Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam tìm hiểu về Hôn nhân và gia đình: Phần 1
lượt xem 47
download
Phần 1 Tài liệu Hôn nhân và gia đình các dân tộc thiểu số ở Việt Nam giới thiệu tới người đọc về hôn nhân và gia đình của người Khmer Nam Bộ và hôn nhân gia đình của người Chơ - Ro. Mời các bạn cùng tham khảo để cùng tìm hiểu thêm về các phong tục và văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam tìm hiểu về Hôn nhân và gia đình: Phần 1
- h : HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM • • • Nhiều tác giả ộ ÂN VÀ GIA CÁC d An Tộc thiểu s ố ở v iệ t ham 0 ■ •• B NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA DÂN TÔC u * / '4 ■ t
- HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM • ■____________________ _____________________________ •_________ NHIỂU TÁC GIẢ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÁC DÂN TỘC THIỀU SÓ Ở VIỆT NAM • Hôn nhân và gia đình người Khmer Nam Bộ - Nguyễn Hùng Khu • Hồn nhân và gia đình người C h ơ Ro - Lãm Nhãn • Hôn nhân và gia đình người Nùng - Nguyễn Thị Ngân - Trần Thùy Dương • Hôn nhân và gia đình người Khơ Mú - Trần Thị Thảo _________________ Ẹ 1 L thưvịỊ n tinh OIỆN Elc* KHO OIA C H Í 1 NHÀ XUẤT BẢN VẦN HÓA DÂN TỘC
- D ự ÁN CỐNG BỐ, PHỔ BIỂN TÀI SẢN VĂN HÓA, VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM ( E l, Ngõ 29, T ạ Q uang Bửu - Bách Khoa - H à Nội Điện thoại: (043) 627 6439; Fax: (043) 627 6440* Email: duandangian@ gm ail.com ) BAN CHỈ ĐẠO 1. GS. TSKH. TÔ NGỌC THANH Trưởng ban 2. ThS. HUỲNH VĨNH ÁI Phó Trưởng ban 3. GS. TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH Phó Trưởng ban 4. Ông NGUYỄN KIEM ủ y viên 5. Nhà văn ĐỖ KIM CUÔNG ủ y viên 6. TS. TRẦN HỮU SƠN ủ y viên 7. Nhà giáo NGUYỄN NGỌC QUANG ủ y viên 9 8. ThS. ĐOÀN THANH NÔ Uy viên GIÁM Đ ốc VĂN PHÒNG D ự ÁN « ThS. ĐOÀN THANH NÔ
- Chịu trách nhiệm nội dung: GS.TSKH. TỒ NGỌC THANH Thẩm đinh nội dung: HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH BẢN THẢO
- LỜI GIỚI THIỆU H ộ i Văn nghệ dân gian Việt Nam (VNDGVN) là một tồ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, nằm trong khối Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Quyết định số 82/NV, ngày 01/03/1967 của Bộ Nội vụ thay mặt Chính phủ đã cho phép Hội Văn nghệ dân gian thành lập và hoạt động trên phạm vi toàn quốc và có mối liên hệ nghề nghiệp với các tổ chức khác ở trong nước và nước ngoài. Tôn chỉ mục đích của Hội là “Sưu tầm , nghiên cửu, phổ biến và truyền dạy vốn văn hỏa - văn nghệ dân gian các tộc người Việt N am ”. Trên cơ sở thành quả của các công việc trên, Hội là một trong những đội quân chủ lực góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa - văn nghệ mang đậm bản sắc dân-tộc đã được ông cha ta sáng tạo và giữ gìn trong suốt mấy nghìn năm của lịch sử dân tộc. Những giá trị sáng tạo đó thể hiện mối quan hệ của các tộc người Việt Nam với thiên nhiên thông qua các tri thức sản xuất nông nghiệp; với xã hội thông qua phong tục tập quán, hội xuân; với nhân sinh quan thông qua các nghi lễ vòng đời người; với vũ trụ và thế giới tự nhiên đã được siêu nhiên hóa thông qua các loại hình tín ngưỡng tôn giáo; với lý tưởng thẩm mỹ thông qua các sáng tạo văn học nghệ thuật. Ờ mỗi tộc người Việt Nam, những lĩnh vực và hình thái văn hóa - 9
- văn nghệ này lại được thể hiện trong một sác thái riêng. Chính kho tàng văn hóa đa dạng đó là nội dung, là đối tượng hoạt động của hội viên Hội VNDGVN. Sau hơn bốn mươi năm hoạt động, được sự lãnh đạo của Đảng và sự chăm sóc của Nhà nước, Hội VNDGVN đã lớn mạnh với gần 1.200 hội viên, số công trình do hội viên của Hội đã hoàn thành lên đến gần 5.000 công trình, hiện đang được lưu trữ và bảo vệ tại Văn phòng Hội. Nay, được sự quan tâm của Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ. Dự án “Công bố và phổ biến tài sản văn hỏa - văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam ” đã được phê duyệt. Trong thòi gian 10 năm, Dự án sẽ chọn lọc khoảng 2000 công trình trong số bản thảo Hội lưu trữ của hội viên và xuất bản dưới dạng các cuốn sách nghiên cứu, sưu tầm. Trước mắt trong giai đoạn đầu (2008 - 2012), chúng tôi dự định sẽ chọn xuất bản 1.000 công trình. Hy vọng, các xuất bản phẩm của Dự án sẽ cung cấp cho bạn đọc trong và ngoài nước một bộ sách mang tính chất bách khoa thư về các sắc màu văn hóa của các tộc người Việt Nam, phục vụ thiết thực vào việc tra cứu, mở rộng hiểu biết của bạn đọc về truyền thống văn hóa giàu có và độc đáo đó; góp phần xây dựng nền “Văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Dự án mong nhận được ý kiến chỉ bảo kịp thời của bạn đọc gần xa. Xin chân thành cảm ơn ! Trưởng Ban chỉ đạo thực hiện dự án GS.TSKH. TÔ NGỌC THANH 10
- HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ Tác giả: Ths. Nguyễn Hùng Khu
- MỘT SỐ VẤN ĐỀ VÈ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA NGƯỜI KHMER NAM B ộ Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa tộc người, thống nhất trong đa dạng. Vì vậy, nghiên cứu vãn hóa Việt Nam nói chung, nghiên cứu văn hóa từng tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam nói riêng, đều có ý nghĩa lý luận và thực tiễn caoằ Người Khmer ở Nam Bộ Việt Nam là một trong 54 tộc người của dân tộc Việt Nam, có nhiều yếu tố văn hóa tộc người rất đặc sấc, đã và đang thu hút sự quan tâm sâu sắc của nhiều nhà nghiên cứu nhằm tìm hiểu về bản sác văn hóa của người Khmer, đồng thời góp phần làm rõ thêm về đặc điểm thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam. # Ở Việt Nam, người Khmer sống rải rác ở các tỉnh nhưng tập trung ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long là nhiều nhất. Từ trước năm 1975 một số nhà nghiên cứu nước ngoài (chủ yếu là người Pháp) đã có một số công trình nghiên cứu mang tính khái lược, giới thiệu tổng quan về văn hóa, nguồn gốc của người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long... Một sổ tác giả còn nghiên cứu về hệ thống thân tộc và vấn đề hôn nhân, gia đình truyền thống của người Khmer như: Labar, Frank.M, Gerald.c, Hickey, John.K, Musgrave với công trình “Ethnic groups o f mainland Asỉa ” và Henri Baudesson với công trình “Indochina and It’s primitive peples”. 13
- Ở Việt Nam, từ năm 1945 - 1975, người Khmer cũng đã được các học giả phía Nam nghiên cứu, giới thiệu. Trong đó có một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu như: Phan Khoang với tác phẩm “Việt sử: xứ Đàng Trong” nghiên cứu về quá trình mở mang và khai khẩn của triều đình nhà Nguyễn ở xứ Đàng Trong. Trong đó có giới thiệu thêm về việc tham gia khai khẩn, xây dựng xóm làng (ấp, khóm, phum sócế..) của người Kinh, người Hoa và người Khmer. Lê Hương với “Người Việt gốc Miên ” mô tả về lịch sử, đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo và các phong tục tập quán trong sinh hoạt, ứng xử của người Khmerẻ Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975) tới nay đã có nhiều cồng trình nghiên cứu về người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, trong đó phải kể đến một số công trình của ngành