mạch Trầm Tế là chứng hậu của Thận dương hư suy, nên tăng cường sức ôn Thận, hóa ẩm. Dùng bài Ngũ Linh Tán có thể thêm Phụ tử, Nhục quế. Nếu bệnh nhẹ c ó thể dùng bài Thận Khí Hoàn điều trị tiếp tục. Chứng Dật Ẩm ghi trong sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ thì chứng trạng chủ yếu là đau nhức nặng nề toàn thân. Thậ m chí chân tay phù thũng, căn cứ vào đó, có thể xếp Dật ẩm thuộc phạm vi thủy thũng. Sách ‘Y Tông Kim Giám’ cũng ghi: "Dật ẩm tức ngày nay gọi là phong thủy, bì thủy", đó là lý do không giớ i thiệu Dật ẩ m trong ẩm chứng ở đây nhưng lạ i có ảnh hưởng đến nhau.
  10. Tóm lại, ẩm chứng thuộc loạ i dương hư âm thịnh, ‘bản’ hư mà "tiêu' thực. ‘Bản’ thuộc Tỳ Thận dương hư không vận hóa được chất tinh vi, ‘Tiêu' là thủy ẩ m ứ đọng. Còn kiện Tỳ ôn Thận là phép chính trị, đợ i khi thủy ẩm tạm ổn, rêu lưỡi hóa dần, mạch chuyển Hư Nhược, vẫn cần phải ôn bổ Tỳ Thận, phù chính đã làm bền gốc để củng cố về sau: Đồng thời chú ý phòng ngừa ngoạ i tà xâm phạm, hạn chế rượu, thuốc và thức có mỡ, kết quả điều trị càng được nâng cao. Y ÁN ĐÀM ẨM (Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư) I) Bệnh nhân: Chu x x, nam giới, 50 tuổi. Từ ngoạ i cảm phong hàn dẫn đến ẩm chứng, Phế khí không tuyên thông, lạ i sinh ra ho và thở gấp, ngực khó chịu, ớn lạnh, rêu lưỡi mỏng nhớt, mạch Hoạt. Chữa theo bệnh Đàm ẩm trong sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ là điều hòa bằng thuốc ấm. Dùng bài Quế Chi Gia Hậu Phác Hạnh Nhân Thang (Quế chi 6g, Cam thảo 2g, Hậu phác 6g, Hạnh nhân 12g, Phục linh 12g, Tô tử 20g, Bạch truật 12g, Viễn chí (chích) 4g, Lai phục tử 8g, Toàn phúc hoa 12g, Trần bì 4g, Bán hạ 8g, Nga quản thạch 12g (nung).
  11. Khám lần 2: Uống 2 đơn thang trên, các chứng đều giảm. Khám lần 3: Dùng đơn cũ, bỏ Tuyền phúc hoa thêm Bạch truật 20g, Bổ cốt chi (sao) 20g. 2) Bệnh nhân: Du X, nam, 56 tuổi. Khám lần đầu: Phong hàn bó chặt ở ngoài, đờm ẩ m tụ ở trong, Phế bị vít lấ p mấ t sự túc giáng, phát cơn ho thở suyễn suốt ngày đêm không nằm được, cơ thể lạnh, sợ lạnh, kém ăn, muốn nôn, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Phù Huyền Hoạt. Dùng Tiểu Thanh Long Thang gia giảm để sơ giả i ngoại tà, ôn hóa đàm ẩm: Ma hoàng (chích) 1,6g, Quế chi 3,2g, Phục linh 12g, Khương bán hạ 8g, Can khương 1,6g, Ngũ vị tử 1,6g, Tô tử 8g, Hạnh nhân 12g, Nga quản thạch 12g, Thục phụ phiến 4g. Kết hợp với Háo Suyễn Tử Kim Đan 2 viên (nuốt). Khám lần 2: Uống 2 đơn thang trên, ho suyễn thở ban ngày giảm rõ rệt, ban đêm bệnh vẫn y nguyên, tiếp tục uống đơn trước. Khám lần 3: Ho suyễn thở ban đêm cũng giảm nhẹ, hết muốn nôn. Nhưng quá trình bị đàm ẩm quá lâu, không thể chuyển hóa hết ngay; Tỳ là
  12. nguồn sinh ra đờm - Phế là nơi chứa đờm, cần lý Tỳ, túc Phế, ôn hóa đàm ẩm. Dùng đơn cũ, thêm Bạch truật 20g, Bổ cốt chi (sao) 20g. -Nhận xét: Hai bệnh án trên đề u do ẩm tà ràng buộc ở Phế, nhưng bệnh có nặng, nhẹ , nên dùng thuốc cũng khác nhau. Trường hợp nhẹ là ẩm tà chưa thịnh, ho suyễn không nặng lắm, bệnh nhẹ mà dễ chữa. Trường hợp nặng là hàn ẩm khá thịnh, ho suyễn không nằm được, bệnh nặng mà khó khỏi, cho nên dùng thuốc ôn Phế hóa ẩ m liều cao để bình suyễn, chữa ho. Đó là điều cần phân biệt so sánh. 3) Bệnh nhân: Mạnh X, nam, 63 tuổ i. Khám lầ n đầu: Ho suyễn đã hơn 10 năm, gặp ngoại cảm bệnh tăng, ngực khó chịu, kém ăn, rêu lưỡ i vàng sạ m, mạch Huyền Hoạt. Bệnh nhân nghiện rượu, tửu thấp sinh đàm tụ ẩm, thấm vào Phế gây nên ho; Phế bị bệnh liên lụ y đến Thận, Thận khí mất chức năng thu nạp gây nên suyễn. Rõ ràng là xuất hiện trên thực dưới hư. Điều trị cần mở lối thượng tiêu, để tuyên Phế khí, kiện vận Tỳ Vị kiêm cả nạp Thận khí. Dùng Ma hoàng (chích) 4g, Hạnh nhân 12g, Tang bạch bì 20g, Tô tử 12g, Bối mẫ u 12g, Quất hồng 4g, Hải phù thạch 16g, Phục linh 12g, Bổ cốt chỉ (sao) 20g, Hồ đào nhục 2 quả.
  13. Khám lầ n 2: Sau khi uống 3 thang, ho suyễn đều giảm. Tiếp tục uố ng đơn cũ. Khám lần 3: Ho suyễn đã giả m, ăn thấy ngon, Phế khí đã giáng xuống, Vị có dấu hiệu tỉnh táo, tà khí mới tuy đã rút lui, nhưng ẩm tà chứa chấp lâu ngày khó biến hóa, hơn nữa lạ i cao tuổi, sự nhiếp nạp của Thận cũng kém, cho nên rất dễ thăng lên, nên dùng phương pháp kiện Tỳ hóa đàm, túc Phế, nạp Thận. Dùng Nam sa sâm 12g, Tô tử 12g, Hạnh nhân 12g, Phục linh 12g, Viễn chí 6g, Toàn phúc hoa 12g, Quất hồng 4g, Hải phù thạch 16g, Bổ cốt chi 20g, Hồ đào nhục 2 quả. 4) Bệnh nhân: Trương X, nữ, 21 tuổ i. Đau ngực và ho suyễn đã hơn 10 năm, về chiều phát sốt, khạc ra đờm dính. Sau khi vào viện, nhiệt độ 38 – 390C, X quang kết luận là ‘Tràn d ịch màng Phổi’, đã hai lần rút nước nhưng bệnh không giảm rõ rệt. Chuyển sang điều trị Đông y. Người bệnh ho suyễn lan tỏa ngực sườn, mạch Hoạt Thực. Chẩn đoán: Nước tích đọng ở ngực sườn thuộc chứng Huyền ẩm. Phép trị: Trục thủy theo phép hạ mạnh, cho uống Thập Táo Thang. Sau khi uống một thang, tiêu ra nước khoảng 2 ống nhỏ, ho suyễn giảm dần,
  14. thể ôn giả m, ăn uống tăng. Cách ba ngày sau lại cho uống thêm một thang nữa, lại tiêu ra nước rất nhiều, các chứng trạng tiêu hết. Nhận xét: Hai bệnh án trên, bị ho suyễn hơn 10 năm, bệnh dai dẳng không dứt. Bệnh án họ Mạnh do tà lưu ở Phế gây nên chứng Chi ẩ m, trên thực dưới hư, đàm ẩm hóa nhiệt, cho nên dùng phép tuyên Phế, nạp Thận (khác với bệnh án họ Chu và Du). Bệnh án sau cùng do chứng ẩm đọng ở ngực sườn, thuộc thực chứng, cho nên dùng phương pháp trục thủy, xổ mạnh. Sau khi triệu chứng cơ bản đã hết, vẫn nên tiếp tục điều tr ị theo cách phù chính, hóa ẩm như dùng các bài ‘Linh Quế Truật Cam Thang’, ‘Nhị Trần Thang’ thêm Đảng sâm, Hoàng kỳ... để củng cố kết quả, phòng ngừa tái phát.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2