
Các ngân hàng ở Việt Nam dưới góc độ nền kinh tế số
lượt xem 2
download

Bài viết chỉ ra những khó khăn của nền kinh tế số với hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam, trên cơ sở lý thuyết đến phương pháp nghiên cứu. Từ đó, đề xuất một số giải pháp thiết thực và phù hợp hơn để hoàn thiện kinh tế số các ngân hàng trong thời gian tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Các ngân hàng ở Việt Nam dưới góc độ nền kinh tế số
- CÁC NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ NỀN KINH TẾ SỐ Tôn Thất Viên1 1. Trường Đại học Lao động-Xã hội TP.HCM; email: vientonthat@gmail.com TÓM TẮT Bài viết đánh giá kết quả nghiên cứu kể từ sau đại dịch Covid-19, đồng thời chỉ ra những khó khăn của nền kinh tế số với hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam, trên cơ sở lý thuyết đến phương pháp nghiên cứu. Từ đó, đề xuất một số giải pháp thiết thực và phù hợp hơn để hoàn thiện kinh tế số các ngân hàng trong thời gian tới. Từ khoá: kinh tế số, ngân hàng, tác động từ Covid-19. Abstract BANKS IN VIETNAM IN THE VIEW OF THE DIGITAL ECONOMY The article evaluates research results since the Covid-19 pandemic and points out the difficulties of the digital economy with the operations of banks in Vietnam, based on theory to research methods. From there, propose some practical and more appropriate solutions to improve the digital economy of banks in the coming time. Keywords: digital economy, banking, impact from Covid-19. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm tăng vai trò của thông tin, và công nghệ thông tin với tư cách là các nhân tố của đời sống xã hội gây ra sự chuyển đổi sang xã hội thông tin. Sự hình thành của nền kinh tế số như một xu hướng tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội toàn cầu. Các kỹ thuật và công nghệ mới, môi trường thông tin hỗ trợ cho quá trình kinh doanh, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp… ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng tại Việt Nam như một phương tiện thu thập, xử lý và cung cấp thông tin kinh tế về hoạt động của các chủ thể kinh doanh. Theo đó, các vấn đề về nhận thức rủi ro, thực tại và xu hướng phát triển của ngành này trong bối cảnh hiện nay để có những thay đổi, thích ứng cho phù hợp là vấn đề cần được quan tâm. Kinh tế số đã giúp cho ngân hàng thay đổi nhanh mô hình hoạt động, kinh doanh theo hướng hiện đại với độ bao phủ rộng hơn, tiết giảm được chi phí trong hoạt động, giúp người dùng tiếp cận dễ dàng hơn trong các giao dịch ngân hàng. Nhiều sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới giúp cho khách hàng không cần phải đến điểm giao dịch ngân hàng mà có thể truy cập dữ liệu thông qua các thiết bị di động, chuyển tiền điện tử trong và ngoài nước, mua sắm trực tuyến... Tuy vậy, muốn có được kinh tế số đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn về nguồn lực, cũng như sự thay đổi về môi trường pháp lý công nghệ số trong lĩnh vực ngân hàng và bảo mật dữ liệu,vấn đề an ninh mạng. Như vậy rõ ràng là số hóa nền kinh tế, sự phát triển vượt bậc của công nghệ có ảnh hưởng lớn đối với hoạt động ngân hàng. Xuất phát từ Nghị quyết số 154/NQ-CP ngày 23/11/2022 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đặt ra các yêu cầu cấp bách đối với tỉnh Bình Dương trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội dựa trên nền tảng Công nghiệp 4.0. Từ đó, bài viết tập trung vào lĩnh vực ngân hàng hiện 173
- nay, đang phải đối mặt với những thách thức nào, những xu hướng nào làm ảnh hưởng đến tương lai của chúng và để đáp ứng với yêu cầu thực tiễn nền kinh tế số thì những kỹ năng ngân hàng cần phải có là gì, đây là những vấn đề cần được bàn luận và quan tâm để hoạt động ngân hàng không chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Bài viết sẽ làm sáng tỏ các ngân hàng tại Việt Nam dưới góc độ nền kinh tế số. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1. Xu hướng phát triển kinh tế số Theo D.Tapscott khái niệm “kinh tế số” được khởi nguồn vào tháng 11 năm 1994 với sự kiện chíp Pentium – sản phẩm chiến lược của Intel – bị công bố có lỗi vào ngày 30/10/1994 và mãi tới ngày 20/12/1994, Intel mới thừa nhận lỗi được phát hiện. Sự chậm hiểu về thị trường số và hạ thấp vấn đề đã đưa Intel tới một hậu quả đau đớn là phải thu hồi toàn bộ chíp Pentium của hãng. D. Tapscott nhận định rằng câu chuyện về chíp Pentium đánh dấu một bước ngoặt kinh tế mới, theo đó thị trường số (digital markets) là khác biệt lớn so với thị trường truyền thống (physical markets) ở một số khía cạnh: mua sắm so sánh không có giới hạn, các công ty có sản phẩm thực sự khác biệt hoặc hiệu năng giá cả tốt hơn sẽ nhanh chóng nổi lên trên còn những công ty không có sẽ thất bại. Trong các thị trường số, mọi công ty đều đứng ở cùng một ngã tư đường. Sự phát triển nhanh chóng và ứng dụng rộng rãi của Intenet vạn vật vào kinh doanh kéo theo việc hình thành và phát triển tốc độ cao của các hoạt động kinh tế liên quan đã dẫn tới sự đa dạng và phong phú các định nghĩa về kinh tế số. R. Bukht và R. Heeks tổng hợp 21 định nghĩa điển hình về kinh tế số, cho biết định nghĩa đầu tiên về kinh tế số xuất hiện từ năm 1999 và ngày càng có thêm các định nghĩa mới. Các nhà nghiên cứu đồng thuận một nhận định là chưa có một định nghĩa được đồng thuận về kinh tế số. Trên cơ sở nhìn nhận mối quan hệ giữa sự xuất hiện của công nghệ đột phá với sự phát triển lý thuyết kinh tế học và quản lý trong suốt quá trình tiến hóa công nghệ của loài người, X. Zhu cho rằng cộng đồng nghiên cứu về kinh tế số nên cố gắng tạo ra các đột phá nền tảng mới trong nghiên cứu lý thuyết về kinh tế học và quản lý để nắm bắt và phát triển kinh tế số. R. Bukht và R. Heeks nhận thấy các định nghĩa kinh tế số đều bao gồm kinh tế Công nghệ thông tin – truyền thông (khu vực CNTT-TT) cùng một danh mục tiêu dùng/ứng dụng CNTT- TT; chính danh mục này là điểm khác biệt giữa các định nghĩa. Từ đó, hai tác giả trên đề xuất khung khái niệm kinh tế số ba phạm vi là: + Kinh tế số lõi (Core Digital Economy) + Kinh tế số phạm vi hẹp (Digital Economy) + Kinh tế số phạm vi rộng (Digitalised Economy, hay là kinh tế số hóa). Hình 1. Khái niệm kinh tế số theo phạm vi của 2 tác giả R. Bukht và R.Heeks 174
- Như vậy, kinh tế số là một phần của nền kinh tế, phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới, tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc hỗ trợ cung cấp dịch vụ số cho doanh nghiệp, với sự hội tụ công nghệ mới (điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo...) trong bối cảnh CMCN 4.0. Kinh tế số có vai trò ngày càng quan trọng trong cơ cấu của mỗi quốc gia và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Những năm qua, các hoạt động kinh tế số tại Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhanh chóng và được Chính phủ quan tâm, ưu tiên phát triển. Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0 đề ra mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số chiếm tỷ lệ 20% GDP và ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 749/QĐ - TTg phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến 2030”. Điều này cho thấy quyết tâm của lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam đã xác định rõ nhiệm vụ sớm xây dựng chiến lược tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và hướng đến nền kinh tế số. Trong đó, xác định rõ quan điểm tận dụng tối đa lợi thế một nước còn đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, khai thác triệt để thành tựu của cuộc CMCN 4.0. Đối với Việt Nam, cuộc CMCN 4.0 là cơ hội rất quý giá để Việt Nam nhanh chóng đón bắt, tiến thẳng vào lĩnh vực công nghiệp mới, tranh thủ các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến để đẩy nhanh hơn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thu hẹp khoảng cách phát triển. Thực tiễn trong thời gian qua, phát triển kinh tế số nhận được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ, cộng đồng hàn lâm – công nghiệp Việt Nam, nhiều hội thảo đã được tổ chức, nhiều kết quả nghiên cứu đã được công bố, đáng kể là Báo cáo “Tương lai kinh tế số Việt Nam: hướng đến năm 2030, 2045” trong Chương trình Aus4Innovation của Chính phủ Australia nhằm tăng cường các mối liên kết giữa hệ thống đổi mối sáng tạo của Australia và Việt Nam. Kinh tế số đã trở thành xu thế phát triển tất yếu của thế giới và Việt Nam. Tuy Việt Nam có hạn chế là trình độ nền kinh tế thấp, song cũng có một số lợi thế đó là: ổn định chính trị; tiềm năng nguồn nhân lực phù hợp với việc tiếp thu và phát triển các công nghệ số; có khả năng thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài từ các tập đoàn công nghệ đa quốc gia hàng đầu thế giới vì vậy hiện được coi là có năng lực sản xuất rất phát triển trong một số ngành công nghiệp; Việt Nam có một lợi thế khách quan là lân cận một khu vực phát triển kinh tế số thuộc diện nhanh nhất thế giới; Việt Nam có tiềm năng chuyển đổi các lợi thế trên đây thành động lực tăng tốc phát triển kinh tế số. Xây dựng và thực hiện một chiến lược quốc gia kinh tế số phù hợp nhất với Việt Nam theo từng giai đoạn là sự thể hiện rõ ràng nhất cho sự chuyển đổi đó. (6) 2.2. Kinh tế số tác động đến hoạt động ngân hàng 2.2.1. Khái niệm Ngân hàng số Theo Gaurav Sarma (2017), Ngân hàng số (Digital Banking) là một hình thức ngân hàng số hoá tất cả những hoạt động và dịch vụ Ngân hàng truyền thống. Nói cách khác, tất cả những gì khách hàng có thể thực hiện ở các chi nhánh ngân hàng bình thường được số hóa và tích hợp vào một ứng dụng ngân hàng số duy nhất, và thông qua ứng dụng này khách hàng không cần phải đến chi nhánh ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện được tất cả các giao dịch, đồng thời các hoạt động của ngân hàng như quản lý rủi ro, nguồn vốn, phát triển sản phẩm, marketing, quản lý bán hàng…cũng được số hóa. Digital Banking là loại hình ngân hàng kỹ thuật số đòi hỏi cao về công nghệ bao gồm sự đổi mới trong dịch vụ tài chính cho khách hàng và khách hàng thương mại xung quanh các chiến lược di động, kỹ thuật số, AI, thanh toán, RegTech, dữ liệu, blockchain, API, kênh phân phối và công nghệ (American Banker, 2018). Trong khi Online Banking/E-banking là hệ thống dịch vụ ngân hàng điện tử (bao gồm các dịch vụ con như Internet Banking, SMS Banking, Mobile Banking) được tạo ra để bổ sung cho 175
- các dịch vụ trên nền tảng ngân hàng truyền thống thì Digital Banking là một loại hình ngân hàng có ảnh hưởng đến toàn bộ cấu trúc hệ thống của một ngân hàng, từ cơ cấu tổ chức đến quy trình làm việc, sản phẩm dịch vụ, vấn đề pháp lý, chứng từ và phương thức giao dịch với khách hàng. Tuy hình thức hoạt động đều dựa trên Internet nhưng E-Banking là một dịch vụ phát triển thêm vào của ngân hàng, tập trung vào những tính năng chính nhờ chuyển tiền, thanh toán và tra cứu số dư tài khoản. Càn đối với Digital Banking sẽ có tất cả chức năng của một ngân hàng đích thực như đã kể trên, mỗi giao dịch đều tiến hành online và khách hàng có thể gửi yêu cầu, thắc mắc chỉ bằng thiết bị di động. 2.2.2. Ngân hàng số tác động đến hoạt động ngân hàng a. Đối với các ngân hàng - Tiết kiệm chi phí: Theo Olanrewaju (2014), các ngân hàng có thể tăng lợi nhuận EBITDA lên tới 40% bằng cách chuyển sang ngân hàng số. Kết quả tiết kiệm chi phí đến từ tự động hóa các chức năng, loại bỏ các thao tác dư thừa, sử dụng AI thay thế con người trong việc xử lý dữ liệu…Qua đó, các Ngân hàng thậm chí còn có những lợi ích lớn hơn, như có thể truy cập vào cơ sở Dữ liệu lớn hơn và thời gian phản hồi nhanh hơn, chính xác hơn đối với các thay đổi thị trường. Olanrewaju (2014) cũng ước tính rằng chuyển đổi kỹ thuật số sẽ tăng 30% doanh thu của một ngân hàng châu Âu điển hình, đặc biệt là trong các sản phẩm có doanh thu cao nhờ cho vay và thanh toán cá nhân. - Tăng khả năng cạnh tranh: Phát triển ngân hàng số, đặc biệt là sử dụng AI có thể giúp cải thiện hiệu quả hoạt động ngân hàng ban lẻ, tăng cường trải nghiệm khách hàng. AI dựa trên phân tích dữ liệu để tìm hiểu hành vi khách hàng, từ đó đưa ra tư vấn đầu tư cũng như các sản phẩm chuyên biệt được cá nhân hóa theo nhu cầu. AI cũng giúp kết nối khách hàng tốt hơn từ các thông số nhu dữ liệu xã hội, vị trí người dùng... Phát triển ngân hàng số giúp cho Ngân hàng nắm lợi thế cạnh tranh hơn các ngân hàng truyền thống nhờ tận dụng cơ sở khách hàng lớn, kho dữ liệu người dùng khổng lồ, nền tảng công nghệ hiện đại và nhanh chóng (Citigroup, 2018). - Nâng cao hiệu quả hoạt động/khả năng sinh lời của ngân hàng: Theo một số nghiên cứu thực nghiệm ở châu Âu (được trích dẫn bởi Rega, 2017), Campanella và các cọng sự (2015), Scott và các cọng sự (2017) và Rega (2017) bằng phương pháp nghiên cứu định lượng phân tích tác động của ngân hàng số, ngân hàng di động, các công ty khởi nghiệp Fintech đến hiệu quả tài chính của ngân hàng. Các nghiên cứu này tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa đổi mới công nghệ và khả năng sinh lời của ngân hàng. Bên cạnh đó, Tunay và các cọng sự (2015) điều tra sự tương tác giữa ngân hàng trực tuyến và khả năng sinh lời (được đo bằng ROE và ROA), sử dụng nghiên cứu định lượng trên 30 quốc gia châu Âu, cho giai đoạn 2005 - 2013 có bổ sung thêm rằng đối với những nước kém phát triển, mối quan hệ này không thể xác định được, nguyên nhân do thiếu cơ sở hạ tầng và thói quen của khách hàng được coi là yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả. b. Đối với khách hàng - Khách hàng có nhiều lựa chọn hơn: Mỗi một ngân hàng sẽ có phân khúc khách hàng cũng như chính sách khách hàng riêng, và khách hàng sẽ được lợi nhiều hơn khi sử dụng đồng thời nhiều dịch vụ của một ngân hàng, tuy nhiên khi các ngân hàng chuyển đổi sang Ngân hàng số, chính sẽ dễ dàng trong việc tiếp cận các dịch vụ của ngân hàng số đã giúp cho khách hàng có thể nhanh chóng so sánh chất lượng dịch vụ của từng ngân hàng và có sự lựa chọn phù hợp với nhu cầu của mình và dễ chuyển đổi ngân hàng. - Thuận tiện về không gian và nhanh chóng về thời gian: Đối với phần lớn khách hàng đặc biệt là trong thời đại nhiều phương tiện hiện đại và công nghệ phát triển nhanh hiện nay thì các sản phẩm kỹ thuật số rõ ràng là thuận tiện hơn. Không cần phải mất cả buổi 176
- đến một chi nhánh ngân hàng và nộp hồ sơ/tài liệu, điền thủ công một loạt các mẫu biểu, Khách hàng có thể chỉ cần ngồi ở nhà, mất vài phút chọn trên smart phone, sử dụng chữ ký điện tử trên các mẫu đơn và gửi chúng đến ngân hàng qua Internet. - Lợi thế về chi phí: Vì việc chuyển đổi kỹ thuật số sẽ tiết kiệm cho các ngân hàng một lượng tiền đáng kể (từ cắt giảm chi phí vận hành, in ấn, lưu trữ...) và từ đó có cơ sở để chia sẻ chi phí cho khách hàng (giảm lãi suất cho vay/phí dịch vụ) hoặc gia tăng lợi ích cho khách hàng (tăng lãi suất huy động).(3) 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp các thông tin trên trang điện tử của các ngân hàng, các tạp chí chuyên ngành để tìm hiểu về ngân hàng số trong lĩnh vực ngân hàng. Trên cơ sở đó, những kết quả ban đầu được sử dụng vào hoạt động ngân hàng được đánh giá bằng các phương pháp phân tích chi tiết, so sánh và diễn dịch để có cơ sở, làm căn cứ đề xuất một số giải pháp kinh tế số trong lĩnh vực ngân hàng. 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Sau đại dịch Covid, ngành ngân hàng tại Việt Nam đã có một bước tiến phát triển sản phẩm, dịch vụ số, được biểu hiện như sau: - Theo Nguyễn Thị Mỹ Điểm (2021), có nhận xét sau: Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh mẽ trong năm 2021 đã làm thay đổi nhận thức và hành vi của khách hàng, các ngân hàng thương mại vì thế đã thúc đẩy mạnh mẽ các giải pháp phát triển ngân hàng số, nhằm tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường, tuy nhiên vẫn chưa có ngân hàng số thuần túy hoạt động. Có 95% các ngân hàng đã và đang hướng đến xây dựng chiến lược chuyển đổi số, có 88% các ngân hàng lựa chọn chuyển đổi số cả kênh giao tiếp khách hàng và nghiệp vụ nội bộ hoặc số hóa toàn bộ; số ít ngân hàng (6%) dự kiến chỉ số hóa kênh giao tiếp khách hàng. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đã ứng dụng các giải pháp kỹ thuật, công nghệ mới, như điện toán đám mây, phân tích dữ liệu, dữ liệu lớn, tự động hóa quy trình bằng robot, trí tuệ nhân tạo, Blockchain, eKYC, trong các hoạt động nghiệp vụ và cung ứng sản phẩm, dịch vụ để nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng trải nghiệm khách hàng. Các ngân hàng thành lập các bộ phận nghiên cứu phát triển chuyển đổi số, hoàn thiện quy trình chuyển đổi số, cũng như giao tiếp trên ngân hàng số, như: Ngân hàng Tiên Phong (TPBank) cho ra đời ngân hàng livebank; Ngân hàng số Vietcombank, NHTM Cổ phần Nam Á (Nam A Bank) đã cho ra đời không gian giao dịch số tích hợp hệ sinh thái thiết bị hiện đại, ứng dụng trí tuệ nhân tạo với sự xuất hiện của Robot OPBA và chi nhánh số VTM OPBA; NHTM Cổ phần Phương Đông (OCB) đã xây dựng kênh OCB OMNI. Đây có thể nói, sau đại dịch Covid-19 đã tác động mạng đến ngành ngân hàng Việt Nam. Ngoài ra, mô hình hợp tác giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp công nghệ trong lĩnh vực tài chính hay công ty công nghệ Fintech… giúp cho khách hàng trải nghiệm được nhiều dịch vụ tiện ích, thích thú và tiếp cận đa dạng hóa dịch vụ, tiết kiệm thời gian giao dịch và chi phí dịch vụ. Điển hình sự hợp tác giữa VietinBank với Opportunity Network trong cung cấp nền tảng số cho doanh nghiệp; Vietcombank và M-Service hợp tác trong thanh toán chuyển tiền; hợp tác giữa VPBank và Moca trong cung cấp dịch vụ thanh toán số, hay sự kết hợp giữa VIB và Công ty Fintech Weezi cung cấp ứng dụng MyVIB Keyboard giúp khách hàng có khả năng chuyển tiền qua mạng xã hội; Techcombank hợp tác cùng Fastcash đưa ra tính tăng F@st mobile giúp chuyển tiền qua Facebook và Google+, … 177
- Thời gian qua, các NHTM ở Việt Nam đã tích cực, chủ động triển khai chuyển đổi số và đạt được kết quả tích cực. Theo vụ thanh toán Ngân hàng Nhà nước, tính đến hết quý 3 năm 2021, số lượng tài khoản cá nhân là 110.920 nghìn đồng tài khoản với số dư khoảng 794.241 tỷ đồng, số lượng thẻ phát hành 100 triệu thẻ nội địa và 21 thẻ quốc tế. Các giao dịch internet banking và mobile banking cũng được phát triển với số lượng giao dịch của internet banking (8.440.405 tỷ đồng) và 4.993.449 tỷ đồng đối với giao dịch Mobile Banking. Các ngân hàng đều trang bị thiết bị máy ATM máy Post với số lượng giao dịch khá lớn với giá trị giao dịch 513.657 tỷ đồng (ATM) và 139.126 tỷ đồng (POS). Ngoài ra, việc thanh toán không dùng tiền mặt thông qua các phương tiện thanh toán như thẻ ngân hàng, séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, nhờ thu và các phương tiện thanh toán khác ngày càng gia tăng cả về số lượng giao dịch cũng như giá trị giao dịch. Tính đến quý 3/2021, khách hàng sử dụng thanh toán thông qua lệnh chi, ủy nhiệm chi là 34.408.910 tỷ đồng, các hoạt động nhờ thu và ủy nhiệm thu là 1.572.392 tỷ đồng… Với sự phát triển của công nghệ và thay đổi hành vi của người tiêu dùng, ngân hàng số hiện ngày càng được chấp nhận và sử dụng rộng rãi ở Việt Nam.(2) - Theo Bùi Văn Trinh, Phạm Minh Trí (2022), có nhận định: Các NHTM đã đầu tư đổi mới công nghệ va phát triển kênh bán hàng qua công nghệ số như: Internet Banking, Mobile Banking... 100% ngân hàng đã sử dụng ngân hàng lõi (Core Banking), nhiều ngân hàng đã nâng cấp hệ thống ngân hàng lõi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển như: Vietcombank, Eximbank, VPBank... Thực tế cho thấy, hàng loạt các sản phẩm, dịch vụ số được các NHTM mang đến trải nghiệm mới cho khách hàng, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường. TPBank ra mắt dịch vụ “Live Bank” tự động 24/7 (mở tài khoản tiền gửi, quét đầu vân tay, mở the ghi nợ mới). VietinBank ra mắt phiên bản iPay 50 chức năngng mới được tích hợp và cải thiện trải nghiệm của khách hàng thông qua các giao dịch tiêu dùng, tốc độ nhanh chóng và tính bảo mật cao (Bảng 1). Bảng 1. Một số ứng dụng hiện có của các NHTM năm 2022 Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2022 Bằng việc tận dụng sức mạnh của dữ liệu và các công nghệ phân tích dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, học máy, điện toán đám mây... mang tới cho khách hàng những trải nghiệm thú vị, từ quá trình khởi tạo tài khoản trực tuyến với các công nghệ nhận biết, xác thực khách hàng tự động cho đến các sản phẩm ngân hàng dựa trên nhu cầu thực tế, đúng thời điểm của khách hàng. Để đáp ứng được kỳ vọng của khách hàng, các ngân hàng truyền thống phải tích hợp thành công công nghệ số vào hoạt dộng nghiệp vụ, đồng thời tận dụng được các mô hình kinh doanh đổi mới sáng tạo. Một số kết quả ban đầu được ghi nhận từ việc ứng dụng công nghệ số vào hoạt động ngân hàng, mang đến sự trải nghiệm mới cho khách hàng như: 178
- Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo/Học máy/Dữ liệu lớn: Một số ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo đã xuất hiện trong các nghiệp vụ hoạt động như: quản trị nội bộ, cho vay, chatbot, marketing... Một số ngân hàng đã ứng dụng kết hợp công nghệ AI, ML và Big data để đánh giá, phân loại khách hàng và quyết định giải ngân... giúp đơn giản hóa quy trình, thủ tục và rút thời gian giải ngân, cho vay (Trần Hoàng Anh, 2021). VCB- Mobile Banking (Vietcombank), BIDV Smart Banking (BIDV), NamABank ứng dụng AI cho ra mắt không gian giao dịch số và đưa Robot vào sử dụng (Lương Văn Hải, 2021). Ngoài ra, công nghệ AI còn được tích hợp trong ứng dụng Chatbot/Chatbox hỗ trợ chat, tương tác với khách hàng đa kênh: Facebook, Instagram, Website, Zalo... (TPBank, VIB, VietABank). Khách hàng có thể dễ dàng tương tác và quản lý khách hàng ở các kênh trên một màn hình duy nhất. Đặc biệt, VIB kết hợp công nghệ AI với công nghệ xử lý dữ liệu lớn vào quy trình chấm điểm tín dụng và duyệt hạn múc thẻ tín dụng. Bởi với công nghệ sinh trắc học (Biometric): TPBank là ngân hàng đầu tiên áp dụng thành công ứng dụng công nghệ nhận dạng ký tự nhận dạng ký tự quan học để nhận diện khuôn mặt để tạo ra LiveBank, rất nhiều ngân hàng khác cũng đã áp dụng như BIDV, Vietinbank, VIB... (Bảng 2). Bảng 2: Một số ứng dụng công nghệ số của các NHTM năm 2022 Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2022 Vietcombank áp dụng cả công nghệ sinh trắc học và công nghệ mới là Push Authentication cho ra mắt ngân hàng số VCB digital hoàn toàn mới dành cho khách hàng cá nhân, thay thế cho các dịch vụ Internet Banking và Mobile Banking. OCB triển khai thực nghiệm công nghệ nhận diện khuôn mặt và công nghệ OCR – đọc dữ liệu từ hồ sơ khách hàng. Một số công nghệ khác cũng được các NHTM nghiên cứu thử nghiệm, dựa vào hoạt động như công nghệ điện toán đám mây, VPBank ứng dụng nền tảng đám mây - Amazon Web service Cloud cho ra mắt ngân hàng so với tên gọi Yolo. Một số NHTM (LienVietPostBank, Vietinbank, SCB, ACB...) đã ứng dụng công nghệ sổ cái để ghi nhận chi tiết các giao dịch (tài khoản, khách hàng, sản phẩm...) phục vụ cho mục tiêu phân tích đa chiều về thu nhập, chi phí, lợi nhuận... theo yêu cầu quản trị, điều hành (Lê Duy Khánh, 2019). Bên cạnh đó, công nghệ chuỗi khối cũng đang được thử nghiệm và từng bước đưa vào áp dụng như: HSBC thực hiện thành công giao dịch tín dụng thư (L/C) (Lê Thanh Nguyệt và Phùng Duy Quang, 2020), HDBank ứng dụng công nghệ chuỗi khối tham gia kết nối và xử lý các giao dịch tài trợ thương mại (Lương Văn Hải, 2021). Một công nghệ khác luôn được nhắc đến như là công nghệ thiết yếu để ngân hàng chuyển đổi số đó là công nghệ định danh khách hàng điện tử eKYC, hầu hất các NHTM đã triển khai áp dụng công nghệ này, tiêu biểu như: TPBank, VPBank, HDBank, MBBank, LienVietPostBank... 179
- Bên cạnh đó, xu hướng tham gia cung ứng dịch vụ ngân hàng của các Công ty Fintech đã được các NHTM quan tâm. Số lượng các công ty Fintech tham gia cung úng dịch vụ trên thị trường Việt Nam đã tăng hơn hai lần từ con số khoảng 74 công ty cuối năm 2017 lên tới gần 140 công ty cuối năm 2019 (Trọng Đức, 2021). Với Fintech, nhiều mô hình và sản phẩm tài chính số hóa đã xuất hiện như ví điện tử (Mobile wallet), chuyển tiền ngang hàng (Peer-To- Peer transfer), thanh toán di động (Mobile payment), ngân hàng di động (Mobile banking), cho vay ngang hàng (Peer-To-Peer lending), huy động vốn cọng đồng (Equity-based crowdfunding), ngân hàng chuỗi khối và ngân hàng số. Các công ty tham gia vào hoạt động thanh toán, cung cấp cho khách hàng, các nhà bán lẻ các dịch vụ thanh toán trực tuyến hoặc các giai pháp thanh toán kỹ thuật số. Ứng dụng công nghệ số không chỉ do các Công ty fintech vào cuộc, mà nhiều NHTM đã và đang dần chuyển đổi, vận hành trên nền tảng công nghệ hiện đại như: BIDV, Vietinbank, TPBank... đáp ứng yêu cầu phục vụ khách hàng nhanh chóng và thông suốt. Song song với việc đầu tư công nghệ mới, các NHTM còn tăng cường hợp tác với các Công ty Fintech để cung cấp các sản phẩm, dịch vụ số dựa trên nền tảng đa kênh để đảm bảo trải nghiệm phong phú cho khách hàng. Chẳng hạn như sự kết hợp giữa Techcombank và Công ty Fastcash, VIB và Công ty Việt Nam Weezi Digital, VietinBank và Công ty ON (Anh), BE GROUP (Thụy Điển), MB hợp tác và Công ty Boomerang Technology... (Lương Văn Hải, 2021). Nhìn chung, phần lớn các NHTM tại Việt Nam đã ứng dụng công nghệ số vào nghiệp vu hoạt động nội bộ và tạo sự trải nghiệm mới cho khách hàng. Các kênh tương tác, tiếp cận với khách hàng được dựa trên công nghệ số. Chính nhờ vậy, lượng khách hàng tham gia giao dịch thanh toán qua điện thoại di động (tăng trưởng bình quân 87%/năm về lượng giao dịch và 140%/năm về giá trị giao dịch giai đoạn 2015 - 2021) va Internet (tăng trưởng bình quân 44%/năm về lượng giao dịch và 41%/năm về giá trị giao dịch giai đoạn 2015 - 2021) tăng lên nhanh chóng (Trần Hoàng Anh, 2021). Tuy nhiên, do hạn chế về mức độ đầu tư công nghệ và chiến lược chuyển đổi số, việc ứng dụng công nghệ số chỉ được thực hiện tại một số ngân hàng tiên phong, mức độ ứng dụng công nghệ vẫn còn thấp. Để thấy nhất là các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số, ví điện tử... chưa đa dạng về chủng loại.(5) - Theo Đỗ Thị Dinh, Nguyễn Đức Dương (2022), có đánh giá sau: Phần lớn các ngân hàng ở Việt Nam đều có chiến lược số hóa và định hướng phát triển ngân hàng số. Các ngân hàng đều coi chuyển đổi số có ý nghĩa quan trọng sống còn. Do đó, có đến 96% ngân hàng đã và đang xây dựng chiến lược phát triển dựa trên các công nghệ 4.0 và có 92% ngân hàng đã phát triển dịch vụ ứng dụng trên internet và mobile. Hầu hết các ngân hàng Việt Nam đã và đang triển khai chiến lược chuyển đổi số, thành lập riêng bộ phận ngân hàng số tập trung nghiên cứu thực hiện chuyển đổi số. Chẳng hạn, NHTM Cổ phần Nam Á (Nam A Bank) đã cho ra đời không gian giao dịch số tích hợp hệ sinh thái thiết bị hiện đại, ứng dụng trí tuệ nhân tạo với sự xuất hiện của Robot OPBA và chi nhánh số VTM OPBA; Hay như NHTM Cổ phần Phương Đông (OCB) đã xây dựng kênh OCB OMNI. Theo đó, các kênh giao dịch số được kết nối, đồng nhất cho khách hàng trải nghiệm xuyên suốt khi họ có sự chuyển dịch giữa các kênh, giúp khách hàng có thể sử dụng sản phẩm, dịch vụ mà không cần đến phòng giao dịch, … Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng đang bắt đầu triển khai ngân hàng số ở cấp độ quy trình và kênh giao tiếp, chỉ một số ít ngân hàng chuyển đổi số hóa ở nền tảng dữ liệu. Ở khía cạnh quy trình, một số ngân hàng đã hoàn thiện hệ thống giao dịch tự động, ứng dụng một phần dữ liệu lớn, như: NHTM Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), NHTM Cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), NHTM Cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank), NHTM Cổ phần Tiên Phong (TPBank)… Ở khía cạnh giao tiếp, một số ngân hàng đã ứng dụng trí tuệ nhân tạo, học máy và đưa các dịch vụ tư vấn tự động 24/7 thông qua các hội thoại trên website hoặc mạng xã hội của ngân hàng. 180
- Ngày 11/5/2021, Thống đốc NHNNVN đã ban hành Quyết định số 810/QĐ-NHNN về “Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Đây là cơ hội để các ngân hàng đẩy nhanh công cuộc chuyển đổi số và thiết lập hệ sinh thái ngân hàng số một cách toàn diện. Hầu hết các NHTM tại Việt Nam đã coi công nghệ là nền tảng đóng vai trò trung tâm trong việc thiết lập mô hình kinh doanh nhằm cải thiện kết quả hoạt động và nâng cao trải nghiệm khách hàng (mô hình ngân hàng số). Theo số liệu thống kê của NHNNVN (2021), hiện nay, có đến 95% tổ chức tín dụng đã, đang hoặc dự tính sẽ xây dựng chiến lược chuyển đổi số; có 39% tổ chức tín dụng phê duyệt chiến lược chuyển đổi số riêng biệt hoặc tích hợp trong chiến lược phát triển công nghệ thông tin; 42% các tổ chức tín dụng đang hoàn thiện chiến lược chuyển đổi số. Dự kiến trong vòng 3-5 năm tới, các ngân hàng số sẽ có mức tăng trưởng doanh thu tối thiểu là 10% và có 58,1% tổ chức tín dụng đặt kỳ vọng thu hút hơn 60% khách hàng sử dụng kênh giao dịch số, kỳ vọng tỷ lệ tăng trưởng khách hàng đạt trên 50%. Ngoài ra, các ngân hàng đang thực hiện mô hình hợp tác với doanh nghiệp công nghệ trong lĩnh vực tài chính hay các công ty công nghệ lớn. Việc hợp tác này mang lại cho khách hàng nhiều trải nghiệm thú vị, cũng như có khả năng tiếp cận được đa dạng hóa dịch vụ với số lần giao dịch ít hơn. Đồng thời, thông qua sự hợp tác, các ngân hàng đã gia tăng được lượng khách hàng cũng như các chi phí đầu tư công nghệ. Một số thương vụ hợp tác đã diễn ra như VietinBank hợp tác cùng Opportunity Network trong cung cấp nền tảng số cho doanh nghiệp; Vietcombank và M-Service hợp tác trong thanh toán chuyển tiền; hợp tác giữa VPBank và Moca trong cung cấp dịch vụ thanh toán số, hay sự kết hợp giữa VIB và công ty Fintech Weezi cung cấp ứng dụng MyVIB Keyboard giúp khách hàng có khả năng chuyển tiền qua mạng xã hội; Techcombank hợp tác cùng Fastcash đưa ra tính tăng F@st mobile giúp chuyển tiền qua Facebook và Google+;…Việt Nam hiện có khoảng 30 triệu người sử dụng hệ thống thanh toán ngân hàng qua internet mỗi ngày. Tốc độ tăng trưởng về lượng giao dịch trên mobile banking tại Việt Nam là 200%. Giá trị giao dịch tiền với riêng kênh điện thoại di động hiện đạt khoảng 300 nghìn tỷ đồng/ngày.(1) - Theo báo cáo NHNNVN (2022), đánh giá: Thực hiện Quyết định số 1887/QĐ-NHNN ngày 03/11/2022 của NHNN VN phê duyệt “Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ giai đoạn 2022 - 2025” (Quyết định số 1887). Tại Việt Nam, kinh tế số luôn nằm trong top đầu của ASEAN về tốc độ phát triển. Theo báo cáo “e-Conomy SEA 2021” do Tập đoàn Google, Bain (Mỹ) và Temasek (Singapore) phối hợp công bố, nền kinh tế Internet của Việt Nam năm 2021 đạt giá trị 21 tỷ USD, đóng góp hơn 5% GDP của đất nước, cao gấp 7 lần năm 2015, dự kiến đạt 57 tỷ USD năm 2025, đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Tốc độ tăng trưởng năm 2021 đạt 31%, dự kiến sẽ tăng trung bình khoảng 29%/năm đến năm 2025. Báo cáo gần đây của Tổng cục Thống kê cho thấy bức tranh chi tiết hơn. Năm 2021, ước tính kinh tế số Việt Nam đạt khoảng 163 tỷ USD, chiếm khoảng 8,2% GDP cả nước, trong đó, cấu phần kinh tế số công nghệ thông tin và viễn thông đạt 126 tỷ USD, chiếm 5,5% GDP, kinh tế số Internet/nền tảng đạt 14 tỷ USD, chiếm 1% GDP và kinh tế số ngành/lĩnh vực đạt khoảng 23 tỷ USD, chiếm 1,7% GDP. (7) - Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, kinh tế số của Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh, nhiều triển vọng so với khu vực và thế giới. Là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh nhờ vào định hướng phát triển nền kinh tế số, Việt Nam đứng thứ 22/60 về tốc độ số hóa và thứ 48/60 quốc gia có tốc độ chuyển đổi kinh tế số nhanh trên thế giới (2020). Kinh tế số tạo ra không gian phát triển mới, mở ra cơ hội cho Việt Nam phát triển đột phá, nhanh chóng bắt kịp các nước phát triển mới bắt đầu quá trình chuyển đổi số, trong đó vượt bậc là chuyển đổi số ngành ngân hàng Việt Nam. Theo Báo cáo e-Conomy 181
- SEA năm 2020, chỉ tính riêng cấu phần kinh tế số Internet/nền tảng, Việt Nam đã đạt 14 tỷ USD, đứng thứ 3 ASEAN sau Indonesia là nước có doanh thu kinh tế số Internet/nền tảng cao nhất với 44 tỷ USD năm 2020, tiếp theo là Thái Lan với 18 tỷ USD, nhưng là nước có tốc độ tăng trưởng trong lĩnh vực này cao nhất với mức tăng trưởng hai con số đạt 16%, nước có mức tăng cao tiếp theo là Indonesia với 11%, và Thái Lan 7%. Việt Nam là quốc gia có tỷ trọng tổng giá trị hàng hóa kinh tế số lớn nhất trong khu vực, đạt 4% GDP; đứng thứ 2 là Singapore 3,2% GDP; Indonesia 2,9% GDP; Thái Lan và Malaysia 2,7% GDP; Philippines 1,6% GDP (năm 2020). Đối với quy mô nền kinh tế số, Việt Nam xếp thứ 3 trong khu vực, đạt giá trị 9 tỷ USD (sau Indonesia và Thái Lan). Báo cáo này cũng dự báo đến năm 2025, kinh tế số Internet/nền tảng Việt Nam sẽ đạt mức 52 tỷ USD (4). Trong phạm vi nghiên cứu từ thực trạng trên, tác giả rút ra một số điểm khó khăn cho hoạt động này được biểu hiện như sau: Thứ nhất, khuôn khổ pháp lý, tạo cơ sở cho hoạt động và phát triển ngân hàng số vẫn còn thiếu. Chẳng hạn, mảng thanh toán số hiện nay phát triển rất nhanh theo các tiến bộ công nghệ, nhưng các quy định pháp lý lại chưa theo kịp, khiến các NHTM ngại áp dụng công nghệ, dịch vụ mới ngoài khuôn khổ cho phép, ... Thứ hai, các trường hợp gian lận liên quan tới các hoạt động thanh toán số gần đây đang diễn biến ngày càng tinh vi và phức tạp. Năng lực phòng chống gian lận đối với các giao dịch ngân hàng số luôn được các NHTM quan tâm, song vẫn chưa thể tạo sự yên tâm cho khách hàng. Thứ ba, cuộc chạy đua công nghệ trong ngành Ngân hàng với các dự án ngân hàng số cũng góp phần tạo nên nhiều rủi ro tiềm ẩn như rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng… trong vấn đề bảo mật nói chung và mất an toàn thông tin người dùng nói riêng. Năng lực bảo mật thông tin tài chính trong môi trường số còn hạn chế ở Việt Nam. Thứ tư, nhận thức của người dùng khi chưa ý thức về các rủi ro trong giao dịch ngân hàng trực tuyến, coi nhẹ bảo mật thông tin cá nhân; sinh viên, người lao động… cho thuê thông tin, tạo điều kiện cho tội phạm tạo các tài khoản ma, gây khó khăn trong điều tra; các giao dịch, thủ đoạn gian lận ngày càng tinh vi, khó phát hiện… Thứ năm, người Việt Nam vẫn có thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán. Thói quen thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay mới chỉ phổ biến ở các tỉnh, thành phố trung tâm - nơi có các điều kiện hạ tầng công nghệ tốt, trong khi đó, ở vùng sâu, vùng xa thì thanh toán không dùng tiền mặt vẫn đang nằm ở kế hoạch. 5. GIẢI PHÁP VÀ KẾT LUẬN Thời đại kinh tế số là xu hướng tất yếu để các ngân hàng tại Việt Nam phát triển và duy trì lợi thế cạnh tranh. Mặc dù sự phát triển ngân hàng số bước đầu đã thu được một số thành công nhất định, tuy vậy để ngân hàng số của các ngân hàng ngày càng hoàn thiện hơn và được sử dụng rộng rãi, cần có một số giải pháp, cụ thể như sau: - Chính phủ và NHNN ban hành các chính sách về an toàn, bảo mật thông tin trong giao dịch điện tử để bảo vệ lợi ích hợp pháp người tiêu dùng; đồng thời, cần ban hành quy trình thực hiện giao dịch điện tử qua ngân hàng, giám sát các hoạt động ngân hàng số và phòng chống rửa tiền. - Đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng hơn nữa, xây dựng nền tảng dữ liệu liên quan đến công nghệ số. - Phát triển đề án thanh toán trực tuyến, không dùng tiền mặt tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngân hàng số. 182
- - Các ngân hàng đẩy mạnh việc chuyển đổi số hóa hướng đến cung cấp dịch vụ ngân hàng số hoạt động toàn diện, góp phần đáp ứng nhu cầu của khách hàng và sự phát triển của ngành công nghệ ngân hàng. - Tăng cường đào tạo đội ngũ nhân sự để đáp ứng sự phát triển của hoạt động ngân hàng số. - Thông qua các phương tiện truyền thông, các ngân hàng tích cực thông tin đến cho khách hàng hiểu về những lợi ích mang lại của ngân hàng số, để họ tiếp cận, tin tưởng sử dụng dịch vụ, đồng thời các ngân hàng cần xây dựng các lớp bảo mật thông tin để đảm bảo khách hàng, nhưng ở đồng thời các dịch vụ cần dễ sử dụng để tránh gây phiền nhiễu khách hàng. Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết, hy vọng sẽ đóng góp một phần vào sự thành công của Hội thảo sắp tới. Rất mong các nhà khoa học, các bạn đọc quan tâm góp ý được bài viết được phát huy tác dụng, giúp cho quá trình chuyển đổi số của ngân hàng ở khu vực Đông Nam Bộ nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng phát triển trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Thị Dinh, Nguyễn Đức Dương (2022), Triển vọng phát triển ngân hàng số ở Việt Nam trong bố cảnh mới, Tạp chí Công Thương, số 26, 12/2022. 2. Nguyễn Thị Mỹ Điểm (2022), Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ngân hàng số tại thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Công Thương, số 2, (02/2022) 3. Phạm Bích Liên, Trần Thị Bình Nguyên (2018), Phát triển ngân hàng số -Kinh nghiệm quốc tế và giải pháp cho các ngân hàng thương mại Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc gia, tr 72 – 86. 4. Nguyễn Thị Mai (2022), Phát triển kinh tế số: Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc gia, tr 204 – 215. 5. Bùi Văn Trịnh, Phạm Minh Trí (2022), Giải pháp thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, tr.512 – 523. 6. Võ Văn Trọng (2020), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khu vực công thích ứng với bối cảnh nền kinh tế số tại Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo: Kinh tế số: Tác động, cơ hội và khả năng tận dụng của Việt Nam, tr 181-190 7. Trần Thanh (2022), Chuyển đổi số ngành Ngân hàng góp phần hiện thực hóa mục tiêu Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế số, xã hội số; Truy cập tại https://tapchinganhang.gov.vn/chuyen-doi- so-nganh-ngan-hang-gop-phan-hien-thuc-hoa-muc-tieu-chien-luoc-quoc-gia-ve-phat-trien- kinh.htm 183

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
CẤU TRÚC VÀ VẬN HÀNH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
24 p |
2178 |
569
-
Bình luận, giới thiệu hệ thống các biện pháp thận trọng trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
7 p |
355 |
139
-
Làm thế nào những người tiêu dùng trẻ tuổi có thể định hướng được cho các ngân hàng ở Việt Nam
3 p |
337 |
127
-
Bình luận và giới thiệu hệ thống các biện pháp thận trọng trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
6 p |
393 |
110
-
Bài thuyết trình đề tài: Huy động vốn của ngân hàng thương mại
19 p |
732 |
85
-
Quản trị ngân hàng thương mại
76 p |
196 |
41
-
Tính độc lập của ngân hàng trung ương ở Việt Nam
9 p |
188 |
34
-
Đề thi tuyển dụng vào các ngân hàng 2011
8 p |
176 |
33
-
Bài giảng Lý thuyết tiền tệ: Bài 5 - Trung gian tài chính phi ngân hàng
17 p |
177 |
27
-
Bài giảng Nghiệp vụ ngân hàng thương mại: Chương 1 - ĐH Ngân hàng
17 p |
209 |
22
-
Bài giảng Lý thuyết tài chính tiền tệ: Chương 10 - ThS.Đặng Thị Quỳnh Anh
9 p |
91 |
12
-
Bài giảng Quản trị ngân hàng thương mại: Chương mở đầu - ThS. Lương Huỳnh Anh Thư
3 p |
86 |
8
-
Nghiên cứu một số giải pháp thúc đẩy phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
7 p |
9 |
4
-
Các biện pháp pháp lý nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam
7 p |
7 |
2
-
Công nghệ tài chính và tín dụng ngân hàng tại Việt Nam
14 p |
5 |
2
-
Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu ngân hàng số ở Việt Nam
6 p |
8 |
1
-
Fich rating hạ mức tín nhiệm nợ của Việt Nam
5 p |
66 |
1


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
