Câu 3: Phân tích tình hình, đặc điểm tôn giáo Việt Nam. Liên hệ việc<br />
thực hiện chính sách tôn giáo ở nước ta hiện nay.<br />
Bài làm:<br />
Việt Nam là một quốc gia gồm nhiều thành phần dân tộc cũng là quốc gia<br />
đa tôn giáo. Mỗi tôn giáo có lịch sử hình thành, du nhập, số lượng tín đồ, chức<br />
sắc, cơ sở thờ tự, vị trí, vai trò xã hội và đặc điểm khác nhau, đó là do nước ta<br />
nằ giữa ngã ba Đông Nam Châu á, là nơi giao lưu giữa các luồng tư tưởng, văn<br />
hoá khác nhau, có địa hình phong phú đa dạng, lại ở vùng nhiệt đới gió mùa,<br />
thiên nhiên vừa ưu đãi vừa đe doạ cộng đồng người sống ở đây. Do đó thường<br />
nãy sinh tâm lý sợ hãi, nhờ cậy vào lực lượng tự nhiên.<br />
Việt Nam có lịch sử lâu đời và nền văn minh hình thành sớm, lại kề bên<br />
hai nền văn minh lớn của loài người là Trung Hoa và Aán Độ, nên tín ngưỡng,<br />
tôn giáo có ảnh hưởng sâu đậm từ hai nền văn minh này.<br />
Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm, nhưng người có cộng lớn<br />
trong việc giúp dân, cứu nước được cả cộng đồng tôn sùng và đời đời thờ<br />
phụng. Trong tâm thức của người Việt luôn tiềm ẩn, chứa đựng đạo lý “uống<br />
nước, nhớ nguồn”. Điều đó thể hiện rất rõ trong đời sống, sinh hoạt tín ngưỡng,<br />
tôn giáo của họ.<br />
Từ đặc điểm tự nhiên, lịch sử và văn hoá đó đã tác động sâu sắc đến tín<br />
ngưỡng, tôn giáo Việt Nam, làm cho tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam có những<br />
đặc điểm sau:<br />
-Một là, Việt Nam là một quóc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo<br />
khác nhau đang tồn tại.<br />
Đó là do điều kiện địa lý nước ta thuận lợi cho việc giao lưu của nhiều<br />
luồng tư tưởng, văn hoá khu vực và thế giới, lại chịu ảnh hưởng của hai nền văn<br />
minh lớn của thế giới là Trung Hoa và Aán Độ.<br />
Nước ta có nhiều dân tộc cư trú(54 dân tộc) ở nhiều khu vực khác nhau,<br />
với điều kiện tự nhiên, khí hậu, lối sống, phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo khác<br />
nhau. Hơn nữa, bản tính người Việt luôn cởi mở, khoan dung nên cùng một lúc<br />
họ có thể tiếp nhận nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Từ những<br />
hình thức tôn giáotín ngưỡng sơ khai đến hiện đại, từ tôn giáo phương Đong cổ<br />
đại đến phương Tây cận, hiện đại, tất cả đã và đang cùng tồn tại bên cạnh tín<br />
ngưỡng dân gian, bản địa của nhiều dân tộc, bộ tộc khác nhau.<br />
-Hai là, Tính đan xen, hoà đồng, khoan dung của tín ngưỡng, tôn giáo<br />
Việt Nam. Điều đó được biểu hiện:<br />
Trên điện thờ của một số tôn giáo có sự hiện diện của một số vị thần,<br />
thánh, tiên ,phật… của nhiều tôn giáo.<br />
Đối với người Việt Nam, rất khó xác định tiêu chuẩn tôn giáo của họ.<br />
Người ta không chỉ thờ phụng ở đình, chùa, am, miếu, ma còn khấn vái “tứ<br />
phương”, kể cả những gốc cây, mô đất, khúc sông …<br />
Về phía giáo sĩ: ở Việt Nam có nhiều tăng ni, phật tử thông thạo giáo lý<br />
Phật giáo, đồng thời cũng triết thuyết Khổng Mạnh và nghiên cứu cả đạo giáo.<br />
Giáo lý cùa các tôn giáo lớn ở Việt Nam có không ít những điều khác biệt<br />
và trong lịch sử đã xuất hiện những mâu thuẩn nhất định, nhưng nhìn chung,<br />
chưa có sự đối đầu dẫn đến chiến tranh tôn giáo.<br />
Tín ngưỡng tôn giáo VN là hòa đồng, đan xen, hỗ trợ lẫn nhau.Truyền<br />
thống “Tam giáo đồng nguyên”, “Ngũ chi hợp nhất” được kết tinh trong đạo Cao<br />
đài. Những tôn giáo độc thần như : Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo du nhập vào<br />
nước ta cũng như tôn giáo nội sinh như : Cao Đài, Hòa Hảo ít nhiều đều có tính<br />
đan xen, hòa đồng dung hợp với nhau với tín ngưỡng bản địa.<br />
-Ba là, yếu tố nữ trong hệ thống tín ngưõng, tôn giáo ở Việt Nam.<br />
Lịch sử Việt Nam là lỉch sử chống ngoại xâm, người phụ nữ có vai trò<br />
quan trọng trong xã hội không chỉ vì họ gánh vác công việc nặng nề thay chồng<br />
nuôi con ở hậu phương mà còn xông pha trận mạc.<br />
Ở nước ta, dù mẫu quyền được thay thế bởi phụ quyền từ lâu, nhưng tàn<br />
dư chế độ này còn kéo dài dai dẵng đến tận ngày nay. Hơn nữa, ở một xứ sở<br />
thuộc nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước, vốn coi trọng yếu tố âm-đất-<br />
mẹ, người mẹ biểu tượng cho ước muốn phong đăng, phồn thực; hình tượng<br />
của sự sinh sôi, nãy nở, sự trường tôn của giống nòi, sự bao dung của lòng đất.<br />
Vì vậy, một trong những đặc điểm đáng quan tâm trong tín ngưỡng, tôn giáo Việt<br />
Nam là truyền thống tôn thờ yếu tố nữ.<br />
-Bốn là, thần thánh hoá những người có công với gia đình, làng, nước.<br />
Con người Việt Nam vốn có yêu nước, trọng tình “uống nước, nhớ<br />
nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” nên tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam cũng<br />
thấm đượm tinh thần ấy. Từ xưa, ở Việt Nam đã hình thành 3 cộng đồng gắn bó<br />
với nhau là gia đình, làng xóm và quốc gia.<br />
Gia đình là tế bào của xã hội, dù nghèo hay giàu, song nhà nào cũng có<br />
bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ-những người đã khuất.<br />
Làng xóm có cơ cấu, thiết chế rất chặt chẽ. Mỗ làg có phong tục, lối sống<br />
riêng. Trong phạm vi làng xã từ lâu đã hình thành tục thờ cúng thần địa phương<br />
và việc thờ cúng này trở nên phổ biến ở nhiều tộc người.<br />
Những người có công với gia đình, làng xóm, đất nước đều được người<br />
Việt Nam tôn vinh, sùng kính.<br />
-Năm là, tín đồ các tôn giáo Việt Nam hầu hết là nông dân lao động.<br />
Nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm tỷ lệ rất lớn, nên tín đồ<br />
hầu hết là nông dân. Nhìn chung, tín đồ các tôn giáo Việt Nam hiểu giáo lý không<br />
sâu sắc nhưng lại chăm chỉ thực hiện những nghi lễ tôn giáo và sinh hoạt cộng<br />
đồng tín ngưõng một cách nhiệt tâm.<br />
-Sáu là, Một số tôn giáo bị các thế lực thù địch phản động trong và ngoài<br />
nước lợi dụng vì mục đích chính trị.<br />
Tôn giáo nào cũng có 2 mặt: nhân thức tư tưởng và chính trị. Chín vì vậy,<br />
tuy mức độ có khác nhau, nhưng giai đoạn lịch sử nào thì các giai cấp thống trị,<br />
bóc lột vẫn chú ý sử dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo.<br />
Các thế lực trong và ngoài nước đang âm mưu sử dụng ngọn cờ nhân<br />
quyền gắn với tôn giáo hong xóm xoá bỏ CNXH ở nước ta. Vì vậy, một mặt phải<br />
đáp ứng đúng như cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân, mặt khác phải luôn<br />
cảnh giác với âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.<br />
-Bảy là, hoạt động tôn giáo trong những năm gần đây có biểu hiện mang<br />
tính chất thị trường.<br />
Những năm qua, nhờ có công cuộc đổi mới mà đời sống vật chất, tinh<br />
thần của nhân dân được nâng cao nhưng cũng kéo theo nhưng hoạt động của<br />
các tôn giáo sôi nổi hơn trước, việc xây mới, sửa chũa cơ sở thờ tự diễn ra khó<br />
kiểm soát. Hiện tượng “buôn thần, ban thánh” có dấu hiệu bùng phát làm tiêu tốn<br />
tiền bạc, thời gian, sức khoẻ của nhân dân.<br />
Hiện nay đã xuất hiện một số chức sắc, tín đồ các tôn giáo có biểu hiện<br />
suy thoái đạo đức, lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền mê tín-dị đoan, kiếm tiền<br />
bất chính.<br />
*Tình hình thực hiện chính sách tôn giáo ở nước ta hiện nay:<br />
Tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm. Vì vậy, việc đề ra<br />
chính sách và thực hiện chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề khó<br />
khăn, phức tạp, phải hết sức thận trọng.<br />
-Về ưu điểm:<br />
+Chính sách tôn giáo của ta ngày càng được cụ thể hoá, đáp ứng ngày<br />
càng tốt hơn nguyện vọng của chức sắc và tín đồ.<br />
+Những năm qua, nhờ chính sách phát triển kinh tế phù hợp đã làm cho<br />
đời sống vật chất và tinh thần của chức sắc, tín đồ được nâng lên<br />
+Thời gian qua chúng ta đã ngăn chặn, phá vỡ được những âm mưu của<br />
các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo vì mục đích kinh tế, chính trị…<br />
+Chúng ta đã củng cố đoàn kết những người có tín ngưỡng, tôn giáo với<br />
nhau. Chức sắc tín đồ ngày càng tin tưởng vào chính sách của Đảng, vào công<br />
cuộc đổi mới ở nước ta.<br />
-Về hạn chế:<br />
Trong khi thấy rõ ưu điểm, thnàh tựu như vậy, chúng ta cũng thấy một số<br />
hạn chế đan đặt ra, đó là:<br />
+Các thế lực thù địch đan ra sức lợi dụng tôn giáo để thục hiện chiến lược<br />
“DBHB” đối với nước ta.<br />
+Chính sách tôn giáo của ta vẫn còn chung chung, chậm được cụ thể<br />
hoá, một số cán bộ Đảng viên còn hạn chế trong việc nhận thức, đánh giá thấp<br />
tầm quan trọng của công tác tôn giáo. Việc giải quyết vấn đề tô giáo ở noi này<br />
hay nơi khác còn nhiều bất cập đã tác động tiêu cực đến việc phát huy sức<br />
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.<br />
+Một bộ phận không nhỏ chức sắc, tín đồ còn nghi ngờ, dao động hoang<br />
mang trước sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.<br />
+Đời sống của một bộ phận chức sắc, tín đồ còn khó khăn.<br />
+Nhiều vụ việc nổi cộm liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo còn xãy ra,<br />
chúng ta vẫn bị động hoặc xử lý thiếu tế nhị làm mất lòng tin của chức sắc, tín<br />
đồ, là kẻ hở cho kẻ xấu lợi dụng.<br />
*Quan điểm, đường lối của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo:<br />
Từ những ưu điểm và hạn chế của việc thực hiện đường lối, chính sách<br />
của Đảng và nhà nước ta đối với tín ngưỡng, tôn giáo trong thời gian qua, cho<br />
nên, việc nắm vững những quan điểm chỉ đạo cũa Đảng, chính sách của nhà<br />
nước trên lĩh vực tôn giáo và nâng cao hiệu quả quản lý trên lĩnh vực này nhằm<br />
phát huy mạnh mẽ sự tham gia tích cực và tự giác của toàn dân, trong đó có<br />
đồng bào theo đạo vào quá trình đổi mới là vấn đề có ý nghĩa lý luãn và thực tiễn<br />
cấp bách ở nước ta hiện nay.<br />
Đảng ta đã xác định: Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ<br />
phận nhân dân. Đó là một nhận định mang tính khoa học và mang tính cách<br />
mạng sâu sắc, nó phản ảnh đúng tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại của<br />
tôn giáo.<br />
Hiện nay, Đảng ta luôn khẳng định rằng: đạo đức tôn giáo còn nhiều điều<br />
phù hợp với công cuộc xây dựng XH mới. Đây là một nhận định mang tính đổi<br />
mới rất sâu sắc của Đảng ta.<br />
Quán triệt tư duy đổi mới trên, nghị quyết số 24-NQ/TW ra ngày 16-10-<br />
1990 của Bộ chính trị khoá VI về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình<br />
mới, Đảng ta xác định 3 quan điểm chỉ đạo trong công tác tôn giáo của Đảng và<br />
Nhà nước. Phát triển thêm một bước những quan điểm chỉ đạo đó trog tình hìh<br />
mới, nghị quyết TW 7(khoá IX) của Đảng về công tác tôn giáo khẳng định rằng:<br />
-Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân<br />
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.<br />
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín<br />
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình<br />
thường theo đúng pháp luật. Ở đây, sự tôn trọng đó được hiểu không phải là bị<br />
động đối phó, càng không phải sự bố thí ban ơn cho quần chúng có đạo, mà là<br />
quá trình chủ động chăm lo cho lợi ích thiết thân cho bộ phận quần chúng đặc<br />
thù này.<br />
Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần khẳng định, chúng ta không chống tôn<br />
giáo mà chỉ chống những ai lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng.<br />
-Hai là, Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn<br />
kết toàn dân tộc. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng<br />
bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phải tôn trọng các vị sáng<br />
lập ra tôn giáo, tôn trọng niềm tin của chức sắc, tín đồ tôn giáo; Tôn trọng quyền<br />
tự do tín ngưỡng của tôn giáo; Không ngừng chăm lo đời sống vật chất, tinh<br />
thần của chức sắc tín đồ. Phải hiểu được tâm tư nguyện vọng, tính đặc thù của<br />
tôn giáo mà họ theo.<br />
-Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần<br />
chúng. Công tác vận động quần chúng có đạo cũng là công tác đối với con<br />
người. Con người ở đây là con người-công dân-tín đồ. Công tác vận động quần<br />
chúng có đạo phải làm sao cho giáo luật xích lại gần với pháp luật của Nhà<br />
nước, đạo đức tôn giáo xích lại gần với đạo đức XH với tất cả những chuẩn mực<br />
lành mạnh, tiến bộ của đạo đức XH.<br />
-Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của hệ thống chính trị. Công tác<br />
tôn giáo không thể chỉ do một ngành nào đó làm được, mà phải do toàn bộ hệ<br />
thống chính trị cùng tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, tổ chức<br />
bộ máy và cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp<br />
cần được củng cố và kiện toàn.<br />
-Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ đều có quyền tự do<br />
hành đạotại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Việc<br />
theo đạo , truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều pahỉ tuân thủ<br />
hiến páhp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt<br />
động mê tín-dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo.<br />
III. Kết luận:<br />
Trong công cuộc đổi mới, hơn một thập kỷ qua, nhân dân ta đã đạt được<br />
những thắng lợi với những thành tựu cơ bản trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã<br />
hội. Qua đó đời sống vật chất, tinh thần không ngừng được đáp ứng và cải thiện<br />
cho đồng bào có đạo nói riêng và nhân dân cả nước nói chung luôn an tâm phấn<br />
khởi tin tưởng vào sự đổi mới của đảng và nhànước, góp phần tích cực vào<br />
công cộc xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt nam XHCN<br />
Những thành tựu đạt được kể trên chính là nhờ vào chủ trương đường lối<br />
chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước đã tạo những điều kiện cơ bản cho<br />
đồng bào có đạo tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước vì mục tiêu: “ Dân<br />
giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn minh” . Ngày nay, đồng bào tín<br />
ngưỡng tôn giáo luôn phát huy tinh thấn yêu nước tính cộng đồng và luôn gắn<br />
bó với phong trào cách mạng tiếp tục tham gia tích cực vào công cuôc xây dựng<br />
và bảo vệ tổ quốc với phương chăm: tốt đời đẹp đạo<br />