Bình luận một số quy định về thủ tục rút gọn trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
lượt xem 4
download
Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2015 đã được Quốc hội khoá 13 ban hành ngày 25/11/2015 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, trừ một số quy định liên quan đến Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017. Bài viết nêu một số điểm hạn chế trong quy định về TTRG của Bộ luật TTDS năm 2015.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bình luận một số quy định về thủ tục rút gọn trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT BÒNH LUÊÅN MÖÅT SÖË QUY ÀÕNH VÏÌ THUÃ TUÅC RUÁT GOÅN TRONG BÖÅ LUÊÅT TÖË TUÅNG DÊN SÛÅ NÙM 2015* Nguyễn Thị Hồng Nhung** ** TS. Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật. Thông tin bài viết: Tóm tắt: Từ khóa: thủ tục rút gọn, Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2015 đã được Quốc hội khoá 13 ban điều kiện áp dụng, khiếu nại, hành ngày 25/11/2015 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, trừ một số quy định kiến nghị liên quan đến Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017. Việc đưa những quy định về thủ tục rút gọn (TTRG) vào Bộ luật Lịch sử bài viết: TTDS năm 2015 là phù hợp với xu hướng chung của thế giới trong việc rút ngắn thời gian giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trong dân sự, bảo vệ kịp Nhận bài: 24/08/2016 thời các lợi ích chính đáng, từ đó giúp phát triển giao thương kinh tế và duy Biên tập: 16/09/2016 trì ổn định trật tự xã hội. Tuy nhiên, cũng giống như TTRG trong tố tụng Duyệt bài: 24/10/2016 hình sự, các thẩm phán vẫn chưa mặn mà lắm với thủ tục này trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Bài viết nêu một số điểm hạn chế trong quy định về TTRG của Bộ luật TTDS năm 2015. Article Infomation: Abstract: Keywords: shortcut The Civil Procedure Code of 2015 was enacted on 25 November 2015 by procedure, condition of the National Assembly of promotion 13 and came into force on 1st July 2016, application, complain, except some provisions related to the Civil Code of 2015 which will come request. into force from 1st January 2017. The regconition of the shortcut procedure in the Civil Procedure Code of 2015 complies with the common trend of the Article History: world in shortening the time for resolution of civil cases, in order to protect Received: 24 Aug. 2016 well legal interests for the development of economics and the stability of the Edited: 16 Sep. 2016 society. However, like the shortcut procedure in the penal procedure, judges in Viet Nam still ignore this shortcut procedure in resolution of civil cases. Approved: 24 Oct. 2016 This article points out some limitations in this procedure according to the Civil Procedure Code of 2015. 1. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015 không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; các quy định các điều kiện để tòa án giải quyết đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ vụ án dân sự theo TTRG. Theo đó, tòa án sẽ ràng; không có đương sự cư trú ở nước giải quyết theo TTRG nếu hội đủ các điều ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ kiện sau: vụ án có tình tiết đơn giản, quan trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm giải quyết theo TTRG hoặc các đương sự đã * Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Kinh tế - Luật (VNU-HCM) trong đề tài mã số: CS/2016-11. NGHIÏN CÛÁU 42 LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu thông qua các điều kiện tiếp theo sau trong hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất Điều 317 Bộ luật TTDS năm 2015. về việc xử lý tài sản. Liên quan đến các điều Thứ hai, về điều kiện đương sự đã kiện áp dụng TTRG, chúng tôi thấy nổi lên thừa nhận nghĩa vụ. những vấn đề như sau: Điều kiện này có thể được hiểu là Thứ nhất, về điều kiện vụ án có tình nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng. nghĩa vụ liên quan đều không phủ nhận Đây là điều kiện mang tính chất định nghĩa vụ của mình đối với nhau, để từ đó có tính, phụ thuộc rất nhiều vào sự phán xét chủ thể giúp thẩm phán thấy được sự đơn giản quan của thẩm phán. Vậy như thế nào là một trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ “vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp án. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là thừa nhận luật rõ ràng” để từ đó thẩm phán có thể vận toàn bộ nghĩa vụ hay chỉ cần thừa nhận dụng tốt nhất quy định này? Theo chúng tôi, nghĩa vụ cơ bản? đó là những vụ án mà thẩm phán có thể xác Ví dụ, trong vụ án tranh chấp về đòi định một cách dễ dàng sự thật khách quan nhà cho thuê, bên thuê đã thừa nhận mình và đánh giá dễ dàng các chứng cứ, từ đó có có thuê nhà từ bên cho thuê, nghĩa vụ phải thể đưa ra kết luận một cách thuận lợi. trả lại nhà cho bên cho thuê, nghĩa vụ bồi Tuy nhiên, dù hiểu theo cách này hay thường thiệt hại do gây hư hỏng nhà, nhưng cách khác thì để phán xét tính chất đơn giản lại không đồng ý số tiền bồi thường mà bên hay phức tạp của vụ án, thẩm phán cũng kia yêu cầu. Vấn đề đặt ra là trong trường phải dựa trên những dấu hiệu nhất định. Ví hợp này, đương sự có được xem là đã thừa dụ, tranh chấp về một hợp đồng vay tài sản nhận nghĩa vụ hay không? Có hai quan điểm mà trong đó các bên đã có hợp đồng vay cụ xoay quanh khi bàn luận về nội dung này. thể, tài sản đã được trao cho bên vay đúng Quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu nói đương hạn, đúng số lượng và có bằng chứng xác sự đã thừa nhận nghĩa vụ thì nghĩa vụ ở đây thực về những vấn đề đó như hợp đồng vay, phải được hiểu là toàn bộ nghĩa vụ, trong đó giấy tờ xác nhận bên cho vay đã giao tài sản có nghĩa vụ trả lại nhà thuê và bồi thường cho bên vay. Để xác định đây là vụ án đơn thiệt hại theo đúng số tiền mà bên cho thuê giản hay không, liệu chúng ta có thể dựa trên đã yêu cầu. Nếu hiểu theo cách này thì các dấu hiệu như bản chất rõ ràng của mối trường hợp ví dụ nêu trên không thoả mãn quan hệ dân sự (đây là quan hệ vay tài sản), điều kiện để áp dụng TTRG. Trong khi đó, số lượng đương sự liên quan (chỉ có nguyên quan điểm thứ hai lại cho rằng, chỉ cần thừa đơn - người cho vay, và bị đơn - người vay), nhận nghĩa vụ cơ bản, đó là nghĩa vụ trả lại bị đơn đã thừa nhận hành vi nhận tiền và nhà thuê và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, thừa nhận nghĩa vụ trả tiền, chứng cứ rõ mà không xét đến yếu tố số tiền bồi thường ràng (hợp đồng vay, biên bản giao nhận tiền thiệt hại đã được đương sự thừa nhận hay có chữ ký của các bên), các bên đều có địa chưa. Số tiền bồi thường cụ thể như thế nào chỉ liên lạc rõ ràng…? Nếu đánh giá tính sẽ do tòa án quyết định. Nếu hiểu theo cách chất của vụ án dân sự theo cách trên, vô hình này thì vụ án trên thỏa mãn được điều kiện trung, chúng ta đã đề cập đến các dấu hiệu về “đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ”1. khác cũng là điều kiện để áp dụng TTRG. Thứ ba, về điều kiện các đương sự đều Do đó, chúng tôi cho rằng điều kiện “vụ án có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng. có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ Địa chỉ nơi cư trú của cá nhân và trụ ràng” không phải là một dấu hiệu tốt để sở của pháp nhân được quy định rõ trong các nhận dạng tính đơn giản của vụ án, mà chỉ văn bản pháp luật. Cụ thể, nơi cư trú của cá có thể đánh giá tính đơn giản của vụ án nhân được quy định trong BLDS năm 2015 1 Xem: Phạm Thị Hồng Đào (Văn phòng luật sư Thạnh Hưng), Thủ tục rút gọn theo quy định Bộ luật TTDS năm 2015, đăng ngày 21/6/2016, http://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1986. NGHIÏN CÛÁU Söë 06(334) T3/2017 LÊÅP PHAÁP 43
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT và Luật Cư trú năm 2006 sửa đổi, bổ sung kiện tiếp tục giải quyết vụ án theo TTRG? năm 2013; còn địa chỉ trụ sở của pháp nhân Theo khoản 2 Điều 317 Bộ luật TTDS năm cũng được quy định trong BLDS năm 2015 2015, đối với vụ án lao động đã được thụ lý, và Luật Doanh nghiệp năm 2014. giải quyết theo TTRG mà người sử dụng lao Theo Điều 40 BLDS năm 2015, nơi động có quốc tịch nước ngoài hoặc người cư trú của cá nhân là nơi người đó thường đại diện theo pháp luật của họ đã rời khỏi xuyên sinh sống. Trường hợp không xác địa chỉ nơi cư trú, nơi có trụ sở mà không định được nơi cư trú của cá nhân theo quy thông báo cho đương sự khác, Tòa án thì bị định này thì nơi cư trú của cá nhân là nơi coi là trường hợp cố tình giấu địa chỉ, và như người đó đang sinh sống. Trong khi đó, vậy Tòa án vẫn giải quyết vụ án đó theo khoản 1 Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 sửa TTRG. Quy định này có thể dẫn đến hai đổi, bổ sung năm 2013 cũng quy định nơi cư cách hiểu khác nhau. trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà Với cách thứ nhất, từ quy định trên, người đó thường xuyên sinh sống. Đó là nơi chúng ta có thể suy ngược lại rằng đối với thường trú hoặc nơi tạm trú. Nơi thường trú các vụ án khác, không phải vụ án lao động, là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn khi đương sự rời khỏi địa chỉ nơi cư trú, nơi định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất có trụ sở mà không thông báo thì tòa án định và đã đăng ký thường trú. Còn nơi tạm không giải quyết vụ án này theo TTRG nữa. trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng Nói cách khác, tòa án sẽ chuyển vụ án sang ký thường trú và đã đăng ký tạm trú. Trong giải quyết theo thủ tục thông thường. Tuy trường hợp không xác định được nơi cư trú nhiên, nếu hiểu theo cách này thì sẽ mâu của công dân theo quy định trên thì nơi cư thuẫn với khoản 3 của cùng điều luật, bởi lẽ, trú của công dân là nơi người đó đang sinh theo quy định tại khoản 3 thì việc đương sự sống. Như vậy, với tính chất là luật riêng, rời khỏi địa chỉ nơi cư trú không nằm trong Luật Cư trú đã làm rõ khái niệm nơi cư trú các điều kiện xuất hiện tình tiết mới để Toà của công dân là cá nhân được nhắc đến án quyết định chuyển vụ án từ TTRG sang trong BLDS và thống nhất về quan điểm cho thủ tục thông thường. rằng nếu không có nơi thường trú và tạm trú Còn đối với cách hiểu thứ hai, chúng thì nơi cư trú là nơi đang sinh sống. ta có thể áp dụng tương tự pháp luật cho các Đối với pháp nhân, địa chỉ trụ sở của vụ án khác, không phải vụ án lao động (Điều pháp nhân là địa chỉ nơi đặt cơ quan điều hành 45 Bộ luật TTDS năm 2015), nghĩa là Toà của pháp nhân (Điều 79 BLDS năm 2015). án sẽ vẫn giải quyết vụ án đó theo TTRG. Khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm Tuy nhiên, cách hiểu này cũng không hợp 2014 cũng đã khẳng định đây là địa chỉ thường lý, bởi lẽ, hiểu theo cách này thì các nhà lập trú của doanh nghiệp. Địa chỉ trụ sở này phải pháp không cần thiết kế riêng một ngoại lệ được pháp nhân đăng ký khi thành lập. như vậy cho các vụ án lao động như tại Như vậy, nếu căn cứ vào những quy khoản 2. định trên thì không khó khi xác định nơi cư Từ những phân tích trên, chúng tôi trú, trụ sở của đương sự về mặt nguyên tắc. cho rằng, vẫn chưa có cách nhìn nhận đúng Tuy nhiên, cần hiểu điều kiện về nơi cư trú, về điều kiện này, do vậy, cần sự hướng dẫn trụ sở “rõ ràng” theo hướng nào để có thể cụ thể hơn từ các nhà làm luật. giải quyết vụ án theo TTRG lại là điều cần Thứ tư, về việc chuyển vụ án từ TTRG phải bàn luận. Ví dụ, khi Toà án thụ lý vụ sang thủ tục thông thường. Khoản 3 Điều án, bị đơn có mặt tại nơi cư trú và nguyên 317 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định, nếu đơn đã cung cấp địa chỉ nơi cư trú của bị đơn xảy ra các trường hợp sau đây thì tòa án ra như đã biết cho Toà án. Nhưng sau đó, trong quyết định chuyển vụ án sang giải quyết quá trình chuẩn bị xét xử theo TTRG thì bị theo thủ tục thông thường: phát sinh tình tiết đơn đã rời khỏi nơi cư trú. Vậy trường hợp mới mà các đương sự không thống nhất do này có được xem là đương sự có nơi cư trú, đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, trụ sở “rõ ràng” hay không để thoả mãn điều chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định; NGHIÏN CÛÁU 44 LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh và yêu cầu phản tố hoặc độc lập, chúng tôi chấp mà các đương sự không thống nhất về đồng ý với ý kiến cho rằng, tự bản thân các giá; cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp trường hợp này không đương nhiên làm cho tạm thời; phát sinh người có quyền lợi, vụ án phức tạp hơn để chuyển sang giải nghĩa vụ liên quan; phát sinh yêu cầu phản quyết theo thủ tục thông thường2. Theo đó, tố hoặc yêu cầu độc lập; phát sinh đương sự nếu các đương sự vẫn thừa nhận nghĩa vụ cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở của họ đối với nhau, tài liệu chứng cứ rõ ràng nước ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập để Tòa án có thể tìm ra dễ dàng sự thật khách chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải thực quan và vẫn đáp ứng đầy đủ những điều kiện hiện ủy thác tư pháp. Tóm lại, theo điều luật để áp dụng TTRG thì vụ án vẫn không bị mất trên, đây là những tình tiết mới có thể làm đi tính chất đơn giản để Toà án có thể áp cho vụ án không còn đủ điều kiện để áp dụng TTRG và cho ra bản án trong thời gian dụng TTRG trong giải quyết vụ án dân sự sớm nhất nhằm giải quyết quyền lợi chính do mất đi tính chất đơn giản của vụ án. đáng và cấp thiết của đương sự. Về vấn đề này, chúng tôi đồng ý với Nói tóm lại, các nhà làm luật nên cho quan điểm của nhà lập pháp đối với các phép Tòa án tự phán xét độ phức tạp của các trường hợp phát sinh tình tiết mới làm mất tình tiết mới xuất hiện để quyết định chuyển đi điều kiện để áp dụng TTRG, ngoại trừ ba vụ án sang thủ tục thông thường mà không điều kiện liên quan đến biện pháp khẩn cấp quy định sẵn 03 trường hợp trên, như điều tạm thời; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên kiện hiển nhiên làm tăng độ phức tạp của quan và yêu cầu phản tố hoặc độc lập. tình tiết vụ án. Theo quy định tại Điều 111 Bộ luật 2. Khiếu nại, kiến nghị về quyết định TTDS năm 2015, đương sự, người đại diện không xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân Trong Phần thứ tư của Bộ luật TTDS khởi kiện có quyền yêu cầu tòa án áp dụng năm 2015 quy định về TTRG, chúng ta chỉ một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể tìm thấy một điều luật duy nhất quy với mục đích giải quyết yêu cầu cấp bách định thủ tục về khiếu nại, kiến nghị và giải của đương sự nhằm bảo vệ tính mạng, sức quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa khoẻ, tài sản, chứng cứ và đảm bảo thi hành vụ án ra xét xử theo TTRG (Điều 319 Bộ án. Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm luật TTDS năm 2015). Điều này có nghĩa thời trước khi mở phiên tòa do một thẩm rằng, nếu đương sự, Viện kiểm sát không phán quyết định (Điều 112 Bộ luật TTDS đồng ý với quyết định đưa vụ án ra xét xử năm 2015) trong thời hạn 03 ngày làm việc theo TTRG của Tòa án thì được quyền khiếu kể từ khi nhận đơn (Điều 133 Bộ luật TTDS nại, kiến nghị với Chánh án Tòa án đã ra năm 2015). Pháp luật TTDS cũng quy định quyết định đó. Theo đó, trong thời hạn 03 những trường hợp khi yêu cầu áp dụng biện ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu pháp khẩn cấp tạm thời thì người yêu cầu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét phải thực hiện biện pháp bảo đảm để tránh xử theo TTRG, Chánh án Tòa án phải ra một sự lạm quyền (Điều 136 Bộ luật TTDS năm trong các quyết định, hoặc giữ nguyên quyết 2015). Vì thế, việc cần áp dụng biện pháp định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG, hoặc khẩn cấp tạm thời nếu xét về thủ tục hay bản hủy quyết định đưa vụ án ra xét xử theo chất không làm cho vụ án thêm phức tạp, TTRG và chuyển vụ án sang giải quyết theo hoặc làm kéo dài thêm thời gian giải quyết thủ tục thông thường. Quyết định giải quyết vụ án, và do vậy, không làm mất đi tính chất khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án là đơn giản của vụ án dân sự. quyết định cuối cùng và phải được gửi ngay Đối với hai trường hợp còn lại là xuất cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp. Nói hiện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cách khác, đương sự cũng như Viện kiểm sát 2 Xem: Phạm Thị Hồng Đào (Văn phòng luật sư Thạnh Hưng), Thủ tục rút gọn theo quy định của Bộ luật TTDS năm 2015, tlđd. NGHIÏN CÛÁU Söë 06(334) T3/2017 LÊÅP PHAÁP 45
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT không có quyền khiếu nại hay kiến nghị lần ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự thì hai lên cấp cao hơn. việc khiếu nại của đương sự mới thuộc phạm Có thể nhận thấy, đây là một điều vi điều chỉnh của Chương này. khoản về khiếu nại, kiến nghị dành riêng Như vậy, câu hỏi đặt ra trong trường cho TTRG với thủ tục giải quyết khiếu nại hợp này là liệu việc không áp dụng TTRG cũng rút gọn, khi chỉ quy định một thời gian để giải quyết vụ án dù vụ án đáp ứng đủ các rất ngắn để giải quyết (03 ngày kể từ ngày điều kiện để tiến hành giải quyết theo TTRG nhận được khiếu nại, kiến nghị). Tuy nhiên, có được xem là quyết định hay hành vi trái có một câu hỏi đặt ra là nếu một vụ án thỏa pháp luật của Tòa án nói chung và của thẩm mãn những điều kiện để áp dụng TTRG phán nói riêng hay không? Như đã bàn luận nhưng Tòa án lại không áp dụng để giải ở trên, các điều kiện để áp dụng TTRG mà quyết theo TTRG, thì liệu đương sự, Viện Bộ luật TTDS năm 2015 quy định phần kiểm sát có quyền khiếu nại hoặc kiến nghị nhiều mang tính chất định tính, do vậy, việc hay không? có áp dụng TTRG để giải quyết vụ án hay Theo khoản 2 Điều 316 Bộ luật TTDS không phụ thuộc rất nhiều vào sự phán xét năm 2015: “những quy định của Phần này của thẩm phán; khó có thể nói việc không được áp dụng để giải quyết vụ án theo giải quyết vụ án theo TTRG là trái pháp luật. TTRG; trường hợp không có quy định thì áp Như vậy, căn cứ vào những lập luận trên, dụng những quy định khác của Bộ luật này đương sự rất khó hoặc có thể nói là không để giải quyết vụ án”. Rải rác trong BLDS thể áp dụng những quy định tại Chương XLI năm 2015 là các điều luật quy định về khiếu Phần thứ mười của Bộ luật TTDS năm 2015 nại, kiến nghị đối với các quyết định và hành để thực hiện quyền khiếu nại của mình đối vi tố tụng của người, cơ quan tiến hành tố với việc Tòa án không xét xử vụ án theo tụng như Điều 140 về khiếu nại, kiến nghị TTRG. Bên cạnh đó, nếu vận dụng điều quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm khoản này để giải thích theo hướng chấp thời, Điều 194 về khiếu nại, kiến nghị việc nhận quyền khiếu nại của đương sự thì vô trả lại đơn khởi kiện… Tuy nhiên, những hình trung chúng ta đã bỏ qua quyền kiến điều luật như vậy chỉ quy định về việc khiếu nghị của Viện kiểm sát. nại, kiến nghị cho những trường hợp cụ thể Nói tóm lại, Bộ luật TTDS năm 2015 mà không áp dụng được cho TTRG. đã bỏ quên quyền khiếu nại và kiến nghị của Bên cạnh đó, Điều 499 Bộ luật TTDS đương sự, Viện kiểm sát đối với việc Tòa án năm 2015, mở đầu cho Chương XLI về khiếu nại, tố cáo trong TTDS nằm trong không áp dụng TTRG trong giải quyết các Phần thứ mười của Bộ luật TTDS năm 2015 vụ án dân sự nếu đương sự, Viện kiểm sát quy định rằng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có cho rằng vụ án đó đáp ứng đủ điều kiện để quyền khiếu nại quyết định, hành vi trong tiến hành xét xử theo TTRG. Theo chúng tôi, TTDS của cơ quan, người tiến hành TTDS việc bỏ ngỏ quy định về quyền khiếu nại, khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi kiến nghị nêu trên, kèm theo những quy định đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi về điều kiện áp dụng TTRG còn nhiều tranh ích hợp pháp của mình. Đối với bản án, cãi là một trong những nguyên nhân khiến quyết định sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc các thẩm phán không “nhiệt tình” với việc thẩm, tái thẩm của Tòa án nếu có kháng cáo, áp dụng TTRG trong xét xử. Thiết nghĩ, cần kháng nghị và các quyết định tố tụng khác có những hướng dẫn cụ thể giải quyết những do người tiến hành TTDS ban hành nếu có khiếu nại, kiến nghị thì không giải quyết theo vấn đề này để TTRG trở nên phổ biến, thực quy định tại Chương này mà được giải quyết sự đi vào đời sống nhằm hiện thực hoá “ý theo quy định của các chương tương ứng của đồ” của các nhà làm luật khi xây dựng TTRG Bộ luật TTDS. Nói cách khác, chỉ khi các - một trong những giải pháp để giảm tải cho quyết định hay hành vi tố tụng của cơ quan, Tòa án cũng như giải quyết nhanh chóng yêu người tiến hành tố tụng trái pháp luật, làm cầu chính đáng của người dân ■ NGHIÏN CÛÁU 46 LÊÅP PHAÁP Söë 06(334) T3/2017
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 5 - Đinh Văn Quế
256 p | 940 | 299
-
Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 6 - Đinh Văn Quế
228 p | 766 | 267
-
Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 3 - Đinh Văn Quế
172 p | 801 | 261
-
Bình luận khoa học bộ luật hình sự: Tập 7 - Đinh Văn Quế
312 p | 498 | 204
-
Bình luận một số quy định về hợp đồng lao động trong nội dung bộ Luật lao động năm 2019
6 p | 176 | 27
-
Bình luận một số quy định về căn cứ chấm dứt hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2015
15 p | 98 | 14
-
Bình luận một số điểm mới trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 về đánh giá tác động môi trường
9 p | 19 | 11
-
Bình luận một số tình huống thực tế về đạo đức và ứng xử của luật sư trong mối quan hệ với khách hàng và cơ quan tiến hành tố tụng
4 p | 106 | 11
-
Bình luận một số quy định về tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở trong Bộ luật Lao động năm 2019
6 p | 34 | 8
-
Một số vướng mắc, hạn chế trong xác định dấu hiệu định tội đối với các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam
6 p | 32 | 7
-
Bình luận một số điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 về bảo hộ sáng chế và kiểu dáng công nghiệp
10 p | 10 | 7
-
Bình luận một số quy định của ngân hàng nhà nước liên quan đến hoạt động mua trái phiếu doanh nghiệp của tổ chức tín dụng ở Việt Nam
10 p | 105 | 7
-
Quy định mới về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài trong Luật Đầu tư năm 2020
6 p | 34 | 6
-
Quy định về bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống của một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt Nam
6 p | 84 | 5
-
Một số vụ tranh chấp môi trường - Bình luận khoa học và định hướng giải quyết điển hình: Phần 2
64 p | 66 | 4
-
Bình luận về án lệ số 14/2017/AL: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất mà điều kiện tặng cho không được ghi trong hợp đồng
12 p | 65 | 4
-
Một số bình luận về quy chế thi trung học phổ thông quốc gia và xét công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông
10 p | 41 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn