intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bước chuyển trong quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mô hình chủ nghĩa xã hội

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

6
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Bước chuyển trong quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mô hình chủ nghĩa xã hội" sẽ làm rõ mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta thời kỳ trước đổi mới trong nhận thức, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) trong tương quan so sánh với giai đoạn từ năm 1986 đến nay thông qua các văn kiện chính của Đảng như: Cương lĩnh 1991, Văn kiện Đại hội lần thứ X, Cương lĩnh 2011 và gần đây nhất là Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bước chuyển trong quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mô hình chủ nghĩa xã hội

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG BƯỚC CHUYỂN TRONG QUAN NIỆM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Phạm Thu Trang Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội Tác giả liên hệ: Phạm Thu Trang, email: trangissi@gmail.com Tóm tắt: Quá trình đổi mới của đất nước ta qua hơn 35 năm đã thực sự đem lại những thay đổi rất rõ nét trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thành tựu của đổi mới giúp chúng ta nhận thức đầy đủ thêm một bước, bổ sung, phát triển một số phương diện nhất định trong lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở nước ta nhưng đồng thời cũng làm bộc lộ nhiều vấn đề bất cập mà chưa được lý luận giải quyết thỏa đáng. Bài viết này sẽ làm rõ mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta thời kỳ trước đổi mới trong nhận thức, quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) trong tương quan so sánh với giai đoạn từ năm 1986 đến nay thông qua các văn kiện chính của Đảng như: Cương lĩnh 1991, Văn kiện Đại hội lần thứ X, Cương lĩnh 2011 và gần đây nhất là Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng... Trên cơ sở đó thấy được bước chuyển trong quan niệm của Đảng về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với các kết quả đạt được và những vấn đề đang đặt ra hiện nay. Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; mô hình chủ nghĩa xã hội; quá trình đổi mới. 1. MỞ ĐẦU Mô hình CNXH là một khái niệm tổng quát, bao gồm những đặc trưng chung nhất về kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa tư tưởng... Quan niệm về mô hình CNXH của từng quốc gia phụ thuộc vào các điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia đó, thể hiện nhận thức của các Đảng Cộng sản về xã hội mà quốc gia đó dự kiến xây dựng. Trong thực tiễn nghiên cứu lý luận CNXH ở Việt Nam, khái niệm mô hình CNXH ở Việt Nam chưa được định danh một cách cụ thể trong các Văn kiện của Đảng mà thường được thay thế bằng những khái niệm tương đương như “quan niệm về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng” (Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011) hay “quan niệm về chủ nghĩa xã hội” hoặc các “đặc trưng” của CNXH ở Việt Nam... 538
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 2. QUAN NIỆM CỦA ĐCSVN VỀ MÔ HÌNH CNXH TRƯỚC NĂM 1986 Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975, ĐCSVN về cơ bản mới thể hiện những nhận thức bước đầu về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là những nhận thức khái quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa theo tinh thần, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện chung nhất trên các phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội và về chính sách đối ngoại. Trên phương diện kinh tế, Đảng ta chủ trương: xây dựng một nền kinh tế quốc dân “có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến” làm cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong giai đoạn này, Đảng đã đưa ra quan điểm thừa nhận có sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt là thừa nhận và bảo đảm quyền sở hữu ruộng đất thực tế của nông dân. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế đã góp phần xác lập và khẳng định vị trí chủ thể của kinh tế hộ nông dân; tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp - hoạt động kinh tế chủ yếu có bước phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, quan điểm về sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đã không được thực hiện nhất quán và lâu dài. Trên phương diện chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã được Đảng vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp cách mạng chưa có tiền lệ: cả nước cùng một lúc tiến hành thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước ở miền Nam. Đường lối chính trị đúng đắn này đã thể hiện phương châm chiến lược sáng tạo của Đảng về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Mối quan hệ hữu cơ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội đã được thể hiện sinh động trong việc xác định nhiệm vụ cách mạng cụ thể ở miền Bắc và miền Nam trên cơ sở mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng của cả nước. Trên phương diện văn hóa, quá trình xây dựng đời sống văn hóa mới ở miền Bắc, cũng như những vùng giải phóng ở miền Nam - đã chứng tỏ sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa vô sản - văn hóa xã hội chủ nghĩa để xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam. Trên phương diện xã hội, Đảng ta đã cố gắng vận dụng công bằng, bình đẳng xã hội trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhất quán với chủ trương lấy 539
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG phân phối theo lao động là hình thức phân phối chủ yếu, chú ý quan tâm những gia đình chính sách. Về con người, Đảng ta đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa, coi đó là tiền đề, điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Về chính sách đối ngoại, Đảng chủ trương nhất quán quan điểm luôn tranh thủ tối đa sự giúp đỡ của các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Việt Nam luôn trung thành với tinh thần quốc tế vô sản, kết hợp với chủ nghĩa yêu nước chân chính của dân tộc. Có thể khẳng định rằng ở giai đoạn này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhận thức ở mức độ khái quát nhất về các nội dung mang tính bản chất của chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực. Trên cơ sở tư duy của Đảng về các đặc trưng chủ nghĩa xã hội nêu trên, là cơ sở xác định đặc điểm, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, cũng phải đánh giá khách quan thì thời kỳ này tư duy của Đảng về nhận thức mô hình chủ nghĩa xã hội còn rất nhiều hạn chế, bất cập, đòi hòi cần phải tiếp tục được làm sáng rõ các giai đoạn sau. Sau năm 1975, đất nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong hai nhiệm kỳ Đại hội IV (1976) và Đại hội V (1982), Đảng đã có bước chuyển nhất định trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội. Đại hội IV nêu rõ những đặc điểm của đất nước thống nhất. Trên cơ sở đặc điểm, Đại hội đã đề ra đường lối chung của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng về khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004, 523-524). 540
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Từ đường lối chung đó, Đảng đã cụ thể hóa tư duy về mô hình chủ nghĩa xã hội thành những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta lúc đó. Những đặc trưng được thể hiện cụ thể trên tất các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, chính sách đối ngoại. Nhìn chung, quan niệm của ĐCSVN về mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm 1976 đến năm 1986 tuy có những bước phát triển nhất định, song về cơ bản, vẫn chịu ảnh hưởng trực tiếp của cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung quan liêu, hành chính và bao cấp; chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoàn cảnh và quy luật của chiến tranh và bên cạnh đó là những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế. Chủ nghĩa xã hội mới chỉ được nhận thức chung theo mô hình Xô Viết, những nét đặc thù của chủ nghĩa xã hội Việt Nam chưa được định hình một cách cụ thể 3. BƯỚC CHUYỂN TRONG QUAN NIỆM CỦA ĐCSVN VỀ MÔ HÌNH CNXH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY Tư duy, nhận thức về mô hình của chủ nghĩa xã hội đặt ra cấp bách nhằm trả lời câu hỏi lớn từ thực tiễn: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì? Đổi mới để có nhận thức mới, nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong lộ trình đổi mới toàn diện: từ đổi mới tư duy đến đổi mới về tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo, từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị, đổi mới đối nội và đối ngoại... Giai đoạn đầu của đổi mới, từ năm 1986 đến năm 1991 là giai đoạn tìm tòi, đột phá trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới. Tại Đại hội VI (1986), Đảng chủ trương đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội, xác định việc xây dựng một cương lĩnh mới làm nền tảng tư tưởng chính trị định hướng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội VII (1991) của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Nhiều nội dung lý luận và thực tiễn được Cương lĩnh đặt ra. Trong đó có nội dung rất quan trọng là xác định những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Khái niệm “những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội” đã được nêu ra trong Văn kiện Đại hội VII. Đây được xem là bước đột phá về tư duy chính trị của Đảng về mô 541
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cương lĩnh năm 1991 đã xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: “ - Do nhân dân lao động làm chủ. - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. - Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. - Con người được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. - Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 8-9). Với việc xác định những đặc trưng trên của xã hội xã hội chủ nghĩa, tư duy của Đảng về chủ nghĩa xã hội đã tiệm cận tới những nét bản chất của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện Việt Nam. Mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam lần đầu tiên được nhận diện và khắc phục bước đầu tư duy máy móc, giáo điều, rập khuôn theo mô hình Xô Viết trước đây. Mặc dù chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng các đặc trưng vừa nêu đã chỉ ra những mặt, những phương diện liên quan đến mô hình, cấu trúc xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quan hệ đối nội, đối ngoại. Điều này tạo cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hiện thực hóa thành chế độ xã hội có kết cấu hạ tầng về cơ sở vật chất tinh thần với thiết chế thượng tầng phù hợp. Sau Đại hội VII, Đảng tổ chức Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1994) tiếp tục phát triển và cụ thể hóa tư tưởng mà Đại hội VII đã xác định. Hội nghị đã nêu một số quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong điều kiện mới. Trong đó, bước đầu xác định mục tiêu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đại hội VIII (1996) của Đảng tiếp tục có nhận thức mới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt Đảng khẳng định trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, xa rời mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Đại hội đã rút ra 542
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” sáu bài học sau 10 năm đổi mới, trong đó có những bài học liên quan đến tư duy nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội còn cụ thể hóa mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có sơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đại hội IX (2001) của Đảng là Đại hội mở đầu thế kỷ XXI ở Việt Nam. Đại hội đã có nhiều nhận thức mới về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội IX đã xác định rằng, mục tiêu chung của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu chung này đã được bổ sung thêm nội dung dân chủ so với Đại hội VII, Đại hội VIII. Đại hội IX cũng xác định rõ: động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tìềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Đại hội X (2006) của Đảng nhận định rằng: nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống các quan điểm về công cuộc đổi mới về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành những nét cơ bản. Bước phát triển mới là Đại hội X đã bổ sung, phát triển một số nội dung của Cương lĩnh năm 1991 về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đại hội X, xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi ách áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 17-18). Nhận 543
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG thức mới của Đại hội X là cơ sở định hướng quan trọng, là tiền đề để Đại hội XI của Đảng kế thừa, tiếp thu để bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991. Đại hội XI (2011) trên cơ sở tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, khẳng định ý nghĩa to lớn của Cương lĩnh. Đại hội XI đã bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Tư duy mới về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã có thêm bước phát triển để phù hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh năm 2011 xác định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70) . So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm 2011 đã tiếp thu, kế thừa các nội dung phản ánh trong 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa đã được xác định từ Đại hội VII, 8 đặc trưng mà Đại hội X đề xuất bổ sung, phát triển; đồng thời điều chỉnh, bổ sung, phát triển hầu hết các nội dung thuộc các đặc trưng khác (để có được tám đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa trong Cương lĩnh năm 2011). Xem xét tổng thể các đặc trưng có thể thấy tư duy mới, bước chuyển mới của Đảng về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện ở một số đặc điểm sau: Thứ nhất, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ sung hai đặc trưng mới: một là, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; hai là, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong Văn kiện Đại hội X, hai đặc trưng quan trọng này cũng đã được nêu ra khi nói về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Song, trong Cương lĩnh 2011, tiêu chí dân chủ được đặt trước tiêu chí công bằng. Thực tiễn cho thấy, dân chủ và việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Dân chủ không những là mục tiêu, mà còn là động lực thúc 544
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển nhanh và bền vững. Khi dân chủ được bảo đảm mới có thể nói đến công bằng và đến lớn mạnh, những điều đó mới thể hiện sự văn minh. Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về nhân dân; do nhân dân xây dựng hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân; là cơ quan quyền lực của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói chung, của đổi mới chính trị và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng, ở nước ta chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong số điều kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thứ hai, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ''do nhân dân lao động làm chủ'', thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc trưng thứ hai được điều chỉnh thành ''do nhân dân làm chủ''. Rõ ràng, khái niệm ''nhân dân” trong Văn kiện Đại hội X có nội hàm rộng hơn so với khái niệm ''nhân dân lao động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm 1991. Điều này cho phép thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, đặc trưng thứ hai trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương lĩnh 2011 bổ sung bằng ''Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp''. Điều này là cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là xương sống của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu (chế độ công hữu) không đồng nhất với quan hệ sản xuất. Dù đóng vai trò hết sức quan trọng, song quan hệ sở hữu cũng chỉ là một trong 3 yếu tố (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) cấu thành quan hệ sản xuất. Quan điểm mới này là sự cụ thể 545
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hóa bài học được nêu tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (bài học về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất). Thứ tư, cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc trưng thứ tư của Cương lĩnh 1991 (cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” ở đặc trưng thứ 5 của mô hình chủ nghĩa xã hội nêu trong Văn kiện Đại hội X) được Cương lĩnh 2011 lược bỏ và xác định là ''Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Điều này là hợp lý, bởi lẽ, sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc'' của con người cũng đã bao hàm ý nghĩa được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công. Thứ năm, Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người có điều kiện phát triển toàn diện'' (trong Cương lĩnh 1991 viết: ''Con người có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân'', cũng Văn kiện Đại hội X ghi ''con người được phát triển toàn diện''). Việc bổ sung cụm từ ''có điều kiện” thể hiện rằng trong chủ nghĩa xã hội sự phát triển của con người luôn được tạo điều kiện, đồng thời phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thứ sáu, đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết: ''Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; còn trong Văn kiện Đại hội X viết: ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ''. Trong Cương lĩnh năm 2011, đặc trưng này được điều chỉnh thành: ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển''. Việc thay thuật ngữ ''tương trợ'' bằng thuật ngữ ''tôn trọng'' làm cho đặc trưng này có nội dung toàn diện hơn (với 4 tiêu chí: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau), bởi thuật ngữ ''tương trợ” và ''giúp nhau” (trong Văn kiện Đại hội X), về cơ bản, có nội dung như nhau. Thứ bảy, nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới'', thì trong Văn kiện Đại hội lần thứ X và trong Cương lĩnh 2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn đó là: ''Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rộng hơn cụm từ ''với nhân dân tất cả các nước trên thế giới''. Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và hợp tác của Việt Nam không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ và các tổ chức phi chính phủ của các nước trên thế giới. 546
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Những đặc trưng trên là thành quả của đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam; là kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù”; mang sắc thái riêng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam và được từng bước hiện thực hóa trong cuộc sống. Từ nghiên cứu tổng kết thực tiễn thường xuyên từ năm 1991, sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội XI thông qua biểu quyết đã quyết định giữ nguyên tên của Cương lĩnh năm 1991 (chỉ ghi thêm: bổ sung, phát triển năm 2011), thể hiện tính nhất quán của Đảng khi xác định vai trò to lớn của Cương lĩnh: làm nền tảng chính trị tư tưởng cho toàn bộ hoạt động của Đảng, Nhà nước, của toàn xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong suốt thời kỳ quá độ. Theo đó, các đặc trưng thể hiện mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng đã được thường xuyên đổi mới để có tư duy mới về các thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tóm lại, từ mô hình chủ nghĩa xã hội với sáu đặc trưng năm 1996 tới mô hình tám đặc trưng năm 2011 là một bước chuyển vượt bậc trong xử lý mối quan hệ cái phổ biến với cái đặc thù về chủ nghĩa xã hội trền nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay của Đảng, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam. Đó là bước chuyển, đồng thời cũng là luận điểm chỉ đạo và quán xuyến toàn bộ sự nghiệp đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta từ năm 1986 đến nay. Với những bước chuyển này, trong báo cáo chính trị Đại hội XIII đã khẳng định các kết quả đạt được như sau: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 103-104). Đây cũng chính là những minh chứng rõ nét cho việc xây dựng mô hình CNXH theo đường lối và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã định sẵn. 547
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 4. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC Bước chuyển trong quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam về mô hình chủ nghĩa xã hội đạt được những kết quả sau: Một là, Đảng ta đã quán triệt một cách khoa học và bổ sung, phát triển sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong dự báo về chủ nghĩa xã hội với những nét phổ biến, đồng thời với những nét đặc thù, từ điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc vào điều kiện cụ thể Việt Nam, kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội Việt Nam để từng bước hoàn thiện mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội tiến bộ, ưu việt hơn tất cả các xã hội trước đó về các đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm giải phóng con người khỏi mọi tình trạng áp bức, bóc lột, bất công. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản phải hình dung, phác thảo ra được những đường nét cơ bản nhất của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa (mà chúng ta gọi đó là những ''đặc trưng''). Nếu không phác thảo được mô hình, những đường nét cơ bản thì rất khó xác định mục tiêu phấn đấu, định hướng để xây dựng chủ nghĩa xã hội và biến chúng thành hiện thực trong cuộc sống. Hơn nữa, những đặc trưng thể hiện mô hình đó phải phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, phản ánh được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Đây là đòi hỏi tất yếu nhưng cũng rất khó khăn đối với các Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong bối cảnh tình hình hiện nay, khi mà chủ nghĩa xã hội trên thế giới vẫn đang còn trong tình trạng thoái trào. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã có những dự báo về những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa dựa trên thực tiễn đương thời. Tuy không coi đó là mô hình bất biến, song các ông đã hình dung và phác thảo về chủ nghĩa xã hội - một chế độ xã hội ưu việt và tiến bộ hơn so với các chế độ xã hội trước đó, thể hiện trên một số nét cơ bản như sau: (1) Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triền toàn diện; (2) Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội được tạo ra bởi lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại; (3) Chủ nghĩa xã hội là từng 548
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” bước xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (chủ yếu); (4) Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới với năng suất cao; (5) Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động; (6) Chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân chủ, dân chủ gấp nhiều lần dân chủ tư sản; (7) Nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là nhà nước dân chủ kiểu mới, thể hiện bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động; (8) Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, các quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế được giải quyết phù hợp, kết hợp lợi ích giai cấp - dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Trên cơ sở nhận thức về thời đại, nhận thức về dân tộc và sức mạnh dân tộc từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Đảng ta ngày càng rõ hơn. Trong quá trình đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận thấy việc xác định đúng mô hình chủ nghĩa xã hội là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hơn nữa, như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng gần đây nhất đã khẳng định: “Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích, lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển” (Nguyễn, 2021). Hai là, Đảng ta nhận thức đúng hơn, rõ ràng, cụ thể hơn những đặc trưng phản ánh các thuộc tính của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên tất cả các phương diện liên quan trực tiếp: về mục tiêu chung, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, về con người cùng với các phương diện đối nội, đối ngoại... 549
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Về mục tiêu chung, Đảng ta đã xác định là: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và từng bước làm rõ hơn về nội hàm của mục tiêu chung, thể hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân ta xây dựng. Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp nhất, ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, đây là đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó. Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” là quá trình vô cùng khó khăn, gian khổ và lâu dài trong hoàn cảnh và điều kiện Việt Nam - một nước đang phát triển, chưa có “nền đại công nghiệp”. Đảng ta đã vạch ra phương hướng, chính sách cụ thể, có cơ sở lý luận - thực tiễn để thực hiện trong hiện thực: nước mạnh gắn với dân giàu, công bằng và văn minh, bảo đảm dân chủ; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hoàn thiện nhà nước pháp quyền với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh xác định mục tiêu chung, Đảng cũng đã xác định các mục tiêu cụ thể về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, về con người cùng với các phương diện đối nội, đối ngoại... Mỗi mục tiêu thể hiện từng phương diện cụ thể của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ba là, thông qua tổng kết thực tiễn thường xuyên Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước phát triển, lãm rõ lý luận nhằm lấy lý luận đó soi sáng cho hoạt động thực tiễn. Việc hiện thực hóa các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã chứng minh mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Sự đổi mới đất nước đặt ra đòi hỏi phải có một mô hình chủ nghĩa xã hội của riêng Việt Nam, vừa phản ánh những giá trị phổ quát của chủ nghĩa xã hội, vừa phản ánh những đặc điểm đặc thù của Việt Nam được thể hiện bằng những đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, các phương hướng cơ bản để hiện thực hóa đặc trưng, các giải pháp, cách thức tiến hành mang ý nghĩa đột phá… Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải được phản ánh trong các mục tiêu chiến lược: Mục tiêu chung của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và mục tiêu đặc thù khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn với 550
  14. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” mục tiêu của từng chặng đường, của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng giai đoạn. Việc xác định rõ các tiêu chí bằng định tính, định lượng cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng đòi hỏi phải phân tích đầy đủ, sâu sắc các mối quan hệ, bối cảnh quốc tế và trong nước, dự báo khoa học các xu thế, triển vọng, những thời cơ, thách thức đang đặt ra. Trong hơn 35 năm đổi mới nhiều vấn đề lý luận mới, chưa từng có đã được tổng kết từ thực tiễn và đưa vào áp dụng trong thực tế, mang lại những hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn như: khoán trong nông nghiệp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đảng viên làm kinh tế, kinh tế hàng hóa đa thành phần đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… Sự đúc kết nên 8 đặc trưng, 8 phương hướng và 8 mối quan hệ lớn để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng chính là kết quả của sự sáng tạo lý luận của Đảng ta trong công cuộc đổi mới, bắt đầu từ thực tiễn đổi mới tư duy. Tất cả các vấn đề đó đều là kết quả vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, việc tổng kết những bài học kinh nghiệm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ở Việt Nam. 5. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐANG ĐẶT RA Bên cạnh những kết quả đạt được, quan niệm của ĐCSVN về mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần phải tiếp tục làm rõ hơn nữa những vấn đề sau: Một là, Đảng cần phải luận giải thuyết phục bằng những phân tích làm rõ kiểu, mô hình chủ nghĩa xã hội nảy sinh, phát triển và được thực hiện hóa. Vì khi dự báo về triển vọng của chủ nghĩa xã hội nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là tuân theo quy luật tiến hóa của lịch sử. Cương lĩnh năm 1991 ghi rõ: Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song, loài người cuối cùng cũng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử. Cương lĩnh 2011, trên cơ sở Cương lĩnh năm 1991, một lần nữa khẳng định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 13). Với các quốc gia, dân tộc khác nhau thì cần có luận giải thuyết phục đâu là điều kiện cần, điều kiện đủ để ra đời, tồn tại và phát triển các thuộc tính thể hiện mô hình đa dạng, phong phú của chủ nghĩa xã hội. Nếu được như vậy, một mặt 551
  15. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG góp phần vào phát triển lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học; mặt khác, cũng góp phần vào tuyên truyền, củng cố niềm tin của nhân loại, trong đó có nhân dân ta vào tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hai là, nhiều nội dung của các đặc trưng thể hiện mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần tiếp tục được nghiên cứu để bổ sung, phát triển và làm sáng rõ hơn. Về các đặc trưng thể hiện mô hình của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, dù từng bước phát triển và được xác định, gồm 8 đặc trưng trong Cương lĩnh năm 2011. Tuy nhiên, chắc chắn là chưa thể đầy đủ và đã hoàn thiện, còn nhiều vấn đề mà trong điều kiện hiện nay cần phải làm sáng rõ hơn. Các đặc trưng này đã phản ánh được mặt khác biệt của chủ nghĩa xã hội so với chế độ xã hội dựa trên áp bức, bóc lột người và người, nhất là so với chủ nghĩa tư bản hiện đại hay chưa? Mặt khác, trong từng đặc trưng cũng cần làm rõ hơn đâu là điểm khác biệt của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với các quốc gia, dân tộc khác. Trên thực tế vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng, đặc trưng bao trùm là: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thì ngay các nước tư bản cũng xác định như vậy, thậm chí họ còn hiện thực hóa mục tiêu đó bao gồm tổng thể các yếu tố, nội dung cấu thành đặc trưng rồi. Nếu chỉ dừng lại như vậy đã đủ, đúng mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội chưa, là điều mà Đảng trong quá trình đổi mới tư duy chính trị của mình cần phải tiếp tục làm rõ hơn. Ba là, Đảng ta cần cụ thể hóa hơn nữa các loại hình mục tiêu trong Cương lĩnh năm 2011. Các mục tiêu đó là, mục tiêu chung của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; mục tiêu của chặng đường trước mắt và các chặng đường tiếp theo. Trong đó, phải làm rõ quan hệ giữa mục tiêu của từng chặng đường với mục tiêu của Chiến lược phát triển thông qua các giai đoạn cụ thể. Trong đó, phải làm rõ mục tiêu của từng chặng đường, với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 2011 - 2020 và giai đoạn 2020 - 2045. Cương lĩnh năm 2011 xác định: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta 552
  16. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 25). Mục tiêu này đã hoàn toàn đúng, đủ, khả thi chưa? Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là gì? Việc xây dựng được về cơ bản nền tảng về kinh tế của chủ nghĩa xã hội phải căn cứ vào những tiêu chí gì để không bị hiểu chung chung, trừu tượng? Xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa bao gồm những tiêu chí gì? Kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp cũng mới chỉ đạt được định tính, chưa rõ tiêu chí định lượng. Trong văn kiện đại hội XIII các mục tiêu cũng đã được chi tiết hóa và cụ thể, song để đạt được các kết quả này trên thực tế còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố cả chủ quan và khách quan, nhất là khi có sự tác động, ảnh hưởng sâu sắc của các yếu tố như dịch bệnh Covid-19 trong suốt những năm vừa qua. 6. KẾT LUẬN Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam để từng bước tạo ra những bước chuyển mới trong nhận thức về mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những đặc trưng phản ánh các thuộc tính của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên tất cả các phương diện đã được nhận thức đầy đủ và cụ thể hơn. Tuy nhiên, nhận thức của Đảng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội vẫn còn những vấn đề đặt ra đòi hỏi cần phải được luận giải một cách thuyết phục bằng những phân tích làm rõ kiểu, mô hình chủ nghĩa xã hội nảy sinh, phát triển và được hiện thực hóa. Nhiều vấn đề về các đặc trưng thể hiện mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần tiếp tục được nghiên cứu để bổ sung, phát triển và làm sáng rõ hơn trong các giai đoạn sau này. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự thật. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1994). Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII. Chính trị quốc gia. 553
  17. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1995). Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII. Chính trị quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1996). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Chính trị quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1997). Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII. Chính trị quốc gia. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia. [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2004). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 37). Chính trị quốc gia. [8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2005). Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Chính trị quốc gia. [9]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Chính trị quốc gia. [10]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [11]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2015). Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - Thực tiễn qua 30 năm đổi mới: 1986 – 2016. Chính trị Quốc gia. [12]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị Quốc gia. [13]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [14]. Nguyễn, T. B. (2021). Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên CNXH. Cổng Thông tin Điện tử Bộ Nội vụ. https://www.moha.gov.vn/tin- noi-bat/bai-viet-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-ve-con-duong-di-len- cnxh-46173.html 554
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2