Dân tộc học, Văn hóa học và Xã hội học đã được công bốể Người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long với những yếu tố văn hóa đặc sắc đã trở thành đối tượng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học của Trung ương cũng như của địa phương, trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Trong đó, một số tác giả tiêu biểu cần phải kể đến như: Các tác giả Đinh Văn Liêm, Văn Công Chí, Lâm Thanh Tùng, Phan An, Nguyễn Trọng Nghĩa, Phan Thị Yến Tuyết... nghiên cứu và giới thiệu những vấn đề về môi sinh, dân cư, dân số, đặc điểm phân bố cư trú, những đặc điểm trong sinh hoạt vật chất... của người Khmer. v ấ n đề sở hữu ruộng đất, sự phân hóa giai cấp trong người Khmer; về cấu trúc, chức năng, quan hệ xã hội, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành phum sóc trong mối quan hệ 14
- với bộ máy chính quyên Nhà nước được các tác giả Phan An, Nguyễn Khắc Cảnh nghiên cứu và trình bày bằng các công trình chuyên khảo. Các tác giả Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Hồng Liên, Nguyễn Thanh Thủy, Trần Thanh Nam... Có một số nghiên cứu về sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long. Các tác giả Trường Lưu, Thạch Voi, Hoàng Túc, Đặng Vũ Thị Thảo, Huỳnh Ngọc Trảng, Trần Văn Bổn, Văn Đình Hy, Nguyễn Liệu, Văn Xuân Chí, Phan Thị Yến Tuyết... Có nhiều công trình nghiên cứu về sinh hoạt văn hóa, lễ nghi, phong tục, lễ hội của người Khmer. v ấn đề giáo dục, ruộng đất, nghèo đói và quan hệ tộc người của người Khmer được nhóm tác giả do Đinh Lê Thư (chủ biên) và nhóm tác giả do Võ Văn Sen (chủ biên) nghiên cứu và công bố trong những năm gần đây. Tuy nhiên, vấn đề hôn nhân và gia đình của người Khmer chưa có tác giả, công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống. Đe góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, trên cơ sở phát huy các thành quả của các tác giả đi trước, chúng tôi chọn đề tài hôn nhân và gia đình người Khmer làm đối tượng nghiên cứu để cố gắng làm rõ những vấn đề về truyền thống và những biến đổi của hôn nhân và gia đình của người Khmer trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp (cho cả'trước mắt và lâu dài) nhằm bảo tồn và phát huy bản sác văn hóa của người Khmer trong công cuộc xây dựng nền văn hóa “tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” hiện nay. 15
- Tuy đôi tượng nghiên cứu là hôn nhân và gia đình của người Khmer đồng bằng sông Cửu Long nhưng đây là một đề tài bao hàm không gian quá rộng và thời gian quá dài. Vì vậy, địa bàn chúng tôi tập trung nghiên cứu là 3 tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh và An Giang, thời gian được giơi hạn từ năm 1975 tới nayẽ Việc chọn địa điểm này giúp các tác giả vừa tập trung vào những địa bàn có đông người Khmer cư trú (Trà Vinh, Sóc Trăng) vừa khai thác được những đặc điểm về mối liên hệ tộc người giữa người Khmer đồng bằng sông Cửu Long với người Khmer ở Campuchia (An Giang). Việc giới hạn thời gian từ năm 1975 tới nay là nhằm đặt đối tượng trong tính bảo lưu và những biến đồi của nó dưới tác động của các yếu tố lịch sử, chính trị mới để thấy những thay đổi mạnh mẽ về đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của người Khmer từ sau năm 1975. Dù đã cố gắng nghiên cứu vấn đề trong tính toàn diện và hệ thống của nó nhưng hôn nhân và gia đình là một đề tài bao hàm nội dung lớn và nhiều vấn đề phức tạp (thậm chí nhiều nội dung như: khái niệm loại hình hôn nhân; khái niệm phân loại loại hình gia đình... còn là những vấn đề đang tranh cãi thảo luận trong giới khoa học). Vì vậy, chác chán không tránh khỏi những thiếu sót, thậm chí có thể là nhầm lẫn.ẵ. Với tinh thần cầu thị, nhóm tác giả xin chân thành cám ơn và mong nhận được sự góp ý, hợp tác của các nhà khoa học và bạn đọc gần xa. NHÓM TÁC GIẢ 16
- BẢN ĐỒ CU TRỨ CỦA NGƯỜI KHMER ĐỒNG BẢNG SÔNG c ử u LONG TÂY NINH Ệ ''y r * * C A M P U C H IA TP.iỉCM •• » „ t e TIỂNGÙ^G^. p »/ ' > ĩ \ > > y ệ/ \ Ă x-v V \ \ \ ^ í • \ x r •' . ^ V Ĩ N H LON NTÂN m g \f e ẳ £ !b a ỉ tÊN GIANGỵ ^ - /^§111 X ' ' M u G\AmễmÊj£ /K ^ > d & m Ê ấ tẲ P^y>4lll gmÈ Ìt*lđETÌXrC p&v< L> ^ # 'v \ K . llnỉiụ V x i ỉ n g o i k r l l l l lẳa**ll .— - - ' . u i u l i a h i i *-pr í ii U t l h i i n l i ■*!í*ífvTaFv^£F 1•«?\T»V ^ ... *. > 5ệ}*i :Ẽ .->?- ^ r __ _ , *. |)m > itg v v « ; m u ị >o i I i i : i THƯ VIỆN TINH Pi£í; • m ị KHO O Ị A C H Í I 17
- CHƯƠNG I TỎNG QUAN VÈ NGƯỜI KHMER ĐÒNG BẰNG SÔNG c ử u LONG Trước hết, đồng bàng sông Cửu Long là một vùng thiên nhiên đa dạng, đồng bàng lớn nhất và trù phú nhất của Việt Nam. Từ xa xưa, với môi trường sinh thái phong phú, đồng bằng sông Cửu Long đã là nơi hội tụ của nhiều dòng văn hóa của các thành phần dân cư khác nhau. Cho dến ngày nay nó vẫn là một vùng hỗn hợp về dân cư, về quá trình hòa hợp của các tộc người có chung một sổ phận lịch sử. Quá trình lịch sử đặc thù ấy đã làm hình thành nên những nét độc đáo, riêng biệt trong đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nơi đây. Tuy mỗi tộc người có những đặc điểm kinh tế, xă hội, văn hóa, tôn giáo riêng biệt nhưng vì cùng sống chung lâu đời Irên một địa bàn ncn đã có những thích nghi, ảnh hưởng, giao lưu và tiếp biến văn hóa, hình thành một diện mạo văn hóa vùng có đầy đủ đặc điểm của một vùng lịch sử, văn hóa. Với đặc thù sông nước chi phối toàn bộ cuộc sống các cộng đồng người trong vùng nên có thể nói văn minh sông nước miệt vườn và văn hóa miệt vườn ỉà nét văn hóa đặc sảc chung cho các tộc nsười và là 19
- nét văn hóa ricng biệt của vùng văn hóa đồng bàng sông Cửu Long. I. ĐẶC DIÊM DỊA LÝ TỤ NHIÊN VÀ DÂN c ư VÙNG ĐÒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Theo tài liệu shi chép của các nhà địa lý thì cách nay hơn 2.500 năm, vùng đất của đồng bằng sông Cửu Long xưa đà dần hiện lcn cùng với sự rút lui dần của nước biển. Lúc đó thủy triều đã tác động mạnh, chia cắt đồng bằng thành hàng ngàn lạch triều lớn nhỏ đan xen nhau ncn chia cát vùng này thành nhiều vùng đất. Tới nay, đồne bàng sông Cửu Lorm là đồng bằng lớn nhất nước ta với diên tích là 3.950.900 ha, chiếm 12% diện tích của cả nước, là trọng điểm phát triến nông nghiệp của quốc gia. Không chỉ là nơi cung cấp về lúa gạo, đồn£ bàng sông Cửu Long còn cung cấp một số lượn£ lớn về các nône sản rau quả, thực phẩm, thủy sản, đặc biệt về tôm, cá có giá trị xuất khẩu cao. Vùng ngập mặn của đồna bàne sông Cửu Long đem lại giả trị cao về môi trườns sinh thái, làm phong phú thcm về nguồn lâm sản cũng như việc bảo tồn các sinh vật, động vật hoang dă của nước ta. Đồna bàna sông Cửu Long có một hệ thống sông ngòi dày đặc, ngoài các con sông lớn thuộc hệ thống sông Mêkông còn có trên 50.000 con kênh rạch nên rất thuận tiện cho giao thông đường thủy. Do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa và hệ thống triều cường nên lượng nước ở đồng bằng sôn£ Cửu Lona, có sự chênh lệch khá lớn. Vào mùa mưa, mùa gió Tây Nam, vùng dồng bàng sông Cửu Long 20
- thường gặp lũ lụt ảnh hưởng đến sinh hoạt và tài sản của cư dân. Tuv nhicn, sau mỗi lần lũ lụt đó, một lượng phù sa để lại đà bồi đáp cho đồng bằng thêm phì nhiêu để tăng năng suất cây trồng. Đồng bàng sông Cửu Lona không phải là một vùng địa lý thống nhất về môi trường sinh thái. Các nhà địa lý chia đồng bằng sông Cửa Long thành các tiểu vùng: - Vùng phù sa không ngập nước Là những khu vực tương đối cao ráo thuộc một số địa phương như: Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, cần Thơ, Hậu Giang và Sóc Trăng, nơi có nhiều kênh rạch dễ thoát nước vào mùa mưa, có đất phì nhiêu nên các cây trồng thường mang lại sản lượng cao. - Phần đất nhiễm mặn và ít ngập nước Thuộc địa bàn các tỉnh như Đồng Tháp, Lone An, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau... Đây là những nơi rất phone phú về nguồn thủy sản nước lợ song lại có phần hạn chế trong việc trồng lúa nước. - Vùng ngập nưởc gồm tứ giác Long Xuyên, Cao Lãnh và Đồng Tháp Là nơi vào mùa mưa ngập từ 3,5 - 4m. Trước đây vùng này thường được người dân trồng lúa nước nổi, bao bọc quanh vùng ngập là những eiồng đất cao thuận lợi cho cư trú. - Vùng đồi núi Ở phía Tây đồng bằng sône Cửu Long thuộc các tỉnh miền Tây, giáp với biên giới Campuchia. 21
- Hiện nay, chủ nhân văn hóa của vùng đồng bàng sông Cửu Long là trên 17 triệu người, trong đó có bốn tộc người chính: người Kinh, neười Khmer. người Hoa và naười Chăm. Ớ đồng bàng sônẹ Cửa Long, người Kinh chiếm đa số (hơn 13 triệu), phân bố đều khấp trong vùng. Năm 1698 khi chúa Nguyễn chính thức lập phủ Gia Định, thiết lập xã, thồn, phường, ấp, chia cát giới phận... làm sổ đinh điền thì địa vị của người Kinh mới được xác định vững chắc. Người Khmer trong vùng đồng bàng sông Cửu Long có trên 1,3 triệu người, phân bố không đều, nhiều nhất là ở các tỉnh: Sóc Trăng (khoảng 350.000 người chiếm 28,50% dân số tỉnh), Trà Vinh (khoảng 320.000 người chiếm 28,05% dân số tỉnh), rồi đến Kiên Giang (khoảng 180.000 người), An Giang (khoảng 85.000 người), Bạc''Liêu (khoảng 59.000 người), Cà Mau (khoảng 24.000 người), Vĩnh Long (khoảng 22.000 người)... Người Hoa đặt chân đến vùng đồns; bằng sông Cửu Long vào khoảng sau thế kỷ XVII với những đợt di cư lớn, ồ ạt, mang theo nhữns giá trị văn hóa Hán góp vào nền văn hóa chung của vùng, tạo nên sự đa dạng và phong phú. số lượng người Hoa hiện sống tại vùng đồng bàng sông Cửu Long là không nhiều (chưa tới 300.000 người) nhưng họ rất gắn bó và coi đây là quê hương thứ hai của mình nên sống hòa thuận và chia sẻ những khó khăn, thuận lợi với các tộc người khác trong vùngể Người Hoa ở vùng đồng bằng sông Cửa Long có mối quan hệ mật thiết về nhiều mặt với người Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh. 22
- Người Chăm sông ở đông băng sông Cửu Long chính là một bộ phận tách ra từ cộng đồng người Chăm ở Trung Bộ, do 20 những biến động lịch sử của vương quốc Chămpa cổ đại mà chuyển xuống nơi này (một số khác chạy sang Campuchia, Thái Lan), số neười Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long, về văn hóa chịu sự ảnh hưởng nhiều của nhóm cư dân Malaysia, Ấn Độ, Khmer tại chỗ. Đặc biệt, chịu ảnh hường của văn hóa Hồi giáo nên chủ yếu họ là người Chăm Islam. Người Chăm ở đồng bằng sồng Cửu Long sinh sống chủ yếu ở vùng Châu Đốc (khoảng 14.000 người) rồi sau đó lan tỏa ra các vùng khác như thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Tây Ninh..ệ Các dân tộc cư trú tại vùng đồng bằng sông Cửu Long khá tương đồng về những điều kiện kinh tế, văn hóa. Họ sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệpẽ Quá trình khẩn hoang đã khiến các phương thức canh tác lúa nước (tự nhiên và gieo trồng), đánh bát thủy hải sản của các tộc người gần như nhau. Tuy có sự khác nhau giữa các tộc người về điều kiện kinh tế nhưng nhìn chung không có sự quá khác biệt về mức độ và kỹ. thuật. n . GIAO LƯU, TIẾP BIÉN VĂN HÓA GIỮA CÁC TỘC NGƯỜI Quá trình khai phá đồng bàng sông Cửu Long ỉà quá trình lao động vất vả của người Kinh với người Khmer, người Hoa, người Chăm và cả người Mạ, người Mnông, người Stiêng... Vì chung cảnh ngộ là những người di cư, thiếu vắng các quan hệ thân tộc nên sợi dây liên kết gán bó giữa con người với con người nơi “miền đất lạ” được lấy 23
- làm trọng. Đất rộng, người thưa, việc khai thác tùy thuộc vào khả năng của từng naười, từng nhóm người với tinh thần hòa hợp và tình đoàn kết thân ái trong mỗi nhóm cũng như trong cả cộng đồng rộng lớn. Vì vậy, trong suốt quá trình khẩn hoang chưa xảy ra vụ tranh chấp lớn vồ đất đai nào giữa các tộc người. Hiện nay. đồng bằng sông Cửu Long với các chủ nhân văn hóa chính là Việt, Khmer, Hoa và Chăm (Islam) cùng sống chung trên một vùng lãnh thổ, có chung một số phận lịch sử nên đã có quá trình giao lưu, tiếp biến vàn hóa lâu dài. Tuy đồrm bàng sông Cửu Long được gọi là ‘‘vùng đất mới”, các íiiá trị văn hóa chưa kịp lắng đọng để cỏ một bề dày như văn hóa sông Hồng, nhưng văn hóa Việl vẫn được nấy chồi bên cạnh văn hóa Khmer, Chăm và Hán hình thành một đặc trưne, văn hóa ricng của 5 vùng sòng nước. Sự tiếp biến sâu sắc tới mức, nếu nhìn bàng Iiiột lát cắt trong văn hóa dân gian của mỗi tộc người, chung ta khó phân biệt được đàu là yếu lố nội sinh, đâu là >011 tố ngoại nhập. Sự tương đồng đó không chỉ thể hiện troiụ: lao dộng sản xuât, trong ăn mặc, trong các phong tục tập quán tang ma, cưới xin, xây cất nhà ở, thc cúng tổ tiên, mà còn biéu hiện trong các truyền thuyết dân gian, trong các loại hình nghệ thuật... - về ngôn ngữ Ở đây diễn ra hiện tượng song ngừ và tam lìgữ. Người Khmer, trừ người già, còn lại dều nghe, hiểu \ à nói được tiếng Việt trong quan hệ xã hội. Người Hoa cũng có nhiều 24
- người nói, n^hc được tiêne Khmer và tiêng Kinh và neượe lại người Kinh cũng vậy, họ cùne có thể nghe và nói tiếng Khmer, tiếng Iỉoaẵ Trong sinh hoạt, 3 ngôn ngữ Kinh - Khmer - Hoa được cả 3 tộc người chuyển từ ngôn ngữ này sang ngôn ngừ kia một cách rất tự nhicn. - Trong lao động sản xuất Người Khmer và người Kinh là cư dân canh tác lúa nước, cùng chia sẻ những kinh nghiệm và kỳ thuật canh tác. Từ việc chọn giống, làm đất, gieo mạ, cày bừa, cấv lúa, bón phân đến thu hoạch cắt lúa bằng lưỡi liềm (Kà liêm), đập lúa trong bồ (Đôk) họ đều làm tương đối giống nhau. Cả người Kinh và người Khmer đều sử dụng hai loại cuốc phổ biến là cuốc tiều và cuốc tai tượne. Cuốc tiều có từ lâu đời, lưỡi dày, nặng, khó găy vì có gờ nối dài ở mặt sau, cán gỗ chácễ Gọi là cuốc tiều vì người Khmer mua ở tiệm người Hoa, người Hoa lại đặt thợ rèn người Kinh làm. Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu, cày có đòn tay, một vài chi tiết cải biến ở đế cày và việc dùng lưỡi cày (Phâldèk - Neangkol) bằng sắt là kết quả của quá trình giao lưu văn hóa Khmer - Việt ở đồng bằng sông Cửu Long cho phù hợp vói thiên nhiên Nam Bộ(1). v ề eiốna lúa, trước kia người Khmer dùng loại Neang pếch đỏ, Neang Pêch khlai, Neang Khmao tâuch (Nàng Đen nhỏ), Ncang Khmao thôn (Nàng Dơn lớn) nhưng ngày nay (cả người Khmer, Kinh, Hoa, (1) Theo Trần Ngọc Khánh và Tài liệu điều tra điền dã ở huyện Mỹ Xuyên tỉnh Hậu Giang tháng 6/1980, Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 25
- Chăm) đà sử dụns thành thạo các giốna lúa mới có năng suất cao như Thần nôn° IR 28, 30, 36, 732... Rồ ràng, sự giao lưu này đà đi vào từng chi tiết của đời sống sản xuất vì lợi ích và hạnh phúc chuns của các tộc người ở đồng bằng sông Cửu Lon£. Ngoài ngôn ngữ và lao động sản xuất, sự giao lưu trong văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần cũng diễn ra mạnh mẽ. Nhà sàn trước đây là nhà truyền thống của người Khmer, nhưng ngày nay một số vùng của người Kinh ở Đồng Tháp, Năm Căn và người Chăm ở Châu Đốc cũng dùng loại nhà này vì phù hợp với điều kiện địa lý của những vùng này. -về tập tục mai táng Nhiều neưừi Kinh, Hoa ở vùng người Khmer cũng hỏa thicu và gửi tro trong tháp của các chùa Khmer. Ngược lại, n£ười Khmer cư trú vùng có đông người Kinh, người Hoa cũng lại địa táng chứ không hỏa thiêu như truyền thống của mình. Ở các vùng cộng cư của người Kinh, Hoa, Khmcr như Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Châu, Bạc Liêu... Họ đều ăn hai cái tết lớn là Tết Nguyên đán và Tết Châul Chhnam Thmei. Trong các ngày lễ tết, các dân tộc đều tiến hành thăm mộ tổ tiên, cúng chùa, thăm hỏi nhau, làm những loại bánh truyền thống. Lễ Thanh minh, người Kinh, người Hoa đi thăm mộ thì người Khmer đi lễ chùa, viếng thập. Trong những gia đình hỗn hợp Kinh - Khmer, Kinh - Hoa hay Khmer - Hoa thì những lễ tết của cả ba tộc người đều không thể thiếu trong đời sống cộng đồng cũng như trong đời sống gia đình. 26
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Góp phần tìm hiểu một số phong tục tập quán các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
244 p | 119 | 14
-
về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền bắc việt nam: phần 1
246 p | 128 | 14
-
về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền bắc việt nam: phần 2
296 p | 122 | 12
-
Bài học và khuyến nghị về an ninh lương thực của các dân tộc thiểu số ở vùng cao Việt Nam và CHDCND Lào
7 p | 99 | 10
-
Sức khỏe và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam - Đoàn Kim Thắng
8 p | 107 | 8
-
Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay
3 p | 149 | 6
-
Sức khoẻ và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
8 p | 85 | 5
-
Chính sách của thực dân Pháp đối với các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
22 p | 42 | 4
-
Sự cần thiết phải điều chỉnh thành phần một số dân tộc và tên gọi dân tộc thiểu số ở Tây Bắc Việt Nam trong một số công trình đã công bố
6 p | 61 | 3
-
Văn hóa các dân tộc thiểu số ở miền Tây Nghệ An trong bối cảnh hiện nay
14 p | 12 | 3
-
Biến đổi trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và công tác bảo tồn, phát huy trong đời sống hiện nay
8 p | 32 | 3
-
Vai trò của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong bối cảnh hội nhập và phát triển
8 p | 9 | 3
-
Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc di cư vào khu vực phía Nam
6 p | 11 | 2
-
Giáo dục nghệ thuật trình diễn dân gian của các dân tộc thiểu số ở Tây Ninh
11 p | 10 | 2
-
Vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên - Một số vấn đề giao đất, giao rừng và định canh, định cư: Phần 2
57 p | 13 | 2
-
Vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên - Một số vấn đề giao đất, giao rừng và định canh, định cư: Phần 1
72 p | 7 | 2
-
Sự tiếp nhận các giá trị mới và sự thay đổi các phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay
9 p | 63 | 2
-
Đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay
15 p | 8 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn