Cảnh thu trong thơ Trung đại Việt Nam
lượt xem 24
download
Có thể nói, Cảnh thu là một trong những hình ảnh thiên nhiên nổi bật của bức tranh bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông trong thơ trung đại Việt Nam. Thiên nhiên mùa thu vừa là nguồn cảm hứng, vừa là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm của thi nhân, theo lẽ “tức cảnh sinh tình”, “tả cảnh ngụ tình”.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cảnh thu trong thơ Trung đại Việt Nam
- Cảnh thu trong thơ Trung đại Việt Nam Có thể nói, Cảnh thu là một trong những hình ảnh thiên nhiên nổi bật của bức tranh bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông trong thơ trung đại Việt Nam. Thiên nhiên mùa thu vừa là nguồn cảm hứng, vừa là nơi gửi gắm tâm t ư, tình cảm của thi nhân, theo lẽ “ tức cảnh sinh tình”, “tả cảnh ngụ t ình”. Cảnh thu trong thơ trung đại có khi được
- miêu tả qua một số câu thơ trong bài tứ tuyệt, bát cú Đường luật… hoặc ở rải rác trong truyện thơ Nôm, nhưng cũng có khi cả bài thơ hướng về một đề tài “vịnh thu” (tả cảnh mùa thu) hoàn chỉnh… Nói về đề tài “vịnh thu” trong thơ trung đại Việt Nam cũng có nghĩa là tìm hiểu quá trình phát triển của nó qua nhiều thế kỷ, nhất là từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến Nguyễn Du, và đặc biệt là Nguyễn Khuyến. Bởi vì, ban đầu các nhà thơ ViệtNam “ vịnh thu” cũng giống như tả cảnh mùa xuân, mùa hạ, mùa đông- thường thiên về sử dụng những hình ảnh có sẵn trong nguồn thơ Đường (Trung Quốc) và mang tính ước lệ, tượng trưng. Nhưng qua một thời gian dài, đề tài này đã đạt đến độ chín, vừa dễ hiểu, trong sáng, vừa gần gũi với thực tế thiên nhiên mùa thu Việt Nam. 1. Đề tài “vịnh thu” trong thơ trung đại Việt Nam trước thế kỷ XIX Trong mối quan hệ ảnh hưởng của văn học trung đại Trung Quốc đối với văn học trung đại nước ta, thì thơ “vịnh thu” ViệtNam c ũng có sự ảnh hưởng và học hỏi thơ Đường - một trong những đỉnh cao của thơ ca nhân loại - cũng là điều tất nhiên. Cảnh thu có trong thơ Trung Quốc, được thể hiện qua hình ả nh: lá đỏ, rừng phong, tuyết đưa hơi lạnh, chày đập vải, cây ngô đồng... đã “du nhập” vào thơ thu Việt Nam, ở cả chữ Hán và chữ Nôm. Bắt nguồn cảm hứng từ một đêm thu đất nước, trong bài “Thu dạ dữ Hoàng giang Nguyễn Nhược thuỷ đồng phú”(Đêm thu cùng ngâm với Hoàng giang Nguyễn Nhược-thuỷ), Nguyễn Trãi viết: Hồng diệp đôi đình trúc ủng môn, Mãn giai minh nguyệt quá hoàng hôn. Cửu tiêu thanh lộ tam canh thấp, Tứ bích hàn cùng triệt dạ huyên. Thiên lại ngữ thu kinh thảo mộc, Ngọc thằng đê Hán chuyển càn khôn... (Lá đỏ chồng ở sân, trúc ôm lấy cửa,
- Đầy thềm trăng sáng quá lúc chạng vạng rồi. Móc trong chín tầng mây thấm ướt ba canh, Dế lạnh ở bốn vách kêu ran suốt đêm. Tiếng sáo trời báo tin thu khiến cây cỏ kinh động, Sao Ngọc thằng xuống thấp ở Ngân hà, càn khôn chuyển vần...)(1). Lá đ ỏ (hồng diệp) trong câu thơ trên là lá cây phong, thường có ở Trung Q uốc, vào giữa tiết thu nên ngả dần thành mầu đỏ tía. Còn trúc ôm l ấy cửa, đ ầy thềm trăng sáng, khí thu lạnh nên “ móc… thấm ướt ba canh” là những nét hiện thực t hường t hấy vào d ịp cuối thu ở vùng r ừng núi miền Bắc nước ta. T iếng dế kêu, tiếng sáo trời, càn khôn chuyển vần là những âm thanh mùa thu có phần yên ả hơn, sau những tháng xáo động mạnh mẽ của sấm sét, mây mưa mùa hè. Và những âm thanh ấ y đ ược gợi lên t ừ cảm quan tinh tế, hàm chứa nhiều ý nghĩa nhân sinh của một nh à t hơ lớn. Chất liệu tạo nên c ảnh thu ở đây phần lớn vẫn đ ược lấy từ cảnh vật và thời t iết Việt Nam, nhưng ngay ở câu đầu, chữ đầu của b ài thơ vẫn mang tính ước lệ, tượng tr ưng, vay mư ợn cảnh thu trong t hơ Trung Quốc. Vẫn chưa thoát khỏi công thức, ước lệ, tượng trưng, trong bài Thôn xá thu châm (Tiếng châm mùa thu ở thôn xóm) c ủa Nguyễn Trãi, hình ảnh chính vẫn là hòn đá (châm) để đập vải và giặt, với tiếng chày nện thình thình và nỗi buồn biệt ly của người chinh phụ có chồng ngoài quan ải xa xôi. Là vùng thôn dã đang độ thu về mà cảnh thiên nhiên mùa thu chỉ được biết qua vài nét chung chung như khắp sông đâu đấy… Và người chinh phụ oán vì nỗi biệt ly tình, chẳng rõ ở thời nào, nơi nào? Bài này chỉ có 4 câu, được dịch thành thơ như sau: Khắp sông đâu đấy nện thình thình, Đất khách trăng khuya bỗng giật m ình. Quan ải mịt mù chinh phụ oán, Tiếng thu thảy gử i biệt ly tình.
- Đến Hồng Đức quốc âm thi tập gồm 328 bài thơ Nôm, ra đời cuối thế kỷ XV, khi văn học dân tộc được viết bằng chữ Nôm đã phát triển khá mạnh, thế mà thơ tả cảnh thu (trong mục Thiên địa môn) cũng chưa thực sự gắn với sắc màu cụ thể của thiên nhiên Việt Nam, vẫn còn chung chung, mơ hồ như là tả cảnh vật ở đâu đó. Chẳng hạn như bài thơ sau đây: Lác đác ngô đồng mấy lá bay, Tin thu hiu hắt lọt hơi may. Ngàn kia cách nư ớc so le địch, Mái nọ bên đường đủng đỉnh chày. Lau chổng bãi Nam ngàn dặm rợp, Nhạn về ải Bắc mấy hàng bay. Quí Ưng, Tống Ngọc dường bao nữa, Khi ấy nhiều người cám cảnh thay. Là ngư ời Việt Nam, làm thơ tả cảnh thu tại quê hương mình, đ ược viết bằng t iếng dân tộc mình thì không ít những hình ả nh cụ thể mang mầu sắc Việt Nam có t hể d ùng, thế mà c ứ phải lặp lại những “ mô típ” ngư ời nước ngoài và nhiều người trong nư ớc đã viết, đến sáo mòn như l á ngô đồng, đủng đỉnh chày, n hạn về ải Bắc, Quý Ưng, T ống Ngọc từ đời nào bên Trung Quốc! Phải chăng trong một thời gian dài, cách dạy và học theo lối giáo điều, khuôn sáo của nh à trường phong kiến đ ã hạn c hế sự linh hoạt, sáng tạo của các nh à thơ trung đ ại, xuất thân từ các nhà nho? Nhà thơ - nhà phê bình văn học Xuân Diệu có lời khen bài Mùa thu của Ngô Chi Lan, một nữ sĩ dưới thời Lê Thánh Tông là “một bước tiến của thơ”, “lời văn ở đây đã trong sáng, liền, thoải mái, không vất vả, không gợn, và có nhạc điệu”, đồng thời ông cũng chỉ ra hạn chế có tính cố hữu của các nhà thơ ở giai đoạn này: “Còn thì vẫn các yếu tố ước lệ: Gió vàng, bóng nhạn, giếng ngọc, rừng phong” (2). Bài thơ Nôm có nhan đề Mùa thu thể hiện rõ chủ ý của Ngô Chi Lan là dành trọn cho việc tả cảnh thu, đã được Xuân Diệu nhận xét ở trên, gồm bốn câu: Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
- Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa. Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm, Rừng phong lá rụng tiếng như mưa. (Hồng Đức quốc âm thi tập) Những thế kỷ XVI-XVIII tiếp theo, các nhà thơ trung đại Việt Nam t uy ít sử dụng những hình ảnh mang tính công thức, ước lệ khi tả cảnh thu, nhưng vẫn còn hạn chế ở sự thiếu sáng tạ o hình ảnh và chưa thể hiện rõ nét riêng, độc đáo trong mỗi nhà thơ. Bài thơ Thu tứ của Nguyễn Bỉnh Khiêm có hình ảnh mây, nhạn, trăng: Vân biên nhạn quá hồn vô số, Thiên thượng nguyệt minh ứng hữu kỳ. (Tầng mây đàn nhạn bay qua, Trời quang, trăng sáng như là hẹn nhau). (Ý thu - bản dịch của Hoàng Việt thi văn tuyển) Trong Chinh phụ ngâm, khi nói về sự lạnh lẽo, cô đơn của người vợ có chồng đi chinh chiến, nhất là ở những đêm thu, tác giả viết: Vài tiếng dế nguyệt soi tr ước ốc, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên. Bài thơ Thu dạ I của Nguyễn Du cũng có sao sáng, tiếng dế kêu não nề trong đêm lạnh: Phiền tinh lịch lịch lộ như ngân, Đông bích hàn trùng bi cánh tân. (Sao vàng lấp lánh ánh s ương dầy, Dế khóc tường đông giọng đắng cay). (Quách Tấn dịch)
- Trong Ngẫu hứng I, Nguyễn Du cũng tả trăng sáng và gió lạnh mùa thu: Minh nguyệt mãn thiên hà cố cố, Tây phong xuy ngã chính thê thê. (Trăng sáng trời cao vằng vặc thế, Gió tây ta quá lạnh lùng thôi) (Đào Duy Anh dịch ) Trước Nguyễn Du, nhưng sau Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều viết: Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng. (Cung oán ngâm khúc) Đến Thu dạ II, Nguyễn Du vẫn không có gì mới: Vạn lý thu thanh thôi lạc diệp, Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân. (Muôn dặm tiếng thu dồn lá rụng, Đầy trời sắc lạnh quét mây bay) (Quách Tấn dịch) Điểm lại một số tác giả, tác phẩm t iêu biểu của thơ trung đại Việt Nam viết về mùa thu, chúng ta thấy rõ những hạn chế trong bút pháp miêu tả, ở cả thơ chữ Hán và chữ Nôm là thiên về sách vở, ước lệ, tượng trưng, chung chung, thiếu tính hiện thực, sinh động, cụ thể và chưa có được nét riêng biệt, độc đáo ở mỗi nhà thơ. Nhưng đến Nguyễn Khuyến (1835-1909), với ba bài thơ thu nổi tiếng, thì những ưu điểm trong bút pháp miêu tả của ông sáng rỡ lên như một dấu son tươi mới. Theo Bùi Văn Nguyên, đó là “thành công tốt đẹp của quá trình dân tộc hoá nội dung mùa thu cho thật là thu Việt Nam..., và dân tộc hoá hình thức lời thơ, câu thơ cho thật là Nôm, là Việt Nam”(3)... của Tam nguyên Yên Đổ.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Slide bài Thông tin về ngày trái đất năm 2000 - Ngữ văn 8
35 p | 1612 | 135
-
So sánh chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong hai tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành và Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
4 p | 483 | 119
-
Bình định An Nam chiến đồ - Nguyễn Duy Chính
59 p | 301 | 93
-
Trích đoạn "Trông bốn bể"
5 p | 202 | 28
-
Phân tích cái "ta" "mình" trong đoạn thơ Ta về mình có nhớ ta...Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
3 p | 168 | 21
-
Cảm nhận (phân tích) đoạn thơ thứ hai trong bài "Tây Tiến"
4 p | 249 | 20
-
Văn mẫu lớp 9: "Cảm nhận về bài Thu điếu"
9 p | 214 | 19
-
Giáo án Ngữ văn 7 bài Luyện tập tạo lập văn bản - GV: Nguyễn Kim Loan
10 p | 431 | 15
-
Hình ảnh con người Nguyễn Khuyến qua bài thơ Câu cá mùa thu
10 p | 109 | 13
-
Giáo án Ngữ văn 7 bài Đại từ - GV: Nguyễn Kim Loan
10 p | 312 | 12
-
Đáp án và thang điểm Đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2008 môn Văn khối C
3 p | 91 | 12
-
Bút pháp ước lệ của Nguyễn Du
4 p | 250 | 12
-
ĐÌNH TÔI
6 p | 92 | 10
-
Đáp án và thang điểm Đề thi tuyển sinh cao đẳng năm 2008 môn Văn khối D
3 p | 103 | 8
-
Vẻ đẹp bi tráng của ngươi lính trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng
5 p | 123 | 5
-
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi: "Sáng mát trong như sáng năm xưa... Những dòng sông đỏ nặng phù sa"
4 p | 138 | 4
-
"Việt Bắc" tiêu biểu cho giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu
6 p | 101 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn