Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016 Tổng Quan<br />
<br />
<br />
CÁC PHƯƠNG PHÁP THEO DÕI ÁP LỰC NỘI SỌ<br />
Nguyễn Ngọc Anh*, Lê Hoàng Quân**<br />
<br />
GIỚI THIỆU catheter dẫn lưu dịch não tủy (DNT) trong não<br />
thất kết nối với cảm biến áp lực bên ngoài (cảm<br />
Mỗi năm, hàng triệu bệnh nhân (bn) nhập biến biến đổi-strain gauge) để đo ALNS. Kể từ<br />
viện với chẩn đoán tổn thương não sau chấn đó, catheter não thất kết nối với cảm biến bên<br />
thương sọ não (CTSN), đột quỵ, u não và bệnh ngoài đã trở thành tiêu chuẩn vàng cho các thiết<br />
nhiễm trùng. Tăng áp lực nội sọ (ALNS) thường<br />
bị theo dõi(2).<br />
gắn liền với những tổn thương này và ảnh<br />
Cho đến nay, chưa có một thử nghiệm lâm<br />
hưởng đến kết quả lâm sàng(1).<br />
sàng ngẫu nhiên nào cho thấy theo dõi ALNS<br />
Vào cuối thập niên 1960, Jennett báo cáo tỉ lệ giúp cải thiện kết quả, mặc dù số lượng ngày<br />
tử vong của CTSN là 52%. Đến năm 1991,<br />
càng tăng của các nghiên cứu đã cho thấy liệu<br />
Marshall phân tích dữ liệu từ Traumatic Data pháp điều trị tích cực định hướng ALNS (giữ<br />
Coma Bank và ghi nhận tỉ lệ tử vong của CTSN<br />
ALNS 20 còn có một thay đổi đáng kể về số lượng bn có<br />
mmHg trong thời gian nằm viện và các bn này có kết quả trung bình/tốt. Bn bị khuyết tật nặng đã<br />
kết quả xấu hơn so với bn có ALNS 9 với tổn thương choán chỗ theo dõi ALNS Catheter dưới màng cứng với hệ thống đo dịch hoặc đầu cảm<br />
có thể có lợi hoặc bệnh nhi khó theo dõi đánh giá thần kinh biến<br />
Theo dõi ở bề mặt ít chính xác Catheter dưới nhện với hệ thống đo dịch<br />
Catheter ngoài màng cứng<br />
Bn XHN có GCS ≤8 có bằng chứng lâm sàng thoát vị qua lều Dẫn lưu não thất với catheter sợi quang trong não thất<br />
hoặc xuất huyết não thất hoặc dãn não thất đáng kể. Catheter trong nhu mô não<br />
Câu hỏi còn tồn tại là tại sao bác sĩ vẫn quyết viên thần kinh cho rằng kĩ thuật theo dõi không<br />
định không theo dõi ALNS? Bác sĩ sẽ không điều chính xác và có nhiều nguy cơ? Có các kĩ<br />
trị tăng huyết áp hệ thống nếu không đo trực thuật/thiết bị khác cung cấp cho họ các thông tin<br />
tiếp HA, vậy tại sao một số bác sĩ điều trị tăng cần thiết (ví dụ khám thần kinh, chụp cắt lớp vi<br />
ALNS mà không đo trực tiếp ALNS? Do không tính)? Hay là họ cho rằng việc theo dõi không cải<br />
có phẫu thuật viên thần kinh? Hay là phẫu thuật<br />
<br />
<br />
30<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016 Tổng Quan<br />
<br />
thiện được kết quả của bn (do không có thử TỔNG QUAN<br />
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên)?<br />
Các phương pháp theo dõi ALNS xâm lấn<br />
Mặc dù, đo ALNS được cho là một phần cực<br />
Kể từ khi Lundberg đầu tiên chủ trương theo<br />
kỳ quan trọng của điều trị phẫu thuật thần kinh,<br />
dõi ALNS, việc sử dụng catheter não thất kết nối<br />
nhưng phải mất gần 50 năm chứng minh lợi ích<br />
với cảm biến biến đổi bên ngoài đã được coi là<br />
của các phương pháp này và có thể được chấp<br />
tiêu chuẩn vàng hoặc tiêu chuẩn tham chiếu cho<br />
nhận đưa vào thực hành lâm sàng thần kinh ở<br />
việc theo dõi ALNS. Là tiêu chuẩn vàng không<br />
nhiều bệnh viện. Hiện nay, nghiên cứu về các<br />
phải luôn luôn có nghĩa rằng phương pháp này<br />
phương pháp theo dõi ALNS vẫn chưa đầy đủ<br />
là kĩ thuật đánh giá chính xác nhất, nhưng nó là<br />
nhưng chủ yếu bao gồm: (1) Các kĩ thuật xâm<br />
kĩ thuật đã được thử nghiệm kiểm tra đối chiếu.<br />
lấn đo trực tiếp ALNS ở các vị trí giải phẫu khác<br />
Những điểm mạnh và điểm yếu của các kĩ thuật<br />
nhau nội sọ (trong não thất, dưới màng cứng,<br />
thường dùng nhất được sử dụng để theo dõi<br />
dưới màng nhện và trong nhu mô não). Mặc dù,<br />
ALNS bao gồm: catheter não thất trong dẫn lưu<br />
các kĩ thuật này có độ chính xác cao nhưng liên<br />
não thất (DLNT), cảm biến sợi quang học, cảm<br />
quan nhiều đến các biến chứng xuất huyết và<br />
biến vi mạch (cảm biến train-gauge) và kĩ thuật<br />
nhiễm trùng. (2) Các kĩ thuật không xâm lấn đo<br />
bóng khí (air pouch technology)(4).<br />
gián tiếp ALNS như siêu âm Doppler xuyên sọ,<br />
đo độ rung màng nhĩ (tympanic membrane Có thể theo dõi ALNS tại một số vị trí nội sọ<br />
displacement), đo đường kính bao thần kinh thị gồm trong não thất, nhu mô, dưới màng cứng,<br />
