CÁC RỐI LOẠN CỦA MÔ LIÊN KẾT (Troubles du tissu conjonctif)
lượt xem 15
download
Ch. M. Lapière, M. de la Brassinne, Troubles du tissu conjonctif, Dermatologie et sexuellement transmissible infectieux, 2004, p. 602609. Mô liên kết của bì và hạ bì là địa điểm của một số bệnh cảnh lớn, chủ yếu di truyền, gây ảnh hưởng đến các cấu trúc sợi, các chuỗi collagène hoặc các sợi đàn hồi, hoặc chất gian sợi (interfibrillaire). Hầu hết các bệnh cảnh này, đặc trưng bởi một rối loạn toàn bộ các mô liên kết của sinh vật, có các biểu hiện trên da mà nhà chuyên khoa Da phải định vị bằng bất cứ giá...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: CÁC RỐI LOẠN CỦA MÔ LIÊN KẾT (Troubles du tissu conjonctif)
- CÁC RỐI LOẠN CỦA MÔ LIÊN KẾT (Troubles du tissu conjonctif) oooOOOooo Ch. M. Lapière, M. de la Brassinne, Troubles du tissu conjonctif, Dermatologie et sexuellement transmissible infectieux, 2004, p. 602- 609. Mô liên kết của bì và hạ bì là địa điểm của một số bệnh cảnh lớn, chủ yếu di truyền, gây ảnh hưởng đến các cấu trúc sợi, các chuỗi collagène hoặc các sợi đàn hồi, hoặc chất gian sợi (interfibrillaire). Hầu hết các bệnh cảnh này, đặc trưng bởi một rối loạn toàn bộ các mô liên kết của sinh vật, có các biểu hiện trên da mà nhà chuyên khoa Da phải định vị bằng bất cứ giá nào trong chẩn đoán. CÁC THÀNH PHẦN SINH HỌC 1-Kiến trúc của bì và hạ bì -Bì (derme) là một mô liên kết hình thành hai vùng khác biệt và cũng khác nhau chung vể kiến trúc của các cấu trúc sợi hợp thành.
- +Bì nhú (derme adventiciel) nằm kế cận với màng đáy của thượng bì, các phần phụ của da và các mạch máu. Đó là một mạng lưới các sợi collagène kèm theo các sợi nhỏ chứa rất nhiều liềm đàn hồi dưới dạng các sợi oxytalan và élaunine. Các chuỗi này thì kết thúc và hướng về thẳng góc (perpendiculaire) với màng đáy. Chúng cho phép di động. +Bì lưới (derme réticulaire) là mạng lưới các bó collagène dày, lượn sóng, nằm song song với màng đáy. Mạng lưới các sợi đàn hồi nằm bên dưới lều các nếp lượn sóng của các bó sợi collagène bao quanh phần cuối và neo dính trong các hốc của chúng. Bì lưới là phần rất dai của bì. Sự di động của chúng rất ít gây ra do sự mất đi các nếp của các nếp lượn sóng của các bó sợi collagène cho phép sự duỗi ra và co lại ở một vị trí xác định do các sợi đàn hồi. -Hạ bì (hypoderme) chứa một mạng lưới các sợi collagène có nhiều lớp, chủ yếu thẳng đứng, bao quanh các nang của mô mỡ, neo dính vào nền của bì lưới và phát triển vào các mạc cơ hoặc màng xương lân cận. Sự chuyển động thẳng đứng của hạ bì thì ít hơn chuyển động bên. Chúng thay đổi theo chức năng của cơ quan hiện hữu, trong một số vùng của cơ thể, theo đặc trưng giới tính thứ phát. Trong các phần khác nhau của bì và hạ bì này, mạng lưới các thành phần sợi thì được duy trì dưới dạng áp lực (tension) trong một gel của glycosamino- và của các protéoglycane hydrate hóa mạnh. 2-Các tế bào của mô liên kết da
- -Nguyên bào sợi / tế bào sợi (fibroblastes/ fibrocytes) là tế bào chủ yếu. Sự khác nhau giữa « nguyên bào sợi », các tế bào in vitro, và « tế bào sợi », các tế bào in vivo của mô liên kết dựa vào khả năng sinh sản (capacité multiplication), sự phát triển trong giai đoạn đầu và yếu hoặc không có ở giai đoạn sau, trên hoạt tính sinh tổng hợp phát triển khi cấy và ít dần trong in vivo, trên tính thấm qua màng vào nơi khác. Sự khác nhau này có lẽ tự nhiên qua sự kích thích của nội tiết tố từ các yếu tố chồng chéo mà chúng gây sự nhiều lên của tế bào khi cấy và khả năng ít dần đi trên in vivo, cũng có thể tự nhiên từ sự tương tác trung gian bởi các intégrine của các tế bào khi cung cấp chúng, hình thể hoặc hình ảnh in vivo và một mạng lưới sợi phụ thuộc các kích thích qua cơ chế in vivo. -Các tế bào đuôi gai (dendrocytes) là các tế bào có hình thoi ở bì mà đôi khi biểu hiện như chất đánh dấu (marqueur), yếu tố XIIIa trong đông máu, một men chuyển glutamine (transglutaminase), và như là một dòng tế bào đơn nhân. Rất nhiều dạng khác của các tế bào đuôi gai đã được xác định, như là dạng CD1a+ , có khả năng trình diện các kháng nguyên. 3-Các sản phẩm tổng hợp các tế bào của bì Đó là các dạng collagène khác nhau hình thành dưới dạng chuỗi, sợi chứa các sợi nhỏ cung cấp các sợi đàn hồi, élastine, các dạng khác nhau của glycosamino- và của protéoglycane, các glycoprotéine như fibronectine và ténascine, các protéine tham dự vào trong sự kết dính tế bào và các men ly giải,
- các métalloprotéase của chất nền và các sérine-protéase, gây mất hạt của các phân tử lớn trong khoang gian bào. -Chất tạo keo (collagènes), là thuật ngữ cấu tạo hóa học, bì chủ yếu chứa collagène type I (70-85%), collagène type III (15-20%), nhiều khi liên kết với một chất khác cho ra đặc tính ưa bạc (argentaffine) của các sợi lưới, và một lượng nhỏ collagène type V, VI, XII và XIV. Các sợi collagène là các đồng trùng hợp của các collagène I, III và V bao hàm cả các phân tử collagène XII và XIV. Collagène type VI làm chắc chắn cấu trúc khoảng gian sợi. Collagène type VII tạo thành các sợi nhỏ mà chúng làm chắc chắn cho sự neo dính màng đáy với bì nhú. Sự tổng hợp cũng tạo ra các tế bào biểu mô và các tế bào trung mô. Chúng tìm thấy chủ yếu ở phần rất nông của bì nhú. -Các sợi đàn hồi (les fibres élastiques) được cấu trúc dưới dạng đầy đủ với tỷ lệ chất élastine cao nằm trong bì lưới. Chúng kéo dài đến nhú bì dưới dạng giống một cái cây có nhiều nhánh thẳng đứng trong da người trẻ. Tìm thấy các sợi này ở vùng kế cận màng đáy, nồng độ chất élastine trong các sợi nhỏ được làm nhỏ đi thành dạng các sợi élaunine và sợi oxytalan. Các chất cuối cùng này có hình cái cây và trộn lẫn các thành phần cấu thành màng đáy. -Acide hyaluronique, một glycosaminoglycane có kích thước rất lớn, hydrate hóa rộng, tìm thấy có nồng độ quan trọng trong bì. Chúng là các protéoglycane chủ yếu là « décorine » và « biglycan », các phân tử lớn trung bình
- kết hợp các sợi collagène có cùng kích cỡ. Các protéohéparansulfate kết hợp với màng tế bào của các tế bào trung mô. -Các men (enzymes), kiến tạo các phân tử lớn tạo thành mô liên kết qua sự tổng hợp nhiều dạng polypeptide từ các gene thành các phần lớn hơn sau đó. Từ các sản phẩm tổng hợp như là các protéine, kiến tạo thành các dạng collagène khác nhau và chất élastine đòi hỏi các hệ thống men đặc hiệu mà chúng cho phép « hydroxy hóa » (hydroxylation) proline thành hydroxyproline và lysine thành hydroxylysine, « glycosyl hóa » hydroxylysine và « oxy hóa » một phần tạo ra lysyl và hydroxylysyl mà dạng aldéhyde của chúng tham dự vào sự hình thành sự liên kết giữa các phân tử. Trong ngoại bào, sự gia tăng các polypeptide là các tiền chất của tiền collagène được chia cắt (scinder) bởi các « procollagènes peptidases » (ADAMTS 2 và 14, BMP 1) cho phép trùng hợp thành collagène. -Métalloprotéonases matricielles (MMPs), là một gia đình của 20 men gây ra sự mất hạt của các thành phần cấu trúc các mô chống đỡ (soutien). Các collagénase (MMP1, 8 và 13) chỉ làm mất hạt chuỗi collagène, các gélatinase thì có tác động quan trọng trên mô đàn hồi (MMP2 và 9) cũng như métallo-élastase (MMP12), các stromélysine (MMP3, 10 và 11) gây mất hạt các glycoprotéine khác nhau và một số ptotéoglycane. Một số các protéase liên kết màng (MT- MMP) và có liên quan trong hoạt tính của các nhánh khác của gia đình này. Hoạt tính của MMPs biểu hiện bởi sự ức chế các mô đặc hiệu (les TIMPs) qua 4 hình
- thức khác nhau. MMPs giữ vai trò chính trong sinh bệnh học các bệnh cảnh viêm (túi phình, loét chân…), trong tiến trình tân sinh và lão hóa do ánh sáng. -Intégrines, các tế bào của mô liên kết liên kết với nhau qua trung gian các protéine chuyển màng (transmembranaire), các intégrine và các protéohéparansulfate. Sự liên kết này, qua thông điệp từ chất hóa học tự nhiên quanh chúng nhưng cũng từ nhiều cơ chế thông tin khác. Các intégrine, chứa một chuỗi α kết hợp với một chuỗi β, là một gia đình có 40 protéine, tất cả các dạng đã được xác định trong phạm vi ngoại bào là các phân tử lớn ngoại bào, một đoạn màng và một vùng nội bào. Cho phép sự chuyển đổi thông tin từ trong tế bào và cho ra các tín hiệu qua trung gian các ổ kết dính và cấu trúc của khung tế bào, qua kiểu tác động của các kinase và phosphatase. Chất nền tham dự trong sự điều chỉnh dạng các tế bào và số lượng tế bào được thực hiện bởi chúng, trong sự quyết định phân chia hoặc chết theo chương trình và trong sự cân bằng sinh tổng hợp để tạo thành các phân tử chất nền và các men gây mất hạt. Tín hiệu do các intégrine cộng tác với các dấu hiệu truyền bởi các phân tử hòa tan (các cytokine và các yếu tố chồng chéo), hợp với các thụ thể đặc hiệu trong sự kiểm soát các chức năng tế bào qua trung gian các GTPase trong gia đình Ras hoặc Rho. CÁC BỆNH CỦA MÔ LIÊN KẾT Gene mã hóa sự tổng hợp các dạng khác nhau của collagène được xác định tại các vùng chức năng đặc trưng bởi sự sao chép nhiều lần ở đơn vị số 9, được
- giải thích rõ ràng bởi sự sao chép bộ mã thông tin 3 nucléotide của các acide amine tại phần tinh thể các polypeptide của collagène, dẫn đến hiện diện bắt buộc glycine tại toàn bộ 3 bản sao này. Tại nơi khác, nhiều thành phần được điều chỉnh bởi phần 5, của chuỗi ADN nhưng cũng tương tự như đã nói trên. Hệ gene (génome) của các bệnh lý di truyền khác nhau của mô liên kết đã được phân tích và có rất nhiều kiểu biến đổi đã được nhận thấy : các đột biến đứng mức (ponctuelle), khuyết đoạn thể nhiễm sắc (délétion), sự sao chép các « vùng mã ADN của gene » (exons). Các bệnh cảnh khác nhau tùy thuộc vào « sự biến đổi của các men » tạo thành các dạng sau chuyển mã của các polypeptide, do sự rối loạn của cấu trúc các gene kiến tạo nên các men này hoặc do tác động cơ năng của các đồng yếu tố. Chẳng hạn như không có vitamine C, được đòi hỏi bởi chức năng các hydroxylase, thì gây ra bệnh « scorbut » (thiếu vitamine C) do giòn các màng đáy chứa các collagène type IV, do xuất huyết và do thiếu hụt sự kiến tạo các mô liên kết trong sự tạo thành mô sẹo do mất các sợi collagène (I, III, V).
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chữa bênh rối loạn tiền đình bằng phương pháp Đông y - Châm cứu part 6
12 p | 84 | 12
-
Mối liên quan giữa mức độ sử dụng điện thoại thông minh và các rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm lý ở học sinh trung học phổ thông và sinh viên
6 p | 119 | 10
-
Giám sát chủ động phản ứng có hại của thuốc arv tại 5 cơ sở trọng điểm điều trị HIV/AIDS
7 p | 51 | 4
-
Rối loạn phổ tự kỷ và một số yếu tố liên quan ở trẻ 24-72 tháng tuổi tại tỉnh Quảng Ngãi
8 p | 50 | 3
-
Tiếp cận chẩn đoán bệnh phổi kẽ liên quan bệnh mô liên kết
8 p | 10 | 3
-
Nghiên cứu đặc điểm tái phát và một số yếu tố liên quan đến tái phát cơn hưng cảm của rối loạn lưỡng cực
8 p | 11 | 3
-
Một số yếu tố liên quan tới gánh nặng chăm sóc của các gia đình có con rối loạn tự kỷ điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương
6 p | 7 | 3
-
Đặc điểm rối loạn giấc ngủ trên người bệnh Parkinson
5 p | 10 | 2
-
Rối loạn lipid máu do bất thường gen ca lâm sàng loạn dưỡng mỡ một phần có tính chất gia đình
8 p | 29 | 2
-
Sự hài lòng của phụ huynh với dịch vụ chăm sóc trẻ rối loạn phổ tự kỷ tại Hà Nội, 2019
8 p | 50 | 2
-
Giảm biểu hiện gen ABCC4 (ATP-binding cassette subfamily C) liên quan đến rối loạn tự kỷ trên mô hình ruồi giấm
6 p | 45 | 2
-
Khảo sát cơ cấu lượt điều trị nội trú các rối loạn tâm thần ở bệnh nhân quân tại khoa tâm thần - Bệnh viện Quân y 175
12 p | 36 | 2
-
Chăm sóc ban đầu rối loạn chức năng sàn chậu
6 p | 49 | 2
-
Rối loạn lo âu, trầm cảm và chất lượng cuộc sống của những người nhiễm hiv đang điều trị ARV tại trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Bình Phước
8 p | 58 | 2
-
Đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan rối loạn trầm cảm chủ yếu ở trẻ vị thành niên: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tại Bệnh viện Tâm thần
8 p | 11 | 1
-
Rối loạn thực thể về rối loạn khớp thái dương hàm và khớp cắn của học sinh lớp 10 trường liên cấp Hermann Gmeiner Hà Nội năm 2024
6 p | 4 | 1
-
Biến chứng rối loạn vận động ở bệnh nhân Parkinson được điều trị bằng levodopa và một số yếu tố liên quan
5 p | 1 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn