Đề bài: Bình luận hai câu thơ: “Ví đây đổi phận làm trai được, Thì sự anh hùng há <br />
bấy nhiêu?” (Đề đền Sầm Nghi Đống Hồ Xuân Hương)<br />
Bài làm<br />
Thế kỉ XIX, trên thi đàn Việt Nam xuất hiện những nữ sĩ tài ba như Bà Huyện Thanh <br />
Quan, Hồ Xuân Hương,... Nữ sĩ Hồ Xuân Hương chiếm một địa vị vẻ vang, được nhà thơ <br />
Xuân Diệu ngợi ca là "bà chúa thơ Nôm ". Bà để lại trên dưới 50 bài thơ thất ngôn tứ <br />
tuyệt và thất ngôn bát cú. Thơ trữ tình cũng như thơ trào phúng của bà độc đáo hóm hỉnh, <br />
sâu sắc vô cùng.<br />
“Đề đền Sầm Nghi Đống", bài thơ tứ tuyệt, đề tài nhỏ mà đa nghĩa, tiêu biểu cho phong <br />
cách thơ Hồ Xuân Hương. Hai câu cuối của bài thơ, bà đã viết:<br />
... “Ví đây đổi phận làm trai được,<br />
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?"<br />
Sầm Nghi Đống là một võ tướng của nhà Thanh, cùng Tôn Sĩ Nghị mang 29 vạn quân <br />
sang xâm lược nước ta. Chúng đã bị vua Quang Trung đánh cho bại trận Sầm Nghi Đống <br />
thất trận, cùng kế phải thắt cổ tự tử. Hắn được Hoa kiều lập đền thờ ở một hẻm của <br />
kinh thành Thăng Long. Nếu như hai câu thơ đầu, nữ sĩ tả ngôi đền và nói lên sự khinh <br />
miệt của mình thì hai câu cuối, bà nêu lên một giả định so sánh để bình giá “cái sự anh <br />
hùng", cái nhân cách quá tầm thường của tên tướng Thiên triều bại trận. Ý thơ còn biểu <br />
lộ một khát vọng về quyền nam nữ bình đẳng của người đàn bà nước Nam.<br />
Xã hội phong kiến, nhất là bọn vua quan rất coi thường phụ nữ. Thế mà Hồ Xuân Hương <br />
lại đem chính mình ra so sánh với quan Thái thú phương Bắc, bĩu môi bình giá "cái sự anh <br />
hùng" của tên tướng Thiên triều là một lối nói giễu cợt, mỉa mai, coi thường. “Đây" là đại <br />
từ nhân xưng để trỏ, chỉ dùng trong mối quan hệ thân tình hoặc coi thường. "Cái sự anh <br />
hùng" của kẻ đang được Hoa kiều thờ cúng trong ngôi đền ấy thực ra tài năng không bằng <br />
một người đàn bà (trong xã hội trọng nam khinh nữ)! Nữ sĩ đã tạo nên một ý thơ sắc <br />
nhọn, bằng lối nói giả định so sánh để bình giá và đã lột trần chân tướng và giá trị thật <br />
của Sầm Nghi Đống.<br />
Câu hỏi tu từ với ba tiếng "há bấy nhiêu" cho thấy bà đã bĩu môi châm biếm nhân cách <br />
tầm thường, cách ứng xử đê hèn của một viên tướng trong vòng tên đạn, gươm giáo. Anh <br />
hùng thì phải mưu lược, quả cảm, võ công lừng lẫy, có chết trong trận mạc thì cũng <br />
được "bọc thây da ngựa" lưu lại tiếng thơm muôn đời. Anh hùng vì nghĩa, vì nước, vì dân, <br />
"Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha" (Truyện Kiều). Trái lại, hành động của quan <br />
Thái thú là đem quân đi ăn cướp nước người, lúc bị quân ta đánh cho tơi bời, lúc sa cơ hắn <br />
lại treo cổ tự tử! Viên bại tướng với cái chết nhục nhã không đáng mặt nam nhi, không có <br />
một chút gì đáng gọi là "sự anh hùng" cả!<br />
Hai câu thơ phản ánh một tâm thế đàng hoàng, tự tin về tài năng, phẩm hạnh của mình, <br />
của giới mình, của người đàn bà Việt Nam. Ta đã biết Hồ Xuân Hương từng có thái độ <br />
"bất kính", coi thường các bậc hiền nhân quân tử, giới mày râu trong xã hội phong kiến. <br />
Bà chế giễu, châm biếm bộ mặt đạo đức giả của họ. Nữ sĩ mỉm cười hỏi viên hoạn quan <br />
"Đem cái xuân tình vía bỏ đâu?", đả kích bọn công tử dốt nát mà lại ngông nghênh, chẳng <br />
khác gì "Ong non ngứa nọc châm hoa rữa / Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa", hoặc báng <br />
bổ lối tu hành của các nhà sư hổ mang:<br />
"Oản dâng trước mặt năm ba phẩm,<br />
Vãi nấp sau lưng sáu, bảy bà",...<br />
Nhà thơ đã góp một giọng thơ trào phúng, để lại một bức biếm họa thần tình, lột tả bộ <br />
mặt xấu xa, tàn ác, bất tài của bọn Thái thú "Thiên triều " có nhiều tội ác đẫm máu đối <br />
với dân tộc ta. Cái đền thờ Sầm Nghi Đống mãi mãi là một vết nhơ cho tất cả bọn chúng.<br />
Ý thơ biểu thị một lập trường dân tộc, một ý thức dân tộc. Nữ sĩ tuy không thể "đổi phận <br />
làm trai được", nhưng lịch sử chống xâm lăng của nhân dân ta, những gương sáng của Hai <br />
Bà Trưng, của Lê Chân, của Bà Triệu,... đã tạo nên cảm hứng tự hào để nữ sĩ xuất khẩu <br />
thành những vần thơ bất hủ ấy! Hai câu thơ, qua hình thức nghệ thuật cảm thán (mỉa <br />
mai) và câu hỏi tu từ (hỏi để bình giá) đã biểu lộ một khát vọng về bình đẳng nam nữ, về <br />
quyền sống của "phận gái" muốn được thi thố tài năng, đức hạnh với đời. vẻ đẹp nhân <br />
văn tiềm ẩn, lấp lánh trong hai câu thơ đặc sắc ấy.<br />
Ngoài ra, người đọc còn lấy làm thú vị trước một giọng điệu thơ ca đặc sắc, tài ba của <br />
"Bà chúa thơ Nôm". Bút pháp của nữ sĩ đã làm cho thơ thất ngôn Đường luật được Việt <br />
hóa cao độ. Học tập nghệ thuật trào phúng của thơ ca dân gian, bà đã sáng tạo nên những <br />
vần thơ mộc mạc, bình dị mà đa nghĩa, sắc sảo, biểu lộ một cá tính sáng tạo, một phong <br />
cách thơ rất “Hồ Xuân Hương”.<br />
Tóm lại, hai câu thơ "Ví đây đổi phận..." có một giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao. Nó <br />
không chỉ chế giễu bọn Thái thú phương Bắc sang xâm lược và đô hộ nước ta mà còn thể <br />
hiện một ý thức tự tôn dân tộc, một khát vọng về quyền bình đẳng nam nữ. Đọc những <br />
vần thơ ấy, ta cảm nhận được một phần nào ngôn ngữ thơ ca, vẻ đẹp tâm hồn của nữ sĩ <br />
Hồ Xuân Hương.<br />