Chất lượng – phần 3B
3 – Quản lý chất lượng chiến lược
Dù cho các động thái của đường cong như thế nào thì chất lượng tối ưu
dường như cũng không khi nào bằng 0. Vậy thì phải chăng “mức hư hỏng bằng 0”
chỉ là một khẩu hiệu?
Hình 4.3 cho thấy điều gì xảy ra khi dùng kính lúp để soi vào mục tiêu
hoang tưởng này. Khi các thị trường tiến gần tới mức hư hỏng bằng 0, các đường
cong biến dạng một cách căn bản. Đường cong chi phí không còn tiệm cận với
trục tung nữa mà thực sự đi xuống.
Việc hoàn toàn kiểm soát được khả năng biến thiên của quá trình và việc
am hiểu quá trình tới mức các dự đoán về sản lượng là hoàn toàn đúng đắn sẽ làm
cho chi phí đảm bảo chất lượng giảm một cách căn bản.
Việc kiểm tra các sản phẩm xuất xưởng có lẽ sẽ không còn cần thiết nữa.
Những đáp ứng của người cung ứng có thể cũng như vậy, làm cho việc xác minh
và kiểm tra chất lượng có thể bị lãng quên.
Những lệch lạc nhỏ trong việc thực hiện của máy móc có thể được phát
hiện và điều chỉnh ngay lập tức. Đó là một thế giới trong đó, mọi hư hỏng và sai
lệch đều hoàn toàn biến mất.
Nếu có bất kỳ một bộ phận nào của sản phẩm lắp ráp khác với qui cách,
những biện pháp kiểm tra bằng máy tính sẽ tự động điều chỉnh phương vị của các
bộ phận khác để bù lại sai lệch đó.
Đó là một thế giới mà chất lượng được tạo ra một cách tự động, hầu như
không cần nỗ lực nào.Không chỉ riêng đường cong chi phí đi ngược xuống thực
sự.
Đường cong cơ hội sẽ đi xuống mức 0; hư hỏng bằng 0, sẽ có nghĩa chi phí
cơ hội bằng 0. Như hình 4.3 cho thấy rằng, việc đạt được mức hư hỏng bằng 0 sẽ
không chỉ giảm chi phí, thực tế nó còn tạo ra lợi ích nữa.
Một sản phẩm với kỷ lục chất lượng tốt trên thị trường sẽ tạo ra một ấn
tượng, để hỗ trợ cho việc đưa các thế hệ tiếp theo. Thực tế hãng Sony là một trong
những nhãn hiệu được thừa nhận rộng rãi nhất trên toàn thế giới, là một ví dụ về
những cơ hội chất lượng này.
Chất lượng sản xuất đóng góp vào việc thừa nhận nhãn hiệu và qua đó trực
tiếp tác động đến Marketing. Tác động vượt mức hư hỏng bằng 0 vượt ra ngoài
khuôn khổ các biến số thuộc phạm vi sản xuất và trở thành sự thành công chiến
lược thật sự.
Hình 4.3: nhìn qua kính lúp
Hình dáng bất thường của hai đường cong này làm thay đổi mức tối ưu của
chất lượng. Về mặt kinh tế, mức chất lượng tối ưu (Q*) được xác định ở trên đây
chỉ là tối ưu tại chỗ. Điểm tối ưu thứ 2 (Q**) tồn tại mức hư hỏng bằng 0. Đó là
mức tối ưu cuối cùng và mục tiêu của các hoạt động hướng tới mức hư hỏng bằng
0.
Những liên quan mật thiết
Từ chỗ là một cơ hội, chất lượng có thể chuyển hóa thành một vũ khí chiến
lược được dùng trên thị trường để giành giật ảnh hưởng.Việc chuyển sự đảm bảo
chất lượng từ khía cạnh cơ hội sang khía cạnh quản lý chiến lược chất lượng
không hoàn toàn đơn giản.
Với mức hư hỏng bằng 0, việc đảm bảo chất lượng đã đạt tới mục đích của
nó. Khi đó, nó không còn ý nghĩa với tư cách là một nhiệm vụ trong sản xuất chế
tạo nữa.
Quản lý chất lượng trở thành công việc thực hiện duy trì và đổi mới thường
xuyên các thủ tục hiện hữu.Nhưng cách nhìn chiến lược về chất lượng sẽ trở nên
cần thiết khi đã đạt được mức hư hỏng bằng 0.
Nghĩa là khi mà các nhà quản lý có thể đặt ra câu hỏi về việc phải dùng
những khả năng về chất lượng như thế nào để tăng cường giá trị tiêu dùng. Mỗi
lần, khi các công ty sản xuất lặp lại việc tạo ra các máy thu hình hoàn hảo, họ có
thể tìm cách làm thế nào để đưa ra hàng loạt những biến đổi và cải tiến nhanh
chóng nhằm tạo ra những giá trị cao hơn cho những người tiêu dùng riêng lẻ.
Việc xác định và duy trì một phương pháp có nhiều khả năng thích hợp với
nhu cầu thị trường là một thử thách đối với một nhà quản lý giàu kinh nghiệm.
Hình 4.4. Sự nỗ lực tiếp tục trong quản lý chất lượng
Mối liên quan mật thiết thứ hai được gợi ra bởi chướng ngại còn lại. Như
hình 4.4 cho thấy, những nỗ lực tiếp tục trong thiết kế sản phẩm và thiết kế quá
trình có thể đẩy đường cong chi phí chất lượng từ C1 xuống C2. Nhưng chướng
ngại hoặc “cái gò chất lượng” sẽ vẫn còn. Nếu công ty muốn chuyển dịch từ điểm
tối ưu địa phương Q* tới mức hư hỏng bằng 0, họ sẽ muốn tìm ra một lối tắt để
khỏi leo qua gò. Nhưng cho đến nay, điều đó là không thể. Không có một lối tắt
nào cả. Các công ty cần phải đầu tư vào quản lý chất lượng để chinh phục cao
điểm của chiếc gò chất lượng và khám phá ra thung lũng của mức hư hỏng bằng 0
ở phía sau chiếc gò ấy.Việc chinh phục nó thường đòi hỏi phải có những cách cải
cách đáng kể về phong cách tư duy. Mỗi người trong tổ chức cần phải có khả năng
tiếp cận với chiến lược chất lượng và hiểu rõ về vai trò của họ trong đó. Như
James Tebout viết trong tổng quan của mình về quản lý chất lượng: Cuộc cải cách
này không đem lại ngay sự thỏa mãn thông thường mà khách hàng có quyền mong
đợi mà nhằm để tạo dựng một lợi thế cạnh tranh, từ đó sẽ phân biệt và làm vui
lòng khách hàng (Tebout, J. 1990, Managing Quality Dynamics, Prentice Hall,
New York). Như vậy, khách hàng được tái hòa nhập vào trong quá trình sản xuất
và phân phối nói chung, và những người sản xuất phân phối không chỉ còn chịu
trách nhiệm trước người quản lý trực tiếp của họ mà phải đối diện với quyền lực
của thị trường và khách hàng.Việc thực hiện điều đó đòi hỏi phải có một cách tổ
chức rất khác biệt, tổng hợp toàn bộ các bộ phận tạo ra giá trị của công ty, từ
Marketing về sản xuất cho tới nghiên cứu phát triển.Khai phương hình tròn
những khả năng thích ứng với thị trườngVai trò quản lý chất lượng là
nhằm đảm bảo rằng việc sản xuất thích nghi được với những yêu cầu thị trường
đang thay đổi. James Tebout đã mô tả điều này như việc khai phương một đường
tròn, ông ta mô tả các yêu cầu thị trường như là một hình tròn và sự đáp ứng của
công ty như một hình vuông. Hình tròn là mục tiêu còn hình vuông là kết quả nỗ
lực thiết kế của công ty và khả năng của nó để sản xuất các sản phẩm tương ứng.
Tất nhiên, hình vuông và hình tròn sẽ không bao giờ bao phủ đúng một diện tích,
thậm chí không cần phải đáp ứng các nhu cầu một cách hoàn toàn nhưng cần phải
(khai phương hình tròn) tại bất kỳ một thời điểm cho trước nào đó tốt hơn so với
những người cạnh tranh.Hình 4.5: Khai phương hình trònXác định hình
trònViệc sản xuất không có hư hỏng có nghĩa là sản xuất ra một hình vuông hoàn
chỉnh. Hình 4.6 chỉ ra một số những hư hỏng – trong phần hình vuông nằm ngoài
hình tròn – mà chúng sẽ không gây ảnh hưởng tới việc thỏa mãn khách hàng.
Cũng có thể là một chút khó chịu nhưng không đủ ảnh hưởng tới các quyết định
của khách hàng.
Hình 4.6: Các loại hình hư hỏng
1. Những hư hỏng không ảnh hưởng tới khách hàng
2. Những hư hỏng khách hàng chấp nhận
3. Người cạnh tranh có sản phẩm hư hỏng nhưng có thể đáp
ứng nhu cầu tốt hơn.
4. Việc đáp ứng một nhu cầu theo cùng một cách hoặc theo
cách tốt hơn, bằng một sản phẩm không có hư hỏng, sẽ tạo ra một lợi thế rõ ràng.
hhA: Công ty của bạn hh
B: Người cạnh tranh
Ta hãy xét một sản phẩm, chẳng hạn như chiếc ghế tựa. Bộ phận để tựa có
thể hỏng sau 15 năm nhưng điều này có lẽ không cần thiết cho khách hàng. Vật
nhồi nệm ghế hoặc bọt xốp dùng để nhồi vào các phần đệm có thể bị hư hỏng
trước trong vòng 10 năm. Do đó, không hữu ích lắm khi tăng thêm tuổi thọ cho bộ
phận để tựa.Việc tăng cường chất lượng vào những đặc tính không thích hợp hoặc
những đặc tính vượt quá yêu cầu tiêu dùng sẽ không đóng góp vào việc xác định
thị trường tốt hơn. Việc đầu tư vào các khả năng chế tạo nhằm tăng cường các bộ
phận để tựa của chiếc ghế có thể đưa lại những lợi ích gián tiếp quan trọng cho
quá trình chế tạo hoặc sự văn minh không phải là điểm căn bản cho việc đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng.Trên một phương diện khác, các khách hàng không
muốn thấy có những chất khác thường trong loại bia bán cho họ và có thể không
ưa những vết xây xát trên vỏ chai. Việc đầu tư vào các phương pháp kiểm tra hình
ảnh tốt hơn qua máy tính để tăng cường kiểm tra lắng cặn hoặc phân tích hệ thống
sản xuất và phân phối để tránh cho các vỏ chai khỏi bị xây xát chính là tiến hành
chuyển dịch hình vuông tới một khu vực mà tại đó nó trùng hợp hơn với hình tròn.
Kirin, nhà ủ bia hàng đầu của Nhật, đã làm cho công việc quản lý chất lượng đối
với các chai bia của mình trở nên tinh tế tới mức mà hiện nay các hệ thống kiểm
tra bằng máy tính như vậy được áp dụng vào sản xuất các loại vật liệu lỏng.