Phần III<br />
<br />
Trí lươc<br />
<br />
Trí tường không thể đo lường được, nhưng giờ đây là đèn soi đường,<br />
là biến cả. (Samuel Beckett)<br />
<br />
118<br />
<br />
Mô hình V3T<br />
<br />
Thông minh hay không thông minh<br />
Cuộc khám phá trí thông minh của con người vẫn đang<br />
tiếp diễn. Câu hòi về “mối liên hệ giữa gien và sự thông<br />
m inh” vẫn còn đó như một thách thức đối với các nhà khoa<br />
học nghiên cứu não bộ. Vai trò của gien đối với trí khôn là<br />
gì? Càng tìm hiểu, càng thêm phần huyền bí. Các nhà khoa<br />
học cho rằng việc đo lường trí thông minh của một người là<br />
không khó nhưng để biết được yếu tố quyết định sự thông<br />
minh thì không dễ tí nào.37<br />
Robert Plomin, một nhà nghiên cứu gien kiểm tra trí<br />
thông minh cùa hàng ngàn trẻ em sinh đôi qua các câu hỏi<br />
trắc nghiệm bắt đầu công trình của mình từ những năm<br />
đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Với ứng dụng microarray<br />
(một con chip nhỏ để nhận dạng nửa triệu mẫu DNA) cùng<br />
nhiều công nghệ phức tạp khác kể cả các máy chụp hình<br />
chi tiết não (brain scanner), ông kiên nhẫn đo lường những<br />
tác động, dù ít ỏi đến mấy, cùa từng m ẫu DNA đối với trí<br />
thông minh cùa trẻ. Ket quả khá thuận lợi để đưa đến kết<br />
luận khi chỉ có sáu yếu tố liên quan đến gien ảnh hưrmg<br />
đến kết quả của các bài trắc nghiệm thông minh. Gần đây<br />
nhất, Haier và Rex Eugene Jung, hai giáo sư tại ĐH New<br />
M exico, đã tiến hành 37 cuộc khảo cứu để kiểm tra kích<br />
cỡ của các vùng não hay hoạt động của chúng để tìm kiếm<br />
các yếu tố ảnh hường đến thành tích sinh viên. Kết quả<br />
tìm được củng cổ kết luận của Plomin vì thực sự chẳng có<br />
vùng nào được xem là “vùng thông m inh” trong bộ não cả.<br />
<br />
chiến lược ph ái Iriên con người<br />
<br />
119<br />
<br />
Wendy Johnson, một giáo sư khác tại ĐH M innesota, đưa<br />
ra nhận định gần với xác tin cùa G ardner rằng bộ não của<br />
con người “mềm dẻo” (plastic) đù để mồi người tạo ra trí<br />
thông m inh riêng biệt.<br />
Sự thật là mỗi người đều có cách hiêu khác nhau về<br />
trí thông minh vì rằng chúng ta khác nhau về tri thông<br />
minh. Chúng ta khó lòng biết được mình thông minh hơn<br />
người khác ở những điểm nào. Điều mà ai cũng thấy dễ<br />
hiểu là biết người này thông minh hơn người kia trong từng<br />
việc làm cụ thể. Việc lý giải bản chất của trí thông minh<br />
một cách khoa học được nhường hẳn cho các chuyên gia<br />
nghiên cứu não bộ. Năm 1996, Hiệp hội các nhà tâm lý học<br />
Hoa Kỳ (A m erican Psychological Association) định nghĩa<br />
người thông minh là “người khác biệt với người khác trong<br />
khả năng hiểu các ý tưởng phức tạp, thích ứng tốt với môi<br />
trường, học hỏi từ kinh nghiệm, sử dụng các hoạt động tư<br />
duy khác nhau, vượt qua các chướng ngại vật qua việc sử<br />
dụng lý trí.”<br />
Cách đo lường trí thông minh qua các bài trắc nghiệm<br />
IQ được tin dùng trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, từ khi<br />
G ardner đc ra chủ thuyct “Du trí tuệ vù lô i Sternberg đưa ru<br />
<br />
khái niệm “trí thông minh thành công” (successful intelli<br />
gence),” chúng ta mới có thể tiếp cận vấn đề tri thông minh<br />
m ột cách thông minh hơn. Và từ đó khái niệm IQ cũng mất<br />
dần uy tín chính vì sự phiến diện của nó. Một trong những<br />
lý do chính yếu có lẽ là sự kém hiểu biết về chức năng<br />
và cấu trúc sinh-hóa của bộ não vì vào thời điểm này các<br />
nghiên cứu sơ khởi về não bộ vẫn chưa được hệ thống hóa.<br />
<br />
120<br />
<br />
Mô hình V3T<br />
<br />
Và gần nửa thế kỷ sau Thế chiến thứ hai chúng ta mới chính<br />
thức công nhận sự tồn tại cùa khoa học nghiên cứu não bộ<br />
ở một vài nước rất phát triển như Đức hay Hoa Kỳ.<br />
Các bài trắc nghiệm IQ chỉ ước định khoảng 25 phần<br />
trăm thành tích ở trường của học sinh và 75 phần trăm còn<br />
lại không được giải thích.38 Trí thông minh được định nghĩa<br />
lại một cách toàn diện hơn. Qua đó, mỗi người thấy cần<br />
phải đặt ra chiến lược để khai thác tối đa trí thông minh<br />
của mình.<br />
Bảng tổng kết cách đo lường trí thông minh<br />
1905<br />
<br />
Alfred B ind<br />
<br />
Bàng đánh giá sự phát triển tâm lỷ-xà hội của trẻ em đẩu tiẻn<br />
<br />
1916<br />
<br />
Lewis Terman,<br />
<br />
Báng đánh giá tri thông minh Stanford-Binet (iQ)<br />
<br />
1950<br />
<br />
J. P. Guilford<br />
<br />
Thuyết đa chiều, “Cấu tríic mô hinh trí tuệ”<br />
<br />
1961<br />
<br />
Torrance<br />
<br />
Loạt bài idem nghiệm tư duy sáng tạo<br />
<br />
1982<br />
<br />
Rimm<br />
<br />
Bàng đo lường sở thích cho học sinh<br />
<br />
1983<br />
<br />
Howard Gardner<br />
<br />
Thuyết Đa tri tuệ (M ỉ)<br />
<br />
1993<br />
<br />
Sternberg<br />
<br />
Bài trắc nghiệm khả nảng Sternberg<br />
<br />
Chiến lược phái Irién con người<br />
<br />
121<br />
<br />
S ứ c mạnh của trí năng<br />
Trước mắt bạn giờ đây là những dòng chừ biểu đạt ỷ<br />
tưởng của một công trình nghiên cứu tốn nhiều công sức<br />
và thời gian. Bên trong bộ não của bạn đang diễn ra các<br />
hoạt động tư duy cùng những phản ứng xúc cảm. Bạn đang<br />
cảm thấy dường như công việc đọc sách nặng nề và hao tốn<br />
năng lượng. Nhưng không, bộ não của bạn đang chỉ dùng<br />
nguồn năng lượng 20w ,39 tương đương với ngọn đèn nhỏ<br />
vừ a đủ sáng trong chiếc tủ lạnh của bạn. Với chừng ấy năng<br />
lượng thôi nhưng sức m ạnh của não bộ vượt xa một chiếc<br />
m áy tính thông minh. Nếu bạn m uốn thiết kế một người<br />
m áy với trí thông m inh tương đương một bộ não người<br />
bình thường, năng lượng tối thiểu bạn cần có là 10000 hay<br />
20000w. Trung bình mỗi phút, tiến sĩ David Samuels thuộc<br />
viện W eizmann ước định có khoảng 100.000 đến 1.000.000<br />
các phản ứng hóa học diễn ra trong não giúp các hoạt động<br />
suy nghĩ.40<br />
Độ nén thông tin trong não bộ hiển thị m ột vẻ đẹp<br />
khác. C hiếc m áy vi tính có thể nén 1.000.000 đơn vị (bits)<br />
tr o n g lc m 3 tron g khi n ã o ngưrri n én đ ên 10 .0 0 0 .0 0 0 0 0 0<br />
<br />
tro n g lc m 3. M ặc dù độ nén củ a não bộ gấp m ười ngàn<br />
lần m ột chiếc m áy vi tính như ng kích thước lại nhỏ hom<br />
rấ t nhiều. N ói cách khác, nếu m u ố n xử lý số lượng thông<br />
tin như trong não, m áy vi tính sẽ phải lớn gấp m ười ngàn<br />
lần kích thước não bộ. C ho dù m áy vi tính có lợi thế<br />
tro n g tốc độ xử lý th ô n g tin n h ư n g trong nhiều vấn đề<br />
q u a n trọng, não vẫn làm việc h iệu q u ả tốt hơn m à không<br />
<br />