giác (optic nerve sheath diameter) và soi đáy mắt dưới màng nhện hay ngoài màng cứng, tuy<br />
có thể hoàn toàn tránh các biến chứng nhưng nhiên mỗi vị trí có độ chính xác rất khác nhau.<br />
hiện nay không có kĩ thuật nào nói trên đủ chính Áp lực có thể thay đổi trong các khoang nội sọ:<br />
xác để sử dụng trong môi trường theo dõi và não và DNT, trên lều và dưới lều, giữa 2 bán cầu.<br />
điều trị tích cực(8). Bởi vì thành phần nội sọ không đồng nhất, áp<br />
lực khác nhau thậm chí trong trường hợp không<br />
Mỗi loại thiết bị tùy thuộc vào vị trí nội sọ và<br />
có bệnh lí thì đó là kết quả của mật độ mô và<br />
phương pháp truyền áp lực có những ưu và<br />
mao mạch, mặc dù sự khác nhau có thể không<br />
nhược điểm của nó. Một thiết bị tối ưu sẽ đáp<br />
đáng kể. Từ khoảng đầu thế kỷ, Harvey Cushing<br />
ứng được các yêu cầu đặc biệt khác nhau gồm:<br />
cho rằng áp lực không phân bố đồng đều khắp<br />
độ chính xác tuyệt đối của phép đo (dung sai),<br />
não, tuy nhiên cho đến ngày nay các bác sĩ vẫn<br />
các giá trị liên tục kịp thời của phép đo (độ lệch),<br />
còn đang tiếp tục tranh luận về vấn đề này. Các<br />
phụ thuộc ít từ các phép đo trước hoặc kế tiếp<br />
nhà nghiên cứu đã xem xét khái niệm về sự<br />
(độ trễ), độ chính xác của các phép đo lặp lại (giá<br />
phân chia khoang nội sọ (compartmentalization)<br />
trị), và độ chính xác của giá trị tuyệt đối phụ<br />
trong gần 50 năm và vẫn có các kết quả khác<br />
thuộc vào độ lớn của giá trị (tuyến tính). Nhiệm<br />
nhau(8).<br />
vụ phát triển các phương pháp lí tưởng đo<br />
ALNS vẫn còn rất khó khăn, vì ngoài độ chính Gần đây các nhà nghiên cứu như Wolfa ghi<br />
xác nó còn phải an toàn và đơn giản (North và nhận trên mô hình lợn có áp lực mô khác nhau<br />
Reilly, 1990)(3). trong 6 vùng của não: thùy trán 2 bên, thùy thái<br />
dương 2 bên, não giữa và tiểu não, trước và sau<br />
Bài viết này tóm tắt y văn về các phương<br />
khi bơm căng bóng chèn trong khoang ngoài<br />
pháp theo dõi ALNS và thảo luận về các mối lo<br />
màng cứng. Năm 2002, Ambrosio cũng ghi nhận<br />
ngại của các bác sĩ lâm sàng về kĩ thuật theo dõi,<br />
có sự khác biệt đáng kể của ALNS giữa hai bán<br />
độ chính xác và biến chứng của từng phương<br />
cầu ở loài linh trưởng khi thể tích nhồi máu vượt<br />
pháp.<br />
quá 20%. Sahuquillo báo cáo có chênh áp ở bn<br />
<br />
<br />
<br />
31<br />
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016<br />
<br />
CTSN khi theo dõi ALNS ở 2 bán cầu. Và xác giải phẫu khác nhau: trong não thất, trong nhu<br />
định có 3 mẫu hình đáp ứng: (1) áp lực đồng mô não, ngoài màng cứng, dưới màng cứng, và<br />
nhất với sự khác nhau tối thiểu giữa hai bán cầu dưới nhện. Ngoài ra, có thể đo ALNS bằng chọc<br />
(khoảng 2mmHg), (2) độ bù trừ/dãn nở ở mỗi tủy sống thắt lưng ở những bn có đường DNT<br />
bán cầu khác nhau nhưng đáp ứng đồng bộ với thông ở một số trường hợp (hình 1).<br />
can thiệp, và (3) áp lực ở mỗi bán cầu khác nhau Trong não thất<br />
nhưng có đáp ứng độc lập với kích thích và can<br />
DLNT ngoài (external ventricular drainage)<br />
thiệp. Năm 2003, Slavin và Misra nghiên cứu sự<br />
khác nhau giữa áp lực ở trên lều và dưới lều trên Theo dõi xâm lấn bằng cách sử dụng kĩ thuật<br />
5 bn tổn thương dưới lều. Họ đặt một DLNT để DLNT (DLNT) bằng một catheter đặt vào một<br />
theo dõi áp lực trên lều và một catheter trong trong các não thất thông qua một lỗ khoan sọ,<br />
nhu mô tiểu não để theo dõi áp lực dưới lều. Kết được coi là tiêu chuẩn vàng trong theo dõi ALNS<br />
quả áp lực trong khoang dưới lều cao hơn ở 4/5 mà tất cả các phương pháp khác phải so sánh với<br />
bn (1 máu tụ trong não, 3 XHDN) và thấp hơn ở nó để tham chiếu. Tuy nhiên, phương pháp đo<br />
1 bn (phá nang - cyst fenestration) với áp lực ALNS khác như catheter trong nhu mô não được<br />
khác nhau từ 2-8 mmHg. Những hiện tượng này ưu tiên hơn trong những trường hợp chọn lọc,<br />
đã được nghiên cứu trong nhiều năm qua với đặc biệt hữu ích trong những tình huống não<br />
kết quả khác nhau có thể là do sự đa dạng của thất nhỏ hoặc xẹp kèm theo phù não đáng kể. Sử<br />
các kĩ thuật sử dụng để theo dõi áp lực. Theo dõi dụng một khóa 3 đầu, một trong những đầu tận<br />
ở bề mặt (dưới màng cứng, ngoài màng cứng và bên ngoài sọ được sử dụng để dẫn lưu ngắt<br />
dưới màng nhện) không đại diện cho áp lực ở quãng DNT, và đầu khác có thể gắn với một bộ<br />
các mô sâu hơn. Vị trí của catheter trong nhu mô chuyển đổi áp lực qua ống chứa đầy nước muối<br />
và não thất trong bệnh lí cho các mức áp lực để ghi ALNS liên tục. Catheter cũng có thể sử<br />
khác nhau, catheter nằm càng gần tổn thương thì dụng để truyền thuốc vào DNT như thuốc tan<br />
cho mức ALNS cao hơn(4). huyết khối trong trường hợp XHN thất hoặc cục<br />
máu đông ở gần catheter, hoặc sử dụng kháng<br />
sinh trong trường hợp viêm não thất(2).<br />
Kĩ thuật đặt DLNT truyền thống là qua lỗ<br />
khoan sọ tại điểm Kocher và đầu của DLNT đặt<br />
trong não thất 3, các phương pháp thay thế như<br />
lỗ khoan sọ kiểu Frazier (đính-chẩm), điểm Keen<br />
(đính-sau) và điểm Dandy (chẩm) là lựa chọn<br />
thứ hai. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn còn đang<br />
được tranh luận, và vẫn chưa có sự đồng thuận<br />
chung trong lĩnh vực này(3).<br />
Điểm tham chiếu cho cảm biến bên ngoài là lỗ<br />
của Monro, vì nó gần trung tâm của đầu - 2cm<br />
trên thóp trên trước là điểm đánh dấu. Trung<br />
điểm đường nối hai ống tai ngoài là một điểm<br />
Hình 1: Các vị trí có thể theo dõi ALNS. “Nguồn tham chiếu thích hợp khác, mặc dù hơi nằm phía<br />
Ristic, 2015, Journal of Neuroanaesthesiology and Critical sau của lỗ gian não thất. Vài tác giả khác sử dụng<br />
Care”<br />
ống tai ngoài (Kosteljanetz, 1987). Dù sử dụng bất<br />
Tóm lại, tùy vào kĩ thuật các phương pháp cứ điểm tham chiếu nào thì mức cảm biến bên<br />
xâm lấn đo ALNS có thể thực hiện ở các vị trí ngoài cần thay đổi khi thay đổi tư thế đầu BN.<br />
<br />
<br />
32<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016 Tổng Quan<br />
<br />
Để có phép đo trong não thất chính xác đòi của dẫn lưu DNT (mở dẫn lưu trong 3 phút, dẫn<br />
hỏi vị trí của catheter phải ở trong não thất bên, lưu đặt ở mức lỗ Monro), mannitol (25 gam tĩnh<br />
và điều này có thể là một quy trình kĩ thuật khó mạch trong 5 phút) và tăng thông khí (giảm<br />
khăn trong trường hợp não thất hẹp hoặc dịch PaCO2 khoảng 5 mmHg) trên tăng ALNS (ALNS<br />
chuyển. Tổn thương hạch nền có thể xảy ra trực >15 mmHg trong 5 phút) và LLMN, sử dụng<br />
tiếp do bệnh lí hoặc do những cố gắng để đưa SjO2 là đại diện cho LLMN. Ông thấy rằng mặc<br />
catheter vào trong não thất. Tùy vào kích thước dù tất cả phương pháp điều trị đều hạ ALNS,<br />
não thất, đặt DLNT có thể khó khăn đặc biệt ở nhưng chỉ mannitol cải thiện LLMN. Dẫn lưu<br />
những bn trẻ với hệ thống não thất rất hẹp (hình DNT làm giảm mạnh nhất ALNS, nhưng tác<br />
2a). Ở người già, chúng ta thường thấy hệ thống dụng này thường thoáng qua. Nghiên cứu này<br />
não thất mở rộng do teo não theo tuổi (hình 2b). cho rằng cường độ và thời gian kéo dài mà<br />
ALNS được kiểm soát bởi dẫn lưu DNT có thể<br />
liên quan đến độ bù trừ/dãn nở nội sọ. Bù trừ nội<br />
sọ (intracranial compliance) là khả năng thích<br />
ứng của khoang nội sọ với những thay đổi về thể<br />
tích và được thể hiện là sự thay đổi về thể tích<br />
chia cho sự thay đổi áp lực. Nếu bù trừ nội sọ bị<br />
giảm, một sự tăng nhẹ thể tích sẽ dẫn đến một sự<br />
tăng lớn áp lực. Bù trừ được đánh giá bằng cách<br />
thêm hoặc bớt DNT và quan sát sự thay đổi<br />
Hình 2: Kích thước não thất khác nhau giữa bn trẻ (a) cường độ của ALNS(2).<br />
và bn lớn tuổi (b). “nguồn Raboel, 2012, Critical Care Kerr trong hai nghiên cứu, xem xét đáp<br />
Research and Practice”<br />
ứng liều từ việc bỏ bớt thể tích nhỏ DNT (1, 2<br />
Trong quá trình dẫn lưu DNT dài hạn thông<br />
và 3ml). Ông phát hiện thấy có sự cải thiện<br />
qua DLNT, sự chèn ép hệ thống não thất do phù<br />
tiến triển có thể gây nghẽn catheter DLNT. nhỏ ALNS và ALTMN, nhưng sự cải thiện đó<br />
Ngoài ra, đặt DLNT có thể được chỉ định để dẫn không bền vững. Không cải thiện LLMN hay<br />
lưu xuất huyết sau chấn thương. Đối với những bảo hòa oxy não. Những kết quả này lại trái<br />
trường hợp xác định có một khối bất thường gây ngược với niềm tin phổ biến rằng dẫn lưu<br />
tăng ALNS và DLNT được chèn vào để làm DNT sẽ cải thiện dòng máu não và bảo hòa<br />
giảm áp lực. Trường hợp này cần thận trọng vì<br />
oxy não. Trong nghiên cứu này, cường độ<br />
khi dẫn lưu DNT cấp tính có thể di chuyển các<br />
giảm ALNS và tăng ALTMN liên quan tới thể<br />
cấu trúc trong não và trong trường hợp nặng có<br />
thể gây thoát vị não. tích, với giảm ALNS trung bình là 2,4-4,5<br />
<br />
Một lợi thế lớn của phương pháp sử dụng mmHg ALNS và tăng tương ứng ALTMN<br />
DLNT để theo dõi ALNS là cũng có thể sử dụng trong phút đầu tiên và sự thay đổi này là 1-2,6<br />
để điều trị tăng ALNS bằng cách dẫn lưu DNT. mmHg tại 10 phút. Kerr chọn mức tăng thể<br />
DNT đóng một vai trò quan trọng trong kiểm tích nhỏ này bởi vì hiện đang sử dụng nó<br />
soát ALNS. Người ta cho rằng giảm thể tích trong thực hành lâm sàng. Không đáp ứng với<br />
DNT làm tăng lưu lượng máu não (LLMN) và<br />
dẫn lưu DNT được cho là lớn hơn ở bn CTSN<br />
do đó cải thiện tưới máu não. Tuy nhiên, đáng<br />
với XHDN và bn nằm ở vùng thấp đoạn cuối<br />
ngạc nhiên là một số nghiên cứu đã xem xét hiệu<br />
quả của dẫn lưu DNT trên ALNS và LLMN với trên đường cong thể tích-áp lực với thể tích<br />
kết quả mâu thuẫn. Fortune nghiên cứu tác động DNT nhỏ (ví dụ bn CTSN). Bn có thể tích DNT<br />
<br />
<br />
<br />
33<br />
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016<br />
<br />
<br />
lớn hơn (bn XHDN và bn bị dãn não thất tắc tìm kiếm các thiết bị thay thế khác và vị trí<br />
nghẽn) có thể có một đáp ứng tốt hơn đối với khác để theo dõi ALNS.<br />
dẫn lưu DNT. Nghiên cứu này cho thấy mặc Kĩ thuật đo bằng hệ thống lấp đầy dịch (fluid-filled<br />
dù dẫn lưu DNT có thể hạ thấp ALNS. Tuy system)<br />
nhiên, hiệu quả này có thể chỉ thoáng qua ở Có một số yếu tố quan trọng để có được một<br />
một số bn và không cải thiện tưới máu hoặc phép đo chính xác bằng hệ thống đo dịch. Bao<br />
gồm loại catheter phù hợp trong điều kiện cơ thể<br />
bảo hòa oxy não.<br />
(in situ), co dãn thấp, không bị tắc ống và kết nối<br />
Phẫu thuật đặt DLNT được xem là một thủ đầu dò thích hợp với monitor tại giường.<br />
thuật nhỏ với nguy cơ thấp, hiện nay đo ALNS Catheter nhỏ, kích thước lòng ống (4 feet) sẽ làm giảm áp lực đo dẫn đến đánh giá<br />
phải xuyên thủng vào màng não và não, đưa thấp ALNS. Các mảnh vỡ trong catheter hoặc<br />
vào các nguy cơ lây nhiễm vi khuẩn qua hệ ống dẫn (mô não, cục máu đông) và tăng độ<br />
thống kết nối dịch. Đặt catheter não thất có thể nhớt của dịch (máu, nhiễm trùng, tăng hàm<br />
khó khăn khi có chèn ép hoặc dịch chuyển não lượng protein) cũng có thể ảnh hưởng đến phép<br />
thất. Trong trường hợp này, dạng sóng ALNS đo. Bóng khí trong đầu dò, ống dẫn, hoặc khóa<br />
có thể bị cụt và giá trị ghi được có thể thấp do van sẽ làm giảm thấp dạng sóng áp lực, có khả<br />
artifact. Rò DNT có thể xảy ra tại cổng vào của năng dẫn đến sai số phép đo. Bộ chuyển đổi phải<br />
catheter ở ngoài da qua khóa van, hoặc do được đặt ở vị trí lỗ Monro và zero lại (rezero)<br />
thủng rách catheter dẫn đến giá trị ALNS sai đều đặn để duy trì độ chính xác. Các đầu dò hiện<br />
và thấp. Tất cả các khớp nối trong hệ thống đo nay có độ lệch ±2 mmHg mỗi 8 giờ.<br />
phải chứa đầy nước, nếu không thì “vi rò rỉ” sẽ<br />
làm mất hiệu lực giá trị của phép đo. Do đó, mỗi<br />
phần trong hệ thống phải được kiểm tra định kỳ.<br />
Đôi khi, catheter bị tắc và có thể khắc phục bằng<br />
cách bơm một lượng nhỏ nước muối vô trùng.<br />
Tuy nhiên, nên tránh bơm lặp lại vì đó là nguy<br />
cơ thực sự của nhiễm trùng. Bóng khí, cục máu<br />
đông, não hoặc các mảnh vỡ khác đều có thể<br />
gây ảnh hưởng tới sự truyền sóng áp lực từ<br />
não thất đến bộ cảm biến áp lực bên ngoài dẫn<br />
đến giá trị ALNS không chính xác(2).<br />
Vị trí bộ cảm biến cần phải điều chỉnh Hình 3: Hệ thống đo ALNS cổ điển thông qua<br />
theo mức thay đổi đầu bn để đảm bảo giá trị DLNT: (a) Kết nối với dẫn lưu. (b) Mức zero (nên đặt<br />
áp lực tin cậy. Dẫn lưu DNT và đo ALNS cao ngang tai bn) và 1 khóa 3 đầu nối với cảm biến áp<br />
cùng 1 lúc sẽ làm giá trị ALNS thấp không lực. (c) Buồng nhỏ giọt, điều chỉnh chiều cao trên zero<br />
chính xác so với ALNS thực tế. Điều này đòi để dẫn lưu DNT. Tùy vào vị trí khóa van có thể đo áp<br />
hỏi phải có hai phép đo thực hiện một cách lực hoặc dẫn lưu DNT. (d) Túi chứa DNT. “nguồn<br />
riêng biệt. Nguy cơ tiềm ẩn do lạc chỗ, nhiễm Brenda Morgan, 2013, LHSC”<br />
trùng, chảy máu và tắc nghẽn dẫn đến phải<br />
<br />
<br />
34<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016 Tổng Quan<br />
<br />
Nếu đầu dò và DLNT ngoài không được Mặc dù, nguy cơ nhiễm trùng và chảy máu là<br />
tham chiếu theo lỗ Monro một cách chính xác thấp nhưng các thiết bị này khá dễ bị lỗi bao<br />
bằng cách đo mức cân bằng (leveling) theo kĩ gồm đánh giá ALNS thấp, bắt vít sai vị trí và tắc<br />
thuật carpenter, bubble-line, hoặc laser có thể nghẽn bởi các mảnh vụn(3).<br />
gây ra lỗi rất lớn. Mỗi cm độ lệch trên hoặc Dưới màng cứng<br />
dưới điểm tham chiếu sẽ dẫn đến bị lỗi 0,73<br />
Vít sọ rỗng (vít Richmond) được sử dụng<br />
mmHg(4).<br />
rộng rãi trong nhiều trung tâm (Hình 4). Đã có<br />
Kĩ thuật đo catheter não thất với cảm biến strain- nhiều thay đổi để đạt được một cấu tạo nhỏ hơn,<br />
gauge bên ngoài khả năng tương thích với CT scan, nhiều lỗ bên<br />
Catheter não thất gồm một ống thông đặt hơn (vít Leeds) và phiên bản trẻ em . Các thiết bị<br />
trong sừng trước não thất bên. Thường thì các này rất đơn giản để gắn vào nhưng chúng có xu<br />
catheter này được tạo đường hầm dưới da đầu hướng bị tắc, cho sóng cụt, không chính xác. Ở<br />
một đoạn ngắn trước khi đi vào lỗ khoan sọ, áp lực cao, các vít dưới màng cứng có xu hướng<br />
những loại khác được cố định bằng vít sọ. đọc thấp hơn so với catheter não thất . Độ chính<br />
Đường hầm dưới da đầu được cho là làm giảm xác là một vấn đề lớn và là lí do chính làm giảm<br />
nhiễm trùng (vấn đề nhiễm trùng sẽ thảo luận sử dụng phương pháp vít rỗng . Catheter dưới<br />
sau trong phần biến chứng). Catheter gắn liền màng cứng có thể có ích khi không đặt được<br />
với ống nối cảm biến áp lực hay “ống áp lực” catheter não thất, nhưng nó cũng có thể đánh giá<br />
được làm đầy bằng dung dịch nước muối và kết ALNS thấp hơn thực tế(3).<br />
nối với một cảm biến strain-gauge. Cảm biến<br />
được hiệu chỉnh hoặc zero tại điểm tham chiếu<br />
bên ngoài ngang mức lỗ Monro.<br />
Cảm biến strain-gauge bên ngoài nối với<br />
catheter DLNT để đo áp lực truyền từ DNT<br />
trong não thất. Những cảm biến này thường đo<br />
điện trở (electrical resistance) từ thay đổi sức<br />
căng trên chiều dài của lá kim loại mỏng. Cảm<br />
biến áp lực strain-gauge nằm trên đỉnh của<br />
màng cơ khí. Áp lực trong catheter não thất và<br />
ống áp lực dẫn dịch cũng chính là ALNS ở phía Hình 4: Vít dưới nhện. “nguồn Re-Owned.com, 2012 và<br />
cram.com, 2010”<br />
bên kia màng chắn. Thay đổi ALNS làm thay đổi<br />
áp lực tác động lên màng chắn và do đó tạo ra Gần đây, người ta sử dụng các kĩ thuật hiện<br />
sức căng trên cảm biến. Một mạch điện đơn giản đại hơn như catheter sợi quang hoặc vi cảm biến<br />
được sử dụng để đo điện trở của cảm biến này strain-gauge để đo ALNS dưới và ngoài màng<br />
và nó tỉ lệ thuận với ALNS(3,4). cứng. Một so sánh giữa đặt cảm biến áp lực<br />
ngoài màng cứng và dưới màng cứng cho thấy<br />
Dưới màng nhện<br />
giá trị ALNS thấp hơn khi đo ở khoang dưới<br />
Hệ thống này kết nối khoang nội sọ với bộ màng cứng, nhưng gần bằng nhau khi đo giá trị<br />
cảm biến bên ngoài qua 1 ống thông. Vít dưới ALNS trên 20mmHg . Trong một nghiên cứu<br />
nhện là một vít rỗng gắn vào hộp sọ tiếp giáp với mới đây so sánh áp lực DNT thắt lưng với ALNS<br />
màng cứng. Khi đục thủng màng cứng cho phép ngoài màng cứng và dưới màng cứng đã kết<br />
DNT lấp đầy vào vít và áp lực của chúng cân luận ALNS cao hơn trong khoang ngoài màng<br />
bằng nhau. Sau đó ống chứa chất lỏng kín này sẽ cứng là do áp lực sinh lí khác nhau trong hai<br />
chuyển áp lực trong khoang này tới bộ cảm biến. ngăn và không phải do yếu tố kĩ thuật(3).<br />
<br />
<br />
35<br />
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016<br />
<br />
Nếu cần sử dụng trong điều trị tích cực, các Catheter sợi quang (fiber optic)<br />
cảm biến ngoài màng cứng có thể xem xét sử Thiết bị cảm biến áp lực sợi quang bao<br />
dụng nếu không nghi ngờ có tăng ALNS cục bộ gồm 2 loại “điều biến cường độ/ intensity<br />
có khả năng gây ra chênh áp giữa các khoang. modulation” và “giao thoa/ interferometry” .<br />
Tuy nhiên, điều này là hiếm và theo dõi trong Cảm biến chính sử dụng một màng cơ khí,<br />
nhu mô hoặc não thất nên được xem là lựa chọn màng này chuyển động khi có thay đổi áp<br />
tiêu chuẩn. suất. Trong điều biến cường độ, sự dịch<br />
Ngoài màng cứng chuyển của màng (và cũng là áp lực) làm thay<br />
Theo dõi ALNS từ khoang ngoài màng cứng đổi cường độ ánh sáng phản chiếu từ mặt sau<br />
là một khái niệm hấp dẫn khi không phải chọc của nó. Trong giao thoa, dịch chuyển của<br />
thủng màng cứng, và việc đặt các thiết bị theo màng được cảm nhận bằng cách đo tỉ lệ cường<br />
dõi rất dễ dàng và có tỉ lệ nhiễm trùng và chảy độ ánh sáng quay trở lại trong 2 dãi thông phổ<br />
máu thấp. Tuy nhiên, các thiết bị này dễ bị (spectral bandwidth). Tỉ lệ này là một hàm của<br />
hỏng/trục trặc, lạc chỗ, bị sút/tụt sau một vài sự nhiễu quang phổ (spectral interference)<br />
ngày sử dụng liên tục. thay đổi theo sự dịch chuyển của màng(3).<br />
Vấn đề kĩ thuật liên quan đến độ cứng và<br />
không đàn hồi của màng cứng và đòi hỏi cảm<br />
biến phải nằm ngang (đồng phẳng) trên màng<br />
cứng. Thật không may là các bất thường của<br />
màng cứng và bản trong hộp sọ khá phổ biến.<br />
Nếu không đạt được đồng phẳng, áp lực và sức<br />
căng màng cứng có thể làm sai lệch phép đo và<br />
ghi sai áp lực cao . Kết quả thiếu chính xác này là<br />
do màng cứng không đàn hồi do đó khi áp lực từ<br />
DNT truyền đến cảm biến bị thiếu chính xác chứ<br />
không phải do thiết bị không chính xác. Phương<br />
pháp ngoài màng cứng hiện nay ít sử dụng vì lí Hình 5: Catheter sợi quang. “nguồn Raboel, 2012,<br />
do này(3). Critical Care Research and Practice”<br />
Trong nhu mô não Đầu dò thu nhỏ này được phát triển từ đầu<br />
dò nội mạch, trong đó đầu dò Camino là một ví<br />
Catheter với đầu dò vi cảm biến<br />
dụ (hình 5). Áp lực được đo ở đầu dẹp của<br />
(microtransducer) là một dạng khác của thiết bị<br />
catheter sợi quang tại một màng dẻo. Ánh sáng<br />
theo dõi ALNS. Như tên gọi của nó, đầu dò cảm<br />
truyền qua sợi cáp quang phản chiếu trên một<br />
biến áp lực chính được gắn trên đầu của<br />
màng chuyển đổi, sự thay đổi ALNS sẽ chuyển<br />
catheter. Các vi cảm biến được sử dụng nhiều<br />
đến màng này và sự thay đổi cường độ ánh sáng<br />
nhất để đo ALNS trong nhu mô não, thường<br />
phản xạ sẽ được chuyển đổi sang giá trị áp lực.<br />
được đặt ở vùng trán phải ở độ sâu khoảng 2cm.<br />
Đường kính bên ngoài của thiết bị chỉ có 4FG<br />
Tuy nhiên, tùy thuộc vào độ chênh áp đã biết<br />
(1,3 mm). Hệ thống không phụ thuộc vào hệ<br />
hoặc còn nghi ngờ trong khoang nội sọ, các vị trí<br />
thống chứa dịch, hoặc cảm biến bên ngoài cần<br />
có thể thay đổi. Nhóm thiết bị theo dõi ALNS<br />
phải điều chỉnh độ cao theo mức đầu bn. Ostrup<br />
xâm lấn trong nhu mô có thể chia thành các thiết<br />
(1987) và Crutchfield (1990) báo cáo kết quả rất<br />
bị cảm biến sợi quang (fiber optic), cảm biến biến<br />
tốt nhưng chi phí cao vẫn còn là một vấn đề. Có<br />
đổi áp điện (strain gauge), và cảm biến khí nén<br />
mối tương quan chặt chẽ giữa phép đo ALNS<br />
(pneumatic sensor)(3,8).<br />
<br />
<br />
36<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016 Tổng Quan<br />
<br />
bằng catheter Camino và catheter não thất MicroSensor. Nó gồm một cảm biến áp suất<br />
(Gambardella, Avella và Tomasello, 1992)(3). cứng thu nhỏ (hình 6) được bọc trong hộp<br />
Đầu dò Innerspace là loại tương tự như cảm titan rất nhỏ (đường kính 1,2mm; 3,6FG) ở<br />
biến sợi quang nhưng sử dụng tần số quang phổ. đầu một ống nylon dẻo dài 100cm (đường<br />
Marmarou đã báo cáo hai bài thực nghiệm và kính 0,7mm; 2,1FG). Đầu dò chứa một vi<br />
lâm sàng về loại cảm biến này. mạch silicon với cảm biến biến đổi áp điện(3).<br />
Việc đặt catheter nằm trong não ở độ sâu 1- Narayan ghi nhận thiết bị này có độ lệch<br />
2cm là khá đơn giản. Nhưng hạn chế chính của trung bình 44 tuổi), thời gian theo dõi<br />
trọng của cảm biến strain-gauge là nó được kéo dài (trung bình ≥14 ngày), sử dụng<br />
đặt ở đầu catheter, không cần hệ thống dịch steroid, thời gian nằm viện kéo dài, và theo<br />
giúp tránh được tắc nghẽn do cục máu đông, dõi trên bn suy kiệt(4).<br />
mảnh vỡ hoặc bóng khí, và vì cũng không cần<br />
Nhiễm trùng<br />
phải rữa nên nguy cơ nhiễm trùng cũng thấp.<br />
Điều này làm cho nó có lợi thế hơn khi theo Sự xâm thực vi khuẩn (colonization) trên các<br />
dõi ALNS kéo dài so với hệ thống catheter thiết bị ALNS tăng đáng kể sau đặt 5 ngày. Súc<br />
chứa đầy dịch và bộ cảm biến bên ngoài với rữa catheter ALNS làm tăng đáng kể sự xâm<br />
nhược điểm thường liên quan tới cảm biến sai thực của vi khuẩn. Không tính tỉ lệ cao hơn trong<br />
vị trí so với đầu bn, artifact. Một biến thể của phạm vi lây nhiễm chung của các hệ thống đo<br />
một catheter não thất với cảm biến áp lực nằm ở chứa dịch, tốc độ xâm thực vi khuẩn trung bình<br />
đầu catheter là Ventcontrol MTC . nội sọ là 5% đối với vị trí não thất , 5% dưới nhện<br />
, 4% dưới màng cứng (North, 1986) và 14% trong<br />
Cả hai loại đầu dò trên đặt vào nhu mô não<br />
nhu mô . Mặc dù, các nghiên cứu này ghi nhận<br />
thông qua 1 vít rỗng 4 mm gắn vào hộp sọ. Tỉ lệ<br />
tăng xâm thực vi khuẩn ở tất cả thiết bị ALNS<br />
nhiễm trùng và chảy máu khá thấp nhưng<br />
theo thời gian, nhưng nhiễm trùng nội sọ có ý<br />
những thiết bị này không cho phép dẫn lưu<br />
nghĩa lâm sàng không phổ biến(3).<br />
DNT. Độ chính xác là tối ưu và đáng tin cậy, chỉ<br />
đứng thứ hai sau catheter não thất. Các thiết bị Nhiễm trùng có thể định nghĩa là: (1) cấy<br />
này chỉ cần hiệu chỉnh một lần trước khi đưa vào DNT dương tính từ catheter não thất hoặc thắt<br />
và không phụ thuộc vào vị trí của đầu bn. lưng, (2) cấy dương tính với DNT tăng lympho<br />
bào (pleocytosis), glucose thấp hoặc protein cao,<br />
Kĩ thuật bóng khí (air pouch technology) (3) tăng lympho bào DNT hoặc glucose thấp một<br />
Kĩ thuật bóng khí đo ALNS sử dụng cảm mình mà không có cấy dương tính, (4) có các<br />
biến khí nén (Spiegelberg) nhờ bơm căng một triệu chứng lâm sàng như sốt hoặc thay đổi<br />
quả bóng nhỏ bao quanh ở đầu catheter với một trạng thái thần kinh và (5) 2 lần cấy dương tính<br />
thể tích khí (0,05-0,1 cc) để ghi nhận thay đổi áp với các vi sinh vật tương tự. Tạp nhiễm<br />
lực và áp lực đè lên bóng chính là áp lực của mô (contamination) được xác định là 1 lần cấy phân<br />
xung quanh. Các catheter tự reset (về 0) theo giờ lập DNT (isolated culture) với số lượng tế bào<br />
bằng cách xả và bơm lại bóng để duy trì một thể DNT bình thường và không có triệu chứng lâm<br />
tích khí không đổi. Tùy thuộc vào kĩ thuật, có thể sàng hoặc nhuộm Gram âm tính với cấy dương<br />
thực hiện theo dõi trong não thất, trong nhu mô, tính. Rất khó khăn để xác định tỉ lệ nhiễm trùng<br />
ngoài màng cứng, dưới màng cứng hoặc khoang hệ thần kinh trung ương từ các thiết bị theo dõi<br />
dưới nhện(8). ALNS do những thay đổi trong định nghĩa về<br />
Biến chứng nhiễm trùng(4).<br />
Các biến chứng của thiết bị theo dõi ALNS Tỉ lệ nhiễm trùng chung bất kể định nghĩa<br />
bao gồm nhiễm trùng và xuất huyết, các biến dao động từ 0-27%, nhiều nghiên cứu trong số<br />
chứng khác gồm vỡ hoặc hỏng/trục trặc thiết bị, này có định nghĩa về nhiễm trùng kém hoặc<br />
tắc nghẽn và khó khăn trong quá trình đặt. Tỉ lệ không có (bảng 3).<br />
thực sự của các vấn đề này là khó đánh giá do sự Tỉ lệ nhiễm trùng của catheter não thất<br />
<br />
<br />
<br />
38<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016 Tổng Quan<br />
<br />
Xâm thực vi khuẩn qua catheter với trung bình là 2,98% và họ cũng thấy rằng không<br />
nhiễm trùng ngược dòng tiếp theo là một phải do thời gian điều trị DLNT, do phẫu thuật<br />
biến chứng của catheter não thất. Bao gồm lại hay dùng urokinase và cũng không phải do<br />
một loạt các biến chứng từ nhiễm trùng da XHN trước mổ làm tăng nguy cơ nhiễm trùng.<br />
lành tính đến viêm não thất, viêm màng não, Holloway nghiên cứu hồi cứu 584 bn CTSN<br />
nhiễm trùng huyết gây tử vong. có DLNT. Tỉ lệ viêm não thất là 10,4%, và tỉ lệ<br />
Các hồi cứu về chủ đề này ghi nhận tỉ lệ nhiễm trùng tăng lên hàng ngày sau 10 ngày đầu<br />
nhiễm trùng liên quan đến catheter trong tiên theo dõi. Các tác giả cũng nhận thấy rằng<br />
khoảng 0-27%, tuy nhiên định nghĩa về nhiễm việc thay thế catheter mỗi 5 ngày để phòng ngừa<br />
trùng liên quan đến catheter rất khác nhau. Phần không giảm tỉ lệ nhiễm trùng. Tuy nhiên, cần có<br />
lớn các nghiên cứu sử dụng kết quả cấy DNT (+) thêm các nghiên cứu tiền cứu ngẫu nhiên để có<br />
lấy từ DLNT hoặc hút qua chọc dò tủy sống . kết luận cuối cùng là việc thay thế catheter<br />
Zingale báo cáo 53% tỉ lệ nhiễm trùng có thường quy không làm giảm nguy cơ nhiễm<br />
shunt ngoài. Trong số những nghiên cứu có định trùng. Ở hầu hết các trung tâm khi có mở thông<br />
nghĩa rõ ràng về nhiễm trùng hệ thần kinh trung não thất, yếu tố quan trọng để kiểm soát tạp<br />
ương, thì tỉ lệ chung của nhiễm trùng catheter nhiễm DNT có liên quan đến việc lấy mẫu DNT<br />
não thất là 5,6-20,5%. Tỉ lệ nhiễm trùng catheter định kỳ (thường là 2-3 ngày) thông qua cổng<br />
não thất có đường hầm từ 0-4%, mặc dù các catheter bằng cách sử dụng kĩ thuật vô trùng,<br />
nghiên cứu này không có định nghĩa tốt. cũng như thực hiện một đường hầm dưới da<br />
đầu để đưa catheter ra khỏi lỗ khoan sọ. Việc<br />
Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là kết<br />
thực hiện DLNT tại đơn vị chăm sóc đặc biệt hay<br />
quả cấy DNT dương tính có thể xuất phát từ các<br />
phòng cấp cứu so với phòng mổ nhằm giảm tỉ lệ<br />
nguồn khác, chẳng hạn như tạp nhiễm từ da<br />
tạp nhiễm phải dựa trên điều kiện của từng bệnh<br />
trong quá trình lấy mẫu. Những yếu tố quyết<br />
viện. Những đơn vị có tỉ lệ nhiễm trùng bệnh<br />
định tỉ lệ nhiễm trùng cao hơn bao gồm: thời<br />
viện thấp chấp nhận được sẽ có lợi khi thực hiện<br />
gian điều trị DLNT kéo dài hơn 5 ngày, thường<br />
đặt DLNT tại giường(1).<br />
xuyên lấy mẫu DNT, xuất huyết não thất hoặc<br />
XHDN, gãy xương sọ với dò DNT và đặt DLNT Liên quan đến việc sử dụng kháng sinh dự<br />
không vô trùng . Yếu tố chính quyết định tỉ lệ phòng trước mổ, Beer không ủng hộ điều này vì<br />
nhiễm thấp hơn là đường hầm dưới da . nguy cơ lây nhiễm các vi sinh vật nguy hiểm hơn<br />
cũng như tăng sự đề kháng kháng sinh về mặt lí<br />
Dasic kiểm soát chặt chẽ nhằm giảm thiểu<br />
thuyết. Catheter ngâm kháng sinh là một sự thay<br />
các yếu tố ảnh hưởng nêu trên và kết quả là<br />
thế và tỏ ra rất hiệu quả trong giảm tỉ lệ nhiễm<br />
giảm đáng kể tỉ lệ nhiễm trùng từ 27% xuống<br />
trùng (Abla, 2011; Harrop, 2010). Tuy nhiên,<br />
12% trong 95/113 bn đặt DLNT, bằng cách<br />
chúng cũng có những nguy cơ tương tự liên<br />
thực hiện các thủ thuật trong môi trường vô<br />
quan đến đề kháng (Beer, 2008; Dasic, 2006). Một<br />
trùng của phòng mổ, sử dụng kháng sinh dự<br />
lựa chọn khác là sử dụng catheter ngâm hạt<br />
phòng, tạo đường hầm dưới da ít nhất 10cm<br />
nano bạc. Kĩ thuật này có đặc tính kháng khuẩn<br />
từ lỗ khoan sọ, tránh lấy mẫu DNT thường<br />
tốt trong ống nghiệm, nhưng chưa được kiểm tra<br />
xuyên (trừ khi có chỉ định) và không thay đổi<br />
kĩ lưỡng trong cơ thể. Một nghiên cứu pilot được<br />
catheter (trừ khi có chỉ định).<br />
tiến hành bởi Lackner trên 19 bn điều trị catheter<br />
Tse cũng tuân thủ nghiêm ngặt việc thực<br />
ngâm hạt nano bạc, và 20 bn nhóm chứng với<br />
hành vô trùng và đó là lí do cho tỉ lệ nhiễm trùng<br />
catheter não thất thông thường, kết quả là tỉ lệ<br />
thấp trong nghiên cứu hồi cứu lớn trên 328 bn<br />
thấp hơn đáng kể của viêm não thất ở nhóm<br />
với 368 DLNT. Hơn 4 năm sau, tỉ lệ nhiễm trùng<br />
catheter ngâm hạt nano bạc (0 bn) so với nhóm<br />
<br />
<br />
39<br />
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 3 * 2016<br />
<br />
chứng (5 bn). Kết quả khả quan tương tự cũng phòng mổ) tương quan với tỉ lệ nhiễm trùng cao<br />
được Fichtner báo cáo, nghiên cứu hồi cứu trên hơn. Sử dụng kĩ thuật vô khuẩn nghiêm ngặt<br />
164 bn, 90 bn với một DLNT tiêu chuẩn và 74 bn trong quá trình đặt (áo choàng, găng tay, khẩu<br />
với DLNT ngâm bạc, ông ghi nhận giảm đáng kể trang) và khi thao tác với thiết bị là cần thiết để<br />
kết quả của: cấy DNT (+), xâm thực vi khuẩn đầu ngăn ngừa tạp nhiễm. Các tác nhân gây bệnh<br />
catheter và tăng bạch cầu đa nhân ở nhóm thường gặp nhất là Staphylococcus aureus và<br />
DLNT ngâm bạc so với nhóm DLNT tiêu chuẩn epidermis, E coli, Klebsiella và Streptococcus. Lợi ích<br />
(18,9% so với 33,7%, P = 0,04). Tuy nhiên, hai của kháng sinh dự phòng là không rõ ràng(4).<br />
nghiên cứu này tương đối nhỏ do đó cần nghiên Một nghiên cứu lớn khác trên 1.000 bn với<br />
cứu lớn hơn với sức mạnh thống kê lớn hơn 1.071 thiết bị Camino, hồi cứu kiểm tra trên 574<br />
hoặc nhiều trung tâm hơn để đưa ra kết luận đầu dò và ghi nhận 8,5% cấy dương tính có vi<br />
chắc chắn(1). khuẩn mọc, mặc dù 1 kết quả cấy (+) có thể xuất<br />
Một yếu tố khác góp phần làm tăng tỉ lệ phát từ nhiễm bẩn da trong quá trình lấy mẫu(4).<br />
nhiễm trùng là đặt catheter không chính xác