BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Đàm Ngọc Phương Mai
CHÍNH SÁCH KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO THỜI CHÚA NGUYỄN
VÀ VUA NGUYỄN (THẾ KỈ XVI - XIX)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Đàm Ngọc Phương Mai
CHÍNH SÁCH KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO THỜI CHÚA NGUYỄN
VÀ VUA NGUYỄN (THẾ KỈ XVI - XIX)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số
: 8229013
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ THANH THANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự tham khảo
một số nguồn tài liệu đáng tin cậy. Tôi cam kết không hề sao chép bất kì công trình
nghiên cứu của ai. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ts. Trần Thị Thanh Thanh đã tận tình hướng dẫn,
giúp cho tôi hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin giử lời cảm ơn đến thư viện
Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Bảo Tàng thành phố Hồ Chí
Minh, bảo tàng Hội An, bảo tàng Đà Nẵng đã cung cấp tư liệu cho tôi hoàn
thành luận văn này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019 Đàm Ngọc Phương Mai
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục hình ảnh, bản đồ
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CỦA
CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN
(THẾ KỈ XVI – NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX) ....................................... 9
1.1. Quá trình tiếp nhận vùng đất Nam Bộ của các Chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX ......................................... 9
1.1.1. Giai đoạn chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỉ
XVII - XVIII ................................................................................................ 9
1.1.2. Quá trình xác lập chủ quyền biển đảo của các vương triều nhà
Nguyễn thế kỉ XIX .................................................................................... 24
1.2. Tầm quan trọng của biển đảo đối với chính quyền Chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XI ............................... 49
1.2.1. Vai trò của biển đối với chính quyền chúa Nguyễn (thế kỉ XVII
- XVIII) ...................................................................................................... 49
1.2.2. Vai trò của biển đối với triều Nguyễn ....................................................... 54
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 60
Chương 2. CHÍNH SÁCH KHAI THÁC BIỂN ĐẢO CỦA CHÚA
NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN (THẾ KỈ XVI – NỬA ĐẦU
THẾ KỈ XIX) ..................................................................................... 62
2.1. Chính sách khai thác kinh tế biển đảo của chúa Nguyễn và vua Nguyễn
(thế kỉ XVI - nửa đầu thế kỉ XIX) .................................................................... 62
2.1.1. Chính sách khai thác kinh tế biển của chúa Nguyễn .................................. 62
2.1.2. Chính sách khai thác kinh tế biển của vua Nguyễn thế kỉ XIX ................. 76
2.2. Tổ chức và hoạt động của lực lượng thủy quân ở hai quần đảo Trường Sa
- Hoàng Sa ........................................................................................................ 87
Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................ 111
Chương 3. CHÍNH SÁCH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO THỜI
CHÚA NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN (TỪ THẾ KỈ XVII -
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX) ................................................................. 115
3.1. Hoạt động tuần tra, kiểm soát trên biển ........................................................... 115
3.2. Xây dựng hệ thống phòng thủ ở vùng duyên hải và cảng biển của các
chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn ............................................................. 120
3.2.1. Xây dựng hệ thống phòng thủ vùng biển thời Chúa Nguyễn ................... 120
3.2.2. Xây dựng hệ thống phòng thủ vùng biển thời vua Nguyễn ..................... 124
3.3. Hoạt động chống ngoại xâm vùng biển của các chính quyền phong kiến ...... 135
3.3.1. Hoạt động chống ngoại xâm thời chúa Nguyễn ....................................... 135
3.3.2. Cuộc đấu tranh chống ngoại xâm trên biển thời Nhà Nguyễn ................. 139
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 148
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 156
DANH MỤC HÌNH ẢNH, BẢN ĐỒ
Hình 1.1. Bản đồ vẽ xứ Quảng Nam in trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ
thư do Đỗ Bá Công Đạo soạn đời Chính Hòa (1680) ............................. 14
Hình 1.2. Bảng đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1834 .................................... 37
Hình 2.3. Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ trong từ điển Việt - La Tinh
Latino -Anamici Disposita) ..................................................................... 38
Hình 4.1. Bảng đồ do người Phương Tây có xác định vị trí của quần đảo
Hoàng Sa (Paracel) .................................................................................. 39
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vùng biển là một phần không thể tách rời của lãnh thổ nước ta. Từ rất lâu, vấn
đề bảo vệ chủ quyền trên biển được các triều đại phong kiến xem trọng, từng được
thể hiện qua chính sách cai trị. Biển có vai trò rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển
của nước ta, với diện tích 3690 km đường bờ biển cùng với rất nhiều các đảo và bãi
đá ngầm lớn nhỏ. Biển đã đem đến cho nước ta tiềm lực lớn về nguồn lợi thủy sản
và mở ra con đường giao thương với các quốc gia trong khu vực. Biển còn góp phần
quan trọng vào việc bảo vệ an ninh quốc phòng. Ngay từ thời phong kiến các chúa
Nguyễn và vua Nguyễn luôn có ý thức về việc mở rộng mối quan hệ bên ngoài,
thông qua việc đẩy mạnh giao thương, buôn bán với nhiều quốc gia thông qua con
đường biển.
Giai đoạn từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX là thời kì có những biến động
với các sự kiện quan trọng đối với đất nước: chiến tranh Trịnh - Nguyễn, chia cắt
đất nước thành hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài, sự nổi dậy của phong trào Tây
Sơn, Nguyễn Ánh đánh bại vương triều Tây Sơn lập ra nhà Nguyễn. Như vậy từ thế
kỉ XVI đến thế kỉ XVII Đàng Trong của nước ta dưới sự cai trị của chúa Nguyễn và
giai đoạn từ thế kỉ XVIII - thế kỉ XIX nước ta được thống nhất với sự ra đời của
vương triều Nguyễn. Tuy tên gọi của hai triều đại có sự giống nhau nhưng ở mỗi
giai đoạn các triều đại phong kiến đều có ý thức khác nhau về vấn đề chủ quyền đặc
biệt là vấn đề chủ quyền trên biển. Có thể nói trong suốt một thế kỉ tồn tại của mình
từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII chính quyền chúa Nguyễn đều cố gắng ra sức xây
dựng vùng đất Đàng Trong thành cơ sở kinh tế chính trị, quân sự hùng mạnh nhằm
chống lại thế lực Đàng Ngoài của chúa Trịnh. Vì thế trong chính sách cai trị của các
chúa Nguyễn luôn có quan tâm đến việc chủ động mở cửa giao thương với bên
ngoài thông qua việc xây dựng các thương cảng ở vùng ven biển miền Trung. Đồng
thời với việc chủ động mở cửa giao thương buôn bán, thì các chúa Nguyễn cũng lần
đầu tiên tiến hành việc xác lập quyền cai trị của mình tại vùng biển đảo. Điển hình
nhất là dưới thời cai trị của chúa Nguyễn Phúc Nguyên người đầu tiên đã đặt cơ sở
cho vấn đề xác lập chủ quyền vùng biển nước ta.
2
Đến thời kì nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh vấn đề khai thác và xác lập chủ
quyền vùng biển vẫn được coi trọng. Hơn ai hết Nguyễn Ánh là người hiểu rất rõ về
tầm quan trọng của vùng biển Tây Nam. Từng bị quân Tây Sơn đánh chạy ra đảo
bốn lần, Nguyễn Ánh thấy được vùng biển đảo có vị trí chiến lược quan trọng mà
chính quyền Tây Sơn không nhận thấy được. Nguyễn Ánh đã tận dụng lợi thế của
vùng biển Tây Nam cho quân lính tiến hành khẩn hoang các vùng ven biển, phát
triển thủy quân hùng mạnh, chú trọng giao thương buôn bán với nước ngoài. Những
việc làm đó đã cho thấy từ rất sớm Nguyễn Ánh đã có ý thức về lợi thế của biển
trong cuộc đấu tranh giành lại vương triều của mình. Bằng chính sách khai thác các
tiềm năng của biển cùng với sự ủng hộ của các tầng lớp địa chủ đã giúp cho Nguyễn
Ánh có thể nhanh chóng lấy lại vùng đất Gia Định và từ đó đem quân chiếm toàn bộ
vùng đất Quy Nhơn của Tây Sơn, tiến ra Bắc, đặt cơ sở cho việc thống nhất đất
nước.
Đến thời triều Nguyễn các vị vua Nguyễn cũng tiếp nối tư duy hướng biển từ
thế hệ trước. Bằng chứng là các vị vua trong thời kì này cũng đã cho ban hành nhiều
chính sách quan trọng trong việc khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển. Trong
đó phải kể đến là ý thức hướng biển của vua Minh Mạng. Vua Minh Mạng không
chỉ tiếp nối những chính sách khai thác biển ở vua Gia Long, mà ông còn phát triển
ý thức đó ở mức độ cao thông qua việc chủ động xây dựng các đội hải quân, đóng
chiến thuyền, vẽ bản đồ xác định địa giới và cắm mốc chủ quyền. Đồng thời trước
việc thực dân phương Tây đang lớn mạnh trên thế giới vua Minh Mạng còn chủ
động cho người sang nước ngoài học hỏi những kĩ thuật của phương Tây để về ứng
dụng cho đất nước. Những việc làm đó cho thấy ngay từ rất sớm Minh Mạng đã chú
trọng đề cao an ninh quốc phòng trên biển.
Việc thực hiện đề tài có thể giúp cho tác giả có thể thấy được tầm quan
trọng của biển đối với kinh tế và an ninh quốc phòng của đất nước từ xưa và cho
đến ngày nay. Cùng theo đó là những nhận định ý thức hướng biển ngay từ rất sớm
của các triều đại phong kiến nước ta, thông qua việc xác lập chủ quyền và thi hành
các chính sách bảo vệ vùng biển trong mối quan hệ với Campuchia, Trung Quốc,
Xiêm. Các hoạt động khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển được các chúa
3
Nguyễn cũng như vua Nguyễn tiến hành từ rất sớm thông qua các đội thủy quân
Hoàng Sa và Bắc Hải. Các đội này có nhiệm vụ tìm kiếm các sản vật và các hóa vật
ở vùng biển và các đảo xa bờ. Ngoài ra họ còn làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, cứu
hộ các tàu buôn phương Tây khi gặp nạn trên quần đảo Hoàng Sa. Việc làm này
được tiến hành một cách liên tục xuyên suốt từ thời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn cho
đến giai đoạn các vua Nguyễn.
Thông qua hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa và Bắc Hải chính quyền
phong kiến còn tiến hành việc quản lý, làm chủ một cách hợp pháp và liên tục vùng
biển suốt nhiều thế kỉ. Đây là bằng chứng quan trọng khẳng định quá trình làm chủ
vùng biển từ khá sớm của chính quyền phong kiến, là cơ sở pháp lý quan trọng
trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của ta tại biển đông nói chung và tại hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nói riêng.
Tuy nhiên hiện nay việc khai thác và bảo vệ an ninh vùng biển của nước ta
còn gặp nhiều khó khăn.Thứ nhất là ta chưa có chính sách khai thác hợp lý các tiềm
năng kinh tế biển, thứ hai là chưa có sự kết hợp các nền kinh tế một cách đồng bộ.
Vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đông của ta gặp nhiều khó khăn nhất là trong nhất là
trong giai đoạn hiện nay khi phải đối mặt với cuộc tranh chấp chủ quyền với Trung
Quốc. Trong các hội nghị và các chuyên đề khoa học vấn đề về chủ quyền biển
đông cũng được chú trọng và đem ra bàn luận. Để nhận thức rõ tầm quan trọng của
biển đối với nước ta, đồng thời giáo dục cho thế hệ trẻ có sự hiểu biết về quá trình
làm chủ vùng biển của Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài: “CHÍNH SÁCH KHAI
THÁC VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO THỜI CHÚA NGUYỄN VÀ VUA
NGUYỄN TỪ THẾ KỈ XVI - XIX” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về triều Nguyễn, trong đó có đề cập ở
những mức độ khác nhau về những hoạt động bảo vệ biên giới, biển đảo Việt Nam
của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn.
Đại Nam thực lục do các sử thần trong Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn.
Đây là bộ sử viết về mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và ngoại giao thời các
chúa Nguyễn (phần tiền biên) tập 1, quyển I, II, III, IV, V, VII, VII, X, XI và thời
4
các vua Nguyễn (phần chính biên), từ tập 2 đến tập 10. Đây được coi là nguồn tài
liệu gốc do các sử thần nhà Nguyễn ghi chép lại một cách cụ thể và chi tiết về toàn
cảnh xã hội Việt Nam thời Nguyễn với các vấn đề về kinh tế, chính trị, ngoại giao,
quân sự...đề cập khá nhiều chi tiết phản ánh sự xác lập và thực thi chủ quyền vùng
biển.
“ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ” là bộ sách do các đại thần triều Nguyễn theo
lệnh vua tập hợp các tấu chương, nghị chuẩn, ghi chép những công tác của triều
đình thuộc Lục bộ, về pháp luật, điển chương, chính trị, văn hóa…Tập V của bộ
sách có nhiều sự kiện về hoạt động huấn luyện thủy quân, công tác diễn tập thuyền
bè, trang bị của lực lượng quân đội, việc phòng thủ, bảo vệ vùng biên giới và biển
đảo, hoạt động tuần biển, việc khen thưởng ban cấp cho lực lượng thủy quân, trang
bị ở các đồn, đài, tấn, sở vùng biên giới, cửa biển, về các hoạt động ở Hoàng Sa,
Trường Sa…
Sách “Phủ Biên tạp lục” của Lê Quý Đôn, được viết năm 1776 trong thời gian
ông giữ chức Hiệp chánh tham tán quân cơ của chính quyền Lê - Trịnh ở vùng
Thuận Hóa. Tập sách có giá trị lớn về văn học, lịch sử, địa lí và được coi là nguồn
tài liệu quý ghi lại rõ ràng và chi tiết về quá trình khai thác các nguồn sản vật biển
và bảo vệ chủ quyền vùng biển dưới thời chúa Nguyễn thông qua việc cho thành lập
các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, xây dựng các tấn thủ, cho người đến đo đạc, cai quản
các vùng đảo...
Ngoài các bộ sách trên, thư tịch được ghi chép và lưu giữ dưới thời các chúa
Nguyễn và nhà Nguyễn như Đại Nam nhất thống chí, Minh Mệnh chính yếu, Gia
Định thành thông chí, Lịch triều hiến chương loại chí, Châu bản triều Nguyễn…đều
có những thông tin lịch sử đề cập tới quá trình bảo vệ chủ quyền vùng biển thời
Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn.
Trong thời hiện đại, vào những năm gần đây, có nhiều công trình khoa học
được công bố viết về vấn đề khai thác và bảo vệ chủ quyền biển đảo, có thể kể tên
một số sách tiêu biểu như:
“Những bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa -
Trường Sa" (2012) của tác giả Nguyễn Nhã, trình bày khá chi tiết vị trí địa lý, tên
5
gọi và quá trình khai thác nguồn lợi kinh tế, việc xác lập chủ quyền của các vương
triều phong kiến ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tác giả đã đưa ra các hình
vẽ, lược đồ, các tư liệu của Việt Nam và Phương Tây, ghi lại những nhiệm vụ cụ thể
của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, cách tổ chức thủy quân, cắm mốc chủ quyền, tổ
chức thủy quân thi hành nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa.
Hệ thống phòng thủ Miền Trung dưới triều Nguyễn (2011) của tác giả Đỗ Bang
trình bày khá rõ nét về các hoạt động xây dựng các hệ thống đồn lũy, các tấn thủ,
tuyến phòng thủ, các hoạt động bảo vệ vùng biển miền Trung tiêu biểu là cửa biển
Đà Nẵng, quá trình thực thi chủ quyền của nhà Nguyễn ở biển Đông.
Biển với người Việt cổ (2011) của tác giả Phạm Đức Dương gồm 2 phần:
Phần 1: Giới thiệu mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của
Việt Nam. Phần 2: Các nền văn hóa biển ở Việt Nam: Văn hóa Hoa Lộc - Văn hóa
biển, văn hóa Quỳnh Văn, văn hóa Bầu Tró, văn hóa Sa Huỳnh…Theo tác giả, nhờ
biết khai thác các lợi thế và tiềm năng nhiều mặt của biển mà nhiều quốc gia có biển
Chămpa, Phù Nam, Thủy Chân Lạp đã có những bước phát triển vượt bậc về văn
hóa - văn minh một thời…vì vậy biển giữ vai trò cực kỳ quan trọng từ xưa cho đến
hiện tại đối với sự tồn tại và phát triển của dân tộc ta.
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Biển Đông và hải đảo Việt Nam” của nhiều tác
giả, công bố và cung cấp các nguồn sử liệu của nhà Nguyễn về hoạt động khai thác
và bảo vệ chủ quyền ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Tổ chức và hoạt động bảo vệ biển đảo Việt Nam dưới triều Nguyễn 1802 -
1885 (2016), Đỗ Bang (chủ biên) tập hợp một số bài được Hội khoa học Lịch sử
tỉnh Thừa Thiên Huế công bố trong hội thảo khoa học vào tháng 12 năm 2013.
Trong tác phẩm này tác giả trình bày rất cụ thể về việc tổ chức, hoạt động và khai
thác vùng biển của thủy quân nhà Nguyễn xuyên suốt từ thời Gia Long, Minh Mạng
đến Thiệu Trị, Tự Đức. Tác giả cũng đưa ra những dẫn chứng cụ thể thông qua các
chỉ dụ, châu phê của vua Nguyễn nhằm khẳng định việc làm chủ của chính quyền
phong kiến Việt Nam tại vùng biển.
Chủ quyền biển đảo Việt Nam trong lịch sử (2017), Đỗ Bang (chủ biên) tập
hợp bài viết của nhiều tác giả về vai trò của chính quyền họ Nguyễn đối với việc
6
khai thác và bảo vệ chủ quyền biển đảo Đàng Trong trong lịch sử, đưa ra nhiều hình
ảnh về các sắc, dụ, lược đồ, các văn bản của thời Nguyễn và của người Phương Tây,
Trung Quốc, góp phần làm rõ ý thức chủ quyền về vùng biển đảo của các vương
triều phong kiến. Cuốn sách này tập trung vào một số vấn đề cơ bản: 1/Vai trò và
trách nhiệm của chính quyền Việt Nam qua các thời kì trong việc khai thác, thực thi
và bảo vệ chủ quyền biển đảo;
2/ Đóng góp của nhân dân, các địa phương, các tổ chức trong nước và quốc tế trong
việc bảo vệ chủ quyền qua các thời kì; 3/Vị trí chiến lược của biển Đông và yếu tố
nước ngoài xâm phạm, bài học từ quá khứ; 4/ Giải pháp đấu tranh để bảo vệ chủ
quyền biển đảo, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ hiện nay.
Bên cạnh đó còn có nhiều loại sách chuyên khảo về các hoạt động khai thác và
bảo vệ chủ quyền của chính quyền phong kiến như tác phẩm “Thủy quân triều
Nguyễn (1802 - 1884)” của Ts. Bùi Gia Khánh được xuất bản năm 2018. Tác phẩm
trình bày một cách cụ thể và chi tiết về tổ chức, cách thức hoạt động và vai trò của
thủy quân nhà Nguyễn trong các hoạt động xác lập và bảo vệ chủ quyền vùng biển
nửa đầu thế kỉ XIX.
Trên các tạp chí Xưa và nay, Nghiên cứu lịch sử, tạp chí Nghiên cứu - trao
đổi, Lịch sử quân sự có một số bài viết về chủ đề biển đảo của các tác giả Nguyễn
Quang Ngọc, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Nhã, Lê Công Tiến, Đỗ Quỳnh Nga,
Đoàn Anh Thái…và nhiều công trình nghiên cứu phong phú về việc khai thác và
xác lập chủ quyền chủ quyền biển đảo Việt Nam qua các thời kì lịch sử. Tuy nhiên,
hầu như chưa có công trình nào thể hiện vấn đề này một cách toàn diện và đầy đủ từ
thế kỷ XVII - XIX thời chúa Nguyễn đến triều Nguyễn.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của tác giả khi thực hiện đề tài này là tập
trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề về hoạt động khai thác và bảo vệ chủ quyền
vùng biển của chính quyền Nguyễn, thông qua hoạt động của các đội hải quân
Hoàng Sa, Bắc Hải thời chúa Nguyễn và vua Nguyễn các hoạt động đấu tranh
chống ngoại xâm bảo vệ chủ quyền và nền độc lập cho đất nước...Từ đó có những
7
bằng chứng xác thực trong việc làm rõ chính sách khai thác và bảo vệ chủ quyền
biển đảo của các chính quyền phong kiến Việt Nam thời kỳ lịch sử.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chính sách, các hoạt động khai thác và
bảo vệ chủ quyền biển đảo thời chúa Nguyễn và vua Nguyễn (thế kỷ XVI - nửa đầu
XIX).
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: Là vùng biển Đàng Trong thời Chúa Nguyễn và các
vua nhà Nguyễn được bắt đầu từ cửa biển Thuận Hóa đến vùng biển Tây Nam bao
gồm hai quần đảo nằm bên ngoài dãy đất liền là Hoàng Sa và Trường Sa.
Thời gian nghiên cứu: Thời kì chúa Nguyễn đến thời các vua Nguyễn bắt đầu
từ thế kỉ XVI - XIX. Tuy nhiên luận văn chỉ giới hạn và tập trung làm rõ việc khai
thác và bảo vệ chủ quyền biển đảo thế kỉ XVII – XIX. Trong đó nhấn mạnh đến
khai thác và bảo vệ chủ quyền biển đảo thuộc giai đoạn chúa Nguyễn Phúc Nguyên
khi mà bắt đầu có sự thành lập đội thủy quân Hoàng Sa và giai đoạn cai trị của các
vua đầu triều Nguyễn như vua Gia Long, vua Minh Mạng .
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Đề tài nghiên cứu dựa trên các nguồn tư liệu là: Các bộ sách về lịch sử và các
ấn phẩm triều Nguyễn gồm Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam
liệt truyện, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Phủ biên tạp lục, Gia Định thành
thông chí… là những tài liệu quan trọng để nghiên cứu về biển đảo dưới thời
Nguyễn. Tác giả khai thác triệt để nguồn tư liệu gốc là Phủ Biên tạp lục, Đại Nam
thực lục tiền biên, Đại Nam thực lục chính biên. Các bản đồ nước ta được vẽ dưới
thời Nguyễn, cùng với hệ thống bản đồ của các nước phương Tây về biển Đông
cũng được coi là nguồn tài liệu xác thực, tin cậy cần khai thác đối chiếu. Các bộ
sách thông sử và giáo trình của các trường đại học, các tác phẩm và công trình
nghiên cứu về vùng biên giới, các vùng biển đảo Việt Nam là nguồn tham khảo cho
luận văn. Tác giả luận văn cũng chú trọng việc sưu tầm tài liệu thực địa tại một vài
địa điểm nhằm phát hiện thêm các tài liệu mới có liên quan.
8
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện bằng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, vận
dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể là tổng hợp, phân tích dữ liệu và thông tin lịch
sử, hệ thống hóa, khái quát hóa...
5. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là một đóng góp về quá trình khai thác và
bảo vệ biển đảo từ chúa Nguyễn đến vương triều Nguyễn (thế kỷ XVII - XIX).
Luận văn góp phần làm rõ và khẳng định chủ quyền của chính quyền phong kiến
chúa Nguyễn và nhà Nguyễn đối với vùng biển đảo, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa.
Luận văn cũng góp phần tìm hiểu quá trình thành lập và kết thúc của đội thủy quân
Hoàng Sa, quá trình đội Hoàng Sa kiêm quản cửa biển Sa Kỳ. Trên cơ sở đó, luận
văn góp phần nêu bài học lịch sử cho thế hệ hôm nay trong việc nâng cao ý thức đối
với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Luận văn cũng góp phần nhỏ thay đổi
cách nhìn nhận, đánh giá về triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch
sử Việt Nam. Góp phần bổ sung, cung cấp thêm tư liệu phục vụ cho học tập, giảng
dạy và nghiên cứu lịch sử, giáo dục học sinh về tầm quan trọng của các vùng biên
giới, các vùng biển đảo quê hương, hưởng ứng tích cực phong trào tuyên truyền về
việc bảo vệ biển đảo quê hương.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn chia thành
3 chương.
9
Chương 1. QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
CỦA CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN
(THẾ KỈ XVI – NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX)
1.1. Quá trình tiếp nhận vùng đất Nam Bộ của các Chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX
1.1.1. Giai đoạn chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỉ
XVII - XVIII
Vùng đất Nam Bộ được khẩn hoang và khai thác khi có lưu dân Việt di cư vào
thế kỉ XVII gắn liền với sự kiện Nguyễn Hoàng trấn thủ vùng đất Thuận Hóa. Qúa
trình hợp nhất vùng đất Nam Bộ là sự kết hợp nhuần nhuyễn và khéo léo về quân
sự, chính trị, ngoại giao của chính quyền chúa Nguyễn với các nước láng giềng. Để
tăng cường vị thế của vùng đất Đàng Trong, chúa Nguyễn Hoàng tiến hành mở rộng
lãnh thổ về phía Nam thông qua các hoạt động quân sự, đánh bại các cuộc tấn công
của Chiêm Thành.
Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng phái Lương Văn Chánh đem quân sang đánh,
chiếm một vùng đất lập phủ Phú Yên, chia làm hai huyện Đồng Xuân, Tuy Hòa.
Đến thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên thì xác lập chủ quyền bằng con đường chính
trị mềm dẻo và khôn khéo hơn. Năm 1623, sau khi giúp Chân Lạp đánh bại cuộc tấn
công xâm lược của Xiêm và dựa vào quan hệ hôn nhân giữa vua Chiêm Thành là
Chay Chetta II với công nương Ngọc Vạn, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cử người
dâng các tặng phẩm mừng chiến thắng, đề nghị chính quyền Chân Lạp cho lập 2 sở
thu thuế ở Prei Nokor (Sài Gòn) và KasKrobei (Bến Nghé) để bảo vệ thành quả
khẩn hoang của lưu dân Việt ở vùng này. Việc này đặt cơ sở pháp lí quan trọng
khẳng định chủ quyền của chúa Nguyễn tại vùng đất Nam Bộ. Nơi đặt sở thu thuế là
vùng thu hút đông đảo thuyền buôn từ các nơi đến, góp phần thúc đẩy nhanh chóng
việc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên vùng đất này.
Năm 1672 diễn ra sự kiện Mô Xoài, chúa Nguyễn Phúc Tần đã phái Nguyễn
Phước Yến giúp Chân Lạp giải quyết mối bất hòa trong hoàng gia, đánh bại quân
10
Xiêm, đưa Nặc Thu lên làm vua Chân Lạp. Sau sự kiện này, lưu dân Việt đến vùng
đất Mô Xoài, Đồng Nai ngày càng đông.
Năm 1679, hai nhóm người Hoa “phản Thanh phục Minh” xin tá túc và sinh
sống ở Đàng Trong. Chúa Nguyễn phái quan lại dẫn đường để họ định cư ở Biên
Hòa và Mỹ Tho.Tại đây họ lập nên phố xá và khu vực mua bán, nơi này nhanh
chóng trở thành trung tâm mua bán sầm uất nổi tiếng của Đàng Trong như Nông
Nại đại phố, Mỹ Tho đại phố.
Sự hình thành các trung tâm đô thị lớn đã làm cho số dân của vùng đất này
tăng lên nhanh chóng. Người Việt, người Hoa, người Chăm đến sinh sống và định
cư ở đây ngày càng nhiều. Những vùng trước kia hoang vu rậm rạp bấy giờ đã có số
dân tới 4 vạn hộ. Họ khai phá đất hoang, hình thành làng mạc thôn xóm. Với số
lượng người Việt tăng lên nhanh chóng, chúa Nguyễn tìm cách xác lập quyền cai
quản của mình trên vùng đất này. Năm 1698 Chúa Nguyễn Phúc Chu cử thống suất
Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất phía Nam. Theo Đại Nam thực
lục:“Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại làm dinh đặt phủ Gia Định, lấy Đồng Nai
làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy Sài Gòn làm huyện Tân Bình,
dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để cai trị” (Trịnh
Hoài Đức,1998, tr.77).
Sau khi thành lập dinh Trấn Biên chúa Nguyễn Phúc Chu cũng cử tướng
Trương Phúc Phan làm trấn thủ tại đây. Dinh Trấn Biên bao gồm toàn bộ khu vực
huyện Phước Long và khu vực phía đông như Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước,
Bà Rịa Vũng Tàu và các đảo, quần đảo từ bờ biển đổ ra.
Vùng đất mới ngày càng được mở rộng, chúa Nguyễn chiêu mộ dân lưu tán từ
Bố Chính vào Nam đến khai hoang lập ấp, cho người Hoa ở Trấn Biên lập xã Thanh
Hà, người Hoa ở Phiên Trấn lập xã Minh Hương. Đây được coi là việc xác lập chủ
quyền theo hình thức “dân đến mở đất trước nhà nước đến cai trị sau”. Như vậy, sự
kiện trên đã chính thức đánh dấu quyền quản lí hành chính của chúa Nguyễn tại
vùng đất Nam Bộ. Cùng với việc làm chủ vùng đất liền thì chúa Nguyễn cũng tiến
hành kiểm soát các vùng biển và hải đảo như Côn Lôn, Phú Quốc, Hoàng Sa thông
qua hoạt động của đội Bắc Hải:
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải không biết bao nhiêu suất, người thôn Tứ
Chính, Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy
sai đi, miễn tiến sưu và các thuế tiền đò, cho thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải,
Côn Lôn, Hà Tiên tìm lượm sản vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba (Lê
11
Qúy Đôn, 1977, tr. 155).
Việc thành lập đội Bắc Hải đã cho thấy chính quyền chúa Nguyễn đã kiểm soát một
khu vực biển rộng lớn kéo dài từ khu vực Bình Thuận cho đến cảng Hà Tiên.
Trên các đảo này, chính quyền chúa Nguyễn chú trọng khuyến khích lưu dân
đến khẩn hoang, khai thác sản vật. Theo ghi nhận của tác giả Trần Nam Tiến thì
trên các đảo Côn Đảo, Phú Quốc từ rất sớm đã có cư dân đến sinh sống: Ở phía
đông và phía Bắc vùng biển, người ta thấy một bãi cát rộng khoảng nửa dặm, trên
đó có những túp liều của dân nằm rải rác và hỗn độn, khi đó dân trên đảo khoảng
200 người ” (Trần Nam Tiến, 2018, tr. 89). Đầu thế kỉ XVII các đội Hoàng Sa, Bắc
Hải, Thanh Châu được thành lập, có nhiệm vụ khai thác sản vật, hóa vật và bảo vệ
Vùng biển phía Tây Nam được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt thông qua sự
kiện Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn vào năm 1708. Mạc Cửu
vốn là người Quảng Đông (Trung Quốc), vào năm 1699 đã xin phép vua Chân
Lạp đến khai khẩn vùng đất Hà Tiên và sau đó được vua Chân Lạp giao cai
quản vùng đất này. Mạc Cửu chiêu mộ dân khai hoang mở đất, lập nhiều phố
xá, trung tâm mua bán và sòng bạc. Vùng đất hoang vu rậm rạp này nhanh
chóng trở thành thị tứ đông đúc gọi là Hà Tiên trấn. Chính điều này đã thu hút
đông đảo dân cư từ khắp các nơi tìm đến sinh sống và buôn bán. Theo Gia
Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức:“ Đường xá giao nhau, phố xá nối
liền, người Việt, người Tàu người Cao Miên, người Chà Và đều họp nhau sinh
chặt chẽ an ninh vùng biển.
sống, ghe thuyền ở sông biển qua lại như mắc cửi thật là nơi đại đô hộ ở biển
vậy” (Trịnh Hoài Đức, 1999, tr. 245 - 246).
12
Do có quá trình sinh sống và khai thác lâu dài trên các vùng biển đảo nên
người dân lập thành lập nhiều ngôi làng như: Cù Lao Chàm, Đại Côn Lôn, làng An
Vĩnh, Cù Lao Ré, làng Hà Trung, xã Cảnh Dương. Họ tiến hành khai khẩn và trồng
Thôn Lý Hòa châu Nam Bố Chính đất ấy là dư khí của núi Lệ Đệ rủ xuống
thành một bãi cát bằng nổi cao và mở rộng, dân cư ở ngang bãi trông về hướng
Nam, đuôi bãi từ bên tả ôm lấy, sông Thuận Cô từ bên hữu chạy lại làm tiền
đường, một dải cát thôn Thuận Cô làm án, cho nên nhân đinh thịnh vượng đến
hơn nghìn người (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 135).
trọt, làm nông kết hợp với đánh bắt thủy sản.
Ngoài những làng dân tự lập thì trong quá trình khai khẩn vùng biển đảo chúa
Nguyễn cũng cho lập nên các làng mới và bố trí ở đây các đội tuần tra và giám sát.
Họ có nhiệm vụ là giám sát, tuần tra và báo cáo về chính quyền khi có sự xuất hiện
của thuyền nước ngoài trên biển. Các lực lượng này đều là dân ở các vùng ven biển
họ là lực lượng bán quân sự vừa có nhiệm vụ khai thác hải vật vừa là tai mắt của
triều đình.
Đây được coi là lực lượng dân sự đầu tiên của chúa Nguyễn có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ vững chắc vùng biển, đồng thời thể hiện mối quan hệ gắn bó
giữa nhân dân với chính quyền phong kiến. Ở các khu vực cửa biển quan trọng đều
có bộ trí những trạm gác, giúp cho chính quyền có thể quản lý chặt chẽ, tránh sự tấn
công của quân Trịnh từ phía Bắc hay Chân Lạp, Xiêm từ phía Nam. Trong các làng
kể trên thì làng Hà Trung thuộc huyện Phú Vang đóng vai trò quan trọng trong việc
khai thác giữ gìn và phòng thủ vùng ven biển Thuận Hóa. Phủ Biên Tạp lục của Lê
Huyện Phú Vang dưới thì núi, giữa thì đầm phá, dưới thì biển. Phá Hà Trung
rộng lớn không thấy bờ không biết bao nhiêu mẫu khoảng dân cư ở vòng quanh
bốn bề, hải vật nhiều thứ không kể xiết, nhà nước không có thóc thuế thiếu,
Qúy Đôn cũng đã ghi nhận về đặc điểm địa hình và dân cư của huyện Phú Vang:
dân cư không phải đói ăn, áo cơm đầy đủ kho vựa thường đầy (Lê Qúy Đôn,
1977, tr. 147).
13
Những dân chứng trên đã cho thấy vùng đất Thuận Hóa có những điều kiện
thuận lợi tạo điều kiện cho dân cư tới đây sinh sống. Theo ghi chép của T.S Võ
Vinh Quang ở phân viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Huế cho rằng dân cư làng Hà
Trung đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý vùng biển trước khi đội Hoàng Sa
ra đời. Trong bài viết của mình tác giả đã cho rằng làng Hà Trung được thành lập
Tháng 10 năm Mậu Ngọ (1558) chúa Nguyễn Hoàng đem quân vào trấn thủ
vùng Thuận Quảng tức là Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Nam lúc đó, 6 ngài
Thỉ tổ của 6 họ làng Hà Trung là họ La, họ Mai, họ Bùi, họ Trấn, họ Đặng, họ
Văn được theo phò giá, chiếm đóng Thuận Quảng, hành trình bằng đường thủy
vào cửa Tư Đông [Tư Dung] là cửa Tư Hiền ngày nay. Đầu tiên tạm đóng ở
phường Nhất Hà Trung nay vẫn còn dấu tích (Đỗ Bang, 2017, tr. 397).
sau khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ tại vùng đất Thuận Hóa
Đường đi vào vùng này sẽ đi từ cửa biển Tư Hiền đến vùng đầm Hà Trung, từ
Thuận Hóa rồi đến kinh đô Phú Xuân. Như vậy vùng đầm Hà Trung là con đường là
cửa ngõ quan trọng để tiến xuống kinh đô. Vì thế để bảo vệ cho vùng này tránh sự
tấn công của các thế lực bên ngoài, chúa Nguyễn Hoàng đã cho những thuộc hạ của
mình được tự do vào đây khai khẩn, lập làng, rồi phong cho họ chức cai cơ phó
tướng đồng thời giao cho họ kiêm quản toàn bộ vùng đất liền, vùng biển và toàn bộ
dân cư ở vùng Thuận Hóa.
Như vậy vào nửa đầu thế kỉ XVIII hầu hết các đảo và biển ở vùng Thuận
Quảng đều thuộc về chúa Nguyễn. Cùng với việc làm chủ các vùng ven biển gần bờ
chúa Nguyễn cũng tiến hành khuyến kích dân cư đến khai thác ở các đảo xa bờ như
Hoàng Sa, Trường Sa.
Quần đảo Hoàng Sa thuộc địa phận phủ Quảng Ngãi. Cách đảo Hải Lí và đảo
Hải Nam của Trung Quốc 230 hải lý. Nằm phân bố dọc bờ biển các tỉnh Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và một phần Quảng Ngãi. Quần đảo này
14
được biết đến từ thế kỉ II khi cảng Thị Óc Eo của người Chăm pa được xây dựng
hay con đường tơ lụa trên biển của người Trung Hoa bắt đầu được hoạt động. Có
thể nói quần đảo Hoàng Sa được biết đến từ khá sớm nhưng do những hiểm họa về
mặt địa lý ở đây nên hầu như trong một thời gian dài vùng đảo này chưa có sự khai
thác của bất cứ một chính quyền nào. Đến khi chúa Nguyễn Hoàng vào khai khẩn
vùng Đàng Trong thì mới bắt đầu có sự chiếm hữu tại quần đảo này.
Lúc đầu chúa Nguyễn chỉ tiến hành cho khai thác các vùng đảo ven bờ. Về sau
do quá trình Nam tiến cộng với việc phải đối phó với sự tấn công của quân Trịnh và
nguồn lợi về thủy sản dồi dào nên chúa Nguyễn bắt đầu khai thác các quần đảo xa
bờ. Quần đảo Hoàng Sa luôn hứng gió mùa Đông Nam hay Đông Bắc thổi vào, nên
các tàu thuyền khi đến đây đều bị sóng biển đánh làm hư hại. Các vua chúa Nguyễn
thường chu cấp phương tiện cho các tàu thuyền bị nạn, vì thế khi gặp bão các
thuyền buôn thường tìm cách dạt vào bờ biển nước ta để nhận sự giúp đỡ.
Quần đảo Hoàng Sa là nơi có trữ lượng hải sản và tổ yến nhiều nên mặc dù có
nhiều nguy hiểm và trở ngại nhưng chúa Nguyễn vẫn cử quân đến khai thác.
Theo như ghi nhận của Đỗ Bá Công Đạo một vị quan của Đàng Ngoài được
chúa Trịnh cử đến vùng Đàng Trong năm 1686. Khi về ông đã vẽ tấm bảng đồ
Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư đây được coi là tài liệu xưa nhất ghi nhận về vị trí và
quá trình khai thác vùng đảo Hoàng Sa của Chúa Nguyễn:
Hình 1.1. Bản đồ vẽ xứ Quảng Nam in trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ
thư do Đỗ Bá Công Đạo soạn đời Chính Hòa (1680)
Giữa biển có một dãi cát dài gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) dài tới 400 dặm,
rộng 20 dặm. Từ cửa Chiêm đến cửa Sa Vĩnh mỗi lần có gió Nam tạt vào đấy
thì thương thuyền các nước đi vào phía trong và trôi dạt vào đấy, gió đông bắc
thì thương thuyền chạy bên ngoài cũng trôi dạt vào đấy chết đói cả. Mỗi năm
vào tháng cuối đông họ Nguyễn đưa 18 chiếc thuyền đến đó lấy hàng hóa của
cải, phần nhiều thì tiền bạc của cải và súng đạn. Từ cửa Đại Chiêm đến đó phải
mất một ngày rưỡi. Từ cửa Sa Kỳ đến đó thì nửa ngày. Chỗ bãi cát vàng ấy
cũng có đồi mồi (Nguyễn Nhã, 2013, tr. 40).
15
Những ghi chép của Đỗ Bá Công Đạo trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ
thư có thể thấy ông đã tìm tòi và nghiên cứu kĩ lưỡng về vị trí và đặc điểm của quần
đảo Hoàng Sa so với các vùng đảo khác. Mặc dù có một số chỗ không chính xác về
thời gian (theo nhiều sử liệu khác thì cho rằng phải mất đến 3 ngày đêm). Bãi Cát
Vàng theo tên gọi Hán Việt tức chỉ vùng Hoàng Sa. Tên gọi này đã có từ trước
chứng tỏ vùng đảo này trước kia đã có người Việt sinh sống và định cư ở đây. Vùng
quần đảo Hoàng Sa nằm ở đoạn sông Thu Bồn (cửa Đại Chiêm của vùng Quảng
Nam) cho đến cửa sông Trà Khúc (cửa Sa Kỳ) và cũng nằm trung chuyển giữa với
châu Âu xuống các quốc gia Châu Á, vì thế các thuyền buôn muốn trao đổi đều phải
đi qua khu vực này. Ngoài ra đây là vùng có nhiều khó khăn, hiểm trở bởi các đợt
gió Tây Nam liên tục thổi vào khiến cho các thuyền buôn bị lạc hướng và va vào
các bãi đá ngầm. Tuy nhiên mặc dù có nhiều khó khăn và nguy hiểm nhưng do
nguồn lợi to lớn về hải vật khoáng sản nên vào mỗi tháng cuối đông chúa Nguyễn
lại cử 18 chiếc thuyền ra khai thác và thu lượm vàng bạc, hóa vật.
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn được người Trung Quốc biết đến từ khá
sớm. Người Trung Quốc đầu tiên đến vùng Đàng Trong này là hòa thượng Thích
Đại Sán. Năm 1695 chúa Nguyễn Phúc Chu mời ông đến vùng Hội An, Thuận
Quảng. Khi trở về Trung Quốc vào năm Đinh Sửu (1697) ông viết cuốn Hải ngoại
kỉ sự ghi lại những hiểu biết của mình trong quá trình cư trú ở vùng đất này. Trong
suốt thời gian ở Đàng Trong nhà sư đã được tận mắt chứng kiến những quan cảnh
16
cũng như cuộc sống của những người dân nơi đây: “Nước Đại Việt muôn vật đều
phát sinh về thu đông, làm việc dùng ban đêm, con trai thông minh không bằng con
gái. Hằng năm xuân hạ thường khô hạn, mặt trời đứng bóng nóng như lửa đốt. Đất
đỏ nghìn năm, cây cỏ cháy khô” (Thích Đại Sán, 2016, tr. 80).
Trong đó nhà sư Thích Đại Sán có miêu tả cụ thể và chi tiết về Vạn Lý Trường Sa
Khách có người bảo mùa gió xuôi về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng
trước và sau ngày lập thu. Chừng ấy gió Tây Nam thổi mạnh. Chạy một lèo gió
xuôi chừng 4, 5 ngày đêm có thể đến Hổ Môn. Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió
bấc dần dần thổi lên, nước chảy về hướng đông sức gió yếu, không chống nổi
dòng nước mạnh về đông. Lúc đó sẽ khó giữ được sự yên ổn. Bởi vì có những
cồn cát nằm thẳng giữa biển, chạy từ Đông Bắc qua tây Nam, động cao dựng
đứng như bức tường, bãi thấp cũng ngang mực nước biển, mặt cát khô rắn như
sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành. Bãi cát rộng đếm trăm dặm chiều dài
thăm thẳm, chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là Vạn Lý Trường Sa, mù mịt
chẳng cỏ cây nhà cửa. Nếu thuyền trái gió, trái nước mà tạt vào dẫu không tan
nát cũng không gạo không nước trở thành ma đói mà thôi.Quãng ấy cách Đại
Việt bảy ngày đường, chừng 700 dặm. Các quốc vương thời trước hằng năm
sai thuyền đánh cá đi dọc theo các bãi cát lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền
hư hỏng dạt vào. Mùa thu nước ròng cạn chảy rút về hướng đông, bị một ngọn
sóng đẩy đi thuyền có thể trôi xa trăm dặm, sức gió chẳng mạnh, sợ hiểm họa
Trường Sa (Thích Đại Sán, 2016, tr. 191).
và ghi chép này gần giống với tác giả Đỗ Bá Công Đạo theo đó:
Những ghi chép của hòa thượng Thích Đại Sán đã cho thấy rằng Vạn Lý
Trường Sa, tức vùng đảo Hoàng Sa là một vùng cồn cát lớn kéo từ Đông sang Tây.
Trước đây người ta chưa phận định ra vùng Hoàng Sa và Trường Sa mà dùng từ
Vạn Lý Trường Sa để chỉ chung cho cả hai. Những ghi chép của hòa thượng Thích
17
Đại Sán đã làm rõ và chứng minh tính đúng đắn của Đỗ Bá Công Đạo về vùng quần
đảo này. Đồng thời càng có giá trị hơn khi tài liệu này được viết bởi người Trung
Hoa góp phần khẳng định chủ quyền của người Việt ở hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Cả hai nguồn tư liệu cổ của Việt Nam và Trung Hoa đều khẳng định ngay từ
rất sớm chúa Nguyễn đã tiến hành cho khai thác đảo Hoàng Sa. Có thể khẳng định
mặc dù quần đảo này được biết từ khá sớm, nhưng chưa có một quốc gia nào kể cả
Trung Quốc tiến hành khai thác và chỉ khi đến thế kỉ XVI khi Nguyễn Hoàng vào
khai khẩn vùng Đàng Trong và tiến hành các hoạt động khai thác thì vùng quần đảo
này mới thực sự có chủ.
Tác phẩm Phủ biên tạp lục cũng ghi chép khá rõ về quần đảo Hoàng Sa của
Đàng Trong: “Xã An Vĩnh huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa ở ngoài biển có núi,
gọi là Cù Lao Ré rộng hơn 30 dặm, có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển
bốn canh thì đến, phía ngoài nữa có đảo Đại Trường Sa” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr.
155). Những ghi chép của Lê Qúy Đôn coi là tư liệu có giá trị cao, vì hầu như ông
không hề tham khảo những tài liệu trước đó, mà bằng chính những việc mắt thấy tai
nghe của mình, tác giả miêu tả một cách chân thực về vùng đảo Hoàng Sa. Trong
Ở ngoài biển về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi có hơn 130 bãi
cát cách nhau hoặc đi một ngày đường hoặc một vài trống canh kéo dài không
biết mấy nghìn dặm tục gọi là “Vạn Lý trường Sa”. Trên bãi có giếng ngọt. Sản
vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa vích, ba ba v.v… (Đại Nam thực lục tập 1,
2002, tr. 164).
tác phẩm Đại Nam thực lục tiền biên cuốn 1 thì chép:
Ngoài ra trong tác phẩm Đại Nam nhất thống chí quyển 6 cũng có những ghi
Ở phía đông Cù Lao Ré. Từ bờ biển Sa Kỳ chạy ghe ra khơi, thuận gió thì 3, 4
ngày đến. Trên đảo có các núi la liệt hơn 130 hòn cách nhau một ngày đường
hoặc trong vài canh. Trên đảo có bãi Hoàng Sa (Cát Vàng) kéo dài không biết
chép về Vạn Lý Trường Sa như sau:
mấy ngàn dặm tục danh gọi là Vạn Lý Trường Sa (Đại Nam nhất thống chí tập
1, 2006).
18
Các tư liệu trên đã đều khẳng định Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi và trước
đây người ta gọi chung vùng Hoàng Sa và Trường Sa là Vạn Lý Trường Sa. Từ XVI
- XVII trên vùng biển nước ta đã có địa danh Vạn Lý Trường Sa. Đây là một dãy
cát dài nằm giữa biển, được nhiều thuyền buôn nước ngoài nhắc tới, vì nó nằm
trong vùng biển động có nhiều sóng gây nhiều nỗi sợ hãi cho những ai đi qua vùng
biển này. Ngoài ra còn có một số các sử liệu Hán Nôm ghi nhận chính quyền phong
kiến đã tiến hành khai thác và làm chủ quần đảo Hoàng Sa như Dư địa chí trong bộ
Lịch Triều hiến chương loại chí của tác giả Phan Huy Chú và các tài liệu gốc do
Quốc Sử quán biên soạn là Đại Nam thực lục tiền biên cũng ghi lại những đặc điểm
về nguồn tài nguyên phong phú và việc các chúa Nguyễn tiến hành khai thác và làm
Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi có dãy giống dáng
quần đảo còn có hơn 130 cồn cát, cách xa hoặc một ngày đường hoặc vài trống
canh, chiều dài không biết đến mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Trường Sa,
trên có giếng nước ngọt, sản vật có hải sâm, đồi mồi hải ba. Hồi quốc sơ đặt
đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân An Vĩnh xung vào hằng năm cứ tháng 3
cỡi thuyền ra đảo, 3 ngày đêm thì tới nơi, thu lượm hóa vật đến tháng 8 thì về
(Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 164).
chủ vùng đất này.
Hầu hết các đoạn trích trong các nguồn sử liệu trên đều lấy danh xưng Vạn Lý
Trường Sa dùng để chỉ vùng bãi cát dài nằm giữa biển. Do trước đây chưa có sự
phân biệt vùng Hoàng Sa và Trường Sa, nên danh xưng Vạn Lý Trường Sa dùng để
chỉ toàn bộ vùng đảo trên biển bao gồm Hoàng Sa và các đảo phía Nam trong đó có
cả vùng đảo Trường Sa. Tuy nhiên đến thời nhà Nguyễn sau này, để tránh nhầm lẫn
thì danh xưng Bãi Cát Vàng được dùng để chỉ quần đảo Hoàng Sa còn danh xưng
Vạn Lý Trường Sa dùng để chỉ các quần đảo nằm ở phía Nam biển đông tức quần
đảo Trường Sa ngày nay.
19
Ngoài những tài liệu của Việt Nam và Trung Quốc, thì ngay từ thế kỉ XVII đã
có rất nhiều các tư liệu của người nước ngoài viết về quần đảo này. Hầu hết trong
các ghi chép của người phương Tây đều cho rằng Vạn Lý Trường Sa theo tiếng anh
là Paracel là vùng nằm trong lãnh thổ của Đàng Trong và thuộc phủ Quảng Nghĩa.
Từ Paracel được các thương nhân Bồ Đào Nha sử dụng dùng để chỉ quần đảo
Hoàng Sa. Theo tác giả Nguyễn Nhã trong tác phẩm Đặc khảo về Hoàng Sa,
Trường Sa xuất bản năm 2014 thì từ này có nghĩa là đá ngầm và tác giả cho rằng
danh xưng này đầu tiên được xuất hiện trên tấm bảng đồ Bán đảo Đông Dương do
anh em nhà Van Langren, người Hòa Lan ấn hành năm 1595.
Đây được coi là nguồn tài liệu quan trọng khẳng định quần đảo Hoàng Sa
thuộc về lãnh thổ nước ta chứ không phải là của Trung Quốc, như các nhà khoa học
của nước này khẳng định. Bên cạnh người Bồ Đào Nha, người Pháp cũng sử dụng
từ Paracel để nói về quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Trong các thư từ, nhật kí về
các chuyến hải trình của người Pháp thì đáng lưu ý là nhật ký của giáo sĩ Tartre đi
trên tàu Amphitrite (năm 1701) từ Châu Âu đến Trung Quốc đã ghi lại những cảm
Người ta cho tàu nổ neo gió rất tốt. Và sau đó một thời gian đi đến mỏm đá
Pracel. Đó là một bãi đá ngầm khủng kiếp có đến hàng trăm dặm rất nhiều lần
đã xảy ra vụ đắm tàu ở đó. Pracel trải dài dọc bờ biển Nam Hà. Tàu Amphitrite
trong hành trình đầu tiên đến Trung Hoa, đã nghĩ đến nguy cơ bị đắm ở đó
(Đỗ Bang, 2017, tr.100).
nhận của vị giáo sĩ này đối với quần đảo Hoàng Sa:
Từ những ghi nhận của giáo sĩ Tatre đã cho thấy quần đảo này đã được biết
đến từ khá sớm và nằm dọc bờ biển Nam Hà. Địa danh Nam Hà mà giáo sĩ sử dụng
ở đây là để phân biệt với vùng Bắc Hà. Như vậy có thể thấy trong giai đoạn này
cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã tạm kết thúc và hai bên lấy sông Gianh làm
ranh giới chia đôi đất nước, trong đó vùng Nam Hà tức ám chỉ vùng Đàng Trong.
Đây được coi là chi tiết rất quan trọng góp phần khẳng định chủ quyền của
chính quyền Đàng Trong đối với vùng đảo này. Như vậy đến thế kỉ XVIII địa danh
Paracel hay Cát Vàng hoặc Hoàng Sa đã trở nên khá quen thuộc đối với các nhà
20
hàng hải phương Tây. Vì quần đảo này nằm trên con đường trung chuyển nối liền
các quốc gia châu Á với vùng Viễn Đông.
Về sau khi thuyền buôn nước ngoài đến vùng đất Đàng Trong ngày càng nhiều
do chính sách hải thương của chúa Nguyễn, cùng với đó các thuyền đắm ở vùng
biển này cũng tăng lên. Chúa Nguyễn đã phái một tốp thủy binh tiến hành hỗ trợ
cung cấp lương thực, nước uống và đưa họ vào bờ. Việc này đã khẳng định quyền
quản lý của chính quyền phong kiến Nguyễn đối với vùng đảo này.
Sự kiện đắm tàu vào năm 1714 của người Hà Lan trên vùng quần đảo Hoàng
Sa, được công bố thông qua 5 bức thư qua lại của các giáo sĩ dòng tên ở Nam Hà
mà hiện nay vẫn còn được bảo tồn ở Pháp và đã được Tập San Sử Địa số 29 công
bố. Nội dung của 5 bức thư chủ yếu là nói về biến cố xảy ra cho ba chiếc thuyền
buôn của người Hà Lan khi trên đường trở về từ Nhật Bản đến Indonesia. Trong lúc
đi qua vùng biển Hoàng Sa họ đã gặp phải một trận bão lớn và kết quả là tất cả
thuyền của họ bị vỡ, số lượng người chết rất nhiều (khoảng hơn chục người). Số
người sống sót còn lại thì lưu lạc ở quần đảo Hoàng Sa suốt một tháng. Các mảnh
vỡ còn sót lại của tàu được họ sử dụng để đóng một chiếc xuồng lớn đi về phía
Nam. Nhờ theo hướng các thuyền chài lưới của ngư dân, nên chỉ sau một năm (tức
năm 1715) họ đã tới được cảng Quy Nhơn một cách an toàn. Họ được dân địa
phương đón tiếp nồng nhiệt và được cung cấp thức ăn và chỗ nghỉ. Sau đó họ đến
bái kiến chúa Nguyễn ở Phú Xuân. Trước những thiệt hại của họ và để tỏ lòng sự
nhân hậu, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban cho họ nhiều tiền bạc và lương thực đồng
thời sai thủy quân đưa họ đến cảng Hội An rồi từ đây trở về nước.
Sự kiện đắm tàu của Hà Lan năm 1714 đã cho thấy trong suốt hai thế kỉ XVI -
XVII các ngư dân không chỉ tiến hành khai thác các sản vật trên quần đảo Hoàng Sa
mà họ còn thực hiện việc tuần tra, cứu hộ, giúp đỡ các tàu nước ngoài khi bị đắm
vào đất liền an toàn. Thông qua sự việc này chúa Nguyễn bắt đầu cử đội thủy quân
Hoàng Sa, Bắc Hải đến quần đảo Hoàng Sa khai thác và cứu trợ một cách đều đặn,
góp phần thúc đẩy quá trình xác lập và bảo vệ chủ quyền của các chúa Nguyễn ở
vùng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ thế kỉ XVII - XVIII.
21
Như vậy dựa vào những ghi chép của người Việt, người Hoa và cả người Tây
Phương đã khẳng định rằng từ rất sớm Việt Nam đã tiến hành khai thác và làm chủ
vùng biển. Theo nhiều tác giả ghi nhận vào thế kỉ XV trên các đảo đã có người Việt
sinh sống. Mặc dù việc khai thác đã được tiến hành khá sớm nhưng việc xác lập chủ
quyền chỉ được tiến hành khi chúa Nguyễn vào vùng đất này.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho thành lập đội thủy quân Hoàng Sa. Đây được
coi là một bước tiến quan trọng trong chính sách hướng biển của chúa. Việc thành
lập đội thủy quân Hoàng Sa không chỉ nhằm khai thác các sản vật ở vùng đảo xa bờ
mà còn là sự khẳng việc chiếm hữu của chính quyền phong kiến tại đây. Các sách
Phủ Biên Tạp lục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam Thực lục, Khâm định đại nam
hội điển sử lệ đều khẳng định rằng đội Hoàng Sa ra đời vào thời kì chúa Nguyễn.
Theo sự tham khảo và thống nhất của các tác giả trong nhiều bài viết thì chúng
tôi thống nhất với giáo sư Nguyễn Quang Ngọc khi cho rằng đội Hoàng Sa được
thành lập vào thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên.Theo sự nhận định của tác giả khi
Nguyễn Hoàng đến vùng đất Đàng Trong thì chưa thực sự quan tâm đến việc khai
thác và thực thi chủ quyền trên hai quần đảo này. Việc thực thi chủ quyền biển đảo
chỉ thực sự được tiến hành khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên nắm chính quyền.
Ngoài ra tác giả cũng cho rằng các sự kiện như 1631, 1634 là những sự việc gắn
liền với quá trình hoạt động của đội Hoàng Sa đều nằm trong thời cai trị của chúa
Nguyễn Phúc Nguyên.
Quần đảo Phú Quốc thuộc trấn Hà Tiên là phần lãnh thổ cuối cùng được sáp
nhập vào lãnh thổ nước ta. Vùng đất này trước đây thuộc quyền quản lý của Mạc
Cửu một người Hoa có công khai khẩn vùng đất này. Qua quá trình khai khẩn mộ
dân lập ấp Mạc Cửu đã xây dựng vùng Hà Tiên trở thành một nơi đô thị đông đúc
và sầm uất.
Năm 1708 trước sự quấy nhiễu của Xiêm, Mạc Cửu dâng lên cho chúa
Nguyễn vùng đất này để nhận lấy sự bảo hộ từ chúa. Chúa Nguyễn phong cho ông
chức Tổng binh trấn Hà Tiên đồng thời xác nhập vùng đất này vào lãnh thổ nước ta.
Đây được coi là sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc mở mang lãnh thổ.
22
Mạc Cửu và con ông là Mạc Thiên Tứ sau này nối tiếp nhau giữ chức Tổng binh
Năm 1711 Mạc Cửu được chúa Nguyễn phái đi đo đạc vùng quần đảo Hoàng
Sa. Mùa hạ tháng 4, Tổng binh trấn Hà Tiên là Mạc Cửu đến cửa khuyết tạ ơn
chúa hậu thưởng. Sai đo bãi cát Trường Sa rộng hẹp bao nhiêu (Đại Nam thực
lục tập 1, 2002, tr.126).
vùng đất Hà Tiên có nhiệm vụ bảo vệ vùng này cả trên bộ lẫn trên biển:
Qúa trình Nam tiến của chúa Nguyễn diễn ra nhanh chóng làm cho diện tích
lãnh thổ ngày càng được mở rộng, việc xác lập chủ quyền ở vùng đất Hà Tiên, đã
làm cho phạm vi kiểm soát chúa Nguyễn ở vùng đất liền và biển đảo ngày càng
tăng. Trước đây chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho thành lập đội Hoàng Sa nhưng
về sau phạm vi hoạt động của đội này ngày càng được mở rộng, nên đội Hoàng Sa
không có đủ nhân lực để tiến hành khai thác hết vùng biển. Đến thời chúa Nguyễn
Phúc Chu cho thành lập thêm đội Bắc Hải. Các tác phẩm Phủ Biên tạp lục của Lê
Qúy Đôn, Đại Nam thực lục tiền biên, và các tác giả sử học như G.s Nguyễn Quang
Ngọc, Nguyễn Nhã đều thống nhất cho rằng đội Bắc Hải được chúa Nguyễn Phúc
Chu cho thành lập ngay sau khi đội Hoàng Sa ra đời và chính xác là sau khi thành
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải không biết bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ
Chính ở Bình Thuận hoặc người ở xã Cảnh Dương ai tình nguyện đi thì cấp
giấy sai đi miễn cho tiền sưu và tiền đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc
Hải, Cù Lao Thôn và các đảo Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi
hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là
lấy các thứ hải vật còn vàng bạc thì ít lấy được (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 155).
lập phủ Bình Thuận năm 1697:
Chúa Nguyễn đã tiến hành khai thác và đánh dấu chủ quyền của mình trên
vùng biển, thông qua các hoạt động của đội quân Bắc Hải. Về sau tác phẩm Đại
Nam thực lục tiền biên viết về thời chúa Nguyễn cũng khẳng định thời chúa Nguyễn
Phúc Chu đã cho thành lập đội Bắc Hải: “Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ
23
Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào sai đi thuyền nhỏ đến các
xứ Bắc Hải, Côn Lôn để tìm lượm hóa vật; đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm
quản” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 155).
Cùng với sự ra đời của đội Hoàng Sa, chúa Nguyễn còn đặt thêm đội Bắc Hải
với nhiệm vụ tìm kiếm các sản vật và các hóa vật ở vùng biển Tây Nam từ vùng
Bình Thuận đến Hà Tiên, Côn Lôn và Phú Quốc bao gồm đảo Trường Sa hiện nay.
Mặc dù chịu sự kiêm quản của đội Hoàng Sa, nhưng đội quân Bắc Hải cũng đóng
vai trò quan trọng trong việc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn ở các vùng biển
phía Tây Nam. Hầu hết lực lượng của đội quân Bắc Hải đều lấy từ các dân thuộc
làng Tứ Chính, Cảnh Dương thuộc tỉnh Bình Thuận. Nhiệm vụ của quân Bắc Hải
giống với quân Hoàng Sa khai thác các sản vật và làm nhiệm vụ tuần tra phòng vệ.
Tuy nhiên khác với Hoàng Sa đội quân Bắc Hải hoạt động linh động và độc lập
hơn.
Như vậy đến giữa thế kỉ XVIII chúa Nguyễn đã cho thành lập các đội quân
Hoàng Sa, Bắc Hải, Thanh Châu, Hải Môn để tìm kiếm các sản vật và khai thác các
nguồn lợi của biển.Thông qua các hoạt động thực tiễn của các đội hải quân thời
chúa Nguyễn đã góp phần đặt cơ sở vững chắc cho việc làm chủ và xác lập chủ
quyền của chúa Nguyễn ở vùng biển Đàng Trong nói chung và hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa nói riêng. Đây được coi là những bằng chứng quan trọng trong việc
đấu tranh chống lại những luận điểm sai trái và vô căn cứ của Trung Quốc về hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và ở biển Đông.
Cùng với Nông Nại đại phố, Mỹ Tho đại phố, Hà Tiên trấn trở thành một trung
tâm mua bán và trao đổi hàng hóa với các nước Chân Lạp, Xiêm, Ấn Độ và Java.
Thương cảng Hà Tiên có vị trí biển thuận lợi nhiều chỗ nước sâu khúc khuỷu, khuất
gió thuận lợi cho tàu bè neo đậu, thu mua sản vật và lấy nước ngọt. Trong giai đoạn
này, Mạc Cửu hầu như độc lập quản lí và khai khẩn vùng Hà Tiên, chưa có sự can
thiệp của Chân Lạp.
Tiếp đó, năm 1757 Chúa Nguyễn Phúc Khoát cử quân đến giúp Chân Lạp giải
quyết cuộc nội chiến tranh ngôi báu, đưa Nặc Tôn lên làm vua. Để tạ ơn, Nặc Tôn
dâng chúa Nguyễn vùng đất Tầm Phong Long (vùng Tứ Giác Long Xuyên ngày
24
nay). Chúa Nguyễn cho lập đạo Đông Khẩu, đạo Châu Đốc, đạo Long Xuyên, cho
dân cư đến sinh sống và cử quan lại đến cai quản.
Như vậy, bằng chính sách ngoại giao khôn khéo kết hợp giữa quân sự với
chính trị và sự thay đổi trong mối quan hệ giữa Đại Việt, Chân Lạp và Xiêm. Quá
trình Nam tiến của chúa Nguyễn đã có những tác động lớn. Quan hệ Đại Việt với
Chân Lạp lúc đầu mang tính chất bình đẳng nhưng càng về sau, do sự suy yếu của
Chân Lạp, sự quấy nhiễu và tấn công của Xiêm… đã làm cho quan hệ của Chân
Lạp - Đại Việt có sự chuyển biến từ quan hệ bình đẳng sang quan hệ thần phục, việc
này giúp cho chúa Nguyễn đẩy mạnh quá trình Nam tiến của mình.
Đến thế kỉ XVII, chính quyền chúa Nguyễn đã hoàn thành việc xác lập chủ
quyền ở vùng đất Đàng Trong, ngăn chặn Chân Lạp, Xiêm xâm phạm lãnh thổ, bảo
vệ vững chắc chủ quyền. Bằng chiến lược khôn khéo, các chúa Nguyễn đã biến
vùng hoang vu rậm rạp thành một vùng đất trù phú cây cối bạt ngàn xanh tươi.
Cùng với đất liền, lần lượt vùng biển và các đảo cũng được sáp nhập vào lãnh thổ
nước ta. Đây được coi là công lao to lớn của chúa Nguyễn nhằm mở rộng cương
vực đất nước tạo nên sự thay đổi vùng đất Nam Bộ đồng thời cũng khẳng định vai
trò làm chủ của cư dân Việt.
1.1.2. Quá trình xác lập chủ quyền biển đảo của các vương triều nhà
Nguyễn thế kỉ XIX
Thời nhà Nguyễn kéo dài suốt hai thế kỉ gồm 13 đời vua Nguyễn và là vương
triều duy nhất cai trị trên một vùng lãnh thổ rộng lớn và không bị chia cắt “làm chủ
một lãnh thổ trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau bao gồm cả Đàng Trong và
Đàng Ngoài cũ” (Li Tana, 1998).
Đến thời Nguyễn vùng đất liền và biển đảo được nhập vào lãnh thổ nước ta.
Các vua Nguyễn cho tiến hành các hoạt động khai thác và mở rộng diện tích đất,
chiêu mộ dân vào khai khẩn đất hoang, thực hiện việc đắp đê, đào kênh. Ngoài ra
các vua Nguyễn còn giảm thuế, cấp không nông cụ thóc giống và cho dân được tự
chọn nơi khai hoang. Minh Mạng ban sắc lệnh cho mỗi người được khai phá đất
hoang ở vùng rừng núi, gò đống, bờ sông, bờ suối, ven đường và cho phép lập làng
25
ở vùng biên giới. Chính quyền miễn thuế 3 năm hoặc lâu hơn, nhà nước còn cho
binh lính tiến hành khẩn hoang vùng hiểm yếu như biên giới, biển đảo.
Chính sách khai hoang tích cực nhất dưới thời Nguyễn là lập đồn điền gồm hai
hình thức của nhân dân và của nhà nước. Dưới thời Gia Long có doanh điền là hình
thức tổ chức khai hoang kết hợp giữa nhà nước và nhân dân. Theo đó nhà nước tiến
hành bỏ vốn và người dân đến khai hoang. Việc khai khẩn theo hình thức doanh
điền đem lại những hiệu quả cao, diện tích đất ở đồng bằng và ven biển tăng nhanh
chóng. Các sản phẩm thu hoạch được từ cuộc khẩn hoang ở vùng ven biển được
dùng làm lương thực nuôi binh lính và tù nhân.
Bên cạnh việc lập đồn điền, chính quyền Nguyễn còn chú trọng đào vét sông,
sửa chữa các kênh như Vĩnh Tế, Thoại Hà...làm cho diện tích đất nông nghiệp tăng
lên nhanh chóng, thu hút đông đảo dân đến định cư. Chỉ trong hai thế kỉ, vùng đất
hoang vu sình lầy trở nên màu mỡ, ruộng vườn cây cối xanh tươi. Sản lượng lúa gạo
đủ tiêu dùng và được trao đổi khắp nơi, vùng đất Nam Bộ trở thành vựa lúa lớn nhất
cả nước. Ở vùng biển đảo, nhà Nguyễn cũng chú trọng chiêu mộ dân đi khai khẩn,
trồng cây xanh mở rộng diện tích đất và tăng cường bảo vệ an ninh quốc phòng.
Thời vua Nguyễn mối quan hệ với Chân Lạp vẫn được tiếp tục duy trì, chủ yếu
là thực hiện sự bảo hộ Chân Lạp trước các cuộc tấn công của Xiêm:
“Nước Chân Lạp đời đời làm thuộc quốc nước ta, nay thế nước suy yếu, nay lại
cùng với nước Xiêm có hiềm khích sợ không tự giữ yên”. Vì thế vua sai Lê Văn
Phong đi tuần biên giới: “ Ngươi nên chuẩn bị thuyền đi biển 15 chiếc, thuyền chiến
hơn 30 chiếc, biền binh hơn 2.000 người. Sai Trí lãnh tiền đạo, Phong lãnh trung
đạo, Giám lãnh hậu đạo tiến thẳng ra Tân Châu. Người Xiêm biết ta đến trước hẳn
sẽ không dám làm gì, Chân Lạp có thể giữ được vô sự” (Đại Nam thực lục tập 1,
2002, tr. 799).
Ngoài ra để tăng cường bảo vệ vùng biên giới và hải đảo, ngăn chặn các hành
động xâm phạm lãnh thổ. Vua Gia Long ban hành sáu điều cấm, trong đó có những
điều đáng chú ý là: “Tình hình ngoài biên cương giao cho đại tướng, việc thường
thì chỉ sai truyền báo. Thuyền đi công vụ không được chở hàng hóa riêng, quân nhu
lương đã có ở thành vận tải cung cấp, nếu Chân Lạp có tặng biếu cung ứng thì
26
không được nhận bừa” (Trần Đức Cường, 2016, tr. 284). Đoạn trích trên đã thể hiện
sự quan tâm của vua Nguyễn đối với Chân Lạp vốn là phiên dậu của nước ta thời
bấy giờ. Việc giúp đỡ Chân Lạp được xem là nhằm bảo đảm an toàn cho vùng Tây
Nam đất nước.
Trong thời Thiệu Trị diễn ra cuộc chiến chống quân Xiêm và Cao Miên, bảo
vệ vùng đất phía Nam. Nhà Nguyễn chủ trương xây dựng các pháo đài, hải trấn, đồn
lũy và một lực lượng thủy quân mạnh có nhiệm vụ tuần tra, giám sát vùng biển.
Dưới thời Nguyễn, hoạt động chống cướp biển, chống buôn lậu diễn ra thường
xuyên chứng tỏ chính quyền luôn đề cao việc bảo vệ chủ quyền, quốc phòng, trên
cả vùng biên giới đất liền và hải đảo
a) Việc xác lập chủ quyền vùng biển thời Gia Long:
Thời các vua Nguyễn việc xác lập chủ quyền được nâng cao hơn thông qua
việc chiếm hữu và thực thi những biện pháp tích cực và cứng rắn. Sau khi ổn định
tình hình đất nước, củng cố chính quyền, Gia Long đã cho tái lập lại đội thủy quân
Hoàng Sa, có từ thời Chúa Nguyễn trước đây: năm 1803 lấy cai cơ Võ Văn Phú là
thủ ngự cửa biển Sa Kỳ sai Mộ Dân Ngoại Tịch lập đội Hoàng Sa (Đại Nam thực
lục, tập 2, 2002, tr. 566).
Mặc dù đội Hoàng Sa đã được thành lập từ thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên
nhưng do cuộc chiến với Tây Sơn nên hoạt động của đội thủy quân này bị gián đoạn
và ngưng trệ. Bên cạnh việc duy trì các hoạt động của đội Hoàng Sa thì Gia Long
cũng nâng cao và khẳng định chủ quyền vùng đảo Hoàng Sa thông qua 2 sự kiện
năm 1815 và 1816. Nếu như so sánh hai sự kiện trên, ta thấy sự thay đổi của đội
thủy quân Hoàng Sa. Theo đó năm 1815: “Vua Gia Long sai bọn Phạm Quang Ảnh
thuộc đội Hoàng Sa ra đảo Hoàng Sa xem xét đo đạc thủy trình”. Năm 1816 bên
cạnh đội thủy quân Hoàng Sa còn có sự xuất hiện của lực lượng thủ quân triều đình.
“Sai thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường thủy”
(Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 922)
Như vậy, lực lượng thủy quân Hoàng Sa không còn là những đội dân binh như
trước mà đã phát triển thành lực lượng chính quy của triều đình. Sự kiện năm 1816
đã chính thức hóa quyền làm chủ của chính quyền phong kiến vốn đã có từ lâu đời.
27
Đây được coi là bước ngoặt vô cùng quan trọng việc khẳng định chủ quyền của
nước ta đối với quần đảo Hoàng Sa và là cơ sở pháp lý trong việc đấu tranh chống
lại mọi hoạt động xâm phạm hay những luận điểm sai trái của Trung Quốc về chủ
quyền ở vùng biển này. Sự kiện năm 1816 đã khẳng định quyền quản lý của chính
quyền phong kiến Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa thông qua việc đo đạc, thăm
dò cắm cờ của đội thủy quân trong quần đảo này. Tất cả những điều này đã cho thấy
sự chiếm hữu chính thức của chính quyền đối với vùng biển và hải đảo đồng thời sự
chiếm hữu này không hề vấp phải sự phản kháng hay tạo nên một cuộc tranh chấp
nào từ các nước trong khu vực.
Sự kiện tuyên bố chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của vua Gia Long được các
nhà sử học trong và ngoài nước bấy giờ ghi nhận một cách cụ thể. Đối với tài liệu
trong nước thì sự kiện này được các sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên quyển thứ
hai ghi về các đời vua Nguyễn của Quốc Sử Quán ghi lại. Các châu bản triều
Nguyễn cũng ghi nhận về sự kiện này. Mặc dù nguồn tư liệu trong nước ít ỏi nhưng
giá trị mang lại của tác phẩm rất cao. Vì được thông qua chiếu chỉ, lời phê chỉ dụ
của chính nhà vua. Sự kiện năm 1816 không chỉ có trong tư liệu trong nước mà còn
có rất nhiều các nguồn tư liệu nước ngoài ghi nhận về sự kiện này. Điều đó cho thấy
việc xác lập chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của vua Gia Long là sự kiện trọng đại
thu hút sự quan tâm đông đảo của nhiều nước. Có thể thấy trong bối cảnh lúc bấy
giờ giữa lúc các nước Phương Tây đang ráo riết chinh phục những vùng đất của
Phương Đông nhằm tìm kiếm thị trường và nguồn nguyên liệu. Việc khẳng định
chủ quyền ở một vùng đất nào đó, được các cường quốc Phương Tây thời đó tiêu
biển là Bồ Đào Nha dưa ra thuyết "quyền phát hiện", nội dung là ưu tiên chiếm hữu
một vùng lãnh thổ thuộc về quốc gia nào đã phát hiện ra vùng lãnh thổ đó đầu tiên.
Quyền ưu tiên chiếm hữu được thể hiện thông qua việc bất kỳ lá cờ của một quốc
gia nào cắm lên vùng lãnh thổ đó thì vùng đó thuộc về quốc gia ấy. Đến năm 1888
trong tuyên bố của viện pháp luật Quốc Tế Lausanne đã thay thế “ thuyết quyền
phát hiện” bằng nguyên tắc chiếm hữu thực sự. Nhấn mạnh mọi hoạt động chiếm
hữu chỉ có giá trị khi được tiến hành bởi một cơ quan hay đại diện của một quốc gia
và không phải do tư nhân hay cá nhân tự ý thực hiện. Hoạt động chiếm hữu phải
28
được diễn ra hòa bình và trên vùng lãnh thổ vô chủ (không có sự xác nhận chủ
quyền của bất cứ nước nào), hay là vùng lãnh thổ đã được nước khác từ bỏ.
Vì thế một quốc gia phương Đông tuyên bố chiếm hữu lãnh thổ theo cách mà
Phương Tây đã làm đây được coi là việc làm hợp pháp và là dấu mốc quan trọng để
khẳng định việc làm chủ vùng đất mới. Theo đó các ghi chép được coi là có giá trị
và tính thuyết phục cao ghi về về sự kiện tuyên bố quyền chiếm hữu quần đảo
Vương quốc Cochinchine mà vị vua hiện nay tuyên xưng hoàng đế gồm xứ
Nam Hà theo đúng nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một Vương quốc Cao Miên, một
vài đảo có dân cư ở không xa bờ biển và quần đảo Paracel hợp thành từ những
đảo nhỏ, bãi đá ngầm và mỏm đá không người ở chỉ đến năm 1816 đương kim
hoàng đế mới chiếm hữu được quần đảo này (Đỗ Bang, 2016, tr.136).
Hoàng Sa của vua Gia Long năm 1816 của J. B. Chaigneau, xuất bản năm 1820:
Sự kiện vua Gia Long phái người ra quần đảo Hoàng Sa đo đạc đánh dấu chủ
quyền được ghi lại bởi người nước ngoài nên hoàn toàn mang tính khách quan và
tính xác thực, không chỉ tạo sự tin cậy cho các nhà sử học trong nước mà còn nước
ngoài. Ngoài ra trong các tư liệu, các từ điển bách khoa nguồn tư liệu địa lý nổi
tiếng và các sách xuất bản nước ngoài của phương Tây vào thế kỷ XIX cũng ghi lại
sự kiện vua Gia Long chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa năm 1816.
Các tác giả Anh Pháp, Đức, Tây Ban Nha đã chứng minh việc vua Gia Long
làm là đánh dấu chủ quyền của mình tại vùng đảo Hoàng Sa.
Tập san Journal of an Embassy from the Governor General of India to the
Count of Siam and Cochinchine được xuất bản tại London năm 1830:
“Năm 1816, Vua Cochinchina đã chiếm một quần đảo không có người ở và
hiểm trở bao gồm nhiều đá, đảo nhỏ, bãi cát… gọi là Paracels. Theo đó nhà vua
tuyên bố quần đảo này thuộc chủ quyền nước này mà hầu như sẽ không bị tranh
chấp”
Nguyên văn: Besides these, the King of Cochinchina, in 1816, took possession
of the uninhabited and dangerous archipelago of rocks, islets, and sand-banks,
called the Paracels, which he claims as part of his dominions, and over which his
29
authority is not likely to be disputed (John Crawfurd, Trần Đức Anh Sơn và Đỗ
Bang, 2014, tr.99)
Sách của tác giả Carl Ritter xuất bản 1834 tại Đức đã nêu chủ quyền của vua
Gia Long đối với các quần đảo trên biển trong đó có Paracel (Hoàng Sa). Ngoài ra
giám mục Jean Louis Taberd đến truyền đạo dưới thời Nguyễn đã có ghi chép cụ
thể về quá trình quần đảo Parasel hay Parecel là khu vực chằng chịt những quần đảo
nhỏ, đá ngầm và bãi cát những người dân xứ Cochinchina gọi khu vực đó là Cồn
Mặc dù rằng hình như quần đảo này chỉ có độc những tảng đá ngầm mà không
có gì khác và độ sâu của biển hứa hẹn những điều bất tiện hơn sự thuận lợi
nhưng vua Gia Long vẫn nghĩ rằng ông đã tăng cường được quyền thống trị
lãnh thổ của mình bằng sự sáp nhập thêm cái đất buồn bã này. Vào năm 1816,
nhà vua đã tới long trọng cắm lá cờ của mình và đã chính thức giữ quyền của
mình ở các bãi đá này mà chắc chắn là không có ai tìm cách tranh giành với
ông (Carl Ritter và Đỗ Bang, 2016, tr.136).
Vàng.
Sách TraschenbuchZur vebreitung geographischen Kenntnisse xuất bản tại
Trong vùng biển Nam Trung Hoa (tức ám chỉ vủng biển An Nam) chỉ có các
đảo sau thuộc quyền Cochinchine là quan trọng: Pulo - Condore (Côn đảo)
Pulo - Canton hay là Col - lao - Ray (Cù Lao Ré) và Tschan – col - chan hay là
Col - lao. Ts chăm (Cù lao Chăm). Ngoài các đảo này ra, năm 1816 vua
Cochinchine đã chiếm hữu bãi đá san hô nguy hiểm và không có người sinh
sống gồm nhiều bãi đá và cồn cát có tên là Paracles khó ai có thể phản đối chủ
quyền của Cochinchine về phần đất mới chiếm của vương quốc này (Đỗ Bang,
2017, tr. 100).
Praha năm 1839 cũng viết về sự kiện này:
30
Sách Lịch sử mô tả của các dân tộc có quá trình làm chủ quần đảo Hoàng Sa
Chúng tôi nhận xét thấy rằng 34 năm nay quần đảo Paracel (dân An Nam gọi là
Cát vàng) đã có người An Nam chiếm đóng chúng tôi không biết là họ có thiết
lập ở đây một cơ sở hay không (ý tác giả ám chỉ là chính quyền phải có lập
trạm để thu thuế hay để bảo vệ người đánh cá). Nhưng có một điều họ chứng
minh đó là vào năm 1816 vua Gia Long đã tiến hành xác nhận quần đảo này
vào lãnh thổ của mình với việc làm tiến hành cắm cờ của mình tại đây (Hãn
Nguyên Nguyễn Nhã, 2013, tr.61)
của dân tộc Việt trong đó có sự kiện 1816:
Như vậy, hầu hết các tư liệu, sách hay hồi ký của người Phương Tây điều
khẳng định là quần đảo Hoàng Sa (tức Paracel) vốn trước đây đã thuộc về người
Việt (An Nam). Các tác phẩm đã khẳng định một cách chắc chắn năm 1816 vua Gia
Long đã tiến hành xác lập chủ quyền của mình tại quần đảo này và họ cũng đồng
thời khẳng định là không hề có bất cứ một cuộc xung đột hay tranh chấp nào xảy ra.
Đây được coi là việc chiếm hữu mang tính hợp pháp và đúng theo quy định của luật
quốc tế Lausanna (1888) đã ghi nhận ở trên. Đây được coi là cơ sở pháp lý quan
trọng, nhằm khẳng định chủ quyền của nước ta vốn đã có từ trước và sự kiện 1816
có ý nghĩa khẳng định quyền chiếm hữu hợp pháp của nước ta tại Hoàng Sa, có thể
nói đây là một sự kiện gây sự chú ý cho các nước phương Tây bấy giờ.
Các tài liệu của Phương Tây khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã tuyên bố
xác lập quyền chiếm hữu hợp pháp của mình tại quần đảo Hoàng Sa. Bên cạnh đó
còn ghi lại vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của quần đảo này. Thậm chí còn có một
số tài liệu cho rằng chính nhà vua đã tới cắm lá cờ của mình và chính thức tuyên bố
chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa. Để làm rõ vấn đề này, TS.Trần Đức Anh Sơn
trong bài nghiên cứu về sự kiện vua Gia Long tuyên bố chủ quyền đối với đối với
quần đảo Hoàng Sa vào năm 1816 có sự đối chứng giữa các nguồn sử liệu Việt
Nam và căn cứ vào thực tế cai trị đất nước của các vị vua triều Nguyễn, đã cho
rằng:
Vua Gia Long không đích thân đi ra Hoàng Sa đế cắm lá cờ và tuyên bố chủ
quyền vào năm 1816. Nhà vua chỉ sai đội Hoàng Sa cùng với thủy quân của
triều đình để làm việc này. Nhà Nguyễn coi đây như là sự tiếp nối việc khai
chiếm Hoàng Sa và Trường Sa của tiên triều (Đỗ Bang, 2017, tr. 105 ).
31
Mặc dù còn hạn chế, nhưng điểm chung của các tài liệu Việt Nam và Phương
Tây là đều khẳng định một cách chắc chắn năm 1816, vua Gia Long đã đánh dấu
chiếm hữu và sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào lãnh thổ nước ta. Đây được coi là cơ
sở pháp lý quan trọng để ta tiến hành đấu tranh chống lại mọi luận điểm sai trái của
Trung Quốc về vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Như
vậy sự kiện năm 1816 được coi là kết quả của quá trình kế thừa và phát huy việc mở
mang bờ cõi của các thế hệ trước, không chỉ ở vùng đất liền, mà còn vươn đến các
vùng biển và hải đảo. Đồng thời tạo tiền đề quan trọng cho các vị vua sau này, đặc
biệt là Minh Mạng có thế tiến hành những hoạt động tích cực và hiệu quả trong việc
khẳng định chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và cả vùng biển Đông của nước ta.
b) Qúa trình xác lập chủ quyền vùng biển thời Minh Mạng:
Sau khi lên ngôi kế vị vua Gia Long 1820, vua Minh Mạng cũng thực hiện
nhiều biện pháp tích cực để ổn định tình hình đất nước, thực thi và xác lập chủ
quyền của mình ở vùng biển đảo. Năm 1832 Minh Mạng thực hiện một cuộc cải
cách hành chính chia nước ta thành 32 tỉnh và một phủ Thừa Thiên, ban hành nhiều
chính sách tích cực thúc đẩy kinh tế và bảo vệ đất nước. Trong giai đoạn này các
nước tư bản Phương Tây đang ráo riết tìm kiếm thuộc địa mới. Ý thức được điều
đó, vua Minh Mạng thường xuyên cho tăng cường các hoạt động bảo vệ vùng biển
đảo, đồng thời triển khai nhiều biện pháp tích cực nhằm khẳng định chủ quyền của
Việt Nam ở vùng biển đảo đặc biệt là vùng biển đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Trong
suốt hai mươi mốt năm trị vì của Minh Mạng, hoạt động chủ quyền của Việt Nam ở
biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa được đẩy lên cao nhất so với các triều đại trước
đây.
Nếu như trước đây thời Gia Long, năm 1816 được coi là sự kiện đánh dấu mốc
xác lập chủ quyền của chính quyền nước ta tại quần đảo Hoàng Sa. Thì trong thời
32
Minh Mạng việc xác lập chủ quyền tại vùng biển trong đó có hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa được thể hiện thông qua các hoạt động cụ thể như: cử thủy quân ra
Hoàng Sa đo đạc thủy trình, dựng bia, vẽ bản đồ, cắm mốc chủ quyền.Việc làm của
Minh Mạng thực chất là tiếp nối việc khẳng định chủ quyền tại các quần đảo xa bờ
đã được xác lập và chiếm hữu từ thế hệ trước.
Về việc xác lập chủ quyền ở vùng biển đảo thời Minh Mạng, các sách Đại
Nam Thực Lục Chính Biên, Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, Minh Mạng
chính yếu đã ghi lại quá trình vua Minh Mạng phái thủy quân, xem xét và dựng bia
khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa.
Trong giai đoạn này, thủy quân Hoàng Sa và Bắc Hải đã hợp nhất với đội thủy
quân của triều đình. Mặc dù không còn hoạt động với danh nghĩa như trước đây
nhưng đội Hoàng Sa và Bắc Hải cũng được coi là lực lượng hỗ trợ cho đội thủy
quân của triều đình. Họ có nhiệm vụ dẫn đường, lái thuyền, tổ chức thu thuế và đo
đạc thủy trình, thu lượm hải vật, hóa vật như các triều đại trước đây. Bên cạnh đó,
đội thủy quân Hoàng Sa còn có nhiệm vụ vẽ bản đồ cắm mốc chủ quyền, việc làm
này cho thấy vua Minh Mạng đã có sự chú ý và quan tâm nhiều hơn so với các giai
đoạn trước đây “lần đầu tiên tư liệu chính sử của triều đình Việt Nam ghi rõ lời của
một hoàng đế Việt Nam (Minh Mạng) đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại
quần đảo Hoàng Sa, đã khẳng định Hoàng Sa nằm trong hải phận Việt Nam và sai
người dựng miếu, lập bia và trồng cây” (Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, 2013, tr.117).
Lực lượng mà Minh Mạng cử ra Hoàng Sa bên cạnh các đội thủy quân còn có
một viên quan giám thành, ngoài ra còn có biện binh, binh đinh và một lực lượng
lớn sự dẫn đường của dân phu từ các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ. Khi thực hiện
nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa đội thủy quân đều phải có quyết định của triều
đình, được thể hiện bằng tờ sai để thi hành công vụ. Hầu hết các tờ sai công vụ đều
được Bộ Công soạn thảo và có dấu phê bằng mực đỏ của nhà vua (châu phê). Trước
khi thực hiện nhiệm vụ, người đứng đầu sẽ lãnh giấy để thi hành. Thông thường,
thời gian thực hiện sẽ kéo dài từ ba đến tám tháng. Khác với giai đoạn Chúa
Nguyễn trước đây, thời nhà Nguyễn lực lượng này được quy định một cách cụ thể,
cả nhiệm vụ và thời gian thực hiện, chứng tỏ càng về sau chính quyền phong kiến
33
càng nhận thức được tầm quan trọng của lực lượng thủy quân trong việc khai thác
và thực thi chủ quyền tại vùng biển Đông.
Trong số các vị vua triều Nguyễn thì vua Minh Mạng là người có tầm nhìn
hướng biển sâu sắc. Dưới thời cai trị của mình, vua Minh Mạng đã cử các đội thủy
quân liên tục hằng năm tiến hành đo đạc, xem xét, cắm cột mốc và dựng bia chủ
quyền. Việc này được thể hiện thông qua các chỉ dụ cụ thể, chẳng hạn năm Giáp
Ngọ, niên hiệu Minh Mạng thứ 15 (năm 1834), vua sai giám thành đội trưởng
Trương Phú Sỹ cùng đội thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến Hoàng Sa thuộc
Quãng Ngãi để vẽ bản đồ. Minh Mạng là vị vua đầu tiên chú trọng việc vẽ bản đồ ở
quần đảo xa bờ. Nó cho thấy tầm quan trọng của vùng biển đảo nói chung và vùng
quần đảo Hoàng Sa nói riêng, trong ý thức hướng biển của vua Minh Mạng. Đây
được coi là sự kiện quan trọng khẳng định vai trò làm chủ của chính quyền nhà
Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa.
Vua Minh Mạng nhiều lần cho thủy quân thực hiện việc đo đạc, thủy trình.
Mặc dù thời Minh Mạng không phải là triều đại duy nhất thực hiện việc vẽ bản đồ.
Trước đây thời Lê Sơ vua Lê Thánh Tông cũng đã cho vẽ Hồng Đức bản đồ ghi rõ
về địa giới nước ta, nhưng lại chưa thể hiện rõ nét các vùng biển đảo. Để có những
tư liệu chính xác về vùng đảo này, vua Minh Mạng đã đẩy mạnh các hoạt động đo
đạc thủy trình và xem xét về địa lý và điều kiện tự nhiên của quần đảo này, vì thế
bắt đầu từ năm 1836, vua Minh Mạng sai thủy quân ra quần đảo Hoàng Sa thám
Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực mặt biển nước ta rất là hiểm yếu, từng sai vẽ
bản đồ nhưng vì hình thế xa rộng nên mới chỉ vẽ được một nơi lại cũng chưa
biết rõ nên làm thế nào. Hằng năm thường phái người đi xem xét để thuần thục
đường biển… không cứ là đảo nào, bãi cát nào phàm khi thuyền đến nơi nào,
tức thì cứ chiếu chỗ ấy, chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng chu vi và
nước biển bốn bên xung quanh nông sâu, có bãi đá ngầm hay không, hình thế
vãng, xem xét đo đạc và quy định từ đây làm lệ hằng năm:
hiểm trở hay bình dị thế nào phải xem xét đo đạt vẽ thành bản đồ (Khâm Định
Đại Nam hội điển sử lệ, 2002).
34
Kỹ thuật đo đạc và vẽ bản đồ ở quần đảo Hoàng Sa tuy đã chu đáo hơn trước
song vẫn còn lạc hậu so với kỹ thuật của Phương Tây. Cách thức đo đạc chủ yếu là
dựa vào kinh nghiệm cùng với các thông số thường như là chiều dài, chiều ngang,
chiều cao, chiều rộng và tính theo ước lượng chưa xác định được tọa độ theo kinh
độ và vĩ độ trên toàn địa cầu. Mặc dù có những hạn chế về trang thiết bị kỹ thuật
nhưng những việc làm trên của vua Minh Mạng đã tỏ rõ ông là một vị vua rất chú
trọng đến vấn đề chủ quyền biển đảo.
Việc đo đạc thủy trình thời Minh Mạng chủ yếu là được giao cho thủy quân có
sự hỗ trợ của dân phu và thuê thuyền của nhân dân, đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ
Công. Ngoài việc tìm kiếm tư liệu chi tiết, thì việc đo đạc thủy trình đảm an toàn
cho các thuyền bè đi lại trên biển đặc biệt là trên quần đảo Hoàng Sa là nơi có nhiều
bão tố.
Những quần đảo xa bờ nhất là những vùng hiểm yếu như quần đảo Hoàng Sa
thì cần phải có người giàu kinh nghiệm biết được địa thế để tránh những mỏm đá,
quen thuộc đường đi con nước biết hướng gió để điều khiển con tàu tới nơi an toàn,
nên vì thế để thực hiện các cuộc thủy trình này chính quyền đều chọn những người
ở Cù Lao Ré quê hương của đội thủy binh Hoàng Sa. Chính quyền thời Minh Mạng
có những quy định rõ rệt về các thứ hạng tùy theo kinh nghiệm đi biển của họ. Theo
đó những người am hiểu tận tường sẽ được vào hạng ưu và được giao trách nhiệm
là thuyền trưởng hay lái tàu. Những người chỉ thạo 8 - 9 phần thì vào hạng bình,
thạo từ 5 - 6 phần thì vào hạng thứ, tùy theo các hạng mà có chức vụ cao thấp và số
tiền thưởng khác nhau.
Theo Khâm định Đại Nam Hội Định Sự Lệ, quyển 220, những lời dụ và bản
Thơ lại thủy sử thì cửa biển hiểm hay dễ, xem gió, trông khí trời, nghiêng núi,
dò nước, nhìn kiếm tìm hướng, nhớ rõ đại cầu, ai được 10 phần am hiểm thông
thuộc thì là hạng ưu, ai được 8 - 9 phần thì là hạng bình, ai có 5 - 6 phần thì là
tấu được chuẩn y như sau:
hạng thứ, các tên dư hạng ưu hạng ưu mà nguyên là chánh đội trưởng thì đề bạt
bổ nhiệm là chánh đội trưởng xuất đội, ai là ngoại ủy đội trưởng thì đề bạc bộ
nhiệm đội trưởng gặp khi có khuyết thì ưu tiên bổ nhiệm ngay. Bên cạnh việc
đề cao những người có kinh nghiệm trong việc đi biển thì trong các chỉ dụ của
vua cũng quyđịnh rõ ràng về thời gian đo đạc (Đại Nam thực lục tập 5, 2007,
tr. 329)
Xem xét ngày này về sau mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng chọ phái thủy quân
biền binh và giám thành đóng một chiếc thuyền ô tuần tháng 2 thì đến Quảng
Ngãi giao cho 2 tuần phủ Quảng Ngãi, Bình Định thuê bốn chiếc thuyền của
ngư dân ra đảo Hoàng Sa. Như thời gian hằng năm chuẩn bị từ hạ tuần tháng
giêng (tức tháng 2 dương lịch) đến thượng tuần tháng 2 (tức tháng 3 dương lịch
thì có mặt tại Quảng Ngãi, để xem tháng 3 âm lịch (tức tháng 4 dương lịch) là
lúc biển êm nhất thì khởi hành đi xem xét (Nội các triều Nguyễn, 1993).
35
Việc đo đạc giám sát quần đảo Hoàng Sa trước đây đều bắt đầu vào mùa xuân,
lúc đó thủy quân sẽ có thời gian để chuẩn bị vật dụng cần thiết cho chuyến đi trong
vòng một tháng kể cả thời gian đến kinh đô Huế để nhận tờ sai (tờ lệnh thi hành
nhiệm vụ). Tờ sai này sẽ do Bộ Công soạn và dâng lên vua phê duyệt. Trong tờ sai
sẽ ghi rõ các nhiệm vụ của quan lại, biền binh thi hành việc khảo sát, ngoài ra còn
cho chiêu mộ thêm một số dân binh ở các xứ những người am tường đường biển
xung vào làm thủy thủ. Nhiệm vụ nhà Nguyễn đều đề cao tầm quan trọng của các
chuyến đi khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa.Theo đó, Minh Mạng còn quy định rõ các
Năm Minh Mạng thứ 16 (năm 1835) cai đội Võ Văn Nguyên đi tuần đội Hoàng
Sa về chậm trễ đã có chỉ giao cho Bộ Công luận tội và bị phạt 80 trượng. Các
viên giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Hoằng vẽ họa
đồ Hoàng Sa chưa chu tất cũng bị phạt mỗi người tám mươi trượng (Nguyễn
Nhã, tr.185)
hành vi sao nhãng, sơ xuất đều bị trị tội, chẳng hạn:
36
Mặc dù có sự ấn định thời gian khởi hành nhưng trong một số trường hợp
như gió bão lũ lụt, thì có thể chậm lại vào hạ tuần tháng 4. Hầu hết thời gian của các
chuyến đo đạc của vùng Hoàng Sa kéo dài từ 3 tháng, đi từ hạ tuần tháng 3 đến hạ
tuần tháng 6 là xong. Mặc dù có sự xuất phát chậm trễ do thời tiết nhưng thời gian
hoàn thành công vụ phải là vào tháng 6. Sau khi kết thúc công vụ họ sẽ chạy thẳng
về kinh đô và báo cáo kết quả thực hiện lên vua, khai nộp khoáng vật và sản vật thu
nhập được.
Việc đo đạc thủy trình để vẽ bản đồ ở Hoàng Sa được coi là việc làm thường
xuyên và được tiến hành qua các đời vua. Nhưng dưới triều đại Minh Mạng việc
làm này được nâng lên tầm quan trọng đặc biệt, thông qua những quy định chặt chẽ
về mức độ thưởng phạt. Theo đó vua sẽ thông qua Bộ Công kiểm tra đánh giá và
tùy vào mức độ đóng góp hay vi phạm mà luận công hay định tội rất công minh.
Đây được coi là việc làm tiến bộ của vua Minh Mạng nhằm đẩy mạnh mẽ các hoạt
động xác lập chủ quyền và tạo điều kiện cho nhà nước quản lý chặt chẽ các hoạt
động khai thác xa bờ. Giúp cho vua Minh Mạng không chỉ tăng cường kiểm soát
trên vùng lãnh thổ trên đất liền, mà cả vùng biên giới và hải đảo, đưa chế phong
kiến tập quyền phát triển hoàn thiện.
Mặc dù vua Minh Mạng là người trực tiếp đưa ra các qui định cụ thể về hoạt
động tuần ra giám sát vùng biển. Nhưng trong một số trường hợp nhà vua vẫn châm
chước và cảm thông những trường hợp chậm trễ, hay có lý do chính đáng. Chẳng
Những người trong đội Hoàng Sa như Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh hướng
dẫn đo đạc hải trình vất vả được thưởng mỗi người được 1 quan tiền Phi Long,
dân phu hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi theo cũng được thưởng mỗi
người một quan tiền. Tương tự năm 1837 những người được kinh phái đi như
thủy sư Phạm Văn Biện khởi hành chậm trễ bị phạt trong khi đó các dân binh
hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi theo cũng được thưởng hai quan tiền
(Minh Mạng chính yếu, 1994).
hạn:
37
Các quy định chặt chẽ và các hình thức thưởng phạt công minh đã tăng
cường uy tín và quyền làm chủ của chính quyền phong kiến, tạo ra một sự thống
nhất, gắn bó chặt chẽ giữa nhà nước và nhân dân, tạo điều kiện cho việc thực hiện
công vụ được tiến hành một cách nghiêm túc và có hiệu quả. Năm 1857 thủy quân
có thể đo đạc và vẽ bản đồ được ở một số quần đảo lớn nhỏ như Hoàng Sa, Côn
Lôn, tiếp đó năm 1858 thủy quân đã đo đạc được 3 nơi và 12 hòn đảo đã vẽ được 7
bức bản đồ, 3 bức vẽ riêng và 4 bức vẽ chung. Hầu hết các bản đồ này điều được
lưu ở Vệ Giám Thành hay Bộ Công. Trải qua cuộc chính biến kinh thành Huế và
cuộc kháng chiến chống Pháp, các tài liệu ghi rõ về Hoàng Sa đã không còn. Đến
nay chỉ còn sót lại tấm bản đồ được cho là vẽ dưới thời nhà Nguyễn là tấm Đại Nam
nhất thống toàn đồ.
Hình 1.2. Bảng đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1834
Tư liệu bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo
Hoàng Sa (Trần Đức Anh Sơn)
38
Mặc dù còn có một số hạn chế, nhưng tấm bản đồ này đã được vẽ khá chi tiết
các tỉnh và đường biên giới hải đảo của nước ta cùng với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa được vẽ thành dãy dài với tên gọi là Vạn Lý Trường Sa. Ngoài tấm bản
đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ được vẽ dưới thời Minh Mạng, thì trong giai đoạn
này người phương Tây còn có tấm bản đồ ghi lại một cách chính xác chủ quyền của
Việt Nam tại Hoàng Sa (Paracel) đó là tấm bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ, tấm
bản đồ này được đính kèm vào cuốn từ điển Việt - Latinh xuất bản năm 1838 của
giám mục J.L.Taberd, bản đồ có kích thước 8cm x 4cm được in trên loại giấy in họa
đồ, nhan đề bản đồ được ghi bằng 3 thứ chữ Hán, Quốc ngữ và Latinh. Tấm bản đồ
An Nam đại quốc họa đồ có những điều đáng lưu ý sau đây
Hình 2.3. Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ trong từ điển Việt - La Tinh
(Nguồn: https://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2014/09/annamdaiquochoado.jpg)
Latino -Anamici Disposita)
Thứ nhất, Paracel là địa danh mà người Phương Tây chỉ quần đảo Hoàng Sa ở
biển Đông suốt từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, ngoài ra trong bản đồ không có
đảo Hải Nam của Trung Quốc mà chỉ có các đảo của Việt Nam. Vị trí của quần đảo
Hoàng Sa trong bản đồ ở khoản vĩ tuyến 17 độ Bắc và kinh tuyến hơn 111 độ Đông,
các đảo được biểu thị bằng một dấu chấm và được chú thích bằng hai thứ tiếng Anh
và Quốc ngữ: Paracel (Cát Vàng).
39
Thứ hai: Bản đồ xác định rất chính xác vị trí của Paracel (Hoàng Sa) từ vĩ tuyến 16
độ đến 17 độ Bắc gần với cửa biển Tư Dung, thể hiện trình độ hiểu biết của người
phương Tây về quần đảo này. Ngoài ra Paracel có nghĩa là Hoàng Sa, từ seu trong
tiếng Latinh tức nghĩa là, hay là trong Tiếng Việt, từ cát vàng bằng tiếng Nôm có
nghĩa chữ Hán là Hoàng Sa, như vậy tấm bản đồ đã phản ánh sự hiểu biết rõ nét của
người Phương Tây về quần đảo này, đồng thời cũng là chứng cứ quan trọng khẳng
định chủ quyền của nước ta tại quần đảo Hoàng Sa.
Hình 4.1. Bảng đồ do người Phương Tây có xác định vị trí của quần đảo
Hoàng Sa (Paracel)
Nguồn://3.b.p.blogspos.com/G36Yzi2V61M/VGWGLIGfVII/AAAAAAAAWB8/
XjLixabxxd4/s1600/vietnam9.jpg
40
*Hoạt động cắm mốc, dựng bia chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa
Cùng với việc đo đạc thủy trình vẽ bản đồ, vua Minh Mạng cũng cho người ra
quần đảo Hoàng Sa dựng bia cắm mốc khẳng định chủ quyền. Việc vẽ bản đồ, cắm
mốc và dựng bia được coi là hành động tích cực có tác động thúc đẩy việc chiếm
hữu quần đảo này lên mức độ cao nhất và phù hợp với quy định của luật pháp quốc
tế thời bấy giờ. Vua Minh Mạng đã sử dụng các hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy
việc xác lập chủ quyền ở các vùng biển đảo lên mức độ mới. Nếu như trước đây
thời Gia Long việc khẳng định chủ quyền được biết đến với sự kiện năm 1816 vua
cử thủy quân ra đo đạc và cắm cờ ở Hoàng Sa thì đến thời Minh Mạng, việc khẳng
định chủ quyền đã được thể hiện qua những hành động cụ thể nhằm sử dụng và
chiếm hữu lâu dài các hòn đảo vô chủ và sáp nhập các hòn đảo này vào lãnh thổ
nước ta. Việc cắm cờ của thủy quân Hoàng Sa thời Gia Long và việc đo đạc dựng
bia, cắm mốc chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa thời Minh Mạng đều không có bất
kỳ một sự phản đối hay tranh chấp từ một quốc gia nào mà diễn ra một cách hòa
bình và được sự công nhận của nhiều nước.
Các hoạt động cắm mốc dựng bia ở Hoàng Sa được vua Minh Mạng tiến hành
liên tục qua các năm từ năm 1833 đến năm 1836. Năm 1833 và năm 1834 vua Minh
Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công phái người dựng bia khẳng định chủ quyền tại quần
đảo Hoàng Sa. Tiếp đó, năm 1835 nhà vua tiếp tục sai quân lính ra dựng bia làm
dấu. Trong quá trình đo đạc thủy quân đã phát hiện ở phía tây nam của đảo có một
ngôi miếu cổ không biết được xây dựng từ bao giờ trên đó có khắc chữ “Vạn Lý Ba
Bình” (muôn dặm sóng êm). Điều này cho thấy trước đây ở quần đảo Hoàng Sa đã
có người sinh sống và việc dựng bia xây miếu đã có từ trước.
Đến năm 1836 thì việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ, cắm cột mốc chủ quyền
được tiến hành một cách thường xuyên:“Mỗi thuyền vạn thám Hoàng Sa phải mang
theo mười tấm bài (cột mốc) dài 4, 5 thước rộng 5 tấc” (Đại Nam thực lục tập 5,
2006). Ngoài ra trong sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ (cuốn 165) ghi
chép rõ rệt về sự kiện này: Qua lời tâu của Bộ Công Minh Mạng đã phê: “Sai xuất
đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi chuẩn bị mang theo 10 tấm bài
gỗ đến nơi dựng lên làm dấu mốc” (Đại Nam nhất thống chí tập 2, 2006, tr. 922).
41
Mỗi bài gỗ dài 5 thước rộng 5 tấc dày 1 tấc, mặt bài gỗ niên hiệu và tên của
người thực hiện, chẳng hạn “năm Minh Mạng thứ 17 năm Bính Thân (1836) thủy
quân chính đội trưởng xuất đội Phạm Hữu Nhật vâng lệnh ra Hoàng Sa để ghi chép
đo đạc đến đây để lưu dấu ghi nhớ”
Nguyên văn chữ Hán: “Minh Mạng thập thất bính thân thủy quân chánh sứ đội
trưởng xuất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa. Tức độ chí thủ lưu
chí đảng thư” (Đại Nam thực lục tập 5, 2007).
Quốc sử quán triều Nguyễn mặc dù không miêu tả một cách chi tiết nhưng
cũng ghi nhận về sự kiện năm 1836 Minh Mạng sai quân ra Hoàng Sa dựng mốc
Khiến thủy quân xuất đội Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đến Quảng Ngãi
thẳng đến đảo Hoàng Sa, không công nệ đảo nào, cồn cát nào, phần chiều dài,
chiều rộng chiều sâu chiều cao chu vi và 4 phía gần đó có cát, ngầm đá mọc
hay không, hình thể, vị thế vào từ cửa biển ra đó đường thẳng ước bao nhiêu,
bờ biển thuộc địa phương nào nhất nhất phải ghi chép rõ ràng lại chuẩn bị
mang theo thẻ gỗ đến nơi để làm dấu vẽ bản đổ đem về dâng lên cho ngài ngự
lãm (Nội các triều Nguyễn, 1995).
chủ quyền:
Các dẫn chứng trên đã cho thấy việc đo đạc thủy trình và dựng bia là việc làm
quan trọng, được tiến hành liên tục dưới sự chỉ đạo trực tiếp của nhà vua nhằm
khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Việc đo đạc vẽ bản đồ được thực
hiện liên tục ở các triều đại trước, nhưng chỉ dưới triều vua Minh Mạng thì việc làm
này mới được thực sự quan tâm, và được thực hiện qua việc đo đạc dựng bia, vẽ bản
đồ, qua các chiếu chỉ mệnh lệnh của vua được thể hiện qua các châu bản. Nếu như
thời Gia Long, sự kiện năm 1816 được coi là dấu mốc quan trọng của việc chiếm
hữu và xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Thì đến thời Minh Mạng việc
xác lập chủ quyền được đẩy lên cao hơn, đây được coi là bước phát triển và tiến bộ
trong việc kế thừa và phát huy quyền làm chủ vùng biển đảo của triều đại phong
kiến.
42
Vua Minh Mạng và các vua triều Nguyễn ở đầu thế kỷ XIX, đã coi vùng quần
đảo Hoàng Sa là vùng chiến lược hiểm yếu, không chỉ có giá trị về kinh tế mà còn
có tầm quan trọng về chính trị và quân sự, đối với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Từ những năm 1836 - 1847, trong hơn 10 năm từ thời Minh Mạng đến thời
Thiệu Trị, thủy quân theo lệ được cử đến Hoàng Sa để đo đạc cắm mốc chủ quyền,
đều này thể hiện tầm nhìn chiến lược của các vị vua triều Nguyễn.
Số cột được cắm ở quần đảo ngày càng nhiều, mỗi thuyền sẽ mang theo 10
tấm bài gỗ, trên đó khắc niên hiệu, chức vụ và họ tên của viên chỉ huy theo mệnh
triều đình ra quần đảo Hoàng Sa đề làm dấu ghi nhớ. Mỗi năm triều đình sẽ cử thủy
quân mang theo 4 - 5 chiến thuyền ra quần đảo Hoàng Sa để cắm cột mốc. Một lần
thủy quân có thể mang theo tối đa từ 40 đến 50 cột, số cột mốc tại các đảo, sẽ tăng
lên hằng trăm nếu tính từ 1835 - 1837.
*Xây dựng chùa miếu, trồng cây tại quần đảo Hoàng Sa
Vua Minh Mạng đã cho người tiến hành lập bia miếu của vùng biển hay các
vùng ven biển Nam Trung Bộ trong đó có quần đảo Hoàng Sa để giúp cho người
dân dễ nhận biết và tránh việc tàu bè đụng vào các bãi đá ngầm. Năm 1833 vua đã
chuẩn lời Bộ Công cho quân tiến hành dựng miếu và trồng cây ở quần đảo Hoàng
Sa. Đây được coi là việc làm tiến bộ của vua Minh Mạng không chỉ thể hiện sự
quan tâm đối với vấn đề chủ quyền mà còn đối với đời sống của nhân dân.
Đến năm 1834 việc dựng bia Hoàng Sa gặp khó khăn do thuyền đi gặp phải
sóng lớn không thể xây được miếu như dự định, mà phải đến hạ tuần tháng 6 năm
1835 mới có thể thực hiện được. Năm 1835 xuất đội thủy quân Phạm Văn Biện
trước đây được cử ra đảo Hoàng Sa gặp phải bão tố nên về kinh trễ thời hạn.
“Chúng nó nhờ có thủy thần giúp, vua sai Bộ Lễ chọn địa điểm ở gần cửa biển
Thuận An đặt bàn dâng lễ để tam sinh hướng ra biển lạy tạ. Thưởng cho Phạm Văn
Biện” (Đỗ Bang, 2011).
Thời Minh Mạng số lượng văn miếu được xây dựng nhiều: miếu Long Vương, miếu
Nam Hải thần: “Đổi đền thờ thần cửa biển Thuận An làm miếu Nam Hải long
vương. Chính giữa là vị Nam Hải Long vương; bên tả là vị thần cửa biển Thuận An,
vị thần cửa biển Tư Dung; bên hữu là vị thần Hà Bá), gia phong thần hiệu hằng
43
năm bốn tháng trọng sai quan đến tế” (Quốc sử quán triều Nguyễn tập 2, 2006, tr.
250). Vua phái cai đội Phạm Văn Nguyên cùng với thủy quân và dân phu của hai
tỉnh Quảng Nam, Bình Định chở các vật liệu đến dựng miếu, bên trái và phía trước
cho xây dựng bình phong, quy định phải xây dựng trong vòng 10 ngày. Thời gian
thực hiện nhanh hơn so với các công vụ khác. Cùng với việc dựng bia miếu cầu
mong sự bình yên thì vua Minh Mạng cũng chú trọng cho trồng cây để giúp cho
người dân có thể dễ dàng nhận thấy khi đi biển.
Hầu hết các loại cây trồng ở quần đảo Hoàng Sa là các loại cây có hạt, vì dễ
vận chuyển, dễ bảo dưỡng và dễ trồng hơn các loại cây khác. Ngoài ra do thời gian
hoạt động của đội Hoàng Sa là bắt đầu cuối mùa khô và cuối mùa mưa nên thuận lợi
cho việc gieo hạt, các loại cây này được trồng ở ba mặt của miếu, trong ngoài, trước
sau và trái phải.
“Các quân dân đến đây thì đem những quả phương Nam mà rải trong và ngoài
miếu mong cho mọc thành cây làm dấu nhận biết ” (Nguyễn Nhã, 2016).
Những việc làm cụ thể và mang tính triệt để của vua Minh Mạng đã có tác
dụng tích cực trong việc quản lý và thực thi chủ quyền vùng biển đảo của nước ta.
Do xuất phát từ tư tưởng “thiên nhân cảm ứng” nên vua Minh Mạng cho rằng có
thiên tai là do ý muốn của trời nhằm giáo dục người đời. Vì thế những lúc gặp khó
khăn vua Minh Mạng thường coi trọng việc thờ cúng các vị thần, cho xây dựng
nhiều chùa miếu ở các cửa biển các quần đảo xa bờ như miếu hội đồng, miếu Nam
Hải Long Vương, miếu Âm Linh cầu xin thần phù hộ cho vùng biển êm, an toàn
cho hàng hải và ngư dân.
Thông qua sự quản lí chặt chẽ của vua Nguyễn việc sáp nhập chủ quyền ở các
quần đảo được tiến hành một cách liên tục và có hiệu quả. Đây được coi là bài học
qúy giá về việc tổ chức quản lý, việc khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển. Tầm
nhìn chiến lược trong việc lấy biển là nhân tố quan trọng cho việc bảo vệ đất nước
cùng với đó là những hành động cụ thể và dứt khoát trong việc quản lí và thực thi
chủ quyền của mình. Vua Minh Mạng đã tạo nên trang sử vẻ vang oai hùng về chủ
quyền biển đảo của nước ta thế kỷ thứ XIX.
44
Đến thời Thiệu Trị do các cuộc nổi dậy của người Khơme ở Nam bộ chống lại
triều đình và những xung đột với người Pháp ở phía biển vì thế chính quyền Thiệu
Trị phải tập trung lực lượng để đối phó.Vì thế hầu hết trong giai đoạn này nhà vua
không có điều kiện nên trì hoãn việc cử thủy quân ra quần đảo Hoàng Sa. Các đoạn
trích trong châu bản triều Nguyễn ngày 26 tháng giêng và ngày 28 tháng 12 năm
1847 đã ghi lại việc Bộ Công xin phép vua cho trì hoãn việc cử thủy quân ra Hoàng
Sa “Xứ Hoàng Sa thuộc vùng biển nước ta theo lệ hằng năm có phái binh thuyền ra
xem xét để thông thuộc đường biển. Năm nay bận nhiều công việc xin hoãn đến năm
sau. Vua phê: Đình hoãn” (Nguyễn Nhã, 2016, tr. 29). Việc trì hoãn chỉ là tạm thời
chứ không có nghĩa là từ bỏ việc quản lí vùng biển đảo. Ngoài ra trong Châu bản
tập Thiệu Trị, để có nhiều thời gian giải quyết các vấn đề khó khăn khác, vua hạn
chế sai đội thủy quân Hoàng Sa đến khai thác khoáng sản ở quần đảo Hoàng Sa như
trước đây, việc làm này thể hiện sự quan tâm của chính quyền đối với các quần đảo
xa bờ. Tuy nhiên giữa lúc đó bối cảnh đất nước phải đối mặt với nhiều biến đổi và
sự khủng hoảng về chính trị.Triều đình phong kiến không có điều kiện để tiến hành
việc khảo sát Hoàng Sa như các giai đoạn trước đây.
Đến thời Tự Đức đây được coi là giai đoạn có nhiều biến động và chính quyền
phong kiến lúc bấy giờ bắt đầu đi vào khủng hoảng và suy yếu. Các cuộc chiến
tranh phe phái trong nội bộ triều đình đã dẫn đến sự hình thành 2 phía chủ hòa và
chủ chiến. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp văn thân với chính quyền Tự Đức ngày
càng sâu sắc, các cuộc đấu tranh nổi dậy của các tầng lớp văn thân sĩ phu liên tiếp
nổ ra. Bên cạnh đó thực dân Pháp ngày càng can thiệp sâu hơn vào nội bộ triều đình
chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược.
Trước những khó khăn này, triều đình không có điều kiện cử các đội thủy
quân, biền binh đi đo đạc và trấn giữ vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa như thời
Gia Long, Minh Mạng trước đây. Tuy nhiên chính quyền phong kiến vẫn cho thiết
lập các quân đồn để tiến hành thu thuế và kiểm soát thuyền đánh cá. Theo The
Journal of the Geographical Society of London, trong một bài viết, tác giả Gutzlaff
đã khẳng định rằng từ lâu đời các vua An Nam đã hằng năm đến thăm các bãi nổi
này (quần đảo Hoàng Sa) và tiến hành các cuộc viễn du xa đến tận Borneo:
Tuy rằng hằng năm có hơn mười phần đắm, nhưng do cá đánh được ở đây rất
nhiều đến nỗi không những bù hết được những thiệt thòi mà còn để lại mối lợi
rất to. Chính phủ An Nam thấy những thay đổi có thể mang lại nếu như ngạch
thuế đặt ra bèn tập trung thuyền và một đội quân nhỏ ở chỗ này để thu thuế,
người nước ngoài đến đây điều phải trả tiền (Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, 2013,
tr. 63).
45
Những việc làm trên cho thấy chính quyền vẫn có sự quan tâm nhất định đến
quần đảo Hoàng Sa, qua việc thu thuế chính quyền mang lại giá trị kinh tế và góp
phần quan trọng vào việc bảo vệ an ninh quốc phòng. Mặc dù phải đối mặt với các
cuộc chiến tranh phe phái hay những xung đột mâu thuẫn trong quan hệ với Pháp và
Trung Hoa. Nhưng chính quyền Tự Đức vẫn nối tiếp các thế hệ trước kia coi biển là
nền tảng cho việc phát triển kinh tế và là lá chắn quan trọng cho công cuộc bảo vệ
đất nước. Các ghi chép về việc vua Tự Đức phái thủy quân ra Hoàng Sa rất hiếm
hoi. Mặc dù không tiến hành nhiều hoạt động khẳng định chủ quyền như vua Minh
Mạng trước đây, nhưng vua Tự Đức vẫn luôn có sự quan tâm đến quần đảo Hoàng
Sa. Cụ thể năm 1865 vua Tự Đức cho biên soạn tác phẩm Đại Nam nhất thống chí.
Đây là tác phẩm của chính quyền phong kiến nước ta ghi nhận một cách cụ thể về vị
trí cũng như quá trình xác lập chủ quyền qua các thời kì trước đây đối với quần đảo
Hoàng Sa:
Hoàng Sa nằm ở phía cù lao Ré, thuyền xuất phát từ cửa biển Sa Kỳ, thuận
gió thì từ ba đến bốn ngày đêm thì có thể tới nơi. Có đến hơn 130 đảo. Trên
đảo có bãi Cát Vàng liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm, bằng phẳng
rộng rãi, tục gọi là Vạn Lý Trường Sa, trên biển có giếng nước ngọt, chim
biển tụ tập rất đông… những hàng hóa của thuyền người Thanh bị bão trôi
dạt vào đấy. (Đại Nam nhất thống chí tập 1, 1992).
Phần thứ nhất xác định về vị trí của quần đảo Hoàng Sa
46
Bên cạnh đó tác phẩm còn khẳng định việc xác lập chủ quyền của nhà Nguyễn
Đầu triều Gia Long phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ; đầu đời
Minh Mạng thường sai thuyền công đi đến đó thăm dò đường biển, thấy một
nơi có cồn cát trắng chu vi 1.070 trượng, cây cối xanh tốt, giữa cồn cát có
giếng, phía tây nam cồn có ngôi miếu cổ, không rõ được dựng từ thời nào, bia
khắc bốn chữ “ Vạn lí bình ba” tên cũ là Phật Tự Sơn, hai bên bờ có san hô
dốc thoai thoải vây quanh mặt nước. Năm thứ 16 sai quan thuyền chở đá gạch,
đá đến cất chùa, ở phía tả chùa để bia đá làm dấu. Thời đó các binh lính, dân
phu tham gia công việc, đào được đồng lá, đồn sắt hơn 2.000 cân (Đại Nam
nhất thống chí tập 2, 1992).
đối với quần đảo Hoàng Sa qua các thời vua trước đây:
Những tài liệu và dẫn chứng trên, khẳng định một cách chắn chắn và rõ ràng
việc chính quyền nhà Nguyễn đã tiến hành nhiều biện pháp cụ thể nhằm khẳng định
chủ quyền của mình tại quần đảo Hoàng Sa qua các thời kì lịch sử. Tài liệu cổ xưa
nhất như Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá Công Đạo và tác phẩm Phủ biên
tạp lục của Lê Qúy Đôn, đều miêu tả một cách cụ thể và chi tiết về vị trí địa lí và
những điều kiện tự nhiên của quần đảo Hoàng Sa.Tuy nhiên nếu so về độ chính xác
và cụ thể thì tác phẩm Phủ biên tạp lục của tác giả Lê Qúy Đôn chi tiết và đầy đủ
hơn. Ngoài ra các tác phẩm này khẳng định chính quyền phong kiến đã xác lập chủ
quyền một cách liên tục và đều đặn thông qua hoạt động của đội Hoàng Sa và Bắc
Hải trong các thời kì lịch sử. Đội Hoàng Sa được thành lập vào thời chúa Nguyễn
Phúc Lan. Lúc đầu nhiệm vụ của họ là khai thác, tìm kiếm các sản vật ở vùng đảo
Hoàng Sa nhưng về sau họ còn có thêm nhiệm vụ là kiêm quản đội Bắc Hải và tuần
tra, canh phòng vùng biển hay giúp đỡ các thuyền buôn phương Tây gặp nạn. Đa số
những ngư dân của đội Hoàng Sa gồm 70 suất có nguồn gốc từ xã An Vĩnh, huyện
Lí Sơn tỉnh Quảng Ngãi. Cứ sáu tháng (từ tháng 3 đến tháng 8) thủy quân Hoàng Sa
đưa thuyền đến kinh đô nhận lệnh rồi thực thi nhiệm vụ ở Hoàng Sa đến tháng 8 thì
trở về. Do vùng biển nước ta rộng lớn nên để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ khai
47
thác và bảo vệ an ninh vùng biển, đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu thì cho lập thêm
đội Bắc Hải. Số lượng dân của đội Bắc Hải không quy định cụ thể bao nhiêu lấy từ
làng Bố Chính tỉnh Bình Thuận.
Thông qua hoạt động khai thác sản vật và tuần tra của đội Hoàng Sa, Bắc Hải
chính quyền phong kiến có thể quản lí và từng bước xác lập chủ quyền của mình tại
quần đảo Hoàng Sa.Từ việc làm chủ và tiến hành khai thác kinh tế liên tục của chúa
Nguyễn tại quần đảo Hoàng Sa đã làm tiền đề quan trọng cho các vua Nguyễn tiến
hành chiếm hữu và xác lập chủ quyền hợp pháp tại quần đảo Hoàng Sa. Thời vua
Gia Long việc xác lập chủ quyền được mở đầu bằng sự kiện cắm lá cờ chủ quyền
tại quần đảo Hoàng Sa năm 1816. Thời Minh Mạng thì việc xác lập chủ quyền được
đẩy mạnh với hàng loạt các hoạt động cụ thể như đo đạc, vẽ bản đồ cắm mốc chủ
quyền, trồng cây xây dựng chùa miếu. Những việc làm này được tiến hành một cách
liên tục, được chứng minh qua các văn bản, chiếu chỉ và mệnh lệnh của nhà vua ban
hành và được tiến hành bởi đội thủy quân Hoàng Sa, sau này trở thành đội quân
triều đình. Chính những hoạt động này diễn ra một cách hợp pháp, hòa bình và được
các nước công nhận. Chính quyền phong kiến Trung Hoa lúc bấy giờ rất tôn trọng
đội thủy quân Hoàng Sa và có những hành động giúp đỡ khi thuyền của họ gặp nạn
trên đất Trung Hoa và cấp lương thực thuyền cho họ trở về.
Các hoạt động xác lập chủ quyền của chính quyền nhà Nguyễn được tiến hành một
cách hòa bình nên vì thế không có bất cứ tranh chấp hay phản đối từ bất cứ quốc gia
nào suốt hai thế kỉ XVII - thế kỉ XIX.
Bên cạnh các hoạt động xác lập chủ quyền các vương triều Nguyễn thì tại
vùng đảo Hoàng Sa người Việt cũng đã sinh sống ở đây từ khá sớm. Nhận định này
được chứng minh thông qua nguồn tài liệu gốc của nước ta, của Trung Hoa và
phương Tây. Các tài liệu đều khẳng định danh xưng Bãi Cát Vàng đã có từ rất lâu.
Đây là danh từ Hán Nôm dùng để chỉ quần đảo Hoàng Sa trước kia xuất hiện trước
danh từ Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa, Đại Trường Sa chứng tỏ từ sớm đã có người
Việt định cơ và sinh sống trước khi chính quyền phong kiến tiến hành khai thác và
xác lập chủ quyền tại đây “giữa biển có một dãi cát vàng, gọi là Bãi Cát Vàng, dài
độ 40 dặm, rộng 20 dặm; đứng dựng giữa biển” (Nguyễn Nhã, 2013, tr. 40).
48
Còn trong các tài liệu nước ngoài thì sử dụng từ Paracel để chỉ quần đảo
Hoàng Sa quần đảo có nhiều bãi đá ngầm nguy hiểm giữa biển. “Chúng tôi chỉ xin
lưu ý rằng từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracel mà người Việt gọi là Cát Vàng
(Hoàng Sa) bao gồm rất nhiều hòn đảo chằn chịt với nhau, lỏm chỏm những đá nhô
lên giữa cát, được người Việt xứ Đàng Trong chiếm cứ, đã kiến cho những kẻ đi
biển phải kính sợ” (Đỗ Bang, 2014, tr. 102).Vào thời chúa Nguyễn danh từ Bãi Cát
Vàng được dùng để chỉ quần đảo Hoàng Sa và các vùng đảo nằm ở phía Nam. Đến
thời vua Nguyễn danh từ Vạn Lý Trường Sa chỉ dùng cho quần đảo Trường Sa.
Trước sự kiện 1909 Trung Quốc tuyên bố“Paracel là đất vô chủ” mở đầu cho
những hành động tranh chấp chủ quyền với Việt Nam tại hai quần đảo Trường Sa
và Hoàng Sa. Những dẫn chứng trên đã khẳng định, từ rất sớm chính quyền phong
kiến Việt Nam đã tiến hành các hoạt động xác lập chủ quyền vùng biển liên tục và
cụ thể từ thời Chúa Nguyễn cho đến các vua Nguyễn. Qúa trình xác lập chủ quyền
của nhà nước quyền phong kiến diễn ra một cách hòa bình và không hề có bất cứ
một sự tranh chấp nào.
Đến giai đoạn Pháp thuộc, mặc dù chính quyền phong kiến không còn quyền
lực, lãnh thổ nước ta trở thành thuộc địa của Pháp, tuy nhiên chính phủ Pháp vẫn có
những có lưu tâm đến việc bảo vệ chủ quyền của Paracel (Hoàng Sa) trước sự đe
đọa từ các nước xung quanh đặc biệt là Trung Quốc. Để đấu tranh chống lại những
luận điểm sai trái của Trung Quốc, chính quyền thuộc địa Pháp đã cho lập các đồn
quân sự tại quần đảo Hoàng Sa. Đồng thời sử dụng các nguồn tư liệu chính thống
của nước ta để khẳng định quần đảo này đã được xác lập chủ quyền bởi các vị vua
Việt Nam. Trong hiệp định Giơnevơ được kí kết để chấm dứt cuộc chiến xâm lược
của Pháp tại Việt Nam, cũng chỉ rõ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong
lãnh thổ nước ta.Trong thời kì đất nước phân ly hai quần đảo này đặt dưới sự quản
lí của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Đây được coi là một sự thật không thể chối
cãi được mặc dù cho chính quyền Trung Quốc cố gắng lồng ghép các sự kiện không
xác thực về Hoàng Sa, Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa để khẳng
định cho quá trình làm chủ không có trong lịch sử của mình tại hai quần đảo này.
49
Những dẫn chứng trên có giá trị quan trọng cho ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ
quyền và chống lại những luận điểm sai trái của Trung Quốc.
1.2. Tầm quan trọng của biển đảo đối với chính quyền Chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XI
1.2.1. Vai trò của biển đối với chính quyền chúa Nguyễn (thế kỉ XVII -
XVIII)
Khi vào trấn thủ vùng đất Thuận Quảng, Nguyễn Hoàng đã nhận thấy vị trí
chiến lược của biển. Lúc đầu Nguyễn Hoàng vào vùng này nhằm tìm kiếm chỗ náu
thân tránh thế lực của anh rể Trịnh Kiểm. Tuy nhiên, với những điều kiện tự nhiên
thuận lợi của vùng đất Thuận Quảng, các chúa Nguyễn kế tiếp nhau đã biến vùng
đất này không chỉ là mảnh đất giàu có, mà còn tạo ra lực lượng đối trọng chống lại
Đàng Ngoài.
Vùng đất Đàng Trong có khí hậu nhiệt đới gió mùa thuận lợi cho sự phát triển
của nhiều động thực vật. Nằm ở vị trí giao thương giữa Ấn Độ Dương, Trung Quốc
xuống khu vực Đông Nam Á và ven vùng biển Thái Bình Dương. Vùng biển Đàng
Trong có các tuyến đường thương mại quan trọng như con đường tơ lụa trên biển
của Trung Quốc và con đường gốm sứ của Chămpa. Những thuận lợi về tài nguyên
thiên nhiên và truyền thống thương mại của người Chăm cổ đã tạo cho vùng đất
Đàng Trong phát triển nhanh chóng về ngoại thương. Về sau Nguyễn Hoàng cai
quản thêm vùng đất Quảng Nam, đây là trung tâm mậu dịch nổi tiếng thời Chămpa,
có nguồn lợi to lớn về hệ động thực vật và các sản phẩm có giá trị cao như: trầm
hương, sừng tê giác, ngà voi, quế, hồ tiêu, sáp, đường, gỗ lạc, vàng bạc và nhiều
loại khoáng sản có giá trị. Các sản phẩm vùng biển gồm có: ngọc trai, đồi mồi, san
hô, cá muối...
Những mặt hàng này đã thu hút đông đảo thương nhân khắp nơi kéo đến tiến
hành mua bán trao đổi tạo nên sự thay đổi nhanh chóng vùng Đàng Trong. Có thể
nói trước đây người Chămpa đã khai thác một cách có hiệu quả những tiềm năng
vùng này. Vì thế trong suốt 2 thế kỉ XI - XIII Chămpa được coi là cường quốc
thương mại trên biển lớn nhất trong khu vực.
50
Tiếp nối truyền thống hướng biển của người Chămpa, Nguyễn Hoàng (chúa
Tiên) đã tận dụng những tiềm năng nơi đây để phát triển Đàng Trong. Mặc dù địa
hình không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, có nhiều sông cắt ngang làm cho
địa hình bị phân chia thành nhiều phần, nhưng đây lại là yếu tố vô cùng thuận lợi
cho sự hình thành các cảng biển. Với quan hệ ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt
Nguyễn Hoàng dần được giao quản lí vùng Thuận Hóa và sau đó là Quảng Nam. Tư
duy hướng biển của Nguyễn Hoàng được nảy sinh sau 7 năm ở đất Bắc và qua các
cuộc thủy chiến giúp họ Trịnh chống lại tàn quân họ Mạc. Qua các cuộc giao tranh
với họ Mạc, tài năng chỉ huy quân sự biển của Nguyễn Hoàng được bộc lộ. Đồng
thời thông qua việc giúp họ Trịnh xây dựng chính quyền, chúa Tiên có điều kiện
tìm hiểu về tình hình chính trị Đàng Ngoài. Qua các chuyến đi, Nguyễn Hoàng có
cơ hội so sánh giữa nền kinh tế cổ truyền nông nghiệp của Thăng Long với sự linh
động nhộn nhịp của kinh tế thương nghiệp hướng biển của Thuận Hóa. Ngoài ra, số
lượng vũ khí và các thương phẩm của nước ngoài đem đến đây đã tác động đến tư
tưởng của chúa Nguyễn Hoàng. Vì thế khi quay về Đàng Trong, chúa Tiên đã tiến
hành xây dựng ở đây một mô hình kinh tế năng động lấy ngoại thương làm hướng
phát triển chính dần xa cách với nền nông nghiệp cổ truyền.
Với những điều kiện thuận lợi như nhiều cảng biển, giàu về nguồn tài nguyên
thiên nhiên, nhiều loại thương phẩm có giá trị cao và nằm trên trục giao thương
buôn bán lâu đời với các quốc gia trong khu vực, Đàng Trong là nơi hội tụ một cách
đầy đủ nhất những điều kiện phát triển thương nghiệp. Khi được tiếp quản thêm
vùng đất Quảng Nam, Nguyễn Hoàng đã đặt dinh Ái Tử làm thủ phủ của vùng đất
này. Với vị trí nằm ở trục sông Thạch Hãn, phía dưới giáp Cửa Việt, phía trên giáp
Ai Lao, phía Tây có Cam Lộ nguồn thương phẩm dồi dào. Dinh Ái Tử không chỉ
giúp cho Đàng Trong bảo tồn được sự tồn tại của mình, mà còn để kiểm soát các
nguồn hàng hóa từ thương nhân phương Tây mở rộng giao lưu kết nối với nhiều
nước trong khu vực.
Việc xây dựng dinh Ái Tử đã thể hiện tư duy hướng biển của chúa Nguyễn
Hoàng cho việc phát triển vùng đất Đàng Trong. Các bộ lạc Sách, Nguyên với các
sản vật có nguồn gốc từ biển như muối, mắm, cá khô, đồ bạc, vòng tay, thiếc, chì,
51
đồng cho đến các sản phẩm lâm thổ sản của người Man như: mật ong, ngà voi, trầm
Đầu nguồn sông Thạch Hãn huyện Hải Lăng, tự phường Tân An xuống ngã ba
quán một ngày. Ngã Ba Quán đến tuần Ngưu Cước một ngày. Tuần Ngưu
Cước đến phường Khe Tấu. Từ tuần Viên Kiều đến ngã ba Dạ một ngày. Tự
phường Mai Hoa theo đầu nguồn sông nhỏ đi về bên hữu để lên các sách man ở
Tôi Ôi, lại đi về bên tả để đến chỗ dân man Ba Hy ở, lại đi về bên tả đến sách
Man có đường vào Đồng Nai Gia Định không quá 6 ngày (Lê Qúy Đôn, 1977,
tr. 141 - 142)
hương, thóc gạo, gà trâu đều được đem đến đây trao đổi.
Cửa Việt trước đây là thương cảng quốc tế thời Chămpa, tiếp thu trao đổi các
hàng hóa từ Trung Quốc, Ả Rập cho đến Bồ Đào Nha, đến thế kỉ XI trở thành
thương cảng của người Việt. Với những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý và nguồn
tài nguyên sẵn có, Nguyễn Hoàng cho xây dựng dinh Ái Tử, có tác dụng không chỉ
giúp Đàng Trong khởi sắc về kinh tế mà tạo ra sự giao lưu tiếp xúc văn hóa Đông -
Tây và đây thực chất là sự kế thừa và phát huy những di sản trước đây của người
Chăm.
Thế kỉ XV - XVII là thời kì huy hoàng của nền kinh tế hàng hải Đại Việt. Sự
phát triển nhanh chóng của nghành khai thác chế biến thủy sản, ngành đóng tàu và
buôn bán với nước ngoài. Vùng biển Đàng Trong có rất nhiều các sản vật quý có
Phía ngoài các cửa biển xứ Thuận Hóa, Quảng Nam đều có núi đá nổi lên trong
biển để làm trấn. Ở phủ Thăng Hoa ngoài cửa biển Đại Chiêm có núi to gọi là
Cù Lao Chàm, ba ngọn núi lớn đối nhau, hai ngọn lớn mà xanh tốt, có dân cư
ruộng nương, có các thứ cam quýt đỗ lạc, trên suối có nước ngọt đi hai canh là
tới (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 150).
giá trị kinh tế cao
Chính quyền chúa Nguyễn cũng chú trọng đến việc khai khẩn vùng biển đảo,
bằng việc cho dân đến khai hoang lập ấp, vừa có nguồn nhân lực để khai thác các
52
sản vật vừa là lực lượng quan trọng trong việc bảo vệ quốc phòng. Ở các quần đảo
xa bờ như đảo Hoàng Sa hay còn gọi là Bãi Cát Vàng cũng cung cấp nhiều nguồn
Trong đảo có vô số nước ngọt, vô số yến sào và hàng vạn thứ chim. Ồc vân thì
có ốc tai voi to bằng chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng ngón tay có thể nung
thành vôi làm nhà hay khảm đồ dùng; có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng. Đồi mồi
thì rất lớn. Có con hải ba tục gọi là con trắng bông giống đồi mồi nhưng nhỏ
hơn, vỏ mỏng có thể dùng để khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay có thể
muối ăn được (Lê Qúy Đôn, 1977, tr.154).
lợi quý:
Vùng biển Đàng Trong thuận lợi cho sự phát triển hải thương với đường bờ
biển dài khúc khuỷu nhiều vịnh đảo, độ sâu lớn hình thành nên vô số các cảng biển
là chỗ cho các tàu thuyền đến tránh bão, trao đổi nước ngọt và hàng hóa với cư dân
trong vùng. Theo sự mô tả của Cristophoro Borri trong tác phẩm Xứ Đàng Trong
1621: “Còn về hải cảng thì thật lạ lùng. Chỉ khoảng hơn 100 dặm một chút mà
người ta đếm được hơn sáu bảy cảng tất cả đều rất thuận tiện cho việc cập bến và
lên đất liền. Vì ở ven bờ có rất nhiều nhánh biển lớn” (Cristophoro Borri, 1998,
tr.91).
Vùng đất Đàng Trong có những điều kiện rất thuận lợi để phát triển kinh tế
biển mà không phải chỗ nào có được, nhờ mạng lưới sông ngòi chằng chịt tạo hệ
thống giao thông nối liền vùng rừng núi, đồng bằng và ven biển. Cảng biển ở Đàng
Trong đóng vai trò quan trọng là trung tâm trao đổi kinh tế và văn hóa của Đại Việt
với các quốc gia khác trong suốt hai thế kỉ XV - XVII. Số lượng cửa biển nhiều gần
20 cửa biển nằm rải rác từ cửa Bố Chính đến phủ Quy Nhơn đã tạo điều kiện cho
các thuyền buôn trong và ngoài nước có thể dễ dàng cập bến trao đổi hàng hóa.
Chính quyền chúa Nguyễn với tầm nhìn hướng biển đã tận dụng tốt các yếu tố
tự nhiên để xây dựng dựng nhiều hệ thống cảng biển như: Cảng Hội An, Đà Nẵng,
Thị Nại, Hà Tiên. Lúc đầu các cảng thị này là nơi thu mua và vận chuyển hàng hóa,
nhưng càng về sau do số lượng thuyền buôn đến ngày càng nhiều, nên các thương
53
cảng Đàng Trong trở thành trung tâm thương mại quan trọng trong khu vực. Trong
đó Hội An là thương cảng quốc tế quan trọng và sầm uất nhất. Không chỉ bởi phong
cảnh đẹp nơi đây mà Hội An còn nằm ở trung tâm của trục giao thương quốc tế từ
Châu Âu tới Châu Á. Thương cảng Hội An của vùng Quảng Nam là cửa ngõ giao
thương quan trọng và không thể thay thế được của vùng đất này. Các thương nhân
tìm đến Đàng Trong ngày càng nhiều ngoài vì nguồn tài nguyên phong phú mà còn
do vận chuyển hàng hóa của nơi đây đến các nước khác dễ dàng hơn. Tuy nhiên đến
thế kỉ XV- XVI thì thương nghiệp Đàng Trong mới đạt được sự hưng khởi.
Thế kỉ XIV - XVI trên thế giới diễn ra các cuộc phát kiến địa lí của Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha đã thúc đẩy giao lưu tiếp xúc giữa Châu Âu với Châu Á. Quan hệ
buôn bán trên biển được hình thành trong giai đoạn đầu và phát triển mạnh mẽ ở các
giai đoạn sau tạo nên thời kì rực rỡ của nền hải thương thế giới. Ngoại thương trên
biển đã rút ngắn khoảng cách địa lý giữa các quốc gia, thúc đẩy giao lưu về kinh tế
và văn hóa, nâng cao tri thức của nhân loại.
Nhật Bản và Trung Hoa là hai đối tác quan trọng trong nền kinh tế thương mại
ở Đàng Trong. Chính quyền chúa Nguyễn chủ động thiết lập quan hệ với các quốc
gia này. Những năm đầu thế kỉ XVI do thiếu nguồn nguyên liệu, chính quyền Mạc
phủ Tokugawa cho phép các con thuyền có đóng dấu ấn đỏ (châu ấn thuyền
Shuisen) vượt biển tới các nước Đông Nam Á trong đó có Đàng Trong để trao đổi
và mua bán. Chúa Nguyễn Hoàng nhanh chóng nắm bắt cơ hội đẩy mạnh các hoạt
động buôn bán với Nhật Bản mở ra thời kì phát triển rực rỡ của nền hải thương
Đàng Trong. Các thương nhân người Nhật, Trung Hoa và Bồ Đào Nha tìm đến
Đàng Trong để xây dựng các thương điếm và phố xá làm cho thương mại Đàng
Trong thêm nhộn nhịp và sôi động. Các sản phẩm như hương liệu, hồ tiêu, gỗ, trầm
hương, kì nam, gốm, tơ lụa cùng với các loại khoáng sản như than, thiếc, đồng chì
được các thương nhân nước ngoài thu mua và trao đổi với các nước khác. Việc mua
bán với các quốc gia này đã tạo ra những nguồn lợi quan trọng cả về kinh tế lẫn
chính trị, đồng thời tăng cường thêm nguồn lực cho cuộc ly khai của chính quyền
họ Nguyễn.
54
Vùng biển không chỉ mang lại tiềm lực kinh tế to lớn với các sản lượng thủy
sản dồi dào như cá, tôm mực… làm nguồn lương thực quan trọng cho cư dân mà
Nghành ngư nghiệp cũng rất thịnh vượng và cá ở đây có hương vị tuyệt diệu và
rất đặc biệt.Tôi đã đi qua nhiều nước nhưng tôi cho rằng không có nơi nào sánh
được với xứ Đàng Trong. Xứ này nằm chạy dọc bờ biển nên có rất nhiều các
thuyền đánh cá và rất nhiều các được đánh bắt từ biển đi khắp các xứ
(Cristophoro Borri, 1998, tr. 29).
còn tạo điều kiện cho sự hình thành ngành ngư nghiệp khắp vùng ven biển,
Việc khai thác thủy sản đã góp phần giải quyết những khó khăn về mặt kinh tế
trong buổi đầu khai khẩn vùng đất mới của lưu dân Việt, thu hút đông đảo nguồn
nhân lực từ khắp nơi đổ về, các tàu buôn nước ngoài đến trao đổi mua bán ngày
càng nhiều, làm cho vùng đất phía Nam khởi sắc nhanh chóng. Cùng với sự phát
triển của ngành đánh bắt thủy sản, khai thác yến sào, đóng tàu lần lượt ra đời, tạo
động lực vô cùng quan trọng giúp cho Đàng Trong có thể tồn tại vững bền trên
vùng đất mới. Đàng Trong trở thành trung tâm thu hút các mối giao lưu quốc tế, qua
đó góp phần nâng cao vị thế của vùng.
Những thuận lợi sẵn có về điều kiện tự nhiên cũng như áp lực của cuộc chiến
tranh Trịnh - Nguyễn, nhu cầu phát triển kinh tế nhanh chóng cũng như những
chuyển biến về kinh tế của thế giới và khu vực. Chính quyền chúa Nguyễn đã tạo cơ
sở vững chắc bước đầu cho tư duy hướng biển Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn
sau này, tạo nên tiền đề quan trọng cho sự hưng thịnh của nền kinh tế ở vùng đất
phía Nam.
1.2.2. Vai trò của biển đối với triều Nguyễn
Thế kỉ XVII - XVIII sự nổi dậy của phong trào Tây Sơn đã làm cho chính
quyền Đàng Trong và Đàng Ngoài tập trung lực lượng đối phó, vùng biển trước đây
có ý nghĩa quan trọng về kinh tế thì giờ đây lại có ý nghĩa to lớn về mặt quân sự.
Năm 1783 Tây Sơn tiêu diệt được chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong, làm
chủ toàn bộ vùng đất này. Nguyễn Ánh người duy nhất của dòng họ Nguyễn phải
sống lưu vong nhiều nơi từ Mũi Cà Mau, đảo Thổ Chu, Phú Quốc trước sang Thái
55
Lan sau thất bại năm 1785: “Tháng 7 - 1783, Nguyễn Huệ nghe tin Nguyễn Ánh ra
Côn Lôn, sai phò mã Trương Văn Đa đem thủy quân đến bao vây đảo. Bỗng nhiên
sóng gió nổi lên dữ dội, thuyền quân Tây Sơn bị chìm đắm rất nhiều. Nguyễn Ánh
vượt vòng vây, đến đảo Cổ Cốt, rồi trở về đảo Phú Quốc” (Đại Nam thực lục tập 1,
2002, tr. 217 - 218).
Cả cuộc đời của Nguyễn Ánh đều gắn liền với biển đảo, vì thế hơn ai hết
Nguyễn Ánh nhận thấy biển có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc chiến giành
lại vương quyền cho dòng họ mình. Trong thời gian sống lưu vong ở Xiêm, ông tiến
hành khẩn hoang lập đồn điền trên các vùng đảo ven bờ để lấy nước ngọt và lương
thực nuôi số quân ít ỏi của mình. Khi nhà Tây Sơn suy yếu, Nguyễn Ánh chiếm
Long Xuyên và tại đây ông đã cho quân lính và nông dân tiến hành khẩn hoang trên
Từ khi khanh đóng giữ đèo Gian Nam giữ vững bờ cõi, không phụ ủy thác của
triều đình, ta khen gợi nay kén người tâm phước làm thám tử đi dò xét giặc ở
Phú Yên, Quy Nhơn và chiêu dụ những sách Man ở đầu nguồn khiến họ quy
thuận, còn việc phòng bị ngoài biên cương nên gia canh giữ. Người ta nói một
người giữ ải muôn kẻ khó địch, khanh nên nghĩ đấy (Đại Nam thực lục tập 1,
2002, tr. 387).
các đảo ven bờ.
Sau khi đánh bại vương triều Tây Sơn thiết lập triều Nguyễn, tiếp nối tư duy
hướng biển thời Chúa Nguyễn trước đây, Nguyễn Ánh luôn chú trọng đến vấn đề
biển đảo và coi đây là cửa ngõ quan trọng đối với an ninh đất nước.
Bên cạnh những tiềm năng mà biển mang lại về kinh tế, phát triển thương mại,
giao lưu văn hóa thì biển cũng chứa đựng những nguy cơ, thách thức: về ngoại xâm,
nạn cướp biển.Triều Nguyễn được thiết lập trong bối cảnh các quốc gia phương Tây
có sự phát triển mạnh về khoa học kĩ thuật. Lãnh thổ dưới thời cai trị của triều
Nguyễn rộng lớn nên vấn đề chủ quyền luôn chiếm vị trí quan trọng trong chính
sách cai trị đất nước của các vua Nguyễn. Bảo vệ vùng đất liền đã khó bảo vệ vùng
56
biển còn khó hơn nên việc tăng cường bảo vệ an ninh quốc phòng ở các vùng chiến
lược có ý nghĩa quan trọng.
Các cửa biển Đà Nẵng, Thị Nại, Thuận An, Tư Hiền, Tư Dung gần với kinh
thành Huế đều có vị trí chiến lược quan trọng, ngăn chặn sự tấn công của các thế
lực ngoại xâm đồng thời cũng là cánh cửa giao thương giữa nước ta với các quốc
gia khác trong khu vực nên càng phải ra sức phòng thủ. Vì thế, trong suốt thời trị vì,
các vua Nguyễn đều có những chính sách để khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng
biển như cắm mốc chủ quyền, xây dựng các tuyến phòng thủ trên biển, tổ chức các
đội thủy quân đến tuần tra và khai thác sản vật, đóng tàu chiến. Trong đó cửa biển
Thị Nại có ý nghĩa chiến lược quan trọng, đây là nơi từng diễn ra cuộc giao tranh ác
liệt giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh năm 1801, vì thế chính quyền nhà Nguyễn rất chú
trọng đến khu vực này“cửa biển Thị Nại, nước sâu, núi cao, thuyền bè đi lại nhiều
có khi đậu ở đấy, cũng là nơi xung yếu, nên công việc phòng bị tất phải chỉnh đốn”
(Đại Nam thực lục tập 1, 2002).
Minh Mạng là vị vua có tư duy hướng biển từ khá sớm, mặc dù lên ngôi trong
thời đất nước được thanh bình nhưng Minh Mạng luôn coi trọng vấn đề chủ quyền
biển đảo: “địa lý nước ta lấy biển làm dải áo, lấy núi làm vạt áo, địa thế trọng yếu
và hiểm trở” (Nội các triều Nguyễn, 1993)
Kế thừa và phát huy những kinh nghiệm được truyền từ thời Gia Long, vua
Minh Mạng luôn đề cao việc bảo vệ chủ quyền vùng biển, coi biển là nhân tố quan
trọng cho sự tồn vong của đất nước. Minh Mạng cho ban hành nhiều chính sách bảo
vệ và phòng thủ với đối với các cảng biển có tính chất xung yếu quan trọng như cửa
biển Thuận An và Đà Nẵng. Tại đây, các vua Nguyễn đã cho xây dựng hệ thống
pháo đài, đồn, dinh, hệ thống phòng thủ…các hải trấn cùng với một lực lượng quân
đội hùng hậu được trang bị vũ khí hiện đại và nhiều chiến thuyền lớn canh giữ
“ Đổi cửa Eo làm cửa Thuận An. Xây đài Trấn Hải sai Nguyễn Đức Xuyên trong
coi công việc. Vua thấy đây là nơi trọng yếu của hải cương. Bèn xây đài ở bên
cạnh” (Đại Nam thực lục tập 2, 2006, tr. 62).
Vua Minh Mạng có những bước đi mạnh mẽ trong vấn đề chủ quyền biển,
không chỉ xây dựng các tuyến phòng thủ trên biển, còn tiến hành cho người sang
57
các nước Đông Nam Á tìm hiểu về tình hình chính trị ở các nước này. Trong bối
cảnh thế giới có nhiều biến động, chủ nghĩa phương Tây đang dần mở rộng thế lực
sang các nước phương Đông, vua Minh Mạng đã cho người học hỏi về cách chế tạo
các loại tàu, đại bác và xây dựng lực lượng thủy quân theo mô hình của Phương
Tây. Phú Xuân là vùng đất có ý nghĩa quan trọng đối với triều Nguyễn, đây là kinh
đô, là trung tâm kinh tế - văn hóa và là nơi hội tụ các yếu tố chính trị - quân sự, có
các cửa biển Thuận An, Tư Hiền là nơi giao lưu với bên ngoài. Phía bắc có núi
Hoành Sơn che chắn, các vua Nguyễn đã cho xây dựng các hệ thống phòng thủ dọc
các cửa biển, đồng thời ở vùng ven biển miền Trung, nhà Nguyễn còn cho xây dựng
các pháo đài, thành lũy để bảo vệ kinh đô từ phía xa.
Các vị vua của triều Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng rất chú trọng khai
thác các thế mạnh của biển, có tư duy hướng biển mạnh mẽ. Các nguồn thủy hải sản
phong phú dồi dào cùng với các sản vật quý không chỉ là nguồn lương thực quan
trọng nuôi sống dân mà còn là nguyên liệu để trao đổi buôn bán với bên ngoài. Các
sản phẩm thủy hải sản như cá biển, tôm, cua, sò, các loại khô mắm các loại, khô
mực, tôm khô là mặt hàng trao đổi khắp các khu vực từ miền xuôi đến miền ngược,
tạo luồng buôn bán rộng khắp nước từ chợ quê đến vùng kinh đô. Chính quyền nhà
Nguyễn tiếp thu trình độ kĩ thuật tiến bộ của phương Tây.Vì thế trong giai đoạn này
có nhiều các loại tàu thuyền hiện đại được ra đời giúp cho việc đánh bắt thủy hải
sản nhanh chóng và thuận lợi hơn đem lại sản lượng cao hơn so với trước:
“Sai các đội mộc đĩnh [xuồng gỗ] ở Chính dinh đi Quang Hóa tìm chở ván gỗ
để đóng chiến thuyền lớn và thuyền kiểu Tây dương (Quốc sử quán triều Nguyễn tập
2, 2006, tr. 590). Bên cạnh đó để thuận tiện cho việc đi lại và chuyên chở hàng vua
Gia Long còn ra chỉ dụ: “Hạ lệnh cho Nghệ An biên thuyền của dân có thể đi biển
được, thuyền gỗ bề ngang rộng 6 thước trở lên, thuyền tre rộng 7 thước trở lên làm
sổ tâu lên” (Đại Nam thực lục tập 2, 2006).
Các ngành làm muối và nước mắm tiếp tục được phát triển, là sản phẩm quan
trọng trao đổi giữa vùng biển, vùng đồng bằng với miền núi, người dân vùng biển
đem các sản phẩm của mình trao đổi với các dân ở vùng đồng bằng để đổi lấy gạo,
thịt, các đồ tiêu dùng hằng ngày. Các sản phẩm phong phú đã tạo điều kiện cho cư
58
dân các vùng ven biển có thể gắn bó lâu dài với cuộc sống bám biển khai thác
những thủy sản để mưu sinh. Những cư dân này còn là lực lượng quan trọng cho
chính quyền trong việc tham gia vào việc giám sát, bảo vệ, giữ gìn vùng biên giới,
biển đảo.
Chính quyền phong kiến cũng tiến hành cho thu hoạch và đánh thuế muối hằng
năm giống thời chúa Nguyễn trước đây. Tuy nhiên do số lượng muối thu hoạch
Trấn thần Bình thuận tâu rằng số muối chứa ở kho đã nhiều, xin cho từ năm
nay về sau xin cho nộp thuế muối bằng tiền cho tiện. Vua y cho và quy định
các trấn Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Định, Bình Hòa cũng theo lệ ấy cho
thay (một phương muối bằng 2 tiền 30 đồng) (Đại Nam thực lục tập 2, 2006,
tr. 208).
nhiều vì thế vua Minh Mạng cho thay nộp thuế muối bằng tiền:
Vùng biển có ý nghĩa quan trọng đối với chính quyền phong kiến. Không chỉ
là lá chắn bảo vệ cho đất nước trước sự tấn công của thế lực bên ngoài mà xuyên
suốt các triều đại từ chúa Nguyễn đến nhà Nguyễn, vùng biển còn là nơi có những
điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa, là con đường giao thương
và liên lạc với thế giới bên ngoài. Vì vậy, bên cạnh việc coi trọng kinh tế nông
nghiệp, chính quyền phong kiến ở các thế kỉ XVI - XIX cũng rất chú trọng đến việc
phát triển kinh tế biển, khai thác các yếu tố tự nhiên mà biển mang lại, để vừa có thể
phát triển kinh tế vừa có thể đảm bảo an ninh quốc phòng. Vùng biển không chỉ là
nơi sinh tồn, phát triển. Chính quyền nhà Nguyễn còn sử dụng biển làm con đường
giao thương kết nối giữa các vùng và các khu vực lại với nhau. Thúc đẩy sự phát
triển kinh tế thương nghiệp nội thương và ngoại thương, nâng cao việc giao lưu tiếp
biến văn hóa trong khu vực đồng thời cũng là cơ sở để chính quyền phong kiến
kiểm soát chặt chẽ an ninh, tăng cường hệ thống phòng thủ đất nước.
Mặc dù thực hiện chính sách ức thương nhưng nhà Nguyễn vẫn tạo điều kiện
cho các thương nhân nước ngoài đến nước ta trao đổi và mua bán hàng hóa qua cửa
biển Đà Nẵng. Vì thế cửa biển Đà Nẵng vừa là một quân cảng vừa là một thương
cảng quan trọng của Triều Nguyễn, là con đường thông thương duy nhất với thế
59
giới. Điều này đã làm cho chính quyền phong kiến Nguyễn không hề cô lập mà vẫn
có sự giao thương trong giới hạn với bên ngoài. Chủ trương “trọng nông ức
thương” của nhà Nguyễn không hoàn toàn thủ tiêu việc buôn bán mà chỉ tạo điều
kiện cho thương nghiệp diễn ra trong mức độ cho phép và dưới sự quản lý chặt chẽ
của chính quyền. Với cái nhìn hướng biển, các vua triều Nguyễn như Gia Long,
Minh Mạng đã biết tận dụng, khai thác các thế mạnh của biển để phát triển nội lực
kinh tế, liên kết các khu vực với nhau bằng hệ thống đường thủy và giữa triều đình
với thế giới bên ngoài. Việc chú trọng tới nhân tố biển có ý nghĩa quan trọng trong
quá trình xây dựng và bảo vệ quốc gia thống nhất dưới triều Nguyễn.
60
Tiểu kết chương 1
Người đầu tiên đặt nền tảng cho tư duy hướng biển là chúa Nguyễn Hoàng,
sau nhiều lần di quân ra Bắc và trong các trận thủy chiến với quân Mạc đã làm cho
Nguyễn Hoàng nhận thấy được vai trò của biển đối với công cuộc phục quốc của
mình. Vùng đất Thuận - Quảng là dãy đất dài và hẹp về chiều ngang có các con
sông ngắn dốc cắt ngang tạo thành những vùng đồng bằng nhỏ hẹp. Địa hình đất cát
và sét nhiều không thuận lợi cho sự phát triển thương nghiệp nhưng bù lại nơi đây
lại chứa đựng những yếu tố vô cùng thuận lợi để phát triển thương nghiệp. Vùng đất
Quảng Nam của vùng Thuận - Quảng có nguồn tài nguyên lâm, thổ, sản phong phú
như gỗ, hương liệu, ngà voi, sừng tê, sáp ong, trầm hương, kì nam và các loại
khoáng sản như than đá, thiềc, chì kẽm. Đây là sản phẩm có giá trị kinh tế cao được
người phương Tây ưa chuộng. Ngoài ra toàn bộ phía đông giáp biển cung cấp các
nguồn lợi dồi dào về hải sản, yến sào và các dược liệu quý .Dựa vào những tiềm
năng sẵn có và tư duy hướng biển, chính quyền phong kiến Nguyễn bắt đầu chọn
cho mình một lối khi khác lấy thương nghiệp làm nền tảng quan trọng, xa dần với
nền kinh tế nông nghiệp cổ truyền.
Trong suốt hai thế kỉ XVI - XVII nền kinh tế thương nghiệp có vai trò quan
trọng trong việc phát triển kinh tế Đàng Trong. Thuyền buôn của các quốc gia
phương Tây lẫn phương Đông đều tìm đến trao đổi và mua bán mang lại cho vùng
đất này sự phát triển nhanh chóng về kinh tế và giao lưu văn hóa. Nhờ chiến lược
khôn ngoan, linh hoạt, chính quyền chúa Nguyễn đã kế thừa và tiếp nối truyền
thống hướng biển của cư dân Chăm pa trước kia, đưa đất nước ta trong bước vào kỉ
nguyên hưng thịnh của hải thương. Không chỉ có ý nghĩa chiến lược về kinh tế,
trong thời nhà Nguyễn biển còn có vai trò quan trọng về quân sự. Trong giai đoạn
chủ nghĩa phương Tây lớn mạnh và mở rộng các hoạt động tìm kiếm thị trường,
việc bảo vệ an ninh hàng hải được đề cao.
Vùng biển kéo dài từ Bắc đến Nam thuận lợi cho việc xây dựng hệ thống
phòng thủ liên hoàn và mạng lưới thông tin liên vùng thuận lợi cho hoạt động quản
lí và bảo vệ vùng biển. Các cư dân ven biển vừa hoạt động khai thác kinh tế vừa là
tai mắt của chính quyền, nhà Nguyễn đã biết dựa vào những điều kiện thuận lợi để
61
vừa có thế khai thác được kinh tế vừa có thể tiến hành bảo vệ an ninh vùng biển.
Hoạt động khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển có tác dụng quan trọng tạo
thêm nhân tố cho sự phát triển kinh tế đất nước đồng thời cũng là chỗ dựa quan
trọng cho việc bảo vệ an ninh và khẳng định chủ quyền biển của chính quyền nước
ta từ quá khứ cho đến hiện tại.
62
Chương 2. CHÍNH SÁCH KHAI THÁC BIỂN ĐẢO
CỦA CHÚA NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN
(THẾ KỈ XVI – NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX)
2.1. Chính sách khai thác kinh tế biển đảo của chúa Nguyễn và vua Nguyễn
(thế kỉ XVI - nửa đầu thế kỉ XIX)
* Khai thác thủy sản:
2.1.1. Chính sách khai thác kinh tế biển của chúa Nguyễn
Qúa trình khai thác và thực thi chủ quyền vùng biển được diễn ra cùng lúc với
quá trình Nam tiến của chúa Nguyễn. Không chỉ cho dân cư đến khai khẩn vùng đất
liền mà để mở rộng lãnh thổ các chúa Nguyễn khuyến khích dân đến khai thác các
vùng đất ở hải đảo, vùng ven biển. Việc làm này đã thu hút số lượng lưu dân từ các
vùng khác đến và chỉ trong vòng một thế kỉ số lượng dân khai khẩn ngày một đông
họ lập làng, ấp, vỡ đất, khai thác các sản vật. Ngoài ra những cư dân ở các hải đảo
còn là những đội hải quân của triều đình có nhiệm vụ canh giác tuần tra bảo vệ
vùng biển nơi họ sinh sống, đồng thời góp phần giữ gìn an ninh vùng biển của đất
nước.
Các cư dân đầu tiên đến Đàng Trong chủ yếu là những người nghèo, binh lính,
thầy đồ, tội nhân để trốn đi lính tránh sưu cao thuế nặng. Họ dùng thuyền men theo
bờ biển Thuận Hóa để tiến vào. Cùng với quá trình khai khẩn các vùng đất hoang,
các lưu dân Việt cũng chọn những vùng hải đảo như Quảng Ngãi, Côn Lôn, Phú
Quốc, Hoàng Sa để khai thác hải sản, và vỡ đất trồng trọt. Các vùng hải đảo và ven
biển có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc khai thác với diện tích hoang còn lớn và
Phía ngoài các cửa biển xứ Thuận Hóa - Quảng Nam đều có núi đá nổi lên
trong biển để làm trấn, rộng hẹp không giống nhau. Ở châu Nam Bố chính có
núi gọi là Cù Lao Cỏ đi 4 canh thì đến nơi. Ngoài biển phủ Điện Bàn ở cửa
biển Đà Nẵng có núi gọi là hòn Trà, Hòn Lỗ ra biển đi nửa canh thì đến.
nguồn thủy sản dồi dào:
Ở phủ Thăng Hoa ngoài cửa biển Đại Chiêm có núi gọi là Cù Lao Chàm, ba
ngọn núi đối nhau hai ngọn lớn mà xanh tốt, có dân cư ruộng nương có các thứ
cam quýt, đỗ lạc, trên có suối nước ngọt đi hai canh thì tới (Lê Qúy Đôn, 1977,
tr.150).
63
Các nguồn lợi thủy sản dồi dào không chỉ nuôi sống lưu dân trong giai đoạn
đầu của công cuộc Nam tiến, mà còn mang lại cho chính quyền nguồn lợi to lớn cho
chính quyền từ việc đánh thuế. Sự dồi dào của sản lượng cá biển, đã giúp cho người
dân còn có thể chế biến ra các loại sản phẩm khác phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng.
Ngoài việc sử dụng cá làm bữa ăn hằng ngày thì người dân nơi đây còn sử dụng
cách phơi khô dưới nắng để tạo nên các sản phẩm khô dễ chế biến bảo quản và dễ
vận chuyển. Các sản phẩm như cá khô, tôm khô, mực khô, mắm cá các loại đều là
Từ Nghệ An đi về phía Nam, vượt núi Hoành Sơn qua các xã Thuần Thần, Phù
Lưu châu Bố Chính đi về phía đông đến các xã Lũ Đăng thì tới sông Gianh.
Thượng lưu sông này là nước từ đèo dài ở huyện Hương Sơn chảy xuống.
Nhân dân đội Phúc Nhất, sách Thăng Lãng và xã Kim Lũ huyện Hương Sơn
thường đi thuyền xuống mua mắm muối ở chợ ấy, những khúc sông khuất như
thế (Lê Qúy Đôn, 1997, tr.130).
mặt hàng trao đổi và buôn bán ở khắp các chợ miền xuôi và miền núi.
Ven biển Thuận Hóa có nghề đánh bắt cá và làm nước mắm, số lượng các biển
người dân thu hoạch được rất nhiều, không chỉ đủ làm lương thực mà còn có thể chế
biến thành các sản phẩm khác như làm khô, làm mắm thuận tiện cho việc dự trữ và
trao đổi từ vùng này đến vùng khác. Chính quyền chúa Nguyễn cũng quy định cụ
thể việc thu thuế các hộ dân làm nghề đánh các và làm nước mắm: “Lấy người có
lưới hay không có lưới làm chuẩn. Hạng tráng người có lưới nộp thuế mắm 4 chĩnh,
người không có lưới nộp 3 chĩnh, hạng quân có lưới nộp 3 chĩnh, hạng dân, hạng
64
lão, có lưới nộp 2 chĩnh, không có lưới đều miễn thuế, con cháu quan viên mỗi
người 1 chĩnh, hạng cùng có lưới nộp 1 chĩnh, không có lưới miễn thuế” (Lê Qúy
Đôn, 1977, tr. 288). Ngoài việc làm mắm thì các ngư dân cũng biết chế biến dầu từ
gan cá, làm mắm ướp. Đây là những sản phẩm làm phong phú bữa ăn của người
dân, mỗi năm người đem các sản phẩm này nộp để giảm thuế và sưu dịch:
“Xứ Quảng Nam, phủ Bình Thuận, phường Đông An, 75 người nộp dầu cá 75 vò
cho sưu lính, 30 người nộp nước mắm 30 lường, 20 người hằng năm mỗi người nộp
2 vò mắm mòi, 1 thủng mắm ướp đều miễn trừ tiết liệu, sưu dịch” (Lê Qúy Đôn,
1977, tr. 289).
Bên cạnh nghề đánh bắt cá biển, nghề làm muối cũng được đẩy mạnh. Muối
được sản xuất nhiều ở các vùng ven biển, là nguồn gia vị không thế thiếu trong bữa
ăn hằng ngày của cư dân Việt. Muối cũng là mặt hàng để trao đổi ở khắp các vùng,
nhất là miền xuôi với miền rừng núi. Những người làm muối gọi là diêm dân, họ
cũng phải nộp thuế cho chính quyền phong kiến. Hằng năm Chúa Nguyễn cũng cho
đánh thuế mặt hàng này để quản lí dân cư ở đây và duy trì các hoạt động của chính
quyền. Các thương nhân nước ngoài cũng thu mua sản phẩm muối của Đàng Trong
để bán và trao đổi với bên ngoài. Thời chúa Nguyễn việc thu thuế muối được quy
định như sau: “Tân Dậu năm thứ ba [1741], sai kiểm tra những tiền thóc thuế và
thuế muối (Thuận Hóa có thuế ruộng muối, mỗi năm thu được hơn 2.500 sọt;
Quảng Nam có thuế người làm muối, mỗi năm dân đinh phải nộp 6 sọt hay 4 sọt, 3
sọt trong 3 năm” (Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr.149). Phủ biên tạp lục của Lê
Qúy đôn cũng ghi chép về việc đánh thuế muối:
“Hạng quân, hạng nhất mỗi người nộp 6 sọt, hạng nhìn mỗi người nộp 4 sọt, hạng
3 mỗi người nộp 3 sọt, hạng lão và cháu viên mỗi người nộp 3 sọt. Các viên mục,
tướng thần, xã trưởng, lão nhiêu đều miễn” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr.287).
65
*Khai thác yến sào:
Ngoài việc khai thác thủy sản, lưu dân Việt cũng biết đến nghề khai thác yến
sào. Đây là sản phẩm có giá trị kinh tế cao và là mặt hàng xuất khẩu được nhiều
nước ưa chuộng. Tổ yến chủ yếu được khai thác ở các đảo gần cửa biển như đảo
Tam Quan, Nước Mặn, Nước Ngọt. Nhân dân ở vùng ven biển đã biết tìm đến
những vùng khe đá cao hiểm trở nơi chim yến làm tổ để khai thác. Yến sào là mặt
hàng có giá trị cao, vì thế các chính quyền phong kiến đã chủ trương thu thuế và
bảo vệ nguồn lợi từ các sản phẩm này. Chính quyền nhà Nguyễn cũng quy định
những nơi có người làm nghề khai thác yến thì phải đóng lệ hằng năm theo quy
định cụ thể:
“Phủ Thăng Hoa, huyện Hà Đông, xã Thanh Châu, có nghề lấy yến sào, dân ấy tản
cư ở các vùng Thăng Hoa, Điện Bàn, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Khang, Diên
Khánh và Bình Định hằng năm cứ đến tháng 2 phải nộp 120 tổ yến non” (Lê Qúy
Đôn, 1977, tr. 289). Chính quyền chúa Nguyễn cũng quy định cụ thể về số lượng
yến thu hoạch. Theo đó: “Mỗi người nộp 2 cân yến sào hoặc bằng tiền 2 quan,
hạng dân nộp mỗi người 1 cân 8 lạng, hạng lão và hạng định nộp mỗi người 1 cân,
cả xã nộp lễ thường tân, đinh tán 1.500 tổ ” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 290).
“Sai Bình Hòa mộ dân lập hộ yến sào (mỗi hộ mười người trở lên mỗi năm nộp
thuế mỗi người 8 lạng yến sào). Nhân chuẩn lệ nộp thuế yến cho các địa phương,
chia từng phần mà nộp” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 290).
Ngoài ra ở các vùng biển đảo xa bờ, thì chúa Nguyễn cho mộ dân ở những nơi
này đi khai thác yến, cho những người đứng đầu địa phương thực hiện việc giám sát
và đánh thuế “Vua bèn sai các dinh trấn hải phận nơi nào có yến sào thì làm sổ tâu
lên, cấm dân lấy trộm, ai lãnh thầu thì đánh thuế” (Lê Qúy Đôn, 1977). Bên cạnh
khai thác yến chính quyền cũng tiến hành cho thu hoạch cây kỳ nam. Yến sào và kỳ
nam là hai đặc sản nổi tiếng của vùng Quảng Nam, thu hút các thương nhân từ khắp
nơi tìm đến. Kỳ nam xuất hiện nhiều ở Quảng Nam, có ba loại: khổ trầm, trầm
hương và kỳ nam hương. Trong tác phẩm Phủ Biên tạp lục của Lê Qúy Đôn mô tả
rất rõ sản vật này:“ Họ Nguyễn trước đặt đội am sơn, hằng năm cứ tháng 2 thì đi
kiếm, tháng 6 thì trở về, số được nhiều ít không nhất định, lấy sắc sáp trắng là tốt
66
nhất, sắc xanh đầu vịt là thứ hai, sắc xám xanh là kém nữa, sắc như hổ vành thì kém
nhất, mềm như phấn đông là tốt nhất, bền rắn là hạng xấu” ( Lê Qúy Đôn,1977, tr.
425).
Việc khai thác sản vật này phải được tiến hành theo lệnh của vua và người dân
không được tự ý khai thác, nếu như số lượng khai thác nhiều hơn số lượng quy định
thì nhà nước trưng thu hay miễn một số thứ thuế. Bên cạnh việc khai thác tổ yến thì
nhân dân các biển đảo có trồng được nhiều loại cây như cây bàng, nhàu, mù u, dầu
hương và nhiều loại dược liệu quý.
* Khai thác các sản vật khác
Vùng biển từ Thuận Hóa có rất nhiều các sản vật có thể kể đến nhiều nhất là
cá. Cá ở vùng này rất nhiều chủng loại và có sản lượng rất lớn, chiếm tỉ trọng lớn
trong các sản phẩm thu hoạch. Theo nhận định của tác giả Cristophoro Borri
Trong: “Là người đi khắp các biển và đi quan các nước hình như tôi không tìm thấy
ở đâu nghề cá và cá có thể sánh được so với Đàng Trong… Người Đàng Trong
thích ăn cá hơn ăn thịt vì thế họ mải mê đánh cá” (Cristophoro Borri, 1998, tr. 28).
Ngoài ra còn có các loại khác như hải sâm, đồi mồi, ốc hương, các loại sò mang lại
giá trị kinh tế cao. Trong tác phẩm Phủ Biên tạp lục của Lê Qúy Đôn ghi nhận rõ về
các sản phẩm này ở Quảng Nam: “Xứ Thuận Hóa, sông Hương Giang cá sông
nhiều, có giống cá tên là cá thê, mình nhỏ đầu hẹp tục làm mắm, các biển có tên là
cá mại (mài mại) rất nhỏ, giống như các cơm. Cửa Eo có thứ tôm biển lớn hơn ở
miền Đông Nam gọi là tôm hùm” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 436). Ngoài ra tại các
vùng Phú Vang, Hà Trung người dân còn khai thác nhiều loại hải sản khác như:
cua, sò và sam: “Huyện Phú Vang, phường Phúc Yên có đầm gọi là đầm Sam, có
nhiều con sam và con sò; thuế cá ở Hà Trung mỗi năm thu hơn nghìn quan, có thứ
cá buôi, tức thảo ngư, rất béo ngon. Lại có nhiều cua béo, tục gọi là cua gạch trước
có lệ tiến” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 437). Ngoài ra trên các đảo xa bờ như là An Vĩnh
Bên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy người
thì đậu vòng quanh không tránh. Ốc vân thì có ốc tai voi to bằng chiếc chiếu,
thuộc phủ Quảng và các vùng biển đông Bắc cũng có nhiều loại hải sản:
bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục không như ngọc trai, cái vỏ có thể
đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà, có ốc xà cừ để khảm đồ
dùng. Các thứ ốc đều có thể muối và ăn được, lại có đồi mồi rất lớn. Có con hải
ba tục gọi là con trắng bông, giống đồi mồi mà nhỏ vỏ mỏng có thể khảm đồ
dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái muối ăn được, có hải sâm tục gọi là con đột
đột, bơi lộn ở bên bãi, lấy về dùng vôi xát qua bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì
ngâm nước, cua đồng gạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt (Lê Qúy
67
Đôn, 1977, tr. 154).
Việc khai thác các sản vật mang lại cho chính quyền nguồn lợi đáng kể từ việc đánh
thuế bên cạnh đó tạo nguồn sống lâu dài cho ngư dân và là nguồn thương phẩm dồi
dào cho hoạt động giao thương trao đổi với bên ngoài. Hầu hết các hoạt động khai
thác đều được tiến hành bởi ngư dân dưới sự quản lí của nhà nước, giúp cho chính
quyền không chỉ thu lại nguồn lợi về kinh tế mà còn đảm bảo được vấn đề an ninh
quốc phòng vùng biển và hải đảo.
*Ngoại thương:
Thời chúa Nguyễn các thuyền buôn nước ngoài đến trao đổi và buôn bán với
nước ta ngày càng nhiều nhờ chính sách ngoại giao cởi mở và nguồn tài nguyên dồi
dào của vùng đất Đàng Trong. Vì thế trong suốt hai thế kỉ XVII - XVIII, nước ta
bước vào thời kì hoàng kim của nền kinh tế hải thương với sự xuất hiện của rất
nhiều các thương thuyền từ các quốc gia ở châu Á, Đông Nam Á và ở các châu Âu.
Trong đó phải kể đến sự xuất hiện của các cường quốc kinh tế thế giới lúc bấy giờ
như Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Hoa, Xiêm ra vào tấp nập ở các cửa
biển như Hội An, Thanh Hà, Đà Nẵng, Cần Giờ, Phú Quốc. Có thể nói lúc bấy giờ
Đàng Trong trở thành điểm đến của các cường quốc thương mại trên thế giới. Trong
đó Nhật Bản và Trung Hoa là hai bạn hàng quan trọng với Đàng Trong.
Với số lượng người Nhật và người Hoa đến Hội An ngày càng đông, để tiện
việc buôn bán và bảo đảm an ninh chúa Nguyễn đã cho phép họ xây dựng các khu
phố tự trị theo phong tục và tập quán riêng của từng nước.
Chúa Nguyễn cho phép người Trung Quốc và Nhật Bản làm nhà cửa theo tỷ lệ
người của họ để dựng nên một đô thị. Đô thị này gọi là Faifo và nó khá lớn.
Chúng tôi có thể nói có hai thành phố, một của người Trung Quốc và một của
người Nhật. Họ sống riêng biệt, đặt quan cai trị riêng và theo phong tục, tập
quán của mỗi nước (Cristophoro Borri, 1998 ).
68
Hội An có hai con phố: là Phố Nhật của người Nhật và phố Khách của người
Hoa. Cùng với người Nhật và Trung Hoa thì có những thuyền buôn của các nước
Đông Nam Á như Xiêm, Chân Lạp đến giao thương mua bán ở Đàng Trong. Họ
trao đổi các sản phẩm: lanh da, đường phổi, da cá mập, trầm hương để đổi lấy gạo,
tơ, kì nam, họ đến buôn bán chủ yếu ở vùng Quảng Nam, Hội An. Ngoài ra chúa
Nguyễn cũng thiết lập quan hệ với người Tây phương, mở cửa cho các tàu thuyền
nước ngoài đến buôn bán, giúp cho chính quyền chúa Nguyễn thu được nguồn lợi to
lớn bằng việc đánh thuế các chuyến hàng hóa và thuế vận chuyển.Việc đánh thuế
buôn thuyền nước ngoài thời chúa Nguyễn và cả nhà Nguyễn sau này đều chủ yếu
dựa vào hai loại thuế là thuế đến và thuế đi. Thuế này được đánh dựa vào xuất xứ và
nguồn gốc của tàu, tùy theo từng nước mà thuế đánh nhiều hay ít. Dựa vào những
thông tin tác giả thu thập được từ những ghi nhận về việc đánh thuế của chúa
Nguyễn trong tác phẩm Đại Nam thực lục và Phủ Biên tạp lục tác giả có thể xây
dựng thành bảng số liệu như sau:
Bảng 2.1.Thuế đến và đi của các nước
Tàu từ Thuế đến (quan) Thuế đi (quan)
Thượng Hải 3.000 300
Quảng Đông 3.000 300
Phúc Kiến 2.000 200
Đảo Hải Nam 500 50
Tây Dương 8000 80
Macao (Bồ Đào Nha) 4.000 400
Nhật Bản 4.000 400
69
Thuế đến (quan) Thuế đi (quan) Tàu từ
Xiêm 2.000 200
Lữ Tống (Philippin) 2.000 200
Cựu Cảng (Sài Gòn) 500 50
Hà Tiên 300 30
Nguồn : Đỗ Bang, Phố cảng vùng Thuận Quảng (Hội An - Thanh Hà - Nước Mặn) thế kỉ XVII –
XVIII, NXB. Thuận Hóa. Huế, 1996, tr. 82 - 83.
Sơn Đô 300 30
Số lượng thuyền buôn các nước đến Đàng Trong vào thời gian này khá nhiều
chứng tỏ khu vực Đàng Trong có ảnh hưởng to lớn trong hoạt động thương mại trên
biển. Chính sách đánh thuế của chúa Nguyễn đối với các loại thuyền buôn mỗi nước
không giống nhau. Thuế đến cao gấp 10 lần so với thuế đi và những vùng gần Đàng
Trong thì thuế càng nhẹ như Hà Tiên, Sơn Đô (là vùng gần biên giới Xiêm -
Khơme) thì chỉ 300 quan. Tiếp theo là đến các nước Trung Quốc và Đông Nam Á
từ 500 - 2.000 quan, sau đó là Nhật Bản và Macao còn các nước phương Tây (Tây
Dương) thì tiền thuế đóng nhiều gấp đôi các nước khác. Sở dĩ có sự chênh lệch này
là do chính quyền chúa Nguyễn có sự cảnh giác đối với người Phương Tây. Mặc dù
họ có rất nhiều loại vũ khí hiện đại, mà chính quyền chúa Nguyễn cần cho cuộc
chiến tranh với họ Trịnh như đại bác, súng trường, hỏa pháo nhưng về sau do có sự
đụng độ giữa chúa Nguyễn và phương Tây như Hà Lan năm 1614, năm 1643 dưới
thời cai trị của chúa Nguyễn Phúc Lan và người Anh với họ Nguyễn (1702), cũng
như những hoạt động thăm dò của Pháp. Tất cả những điều này, làm cho chính
quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn sau này đều hạn chế giao thương và đánh thuế
cao các thuyền buôn của người Phương Tây, đồng thời không cho họ xây dựng
thương điếm tại vùng Đàng Trong.
Trong giai đoạn này Nhật Bản và Trung Hoa là hai nước có tầm quan trọng
đặc biệt đối với kinh tế Đàng Trong. Trong đó các thương nhân Trung Hoa đóng vai
trò là cầu nối trung gian giữa thương mại Nhật Bản - Đàng Trong và Đàng Trong
với các nước trong khu vực. Hàng Trung Hoa được ưa chuộng nhiều hơn so với
hàng hóa của phương Tây phần vì giá cả hàng hóa phương Tây quá mắc lại không
70
phù hợp với thu nhập của đại đa số là dân nghèo, trong khi đó các sản phẩm của
Trung Hoa vừa rẻ vừa bền vì thế được tiêu thụ rất nhanh.
Từ thế kỉ XVII - XVIII vai trò thương mại của người Hoa ở Đàng Trong ngày
càng được khẳng định khi cục diện chiến tranh Trịnh - Nguyễn chấm dứt. Hai bên
lấy sông Gianh làm tranh giới chia đôi đất nước vì thế mà nhu cầu về vũ khí không
còn nữa. Việc buôn bán với người phương Tây cũng vì thế mà bị hạn chế. Và cùng
với đó chính sách tỏa cảng của chính quyền Mạc phủ Tôkugawa Imitsu năm 1639
bắt đầu được thực hiện với tất cả các nước trừ Hà Lan nhằm mục đích bảo vệ nền an
ninh của Nhật Bản. Điều này đã làm cho Trung Hoa trở thành thương nhân duy nhất
trong hoạt động thương mại với Đàng Trong. Đối với Đàng Trong thì vai trò của
người Trung Hoa được thể hiện một cách rõ rệt nhất ở Hội An. Trước thế kỷ XVIII,
người Nhật là cư dân chủ yếu ở khu phố này và là chủ nhân của phần lớn các hoạt
động thông thương ở bến cảng Hội An, Phố Nhật. Khi các hoạt động thương mại ở
Hội An bắt đầu suy thoái người Hoa đã dần thay thế vai trò của người Nhật trong
buôn bán. Chính quyền chúa Nguyễn đã tận dụng khả năng giỏi buôn bán và mạng
lưới thu mua hàng hóa rộng lớn của người Hoa, làm trung gian trao đổi hàng hóa và
thư từ giữa Đàng Trong với Nhật Bản và các nước phương Tây. Cụ thể là các cơ
quan Tào ty thường cử người Trung Hoa kiểm tra đo lường và thu mua hàng hóa
các với số lượng lớn từ nước ngoài. Số ít sử dụng người Hoa làm người thông dịch
trong các buổi giao dịch thương mại.
Ngoài các nước phương Đông trong giai đoạn này các chúa Nguyễn cũng chú
trọng đặt quan hệ ngoại giao với phương Tây tiêu biểu là Bồ Đào Nha. Thực chất
người Bồ Đào Nha đã có mặt rất sớm tại vùng đất này. Cuộc tiếp xúc đầu tiên diễn
ra vào năm 1523, chủ yếu trong giai đoạn này là các giáo sĩ Thiên Chúa giáo đến
đây thực hiện việc truyền đạo.Về sau các thương nhân Bồ Đào Nha với mong muốn
tìm kiếm thị trường mới, các nguồn nguyên liệu và hương liệu mới nên họ đến vùng
đất này nhiều hơn. Họ đã nhanh chóng xây dựng một mạng lưới giao thương rộng
khắp vùng châu Á với sự có mặt của các công ty Đông Ấn của Bồ Đào Nha ở Trung
Quốc, Xiêm, Phi Lập Tân. Quan hệ thương mại giữa Bồ Đào Nha và Đàng Trong
71
diễn ra mạnh mẽ vào năm 1540 khi các chuyến thuyền của nước này đến vùng cửa
biển Hội An ngày càng nhiều.
“Giống với người Nhật và người Hoa thì người Bồ Đào Nha cũng tìm đến vùng Hội
An vì nơi đây có đủ loại hàng hóa từ khắp nơi đổ về. Vì thế ở nơi đây tơ vàng rất tốt
và rẻ, một số trầm hương, kì nam mặc dù rất hiếm, một số benzoic… tất cả đều là
sản phẩm của địa phương và một lớn đồng người Nhật đem đến đây” (Li Tana,
1999, tr. 121).
Người Bồ Đào Nha chủ yếu mua các thứ hàng như tơ lụa, đường, kì anh, trầm
hương đổi lại, họ đem đến vùng Đàng Trong súng ống, diêm tiêu, kẽ, đồng. Trong
đó mặt hàng súng đạn rất được chúa Nguyễn ưa chuộng, vì đây là vũ khí cần thiết
cho cuộc chiến chống quân Trịnh. Theo nhận định của tác giả Li Tana cho rằng,
quan hệ buôn bán giữa Đàng Trong và Bồ Đào Nha chỉ được thiết lập khi mà Nhật
Bản ban hành chính sách tỏa quốc và cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn bùng nổ. Khi
đó nhu cầu giao lưu buôn bán và tìm kiếm thị trường mới trở nên cần thiết với
người Bồ Đào Nha, vì thế họ bắt đầu chọn Đàng Trong làm nơi trao đổi hàng hóa
thay cho Nhật Bản. Từ thế kỉ XVI - XVII đã có 4 - 5 chiến thuyền của người Bồ
Đào Nha đến vùng Đàng Trong và họ tập trung ở Hội An rất đông đúc. Hội An lúc
bấy giờ là một trung tâm thu mua và phân phối hàng hóa. Các sản phẩm ở đây phần
lớn là có nguồn gốc địa phương và ở một số nước Đông Nam Á. Trong đó người Bồ
Đào Nha đặc biệt ưa chuộng cây kỳ nam đây là một thứ nguyên liệu tạo ra dầu có
mùi thơm và rất quý, giá của chúng ngang ngửa với bạc: “kỳ nam hương màu đen,
có dầu và giá 50cruzados một roncatty (tiền của Bồ Đào Nha), trong khi tại chính
nơi sản xuất giá của nó tương đương với bạc, bao nhiêu kì nam hương là bấy nhiêu
bạc” (Li Tana, 1999, tr.135). Có rất nhiều mặt hàng thông dụng được bán ở Đàng
Trong: như: tơ, vải bông, các vị thuốc, giấy, vàng bạc, kính, quạt giấy, bút, mực,
kim, đồ bạc, đồ ăn khô, đồ ngọt. Trong thế kỷ XVII các mặt hàng sa xỉ xuất hiện
nhiều ở các chợ Đàng Trong. Tuy nhiên đến thế kỉ XVIII thì các sản phẩm tiêu
dùng hằng ngày của người dân chiếm số lượng lớn.
Bên cạnh thực hiện chính sách ngoại giao cởi mở thì các chúa Nguyễn cũng
tăng cường việc kiểm soát chặt chẽ vấn đề an ninh quốc phòng thông qua việc đề ra
72
các quy định cụ thể đối với các tàu buôn khi đến vùng đất Đàng Trong.“Theo đó
các thuyền buôn đến các cảng nào của Đàng Trong đều phải xuất trình giấy phép
cho Tào ty hay cai bạ đây là những viên quan chuyên phụ trách việc thu thuế tàu”
(Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 358). Để bảo đảm an ninh chính quyền chúa
Nguyễn quy định các tàu buôn ra vào cảng Đàng Trong phải có giấy thông hành.
Nếu tàu nào chở hàng hóa từ bên ngoài vào phải có giấy phép và giao cho Tào Ty
kiểm tra số lượng hàng hóa. Người ta sẽ báo cho quan cai Tàu, truyền lệnh cho tuần
ty hộ tống thuyền ấy đến cửa biển. Sau đó viên Lệnh sử cùng các nha đến xem xét
giấy tờ của thuyền trưởng. Viên phó tàu phải kê khai rõ số hóa vật, nếu gian dối mà
bị phát hiện sẽ tịch thu toàn bộ số tài sản và chiếu theo luật lệ trị tội. Chính quyền
cũng quy định thuyền không chở hàng hóa thì không được vào cảng. Thuyền nào
chở khách phải khai số lượng Tào ty sẽ đối chiếu với số lượng lúc đến và lúc đi để
cấp phép, nếu trong hành lý có bất cứ vật gì cũng đều phải kê khai. Quan lại muốn
mua một số hàng hóa trên tàu thì chiếu theo số lượng mà trừ vào thuế nhập cảng.
Đối với thuyền buôn của nước khác nếu chẳng may bị sóng đánh dạt vào thì
chỉ cho đậu ở những cửa biển quy định như Cù Lao Chiêm hay cửa Hàn, cho tuần
nha giữ cửa biển và đồn thủ xem qua, chỉ ở hai ba hôm rồi sau khi sửa chữa tàu
xong thì lập tức cho người trấn áp ra biển. Nếu họ còn muốn vào hải phận để buôn
bán thì cai bạ cùng với quân của Tào ty đến xét hàng hóa của họ còn nhiều hay ít.
Nếu trên thuyền còn nhiều hàng hóa thì họ đều được miễn thuế 1/3. Nếu ít thì giảm
một nửa nếu không còn hàng hóa thì được miễn các thứ thuế. Bên cạnh đó nếu như
thuyền buôn các nước có dâng các lễ vật thì sẽ được miễn thuế đến. Tác giả Li Tana
trong tác phẩm Xứ Đàng Trong đã ghi nhận về vấn đề này khi một thương nhân
Ông khẳng định rằng nhà vua rất muốn có súng lớn bằng đồng thau và nếu như
chúng ta có thể đem một khẩu demi couluren hoặc một khẩu sacker (2 khẩu
này đều là hỏa pháo) chúng ta sẽ không phải trả thuế nữa. Những cách giải
thích này cho hiểu rằng người ngoại quốc đến buôn bán ở Đàng Trong phải trả
người Anh tên là William Adam đã đến Đàng Trong vào năm 1610:
một số thuế nhỏ nào đó trong khi một số người khách viếng thăm có mang theo
một số quà đặc biệt thì được miễn (Li Tana, 1999, tr.144).
73
Tuy nhiên không phải trong trường hợp nào các chúa Nguyễn cũng tỏ ra dễ
dàng, mặc dù có mối quan hệ thân tình với các nước láng giềng như Xiêm, Chân
Lạp nhưng các chúa Nguyễn vẫn luôn duy trì những quy định rõ ràng cụ thể trong
việc kiểm soát chặt chẽ an ninh chủ quyền vùng biển. Điều này được thể hiện trong
Lệ nước tôi cứ ba năm làm một lần xét công, năm năm làm một lần cắt bổ, đã
có phép thường có dung những bọn tham ô đâu! Việc này chẳng qua là nước
Xiêm muốn miễn đánh thuế. Lại năm Quý Dậu thuyền của Chương thành
Dương nói từ Quảng Châu đến cả thuyền hàng hóa không có chút gì, không
cho vào cảng đó là lệ thường của bản quốc vậy…Đến như việc nước Xiêm xin
cho mười thẻ long bài, có cho cũng chẳng hại gì đâu nhưng chỉ sợ chủ thuyền
lại dẫm lên vết xe của Chương Thành Dương lấy tư mà hại công, lấy lợi mà hại
nghĩa.. Vậy hãy giữ một tấm dùng để đi lại (Lê Qúy Đôn, 1977, tr.338).
bức thư của vua Xiêm và chúa Nguyễn:
Các chúa Nguyễn lúc bấy giờ có những quy định khá chặt chẽ trong việc kiểm
soát tàu thuyền ra vào các cửa biển, đồng thời thể hiện ý thức bảo vệ chủ quyền ở
vùng biển một cách nghiêm ngặt trong việc đối phó với âm mưu của các nước láng
giềng. Để tăng cường việc kiểm soát tàu bè qua lại, tại các cảng như Hội An chúa
Nguyễn cho lập các trạm tuần ty kiểm tra và canh giác, đồng thời cho đặt các chức
quan chuyên trách gọi là Tàu ty gồm 173 người dưới quyền điều kiển của viên Cai
tàu. Ngoài cai tàu còn có một Tri tàu, hai Cai bạ, 2 Cai phủ, 2 Kí lục, 2 Thủ tàu, 6
cai phòng, 30 lệnh sử, 50 nhuệ binh, 70 lính tàu, 7 Thông sự. Các cơ quan này sẽ có
nhiệm vụ giám sát, kiểm tra cân lường và đóng mọc để các tàu đi qua.
Công cuộc khai thác và xác lập chủ quyền vùng biển được các chúa Nguyễn
tiến hành thông qua việc thành lập các đội thủy quân Hoàng Sa, Bắc Hải. Họ có
nhiệm vụ khai thác các sản vật ở các vùng quần đảo xa bờ như Hoàng Sa, Trường
74
Sa. Những hoạt động thực tiễn trên đã góp phần khẳng định chặt chẽ quyền chiếm
hữu và quản lý vùng biển của các chúa Nguyễn đối với vùng biển đông của nước ta
trong suốt 2 thế kỉ XVI - XVII. Khai thác hải sản và thu gom các sản vật của các tàu
Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù
Lao Ré…, phía ngoài nữa có đảo Đại Hoàng Sa, trước kia có nhiều hải vật và
hóa vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để đi lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới tới, là chỗ
gần xứ Bắc Hải. Phủ Quy Nhơn thì các cửa biển Tân Quan, Thời Phú, Nước
Ngọt, Nước Mặn đều có đảo nhiều yến sào, lập đội Thanh Châu để lấy. Ngoài
biển phủ Bình Thuận có núi gọi là Côn Lôn, rộng mấy dặm cũng nhiều yến
sào. Ở ngoài nữa có núi gọi là Cù Lao Khoai, trước có nhiều hải vật và hóa vật,
lập đội Hải Môn lấy (Lê Qúy Đôn, 1997, tr. 151).
đắm ở các đảo Hoàng Sa (tức Bãi Cát Vàng), Trường Sa (Đại Trường Sa):
Hầu hết các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đều có nguồn gốc là dân ở 2 đảo Lý Sơn,
An Vĩnh và Bắc Hải. Các cư dân này vừa có kinh nghiệm trong việc đi biển và khá
thạo trong việc tìm kiếm các sản vật và có nhiệm vụ giám sát biển đảo. Chính quyền
chúa Nguyễn cũng quy định cụ thể ngày giờ ra biển.Theo quy định là cứ tháng hai
hay tháng ba hằng năm thực hiện nhiệm vụ, nhà nước hỗ trợ họ về lương thực, sau
khi lên đênh trên biển suốt ba ngày. Họ đến đảo kiếm các hải vật và vô số các hải
vật từ các tàu đắm: “Hồi quốc sơ đặt Hoàng Sa, ngày nay cứ tháng ba cưỡi thuyền
ra đảo, 3 ngày 3 đêm là tới, đến tháng tám lại về vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân
để nộp, cân và định hạng xong mới cho bán riêng các thứ ốc vân, hải sâm, rồi lĩnh
bằng về” (Lê Qúy Đôn, 1997, tr. 155).
Mặc dù vùng biển Hoàng Sa thời tiết xấu gió bão nhưng do nguồn lợi về thủy
sản nên chính quyền chúa Nguyễn vẫn cử họ đi khai thác. Đội Hoàng Sa được thành
lập dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc cho rằng
chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã thành lập đội Hoàng Sa có nhiệm vụ khai thác các
sản vật và giám sát các hoạt động trên đảo xa bờ.
75
Khai thác tổ yến cũng được chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn chú
trọng. Các đảo dọc ven biển nước ta từ Quảng Bình cho đến Kiên Giang có các rặng
đá khe núi đá với nhiệt độ ẩm cao thích hợp cho chim yến làm tổ. Tuy nhiên các
đảo từ Bình Thuận đến Khánh Hòa và các đảo Côn Lôn, Phú Quốc là có nhiều tổ
yến hơn cả. Thời triều Nguyễn khai thác tổ yến đều do nhà nước tiến hành qua việc
ban hành các đạo dụ: “Vua bèn sai các dinh trấn hải phận nơi nào có yến sào thì
làm sổ tâu lên, cấm dân lấy trộm, ai lãnh thầu thì đánh thuế” (Lê Qúy Đôn, 1977).
Chính sách mở cửa ải của các chính quyền chúa Nguyễn đã có tác động sâu
sắc làm kinh tế Đàng Trong phát triển nhanh chóng. Thuyền buôn nước ngoài đến
Đàng Trong ngày càng nhiều như: Nhật Bản, Trung Hoa, Xiêm, Chân Lạp, Hà Lan,
Anh, Pháp.Thương mại Đại Việt chưa bao giờ khởi sắc như trong giai này, mặc dù
cũng mở cửa giao thương nhưng so với chúa Trịnh thì chính quyền chúa Nguyễn lại
tỏ ra niềm nở và thân thiết hơn. Giao thương buôn bán với bên ngoài đã giúp cho
vùng đất Đàng Trong phát triển nhanh chóng về kinh tế, diện tích và dân số. Li
Tana đã không nói quá khi cho rằng nếu như các nước khác thương nghiệp chỉ là
vấn đề làm giàu thì đối với Đàng Trong thương nghiệp là yếu tố sống còn.
Số lượng thuyền buôn đến ngày càng nhiều giúp cho chính quyền thu mua
được những số vũ khí cần thiết cho cuộc chiến chống họ Trịnh và mang lại nguồn
lợi dồi dào từ việc thu thuế. Thuyền buôn của các nước đến cửa biển nào thì đều
phải trình giấy thông hành, quan tuần Ty sẽ dựa vào đó mà kiểm xét số người trên
thuyền. Nếu chở thêm người ngoại quốc hay đồ vật mà không khai báo thì sẽ trị tội
theo luật tùy theo mức độ nặng nhẹ từ 50 roi đến 100 trượng.
Các chúa Nguyễn đã áp dụng một chính sách ngoại thương thông thoáng và
chủ trương không đóng cửa trước một quốc gia nào, tự do và mở cửa cho tất cả
người ngoại quốc vào Hội An buôn bán. Dưới thời Nguyễn Phúc Nguyên, Hội An
càng ngày càng thịnh vượng, không chỉ là thương cảng quan trọng của Đàng Trong
mà của toàn khu vực Đông Nam Á. Hàng năm, từ tháng giêng đến tháng sáu, các
thương nhân Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Quốc từ Macao, Manila, Malacca hoặc
từ Nhật Bản, Trung Quốc đến đây buôn bán. Chúa Nguyễn cũng tạo điều kiện thuận
lợi cho thương nhân Bồ Đào Nha đến vùng Đàng Trong mua bán và cho họ thuê
76
đất, định cư ở đây. Nhận định này đi ngược với quan điểm cho rằng chúa Nguyễn từ
chối cho người phương Tây lập thương điếm và định cư ở Đàng Trong. Tác giả
Trần Nam Tiến với bài viết Quan hệ giữa chúa Nguyễn với người Bồ Đào Nha ở
Đàng Trong (từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII trên Tạp chí nghiên cứu Lịch sử số 7 -
2012 cho rằng: “Chúa Nguyễn không chỉ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương
nhân Bồ Đào Nha đến đây mua bán mà còn cho phép các thương nhân này xây
dựng những cơ sở làm ăn, lập phố, xây kho như các thương nhân Nhật Bản và
Trung Quốc. Chúa Nguyễn còn cấp đất cho người Bồ Đào Nha lập một thành phố
gần cảng Đà Nẵng” (Trần Nam Tiến, 2012, tr. 44).
Bồ Đào Nha được coi là thương nhân mang lại nhiều lợi ích cho chúa Nguyễn,
nền mậu dịch tăng lên nhanh chóng, nguồn lợi từ các mức thuế và các sản vật nhiều
vô kể, vũ khí hiện đại như súng, đại bác cho cuộc chiến chống quân Trịnh.
Như vậy có thể khẳng định việc khai thác và xác lập chủ quyền trên vùng biển
đặc biệt là ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của nước ta đã có từ lâu đời và
được tiến hành một cách liên tục và xuyên suốt từ thời các chúa Nguyễn như
Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Khoát và được tiếp tục
trong triều đại Tây Sơn. Mặc dù chỉ là việc bắt nguồn từ việc sử dụng và chiếm hữu
lâu đời một lãnh thổ vô chủ, nhưng thông qua những hoạt động khai thác và tìm
kiếm sản vật, của các triều đại phong kiến từ thời chúa Nguyễn cho đến triều Tây
Sơn đã có tác dụng là tiền đề vô cùng quan trọng do việc đánh dấu chủ quyền một
cách chính thức và liên tục suốt triều đại nhà Nguyễn, cả thời Pháp thuộc và cho
đến hiện nay.
2.1.2. Chính sách khai thác kinh tế biển của vua Nguyễn thế kỉ XIX
* Đánh thuế vận tải:
Thời nhà Nguyễn kinh tế ngoại thương bị hạn chế bởi chính sách bế quan tỏa
cảng của chính quyền phong kiến. Trong giai đoạn này chủ nghĩa phương Tây đang
phát triển mạnh và tiến hành nhiều cuộc chiến xâm lược các quốc gia phương Đông
để tìm kiếm thị trường. Đứng trước bối cảnh đó chính quyền nhà Nguyễn bắt đầu có
những động thái dè dặt hơn trong chính sách ngoại giao. Mặc dù vậy các vua
Nguyễn vẫn mở cửa giao thương với bên ngoài ở khu vực nhất định: “Nếu như có
77
người phương Tây đến mậu dịch thì chỉ cho họ mậu dịch ở những nơi quy định như
cảng biển Đà Nẵng và Sơn Trà xong thì bảo họ đi, không cho phép họ cư trú trên
bờ và cũng không cho phép nhân dân làm buôn với họ để tránh việc bé xé ra to”
(Đại Nam thực lục 1, 2002). Giống với thời chúa Nguyễn trước đây các vua Nguyễn
cũng đánh rất cao thuế nhập cảng. Phương thức đánh thuế là dựa vào xuất xứ của
các loại thuyền. Theo đó thuyền có xuất xứ từ các nước phương Tây luôn chịu thuế
cao hơn các nước phương Đông. Thời Gia Long định nghạch thuế cho các tàu buôn
nước ngoài theo đó ngoài việc đóng thuế ra vào cảng thì các thuyền buôn phương
Tâycòn phải dâng cống đồ vật cho vua, lệ phí ăn uống cho các thuyền viên “Thuyền
chủ là Đại Pháp là Cốt Tu My tới buôn ở cửa Đà Nẵng đem dâng đồ hóa vật của
Nguyễn thuyền nhập cảng 10 phần cho 5; pháp phẩm vật trong kho gởi cho ông
Chấn, ông Thắng và gởi sắc dụ hỏi thăm” (Đại Nam thực lục tập 1, 2002).
Thời Minh Mạng quy định lại mức thuế nhập cảng của thuyền buôn nước
ngoài. Đổi định lệ thuế cảng và lễ cho các thuyền buôn nước ngoài. Trước đến nay
tùy theo xứ sở thuyền buôn mà tính nhiều ít không đều, chưa được hoạch nhất bèn
chuẩn định rằng phàm tiền bạc đánh vào thuyền hộ gọi chung là thuế cảng và lễ, cứ
khi mãn kỳ thí các quan sở tại nộp kê tổng số tiền chia ra thuế cảng và lễ (lấy tổng
số tiền thu được chia làm 100 phần, 78 phần làm thuế cảng, 22 phần làm lễ, tiến lên
vua 5 phần, cung Từ Thọ 4 phần, điện Thanh Hòa 3 phần, quan cai tàu 10 phần.
Để kiểm soát các tàu buôn nước ngoài đến vùng Đàng Trong các vua Nguyễn
giữa chức Tàu ty thời chúa Nguyễn trước đây nhằm mục đích kiểm soát các tàu
buôn ra vào cảng, kiểm tra lộ trình và định ngạch thuế. Ngoài ra vua Gia Long còn
đặt thêm: “Nha Thương Bạc ở Đà Nẵng thay mặt nhà nước quan hệ chủ yếu với
thuyền buôn phương Tây” (Đại Nam thực lục 1, 2002). Thời Minh Mạng cũng quy
định các thuyền buôn ở Kinh đô, Quảng Bình, Quảng Trị đều được giảm từ 4 phần
10 tiền thuế, các tỉnh còn lại thì giảm 2 phần 10 thuế nhập cảng.. Thời Minh Mạng
quy định việc đánh thuế thuyền của Triều Châu: Thanh Hoa trấn thần Tôn Nhật
Dịch tâu về việc thuyền họ Triều Châu viên phục hưng tới buôn bán đã khám xét
đánh thuế thân lễ - lệ. Phụng chỉ tri đạo biểu (Đại Nam thực lục tập 2, 2006)
78
Cùng với việc đánh thuế chính sách quản lí thuyền buôn nước ngoài đặc biệt là
Thời Minh Mạng ấn định từ nay phàm thuyền ngoại quốc đến phận cửa biển
Đà Nẵng tỉnh Quảng Nam, không cứ là hiệu cờ nước nào và dáng thuyền thế
nào, người coi giữ cửa biển lập tức thân đến hỏi cho rõ, việc quan yếu thì tập
tâu lên, do trạm ngựa đệ đi, việc thường cũng nhờ tư bộ chuyển lên để biết
ngay tình trạng trái lệnh phải tội (Đại Nam thực lục tập 2, 2006, tr. 302 ).
các thuyền buôn khi neo đậu ở cửa biển Đà Nẵng được siết chặt hơn:
Như vậy bên cạnh việc mở cửa cho các thuyền buôn vào trao đổi buôn bán và
nhà nước theo lệ thu thuế thì ở những vùng trọng yếu thì chính quyền phong kiến
luôn đặt các cơ quan kiểm soát, các hải trấn, hải đài không chỉ có tác dụng thu thuế
mà còn có nhiệm vụ kiểm soát, giám sát tình hình an ninh của các thuyền buôn
nước ngoài.
Nhìn chung, chính sách đánh thuế thuyền buôn nước ngoài thời chúa Nguyễn
và vua Nguyễn có hai loại: thuế nhập cảng và thuế hàng hóa. Thuế đi và đến của
thuyền buôn nước ngoài đều lấy chiều ngang của thuyền làm căn cứ đánh thuế và
mức thuế khác nhau đối với từng cảng. Thời Gia Long quy định cùng một hạng
thuyền ngang từ 14 - 25 thước nếu vào cửa biển Đà Nẵng hay kinh thành Huế thì
phải nộp 96 quan tiền nhưng nếu vào cảng Sài Gòn hay các cảng khác thì phải nộp
đến 160 quan.Trong thời Nguyễn cho đóng thêm nhiều loại thuyền vận tải và cho
phép kích thước thuyền rộng hơn để có thể chuyên chở nhiều loại hàng hóa hơn
trước. Bên cạnh đó chính quyền Nguyễn cũng định lệ thuyền vận tải về:
+ Phép đo thuyền
* Bề dài: Lấy từ phần ván từ đầu đến cuối thuyền.
* Bề ngang: từ mạn thuyền bên trái đến mạng thuyền bên phải làm bề ngang,
* Bề sâu: Từ đỉnh thuyền đến mê thuyền
+ Lệnh bài: Các thuyền có bề ngang 5 thước trở lên đều được nhà nước cấp
lệnh bài. Theo đó để ra vào các cảng trên mỗi lệnh bài sẽ ghi rõ về trọng lượng, kích
thước của thuyền cùng với tên chủ sở hữu thuyền đó.
79
Các hạng thuyền công và tư có bề ngang từ 7 thước đến 7 thước 5 tấc chở
lương công là 450 phương (tức giạ); từ 7 thước 6 tấc đến 7 thước 9 tấc, chở
550 phương; 8 thước đến 8 thước 5 tấc, chở 650 phương; từ 8 thước 6 tấc đến 8
thước 9 tấc, chở 750 phương; 9 thước đến 9 thước 5 tấc, chở 850 phương; 9
thước 6 tấc đến 9 thước 9 tấc, chở 1.000 phương; từ 10 thước đến 10 thước 5
tấc chở 1.200 phương; 10 thước 6 tấc đến 10 thước 9 tấc, chở 1.400 phương;
11 thước đến 11 thước 5 tấc chở 1.600 phương; 11 thước 6 tấc đến 11 thước 9
tấc, chở 1.800 phương; 12 thước đến 12 thước 5 tấc chở 2.000 phương; 12
thước 6 tấc đến 12 thước 9 tấc, chở 2.200 phương; 13 thước đến 13 thước 5 tấc
chở 2.400 phương; 13 thước 6 tấc đến 13 thước 9 tấc, chở 2.600 phương; 14
thước đến 14 thước 5 tấc chở 2.800 phương; 14 thước 6 tấc đến 14 thước 9 tấc,
chở 3.100 phương; 15 thước đến 15 thước 5 tấc chở 3.400 phương; 15 thước 6
tấc đến 15 thước 9 tấc, chở 3.700 phương; 16 thước đến 16 thước 5 tấc chở
4.000 phương; 16 thước 6 tấc đến 16 thước 9 tấc, chở 4.300 phương; 17 thước
đến 17 thước 5 tấc chở 4.600 phương; 17 thước 6 tấc đến 17 thước 9 tấc, chở
4.900 phương; 18 thước đến 18 thước 5 tấc chở 5.200 phương; 18 tấc 6 tấc đến
18 thước 9 tấc, chở 5.500 phương; 19 thước đến 19 thước 5 tấc chở 5.800
phương; 19 thước 6 tấc đến 20 thước, 649 chở 6.100 phương (Đại Nam thục
lục tập 1, 2002, tr. 708 - 709).
+ Lệ trọng tải
Bên cạnh đó các vua Nguyễn cũng quy định các thuyền vận tải một năm chở
của công cho triều đình, thì năm sau sẽ được đi buôn. Ngoài ra chính quyền còn hỗ
trợ chi phí cho những tàu gặp gió bão hay hư hỏng.
Thuế vận tải: Những thuyền làm nhiệm vụ chở lương thực và sản vật cho
triều đình thì đều được miễn thuế, các loại thuyền tư hay thuyền buôn, thuyền chở
80
hàng hóa vận tải đóng thuế theo quy định thuyền ván bề ngang từ 5 thước trở lên
đóng 3 quan tiền, thuyền ngang và thuyền đánh cá đóng bằng một nửa thuyền ván.
Để kiểm soát chặt chẽ việc vận tải trên thì chính quyền chúa Nguyễn và triều
Nguyễn đều cấp giấy phép và thu thuế. Nhà nước cũng thực hiện việc khen thưởng
Kẻ nào dám làm bài thuyền giả để đi buôn hay cho người khác thuê mượn, một
khi bị tố cáo bắt giải thì kẻ làm giả và kẻ thuê mượn đều bị tội chết, thuyền và
hàng hóa thì nửa sung vào nhà nước, nửa thưởng cho người tố cáo bắt giải (Đại
Nam thục lục tập 2, 2006).
Thời Nguyễn thì quy định: Từ nay việc biên chở của công ở Kinh phái đi các
địa phương và chở những sản vật ở địa phương về kinh, mà cả hai chuyến đi
đều chở thì cấp thêm gạo bằng một tháng lương nếu chỉ chở 1 chuyến thì được
một nửa (Đại Nam thực lục tập 2, 2006)
và xử phạt đối với các thuyền vận tải:
Đến thời nhà Nguyễn trọng tải thuyền được quy định lại theo đó: thuyền đại
dịch, thuyền miễn dịch chỉ được giới hạn kích thước xà ngang từ 7 thước đến 17
thước 9 tấc; thuyền nan đi buôn có kích thước nhỏ hơn, xà ngang lòng thuyền không
vượt quá 10 thước 9 tấc; kích thước thuyền ván đi buôn lại càng nhỏ, xà ngang lòng
thuyền chỉ từ 6 thước 9 tấc trở xuống. Nhà nước quy định thuyền đại dịch nộp thuế
cảng theo kích thước, theo đó miễn thuế vận tải mỗi năm từ 31 quan tiền (cho
thuyền kích thước xà ngang từ 7 thước đến 7 thước 5 tấc), đến 294 quan tiền (cho
thuyền xà ngang từ 17 thước 6 tấc đến 17 thước 9 tấc). Cùng năm đó, thuyền miễn
dịch dựa vào trọng tải của thuyền để nộp, cứ mỗi 57 phương 9 thăng, trọng tải phải
nộp 2 quan tiền chuyên tiền. Những năm thuyền phải đi vận tải thì được miễn thuế
năm Bính Tý (1816).
Bên cạnh việc quản lý tàu thuyền, triều đình còn cấp giấy thông hành, cho
miễn một số loại thuế khi ra vào các cảng, triều đình thông qua việc cấp giấy phép
và thu thuế. Các loại thuyền làm nhiệm vụ tuần tra và khai thác sản vật thì được nhà
nước cấp giá cước khi khi buôn sẽ được hưởng nhiều chính sách ưu tiên.
81
Ngoài ra còn dựa vào xuất xứ của thuyền theo đó các chính quyền phong kiến
Nguyễn đều đánh thuế mạnh các thuyền buôn phương Tây giảm nhẹ cho thuyền
buôn Đông Nam Á và Trung Hoa, ngoài ra mức thuế ở các cảng biển Đàng Trong
không giống nhau. Càng xa kinh đô thuế càng giảm chẳng hạn theo đạo dụ của Gia
Long “giảm một nửa thuế lệ cho những thuyền ngoại quốc đến buôn ở Long Xuyên
đất hẹp dân nghèo, hàng hóa của lái buôn đều loàn xoàn cả” (Đại Nam thực lục tập
2, 2006).
Thứ hai là thuế hàng hóa tùy theo khối lượng hàng hóa mà thuế đánh nhiều
hay ít. Ví dụ thuế nhập cảng chiếm 5% giá sản phẩm, ván gỗ đóng thuyền là 10%.
Ngoài ra chính quyền cũng cấm xuất khẩu vàng, bạc, gạo tiền đồng và một số
hương liệu khác. Các sản phẩm nhập khẩu liên quan đến quân sự và khoáng sản như
sắt, kẽm, đồng, diêm tiêu phải bán thẳng cho nhà nước. Tuy nhiên do nguồn lợi lớn
mà mặt hàng này mang lại vì thế một số tư nhân đem trộm gạo bán cho các lại buôn
người Hoa. Chính quyền tiến hành nhiều các biện pháp chặt chẽ: “Vua thấy ở Gia
Định có nhiều gian thương chở trộm thóc gạo đem bán ở Hạ Châu cho lái buôn
người Thanh, sai đình thần bàn định điều cấm để trừ lệ ấy” (Đại Nam thực lục tập
2, 2006, tr. 343).
Đến thời Thiệu Trị xảy ra các cuộc đụng độ với người Phương Tây trên biển
và việc quân đội người Pháp bắn chìm các chiến thuyền của Việt Nam tại cảng Đà
Nẵng năm 1822 và năm 1825, vì thế quan hệ giao thương với phương Tây bị tổn hại
nghiêm trọng. Ngoài ra trong giai đoạn này chiến tranh Nha phiến bùng nổ ở Trung
Quốc. Theo đó đế quốc Anh buộc Trung Quốc phải mở cửa mua thuốc phiện của
nước này xuất khẩu sang. Nhận thấy bất lợi từ việc buôn bán với người Phương Tây
nên chính quyền Thiệu Trị và Tự Đức sau này đều hạn chế ngoại giao với họ.
Việc mở cửa thông thương với nước ngoài đã tạo nên sự thay đổi nhanh chóng
về kinh tế, bên cạnh nguồn lợi về sản phẩm hàng hóa, số lượng vũ khí hiện đại
ngoại thương còn mang lại nguồn lợi vô cùng to lớn từ thuế khóa. Việc đánh thuế
còn tạo điều kiện cho chính quyền họ Nguyễn có thể kiểm soát và quản lí chặt chẽ
các hoạt động an ninh vùng biển ngăn chặn những hành động gây rối và xâm phạm
chủ quyền của các quốc gia khác.
82
Với nhận thức và tư duy hướng biển các triều đại phong kiến Nguyễn từ chúa
Nguyễn đến nhà Nguyễn đều khai thác tốt nguồn lợi tự nhiên mà biển mang lại
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hoạt động buôn bán trên biển
đóng vai trò quan trọng trong kinh tế nước ta thời Nguyễn. Trong giai đoạn này
chính quyền Nguyễn tiến hành đánh thuế mạnh các tàu buôn của Phương Tây và
một số mặt hàng nhất định. Điều này làm cho hoạt động thương mại giữa Đại Việt
với các nước phương Tây có sự giảm sút.
Các thương cảng sầm uất nổi tiếng ở các thế kỉ trước đây như Hội An, Phố
Hiến, Thanh Hà suy tàn và không thể phục hồi. Các thương cảng Đà Nẵng, Gia
Định bắt đầu thay thế cho các cảng thị trước đây. Thời Minh Mạng các hoạt động
giao dịch buôn bán được tiến hành thông qua các cuộc viễn dương. Chính quyền
thường đem các mặt hàng gạo, đường, muối, cá, hải sâm, yến sào, cánh kiến, ngà
voi và sừng tê đến các nước phương Đông trao đổi. Hàng mua về chủ yếu là vải, len
dạ, súng đạn, trà và rượu. Trong thời nhà Nguyễn hoạt động ngoại thương được tiến
hành bởi nhà nước và tư nhân. Tuy nhiên phần lớn hoạt động viễn đương đều do
nhà nước tiến hành vì quy định cấm mang vũ khí lên tàu nên các thuyền buôn tư
nhân luôn bị tổn thất nặng nề trước cuộc tấn công của hải tặc ở vùng biển Tây Nam.
Trong hoạt động ngoại thương thời Nguyễn các thương nhân người Hoa có vai
trò quan trọng vừa là thị trường tiêu thụ rộng lớn vừa là trung gian trong quan hệ
thương mại giữa Trung Hoa và Việt Nam. Chính quyền nhà Nguyễn cho người Hoa
được tự do đi lại trong nước và mua gạo trực tiếp từ nơi sản xuất mà không bị hạn
chế bởi các điều khoản hay quy định của chính quyền. Theo nhận định của một viên
quan người Pháp là Rheinart:
“Người Hoa có vị trí đặc biệt trong nước họ được coi như người An
Nam, họ được hưởng quyền tự do đi lại như người trong nước, khác với
thương nhân của tất cả các nước khác” (Isukiya Suboi, 2016, tr.180).
Thời Minh Mạng nhờ vào giảm thuế và khuyến khích thương nghiệp nên số
lượng các thuyền buôn Trung Quốc đến nước ta buôn bán ngày càng nhiều. Dựa
vào số liệu trong Đại Nam thực lục tập 2 trang 101 tác giả xây dựng được bảng số
liệu sau:
83
Bảng 2.2. Thống kê số lượng thương thuyền Trung Hoa vào cảng nước ta mỗi
năm:
Tên cảng Số lượng (chiếc) Trọng tải (tấn)
Sài Gòn 30 6500
Hội An 16 3000
Huế 12 2500
Đông Kinh 38 5000
Các cảng khác 20 2300
Tổng cộng 110 19300
Thời Nhà Nguyễn do hạn chế buôn bán với người phương Tây nên các
thương nhân đến Đà Nẵng trao đổi chủ yếu là người Hoa, Xiêm, Mã Lai. Trong đó
đông đảo nhất là người Hoa. Các mặt hàng của người Hoa rẻ và phù hợp với nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân vì thế được ưa chuộng. Ngoài ra trong giai đoạn này
chính quyền Trung Quốc bỏ lệnh hải cấm nên các thương nhân người Hoa được tự
do trao đổi và buôn bán với nhiều nước trong khu vực. Nhìn vào bảng số liệu trên
có thể thấy số lượng các thuyền buôn của người Hoa đến nước ta chiếm tỉ lệ lớn.
Thời nhà Nguyễn quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và Trung Quốc có sự khởi
sắc. Số lượng thuyền buôn người Hoa cập bến ở Sài Gòn và Đông Kinh chiếm tỉ lệ
cao hơn so với các khu vực khác. Sau khi Cù Lao Phố bị tàn phá trong cuộc chiến
Tây Sơn - Nguyễn Ánh, người Hoa đã di chuyển đến vùng Sài Gòn và chọn Chợ
Lớn làm nơi sinh sống và trao đổi hàng hóa. Số lượng người Hoa đến đây ngày
càng đông dần dần biến vùng đất này trở thành trung tâm thương mại sầm uất. Sau
khi Chúa Nguyễn cử đốc suất Nguyễn Cửu Đàm đào kênh Ruột Ngựa nối liền vùng
Sài Gòn với vựa lúa miền Tây, giao thương và vận chuyển hàng hóa trở nên thuận
lợi hơn. Lúa gạo được vận chuyển từ vùng miền Tây đến vùng Sài Gòn thông qua 3
cửa chính: Cần Giờ, Đồng Tranh và Soài Rạp. Người Hoa có vai trò quan trọng
trong việc phát triển kinh tế vùng đất Sài Gòn.
Họ có một hệ thống bao thu có vai trò thu mua số lượng hàng hóa lớn từ nơi
sản xuất, phân phối đến các thương nhân nước ngoài. Các thương nhân người Hoa
84
còn hình thành nên các phường hội, thương hội có tác dụng giúp đỡ nhau sản xuất,
thống nhất về giá và giảm sự cạnh tranh lẫn nhau. Hàng hóa trao đổi ở Sài Gòn bao
gồm nhiều loại nhưng chủ lực nhất là gạo.Thông qua hoạt động thương mại của
người Hoa, gạo trở thành mặt hàng trao đổi quan trọng và có giá trị cao đưa Gia
Định trở thành thị trường lúa gạo lớn và sầm uất nhất của nước ta vào thế kỉ XVIII.
Các thuyền buôn của phương Đông, phương Tây và Trung Hoa đến Sài Gòn ngày
càng đông. Thương cảng Sài Gòn là nơi neo đậu thường xuyên của hàng trăm
thuyền buôn người Hoa lẫn người phương Tây lui tới. Ngoài gạo là mặt hàng chính
họ còn mua đường trắng. Đây là sản phẩm được các thương nhân ưa chuộng vì
đường của Đàng Trong hạt trắng, mịn. Trong Gia Định thành thông chí của Trịnh
Hoài Đức có viết: “Gia Định là chỗ đô hội thương thuyền của cả nước cho nên có
hàng trăm món hàng hóa hội tụ ở đây.”(Trịnh Hoài Đức, 2001).
Sau khi đánh bại Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Gia
Long thống nhất đất nước, để thuận tiện cho việc cai trị vua Gia Long thành lập hai
cơ quan cai trị phía Bắc có Bắc Thành, phía Nam có Gia Định Thành. Sài Gòn
thuộc Gia Định thành, đây thực sự là một trung tâm sản xuất và thương mại, nội địa
cũng như quốc tế. Ngoài xưởng đóng tàu hoàng gia, các mặt hàng ở đây sản xuất
theo lối thủ công nghiệp là chính. Từ khi Gia Long dời đô về Huế, Sài Gòn đã mất
đi phần nào ngành thủ công nghiệp cao cấp, ngành sản xuất vũ khí và ngành đóng
tàu chiến. Nhưng nền kinh tế chính của Sài Gòn vẫn là buôn bán gạo và các nông
sản khác. Gạo được xuất sang tận Manille, Batavia hay Malacca. Việc chuyên chở
do các ghe thuyền Hoa và tàu biển Âu Châu (mấy chục chuyến mỗi năm) đảm
nhiệm. Nguồn thu nhập này đã giúp mở rộng thêm diện tích canh tác vừa phát triển
giao thông thuận lợi. Nhờ đó tiềm lực phát triển của thành phố ngày càng được củng
cố. Với hoạt động giao thương sầm uất giúp cho Sài Gòn trở thành trung tâm kinh tế
và văn hóa. Giữa thế kỉ XIX Sài Gòn vươn trở thành thành phố cảng thương mại lớn
của vùng Đông Nam Á.
*Khai thác vận tải đường biển
Cùng với việc cho lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đi khai thác các khoáng vật.
Chính quyền nhà Nguyễn cũng xây dựng hệ thống vận tải đường biển, để liên kết
85
các vùng, tiện lợi cho việc vận chuyển hàng hóa khắp nơi về kinh đô, đồng thời là
công cụ hỗ trợ đắc lực cho sự quản lí của chính quyền tới các địa phương và các
vùng hải đảo. Hệ thống trục đường thủy còn giúp tạo sự tiếp biến văn hóa vùng
miền, hình thành một mạng lưới thương mại khắp nơi trong cả nước, nối các vùng
địa phương với nhau và địa phương với trung ương và sau đó nhanh chóng tỏa đi
khắp các khu vực. Cùng với hệ thống giao thông đường thủy thuận lợi, chính quyền
phong kiến còn chủ trương xây dựng các cảng biển là nơi cho tàu thuyền nước
ngoài neo đậu, tránh bão và trao đổi hàng hóa. Chính quyền nhà Nguyễn sử dụng
đường biển để tiện lợi cho việc vận chuyển hàng hóa từ các vùng về kinh đô và
ngược lại. Vận tải đường biển giúp cho chính quyền tiết kiệm được một số chi phí
và mang lại hiệu quả cao, ngoài ra vận tải đường biển có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ vùng biển: “Các thuyền vận tải đường biển, một là để chuyên chở, một
là để diễn tập việc binh, tiện cả hai việc” (Đại Nam thục lục tập 2, 2006).
Chính điều kiện tự nhiên thuận lợi cộng với chính sách ưu đãi của chính quyền
với thương nhân nước ngoài, đã khiến cho thuyền buôn từ khắp nước tìm đến đây
trao đổi mua bán mang lại cho chính quyền nguồn lợi đáng kể từ việc thu thuế.
* Khai thác các hải sản ở biển
Khai thác yến sào
Yến sào là sản phẩm đem lại giá trị kinh tế cao và đây cũng được coi là nguồn
dược liệu quý, ngay từ thời Chúa Nguyễn đã cho thành lập đội Thanh Châu, Quế
Hương đi khai thác sản phẩm này.Vùng biển nước ta với vô số các đảo lớn nhỏ nằm
dọc biển với khí hậu nhiệt đới ẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho chim yến làm tổ.
Giống với thời chúa Nguyễn, thời nhà Nguyễn việc khai thác tổ yến được nhà nước
tiến hành. Sản phẩm yến được nhà nước trực tiếp mua lại. Chính quyền cũng ban
những quyền lợi nhất định cho những người đi khai thác yến, cũng giống với giai
đoạn trước, họ được miễn thuế thân, thuế xâu và miễn việc đi lính…
Thời Gia Long thành lập được 2 đội khai thác yến sào: Đội thứ nhất gồm có
10 người, đội thứ hai gồm 18 người.Hầu hết đều là người ngoại tịch, không quy
định cụ thể việc tham gia ai muốn tham gia thì viết đơn xin tham gia là được. Mức
86
thuế yến sào của các đội này như sau:“ nộp thuế yến 4 cân, cộng 100 lạng, số quân
của đội là 38 người, mỗi người theo lệ dâng nộp 8 lạng” (Đỗ Bang, 2016).
Thời Minh Mạng việc khai thác yến sào được đẩy mạnh và tiến hành liên tục,
thành lập những đội khai thác ở khắp vùng ven biển. Những đội thu hoạch yến
trước đây đổi thành đội lấy yến, hộ trưởng, đội trưởng và mộ dân thực hiện việc lấy
yến: “Năm Minh Mệnh thứ 10 [1820] Đổi hai hộ Yến ở Quảng Nam làm Yến Hộ,
đội trưởng làm hộ trưởng” (Đại Nam thực lục tập 2, 2006, tr.66). Các hộ lấy yến
đều có đặt dưới sự quản lý của người đứng đầu.
Ở các đảo xa bờ như Phú Quốc và Côn Lôn nơi có số lượng yến sào lớn, chính
quyền cho thành lập ở đây những đội khai thác yến. Bên cạnh việc khai thác tổ yến
họ còn có nhiệm vụ là quản lý và bảo vệ vùng biển. Việc lấy yến được tiến hành
theo mùa vụ hằng năm: “Hằng năm chính quyền cử các đội tháng hai đi lấy, đến hạ
tuần tháng tư là hết, nếu có gió mưa thì kéo dài đến tháng 5, 6”. Tuy nhiên không
phải lúc nào những hộ đều khai thác đủ số lượng yến theo quy định, có khi đủ khi
không vì thế đối với những hộ khai thác không đủ số lượng yến thì chính quyền
cho nộp thay bằng tiền “ Chuẩn cho yến hộ ở Quảng Bình và Bình Định được nộp
thay bằng tiền thuế yến sào (Hạng nhất 1 cân nộp thay 40 quan tiền, hạng nhìn 30
quan, hạng ba 18 quan.)” (Đại Nam thực lục tập 2, 2006 tr.184). Yến sào là mặt
hàng mang lại giá trị cao nên chính quyền phong kiến độc quyền khai thác sản
phẩm này. Đối với các hành động gian lận, khai thác trộm đều bị xử lý nghiêm ngặt.
Bên cạnh việc khai thác yến chính quyền phong kiến cũng cho thành lập các
đội khai thác hải sâm: “Đặt đội thái sâm [lấy sâm] ở Quảng Ngãi (Các núi ở Sa Kỳ
có nhiều sâm, hạ lệnh cho trấn thần đặt đội lấy sâm, mộ dân ngoại tịch 50 người
sung vào” (Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 1000)
Để tăng cường diện tích đất, các vua Nguyễn cũng khuyến khích người dân
đến khẩn hoang và sinh sống ở các vùng hải đảo xa bờ. Những lực lượng ngư dân
này vừa làm nhiệm vụ khai thác vừa là tai mắt của chính quyền. Thời chúa Nguyễn
trước đây các đảo Phú Quốc, Côn Lôn đã được khai hoang và có dân cư sinh sống.
Đến thời nhà Nguyễn thì số lượng cư dân ở đây tăng lên nhanh chóng. Chính quyền
nhà Nguyễn tiến hành thiết lập các trại quân để thu thuế và bảo vệ các hoạt động
87
của ngư dân. Ngoài ra họ còn hợp tác với các ngư dân tiến hành khai thác yến sào:
“lính đồn Phú Quốc, tỉnh Hà Tiên kiếm được 21 cân nên thưởng 20 quan để tỏ lòng
khuyến khích” (Đại Nam thục lục 2, 2006). Chính quyền còn tiến hành cho ngư dân
tiến hành khẩn hoang một số hải đảo lớn nhỏ.
Với cái nhìn hướng biển, các vị vua triều Nguyễn thi hành nhiều chính sách
khai thác các thế mạnh của biển để phát triển nội lực kinh tế, liên kết các khu vực
với nhau bằng hệ thống đường thủy và giữa triều đình với thế giới bên ngoài. Các
hoạt động khai thác của chính quyền nhà Nguyễn được tiến hành thường xuyên, liên
tục và hòa bình. Những chính sách khai thác trên đã thể hiện ý thức và tư duy
hướng biển sâu sắc của chính quyền họ Nguyễn và vương triều Nguyễn. Mặc dù
còn hạn chế nhưng những chính sách trên đã cho thấy nhân tố biển có nghĩa quan
trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ quốc gia thống nhất.
2.2. Tổ chức và hoạt động của lực lượng thủy quân ở hai quần đảo Trường Sa -
Hoàng Sa
* Nguồn gốc ra đời của đội thủy quân Hoàng Sa
Thời Lê Sơ năm 1471 khi vua Lê Thánh Tông chiếm kinh đô Chà Bàn (nay
thuộc tỉnh Bình Định) của Vương quốc Chămpa. Sau đó cho thiết lập đạo thứ 13 là
đạo thừa tuyên Quảng Nam (nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và
thành phố Đà Nẵng), gồm 3 phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài Nhân, tỉnh Quảng
Ngãi thuộc Phủ Tư Nghĩa. Năm 1470 vùng đất Quảng Nam thuộc quyền quản lí của
nhà Lê. Đến thời chúa Nguyễn, khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng đất Thuận
Hóa thì vùng này thuộc trên thực tế thuộc quyền quản lí của chính quyền Đàng
Trong. Năm 1602, Nguyễn Hoàng đổi thành dinh Quảng Nam và phủ Tư Nghĩa đổi
thành phủ Quảng Ngãi hay Quảng Nghĩa. Ngoài ra chính quyền còn cho thiết lập ở
đây các chức quan Tuần phủ và Khánh lí cai trị.
Thời chúa Nguyễn các hoạt động khai thác sản vật và mở rộng giao lưu buôn
bán với bên ngoài bằng đường biển được thúc đẩy mạnh mẽ. Giữa bối cảnh phải
đương đầu với chúa Trịnh đã thúc đẩy cho các chúa Nguyễn phải tiến hành các hoạt
động khai thác mở rộng lãnh thổ trên đất liền, làm chỗ dựa vững chắc cho sự phát
triển kinh tế - xã hội để tạo thế lực đối kháng với chúa Trịnh. Cùng với công cuộc
88
Nam tiến các chúa Nguyễn còn nhận thấy những tiềm năng quan trọng mà vùng
biển mang lại cho sự tồn vong của triều đại mình. Vì thế ngay từ rất sớm các chúa
Nguyễn đã có tầm nhìn hướng biển, chọn biển làm hướng đi quan trọng cho sự phát
triển về kinh tế như là chỗ dựa vững chắc về mặt an ninh quốc phòng. Trước đây
các hoạt động khai thác biển chưa được chú ý nhiều. Chủ yếu trong giai đoạn này là
các hoạt động đánh bắt và khai thác của ngư dân. Ngoài ra chính quyền Đàng Trong
chú trọng kêu gọi dân đến khai khẩn các vùng ven biển và hải đảo. Thời chúa
Nguyễn quần đảo Hoàng Sa được đặt dưới sự quản lý của các đạo thừa tuyên tỉnh
Quảng Nam.
Chỉ đến thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên mới thành lập đội thủy quân Hoàng Sa
nhằm tìm kiếm sản vật và hóa vật ở các quần đảo xa bờ đặc biệt là quần đảo Hoàng
Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào,
cắt phiên mỗi năm cứ đến tháng hai nhận giấy sai đi, mang theo lương thực sáu
tháng, đi bằng năm chiến thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày đêm thì đến đảo ấy.
Ở đấy tha hồ bắt chim, bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu như gươm ngựa,
hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, tiền đồng, khối chiếc, khối chì, súng, ngà voi và sáp
ong, đồ sứ, đồ chiên cũng là kiếm lượm vỏ đồi mồi hải ba, hải sâm, hột ốc vân
rất nhiều.Đến kì tháng tám thì về vào đến cửa Eo (tức cửa Thuận An) đến
thành Phú Xuân để nộp…(Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 155).
Sa
Thủy quân Hoàng Sa thành lập đã cho thấy vị thế kinh tế của vùng biển trong
cái nhìn của các chúa Nguyễn. Thời chúa Nguyễn, xã An Vĩnh bao gồm hai khu vực
cách nhau là làng An Vĩnh ở cửa biển Sa Kỳ trong đất liền và thôn An Vĩnh ở Cù
Lao Ré (huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi). Vì thế, khi lựa chọn đội thủy quân đi
Hoàng Sa, luôn bao gồm dân cư của hai làng An Vĩnh trên đất liền và ven biển. Do
việc đi ra đảo Hoàng Sa nguy hiểm nên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa hai vùng
đất liền và vùng biển, chưa có sự phân chia.
89
Theo nhiều nhà sử học, mãi đến năm 1773 khi làng An Vĩnh ở Cù Lao Ré tách
thành một làng độc lập thì đội Hoàng Sa bấy giờ phân chia thành hai đội Hoàng Sa
Nhất ở cửa biển Sa Kỳ và Hoàng Sa Nhị ở vùng biển Cù Lao Ré. Mãi đến năm
1804 khi triều đình công nhận phường An Vĩnh là một đơn vị hành chính độc lập thì
Cù Lao Ré mới trở thành nơi cung cấp lực lượng cho đội thủy quân Hoàng Sa.
Vùng cửa biển Sa Kỳ bao gồm cửa biển, không có sông chảy ra nên không có hiện
tượng cát bồi, có độ sâu tương đối tốt để làm cảng (thuyền) thời bấy giờ. Vì thế, hai
bên cửa biển có đông dân cư sinh sống, nhiều nhất là bờ phía Nam, xã An Vĩnh,
sống bằng nghề biển và nông nghiệp, cách phủ Quảng Ngãi gần 30km. Bờ phía Bắc
thuộc xã An Hải, ít trù phú, ít dân cư hơn.
Vùng biển Sa Kỳ, Cù Lao Ré có rất nhiều các nguồn hải sản quý có giá trị
kinh tế cao như hải sâm, đồi mồi, ba ba đã thu hút những ngưởi đi biển tài giỏi tìm
đến đây để khai thác nguồn lợi của vùng quần đảo này và làm cho số ngư dân trong
vùng tăng lên nhanh chóng. Đây cũng là lí do mà vùng đảo Cù Lao Ré trở thành cái
nôi của đội thủy quân Hoàng Sa.
*Tổ chức thủy quân Hoàng Sa
Thủy quân Hoàng Sa là một tổ chức dân binh vừa mang tính dân sự vừa mang
tính quân sự; vừa là tổ chức tư nhân vừa làm theo kiểu nhà nước đồng thời cũng vừa
làm nhiệm vụ kinh tế vừa làm nhiệm vụ quân sự. Thông qua các hoạt động khai
thác sản vật trên biển họ cũng đồng thời tiến hành các hoạt động như tuần tra, giám
sát, thăm dò, kiểm tra các hoạt động trên biển đồng thời sẵn sàng ứng phó với các
lực lượng khác khi xảy ra những bất ổn trên biển.
Hầu hết lực lượng của đội thủy quân Hoàng Sa được lấy từ các dân ở huyện
Cù Lao Ré gọi là chính binh (hay nội binh). Bên cạnh đó các quan trấn thủ hay lưu
thủ ở các địa phương còn chú ý mộ dân từ khắp các địa phương khác không giới
hạn số lượng làm nhiệm vụ canh giữ ở các cửa biển gọi là ngoại binh. Số quân này
đông hơn nhiều so với quân chính binh, họ không được hưởng những quyền lợi như
quân chính binh như được trả lương, được cấp lương thực mà chủ yếu chỉ là được
miễn sưu thuế. Quân đội Hoàng Sa được tổ chức theo các cấp dinh, cơ, đội, thuyền.
Trong đó thuyền được coi là đơn vị thấp nhất, mỗi thuyền gồm 40 - 50 người.
90
Đội Hoàng Sa là tổ chức bán quân sự có nhiệm vụ đặc biệt vừa đảm nhận chức
năng kinh tế vừa mang tính quân sự. Đứng đầu là chức cai đội, không chỉ có nhiệm
vụ quản lí, chỉ huy các hoạt động của đội Hoàng Sa mà còn kiêm thêm các nhiệm
vụ khác như cai cơ thủ ngự hay chức cai thủ. Điều này được thể hiện rõ trong chỉ dụ
của vua Gia Long khi sai Võ Văn Phú tái lập lại đội Hoàng Sa. Theo đó: “Lấy cai
cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự cửa biển Sa Kỳ sai mộ dân ngoại tịch lập đội Hoàng
Sa” (Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 566). Như vậy Võ Văn Phú vừa là cai đội chỉ
huy đội Hoàng Sa vừa kiêm luôn chức chức cai thủ và kiêm luôn chức cai cơ thủ
ngự. Thời nhà Nguyễn cai cơ thủ ngự là chức quan phụ trách về an ninh trên biển.
Hằng năm triều đình sẽ lấy 70 suất đinh để bổ sung và thành lập đội thủy quân
Hoàng Sa. Hầu hết là những ngư dân địa phương ở 2 làng Cù Lao Ré và cửa biển Sa
Kỳ. Những ngư dân này trở thành 1 bộ phận của quân đội triều đình họ được gọi là
quân dân. Từ những ngư dân địa phương họ được quân sự hóa và theo nhận xét của
tác giả Nguyễn Quang Ngọc, thì đây được coi là là lực lượng thủy quân chính quy
đầu tiên của triều đình vừa thực hiện việc khai thác của ngư dân vừa thực hiện
nhiệm vụ của nhà nước. Mặc dù công cụ khai thác lúc bấy giờ còn thô sơ và thủy
quân còn mang tính tự quản nhưng họ đã trở thành những người có vai trò quan
trọng là lực lượng trực tiếp thay mặt chính quyền phong kiến thực hiện việc khai
thác và bảo vệ chủ quyền quần đảo Hoàng Sa. Theo Phủ Biên Tạp Lục ghi nhận thì
số quân mỗi lần ra đảo là 10 người, trong đó 2 người sẽ ở lại giữ thuyền tám người
còn lại tiến hành ra đảo khai thác. Đây là số lượng phù hợp đối với việc phải thực
Năm Kiến Long thứ 18 có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liên huyện
Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam vào tháng 7 đến Vạn Lý Trường
Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, hai tên ở lại giữ thuyền, bị gió
làm đứt dây thuyền dạt vào Thanh Lan cảng quan ở đấy xét thực đem trả về
nguyên quán (Đại Nam thực lục, tập 1, 2001, tr.164).
hiện công vụ ở quần đảo xa bờ và trên những chiếc thuyền nhỏ và nhẹ:
Đoạn trích trên đã khẳng định khẳng định hằng năm chính quyền phong kiến
sai đội thủy quân ra tìm kiếm sản vật ở quần đảo Hoàng Sa (Vạn Lý Trường Sa) và
91
những khó khăn và nguy hiểm của đội thủy quân khi thực hiện công vụ tại quần đảo
này. Tuy nhiên đoạn trích trên cũng là bằng chứng khẳng định chủ quyền của nước
ta trên quần đảo Hoàng Sa được nhà Thanh bấy giờ công nhận.
Thời chúa Nguyễn Hoàng chưa có sự ghi nhận về các hoạt động của đội thủy
quân Hoàng Sa, chủ yếu trong giai đoạn này là hoạt động đánh bắt và khai thác của
ngư dân. Ngoài ra cùng với quá trình đẩy mạnh việc khẩn hoang mở rộng diện tích
lãnh thổ, công cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn cũng gắn liền với việc khai thác
vùng biển và hải đảo. Từ rất sớm các chúa Nguyễn đều chú ý chiêu mộ dân đến
khai hoang ở những vùng hải đảo xa bờ. Nhiều tác phẩm ghi nhận sự xuất hiện của
những ngôi làng ở các vùng hải đảo như làng Hòa Vang, làng An Vĩnh.....
Đến thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên có sự xuất hiện của đội thủy quân Hoàng
Sa. Hay nói cách khác chính chúa Nguyễn Phúc Nguyên là người lập ra đội thủy
quân Hoàng Sa. Nguyễn Phúc Nguyên là người có tầm nhìn sâu sắc về biển, vì thế
với mong muốn tận dụng mọi điều kiện để phát triển vùng đất Đàng Trong thành
một vùng lãnh thổ có thế mạnh về kinh tế, chính trị, phát triển độc lập, tách khỏi sự
kiểm soát của chính quyền Đàng Ngoài, bên cạnh việc đẩy mạnh khẩn hoang, mở
rộng diện tích đất canh tác thì chúa Nguyễn cũng chú trọng việc khai thác vùng
biển, thông qua việc thành lập đội thủy quân Hoàng Sa. Tài liệu cổ của nước ta và
Trung Quốc đã ghi nhận về hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa, chẳng hạn trong
tác phẩm Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của tác giả Đỗ Bá Công Đạo năm 1686 đã nêu
rõ hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa thời chúa Nguyễn:
Họ Nguyễn mỗi năm vào cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy
lấy hàng hóa, được phần nhều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn. Từ cửa Đại
Chiêm vượt biển đến đấy thì phải mất một ngày rưỡi. Từ cửa Sa Kỳ đến
đấy phải mất nửa ngày (Nguyễn Nhã, 2014, tr.40).
Những ghi nhận trên mặc dù còn thiếu chính xác về khoảng thời gian thủy
quân từ đất liền ra đến Hoàng Sa nhưng đã khẳng định từ rất sớm triều đình đã cử
đội thủy quân ra khai thác các sản vật vùng biển. Ngoài ra, trong Hải ngoại kí sự
92
của Thích Đại Sán viết năm 1696 cũng nói về việc triều đình cử thủy quân ra khai
thác các sản vật trên biển: “Thời quốc vương trước, ở đây hằng năm sai thuyền đi
đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tấp vào bị đắm
ở Vạn Lý Trường Sa.” (Thích Đại Sán, 2016, tr.191 - 192)
Những ghi chép trên của nhà sư Thích Đại Sán khi đến vùng đất Đàng Trong,
đã cho thấy ngay từ rất sớm chính quyền phong kiến đã cử người ra quần đảo
Hoàng Sa để thu lượm sản vật, có thể khẳng định đây là những hoạt động của đội
thủy quân Hoàng Sa. Và có thể thấy rằng trong thời kì này quần đảo Hoàng Sa chưa
hề có bất kì sự tranh chấp nào. Qua hai dẫn chứng trên ta có có thể khẳng định đội
thủy quân Hoàng Sa được thành lập vào thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 -
1635) và hoạt động kéo dài đến 7 đời chúa Nguyễn.
Theo sách Đại Nam thực lục và Phủ Biên tạp lục ghi nhận khi Nguyễn Hoàng
trở lại vùng đất Đàng Trong, chúa Nguyễn đã cho lập dinh Quảng Nam và nhận
thấy đây là vùng chiến lược của đất Thuận Hóa, nên giao quyền quản lí vùng này
cho hoàng tử thứ sáu tức chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Từ đó về sau vùng đất này
thuộc quyền cai trị trực tiếp của chúa. Để tăng cường khai thác các tiềm năng kinh
tế biển đồng thời cũng như khẳng định chủ quyền ở vùng biển đảo nhất là quần đảo
Hoàng Sa (Paracel) nơi được biết đến là có nhiều bãi đá ngầm và nhiều đảo lớn nhỏ.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho mộ dân ở phủ Quảng Nghĩa thành lập nên đội
thủy quân Hoàng Sa. Thực chất việc cho quân đến khai thác vùng biển chỉ được
thực hiện khi chính quyền chúa Nguyễn nhận thấy vùng đảo này thường xuyên xảy
ra các vụ tàu đắm trôi dạt vào. Do nhu cầu lớn về vũ khí nên bên cạnh việc ngoại
thương, các chúa Nguyễn cũng bắt đầu tiến hành cho người ra đảo tìm kiếm và thu
lượm các sản vật như đồ đồng chì thiếc, các khẩu pháo và đại bác bị đắm ngoài khơi
đó cũng là nguyên nhân khiến cho đội Hoàng Sa được thành lập.
*Phạm vi hoạt động của đội Hoàng Sa trong thời gian đầu chủ yếu là quần
đảo Hoàng Sa nhưng càng về sau do công cuộc Nam tiến của chúa Nguyễn nên
phạm vi hoạt động của đội Hoàng Sa cũng được mở rộng hơn về phía Nam. Tuy
nhiên do hạn chế về lực lượng nên đội Hoàng Sa không thể bao quát hết được toàn
bộ vùng biển đảo nên vì thế đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu cho thành lập thêm đội
93
Bắc Hải và cho đặt dưới sự kiêm quản của đội Hoàng Sa. Như vậy càng về sau
phạm vi hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa càng rộng lớn. Từ việc khai thác
các hải vật và hóa vật ở quần đảo Hoàng Sa cho đến việc kiêm quản các hoạt động
của đội Bắc Hải ở vùng biển duyên hải Nam Trung Bộ, các vùng biển Quảng Ngãi,
Thừa Thiên Huế và quần đảo Hoàng Sa, tức là toàn bộ vùng ven biển từ quần đảo
Hoàng Sa ở phía Bắc cho đến quần đảo Trường Sa ở phía Nam. Trước đây chưa có
sự phân biệt hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì thế suốt thế kỉ XVI - XVII hai
quần đảo này đều được gọi chung là Vạn Lý Trường Sa. Việc kiêm quản đội Bắc
Hải của thủy quân Hoàng Sa với mục đích nhằm tăng cường sự quản lý thống nhất
của triều đình đối với vùng biển đảo. Đây được coi là quan điểm tiến bộ về việc
quản lí các hoạt động kinh tế tại vùng biển của chính quyền phong kiến lúc bấy giờ.
Như vậy, với việc kiêm quản đội Bắc Hải thì phạm vi hoạt động của đội thủy quân
Hoàng Sa là bao gồm toàn bộ vùng biển Đàng Trong từ phía Bắc cho đến các vùng
biển phía Nam và Tây Nam.
*Nhiệm vụ của đội Hoàng Sa lúc bấy giờ là tìm kiếm các sản vật và hóa vật
như hải ba, đồi mồi, thiếc chì, súng đồng, hỏa pháo từ các tàu đắm, tuần tra, xem
xét, cứu hộ các tàu đắm vùng đảo Hoàng Sa. Ngoài ra đội thủy quân Hoàng Sa còn
kiêm quản hoạt động của đội Bắc Hải theo ghi nhận của các tác phẩm Đại Nam thực
lục tiền biên, Phủ Biên tạp lục, Đại Nam nhất thống chí .
Đội Bắc Hải thì nhiệm vụ là khai thác tìm kiếm các sản vật và hóa vật ở các
vùng biển đảo phía Nam gồm Bà Rịa, Phú Quốc, Kiên Giang, Côn Lôn, Hà Tiên và
bao gồm cả quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên do vùng biển phía Nam ít khi bị thiên
tai nên số lượng tàu đắm ở đây không nhiều, vì thế đội Bắc Hải chủ yếu là tìm kiếm
sản vật như: hải sâm, ba ba, đồi mồi.. Mặc dù không có vai trò quan trọng như đội
Hoàng Sa nhưng thông qua hoạt động khai thác của đội Bắc Hải chính quyền tiến
hành quản lý vùng biển phía Nam và Tây Nam của đất nước. Bên cạnh đội Bắc Hải
thì chúa Nguyễn cũng cho thành lập các đội khác như Thanh Châu, Quế Hương, Hải
Ba khai thác các sản vật ở vùng Côn Lôn và Phú Quốc.
Các nhiệm vụ xem xét đo đạc thủy trình vẽ bản đồ thì được thực hiện vào thời
vua Gia Long. Ngoài ra trong giai đoạn này vua Gia Long cho tái lập lại đội Hoàng
94
Sa nhằm khai thác và thu lượm các sản vật như các giai đoạn trước đây. Tuy nhiên
thời Gia Long thì đội thủy quân Hoàng Sa có nhiệm vụ bảo vệ an ninh nhiều hơn là
khai thác kinh tế. Trong giai đoạn này chính quyền phong kiến tiến hành các hoạt
động chiếm hữu và xác lập chủ quyền trên cơ sở sử dụng lâu dài vùng biển đảo của
các thế hệ trước. Như vậy nhiệm vụ của đội Hoàng Sa khá nặng nề bên cạnh việc
khai thác và tìm kiếm các sản vật ở vùng biển phía bắc. Họ còn phải kiêm quản luôn
các hoạt động của đội Bắc Hải ở phía Nam. Đây được coi là bài học của chính
quyền phong kiến nhằm tạo ra sự thống nhất trong việc quản lý việc khai thác và
bảo vệ vùng biển đảo của đội thủy quân Hoàng Sa từ đó tạo ra sự liên kết thống
nhất giữa nhà nước và nhân dân trong việc đảm bảo an ninh vùng biển.
*Thời gian hoạt động ngoài các tài liệu trong Dư địa chí, Đại Nam thực lục
tiền biên, Đại Nam nhất thống chí, đều ghi nhận là thủy quân Hoàng Sa bắt đầu đi
vào tháng ba và trở về vào tháng 8 âm lịch. Sau khi nhận tờ sai công vụ họ sẽ ra đi
vào tháng 3 âm lịch (tức tháng 4 dương lịch) và trở về vào tháng 8 âm lịch (tức
tháng 9 dương lịch). Chỉ có Thiên Nam Tứ Chí lộ đồ thư của Đỗ Bá Công Đạo là
nói đi vào cuối đông, không nêu rõ thời gian về. Còn trong Phủ Biên tạp lục của Lê
Qúy Đôn thì ghi nhận là đội Hoàng Sa cứ tháng hai âm lịch nhận giấy sai đi mang
theo lương thực trong 6 tháng và đến tháng 8 thì về đến cửa Eo rồi nộp sản vật tại
chính dinh ở Phú Xuân. Tất cả các tài liệu đều ghi nhận là đội Hoàng Sa mỗi năm
đều tiến hành thực hiện công vụ mà nhà nước giao phó trong 6 tháng.
Thời gian bắt đầu thực hiện công vụ là từ tháng 3 và kết thúc tháng 8 âm lịch
tức là từ tháng 4 đến tháng 9 dương lịch. Theo tác giả Nguyễn Nhã đây là thời điểm
thuận lợi cho việc đi biển. Khi đó nhờ gió mùa Tây Nam thổi nên các loại tàu, buồm
nhẹ, có thể đi từ Cù Lao Ré đến quần đảo Hoàng Sa một cách nhanh chóng dễ dàng.
Thời gian trở về là vào tháng 8 âm lịch khi đó gió mùa Tây Nam yếu đi, gió mùa
Đông Bắc thổi mạnh đội thủy quân trở về cửa Eo nộp sản phẩm ở chính dinh đúng
thời hạn.Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân nên việc khởi hành của đội Hoàng Sa có
thể sớm và trễ hơn nhưng thông thường thời gian về sẽ là vào tháng 8 âm lịch để
tránh bão đây là sự tính toán rất hợp lý. Các tài liệu cũng thống nhất về thời gian di
chuyển của đội thủy quân Hoàng Sa là mất ba ngày ba đêm.Trong đó sách Đại Nam
95
nhất thống chí thì cho là mất 3 - 4 ngày và 6 ngày thực hiện công vụ. Đội thủy quân
có nhiệm vụ tìm kiếm sản vật và hóa vật của các tàu đắm ở quần đảo Hoàng Sa và
các đảo ở phía Bắc. Còn đội Bắc Hải tiến hành khai thác ở các quần đảo phía Nam
trong đó có quần đảo Trường Sa. So với đội Bắc Hải thì đội Hoàng Sa có vai trò và
nhiệm vụ lớn hơn do việc ra đảo Hoàng Sa là một việc làm đầy khó khăn thách thức
và mạo hiểm nên chính quyền phong kiến xem trọng đội Hoàng Sa hơn. Bên cạnh
việc khai thác thì đội Hoàng Sa còn có nhiệm vụ tìm kiếm các hóa vật như tàu,
gươm, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, đồ sứ súng đạn từ các tàu đắm ở quần đảo
Hoàng Sa.
Do quần đảo Hoàng Sa là nơi thường xuyên diễn ra các vụ đắm tàu nên số
lượng vũ khí thu được ở đây rất nhiều. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có, đôi
khi đội Hoàng Sa phải trở về tay không, số lượng vũ khí phần nhiều là vàng bạc,
tiền tệ, súng ống. Và hầu hết số vũ khí mà chúa Nguyễn có được đều được lấy từ
quần đảo Hoàng Sa. Đội thủy quân Hoàng Sa là những tổ chức dân binh địa phương
họ theo lệnh của triều đình đi thực hiện công vụ họ không phải là quân đội chính
quy mà là lực lượng quân nhân. Họ được hưởng những quyền lợi nhất định như
được miễn thuế đò, miễn sưu và được cấp lương ăn trong 6 tháng chủ yếu là gạo,
ngoài ra họ phải tự tìm kiếm thức ăn nhờ vào việc đánh bắt cá và chim trên các đảo.
Thủy quân Hoàng Sa phải mang theo các vật dụng sinh hoạt cần thiết khi đi
biển như củi khô, nùi dây, dừa khô để tạo lửa, thùng chứa nước ngọt để uống. Họ
còn mang theo nồi đồng, chảo đồng để nấu nước và lưỡi mác để bắt cá, dầu rái và
vỏ cây tràm để phòng khi thuyền bị vô nước. Bên cạnh đó do vùng biển Hoàng Sa
là nơi có rất nhiều các trận bão tố nên thường xuyên diễn ra các nạn tàu đắm. Vì thế
để phòng trường hợp bất ngờ hay tai nạn hay nếu chẳng may có người chết trên biển
thì thủy quân Hoàng Sa còn chuẩn bị chiếu để quấn xác, thẻ tre dùng để cố định và
dây mây dùng để buộc. Trên thẻ tre ghi rõ tên tuổi quê quán năm sinh và tên đơn vị
của người mất được đặt cố định trong chiếu rồi sau đó thi thể sẽ được thả xuống
biển và nếu ai vớt được thì dựa vào thông tin trên thẻ để nhận biết.
Vùng biển Hoàng Sa là nơi rất nguy hiểm, có nhiều mỏm đá ngầm và sóng lớn
vì thế có câu “lính Hoàng Sa đi dễ khó về ” Mỗi người lính Hoàng Sa khi thực hiện
96
công vụ là những người liều lĩnh sẵn sàng dám dương đầu với cái chết với sự hiểm
nguy, nên vì thế hầu hết những người gia nhập đội Hoàng Sa đều là những thanh
niên trẻ khỏe mạnh chưa lập gia đình họ ra đi thực hiện nghĩa vụ với triều đình. Do
việc ra đảo Hoàng Sa quá nguy hiểm, vì thế để cho họ có thể an tâm ra đương đầu
với những thử thách thì những người dân ở đảo Lý Sơn và Cù Lao Ré còn thực hiện
lễ tế sống quân lính Hoàng Sa.Theo đó một đêm trước khi thực hiện công vụ ở
Hoàng Sa các họ tộc sẽ dùng những hình nhân được làm bằng tre và cho dán giấy
ngũ sắc trên có ghi tên và ngày sinh thay cho người thật đem đi tế tại các đình làng.
Sau khi tế xong họ sẽ đem đốt hoặc làm bè chuối đặt hình người nộm lên và thả trôi
ra biển. Việc làm này có ý nghĩa là các hình nộm kia sẽ thay thế mạng cho người
thật chịu những nguy hiểm và tai nạn thậm chí là chết thay cho họ. Hiện nay các
làng ở đảo Lý Sơn vẫn còn giữ tục tế sống lính Hoàng Sa, tại đây cũng còn lưu giữ
nhiều bài văn tế được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm có nội dung là tế lính Hoàng
Sa. Tác giả Nguyễn Nhã trong chuyến đi thực địa huyện đảo Lý Sơn đã ghi lại một
đoạn văn tế: “Ngày hôm nay hoặc đêm nay, buổi sáng nay) có theo ý
người.................. ở tỉnh............ nước Đại Nam, xin cúng tế một cổ thuyền mô hình,
trôi theo đường thủy Hoàng Sa, mấy cỗ bàn, vàng, bạc, đáp lễ thần quan, xin dâng
lên khảo thủy đạo một tiệc, thành kính bày la liệt...” (Nguyễn Nhã, 2013, tr.102).
Ngoài ra trong bài viết của tác giả Đỗ Quỳnh Nga cũng có những hình ảnh về
lễ khao tế lính Hoàng Sa “Trong lễ kháo tế này ngoài hình nộm tượng trưng cho
người lính ra thì những người trong làng còn sử dụng những mô hình thuyền thay
cho thuyền thật của thủy quân Hoàng Sa để thực hiện việc tế lễ với mong muốn cầu
xin thủy thần che chở cho họ trong chặn đường ra đảo Hoàng Sa” (Đỗ Quỳnh Nga,
2016 )
Các quân lính sau khi thực hiện tế lễ xong sẽ chuẩn bị những vật dụng cần
thiết cho chuyến đi của mình trong suốt 6 tháng. Ngoài những đồ dùng sinh hoạt
vừa kể trên thì quân lính Hoàng Sa cũng mang theo trên thuyền một đôi chiếu, bảy
sợi dây mây và bảy đòn tre. Do vùng biển Hoàng Sa là nơi có rất nhiều bão tố và rất
nhiều nguy hiểm. Vì thế nếu như bị tai nạn hay chết bất ngờ giữa biển, những người
lính này sẽ sử dụng đôi chiếu để quấn xác và dùng những sợi dây mây để buộc chặt
97
và cố định lại bằng một nẹp tre. Ngoài ra họ còn sử dụng một thẻ tre nhỏ để ghi rõ
tên tuổi quê quán, đơn vị của người mất rồi thả xuống biển nếu ai vớt được thì được
vào thẻ bài mà có thể nhận biết và đưa về cốt cất.
Hoàng Sa lắm đá nhiều cồn
Người đi thì có mà không thấy về
Hoàng Sa mây nước bốn bề
Lệnh vua sai phải quyết lòng ra đi
Những câu thơ trên đã thể hiện những khó khăn cũng như lòng quyết tâm của
quân lính khi thực hiện công vụ ở quần đảo Hoàng Sa. Sau khi thực hiện lễ tế thủy
quân Hoàng Sa sẽ lên đường thực hiện công vụ ở quần đảo Hoàng Sa. Họ dùng 4
hoặc 5 chiếc thuyền câu nhỏ và nhẹ ra biển chủ yếu là các loại thuyền đánh cá của
ngư dân.
Do có kết cấu nhẹ nên dễ dàng luồn lách qua các mỏm đá tránh được các bãi
đá ngầm hay san hô. Các loại thuyền này đều do ngư dân ở làng Lý Sơn vùng Cù
Lao Ré làm ra. Vùng đảo Cù Lao Ré có nhiều các sản vật quý như đồi mồi, hải ba
ngoài ra ở cửa biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré có nhiều nguyên liệu như tre lá, gỗ thuận
tiện cho việc đóng tàu.
Hầu hết các nguyên liệu dùng để đóng tàu đều có nguồn gốc từ đảo Cù Lao Ré
như gỗ trò, gỗ kềnh kềnh đều được khai thác và vận chuyển từ các cánh rừng của
vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi cách đó không xa.
Phần lớn quần đảo Hoàng Sa được cấu tạo bởi nhiều đảo nhỏ với các rạn đá
ngầm và san hô. Vì thế hầu hết các thuyền buôn nước ngoài khi đi qua đây đều va
vào đá ngầm hay bị sóng biển đánh vỡ. Nhận thấy rõ những nguy hiểm trên quần
đảo này nên phương tiện di chuyển của thủy quân khi đến đây chủ yếu là những
chiếc thuyền buồm nhẹ và nhanh. Các chiếc thuyền này có thể lướt nhanh trên biển
và luồng lách qua các bãi đá ngầm và ít bị mắc cạn hay va vào các bãi san hô trên
đảo. Đội thủy quân Hoàng Sa hầu hết sử dụng những loại thuyền đánh cá của ngư
dân như thuyền ô và thuyền lê để ra đảo Hoàng Sa và tới các đảo Lý Sơn hay Cù
Lao Ré và tới cả đảo Cù Lao Chàm. Trong Hải ngoại kí sự của nhà sư Thích Đại
Sán cũng ghi nhận về sự xuất hiện của những loại thuyền này khi nhà sư đến vùng
98
đất Đàng Trong. “Thời trước quốc vương hằng năm sai thuyền đánh cá đi dọc bãi
cát, lượm vàng bạc khí cụ của những thuyền buôn tấp vào” (Thích Đại Sán, 2016, tr
191). Tác giả gọi những loại thuyền đánh cá này là Điếu ngư. Nhà sư Thích Đại Sán
khi đến vùng Đàng Trong sử dụng phương tiện là những loại tàu cỡ lớn vì thế có lần
bị mắc cạn được các thuyền nhỏ của ngư dân dẫn đường để vào được cảng.
Theo tài liệu mà tác giả Nguyễn Nhã sau chuyến đi thực tế ở vùng huyện đảo
Lý Sơn đã ghi chép lại về những chiếc thuyền buồm dùng để đi Hoàng Sa của đội
thủy quân lúc bấy giờ thì đó là những loại tàu nhẹ được làm từ tre hay các loại gỗ
nhẹ như gỗ sao hay gỗ kền kền, đây là những loại gỗ sẵn có ở địa phương.
Thuyền được cấu tạo bởi hai phần: phần đáy (hay mê) được đan bằng tre, nứa
sau đó họ phết lên đó một lớp phâu trâu và lớp ngoài cùng là dầu rái hay dầu mù u
để ngăn nước vào trong bên trong thuyền. Phía trên thành thuyền là những miếng gỗ
trò hay gỗ sao cán mỏng ghép lại, có ba cột buồm là buồm long, buồm mũi và buồm
được làm từ lá diệm và may lại bằng những dây xơ dừa. Các loại thuyền này đều do
những ngư dân ở huyện Lý Sơn tự đóng và có kích thước là chiều dài khoảng 20 m,
ngang (chiều rộng tính từ mạn thuyền bên trái đến mạn thuyền bên phải) là 4m và
chiều sâu là 3 mét 5 thước. Hầu hết các loại thuyền ra đảo Hoàng Sa là những
thuyền nhẹ với trọng tải thấp chỉ khoảng 50 tấn. Vì thế nếu như thuận gió thuyền có
thể chạy nhanh gấp 10 lần so với các loại thuyền khác. Các loại thuyền này chủ yếu
là do ngư dân trên các đảo tự đóng nên phần nhiều là nhanh và nhẹ, có thể nhanh
chóng tới được quần đảo Hoàng Sa và các đảo khác cũng như tránh được những bãi
đá ngầm hay san hô. Mặc dù các loại thuyền này rất thích hợp cho việc ra đảo
Hoàng Sa do có kích thích nhẹ và nhỏ gọn được làm từ những nguyên liệu sẵn có
trên đảo nhưng phần lớn còn thô sơ và lạc hậu nên gặp khó khăn khi vượt đại
dương, bên cạnh đó các loại thuyền này không trang bị vũ khí và do có trọng lượng
thấp nên chủ yếu dùng để khai thác sản vật và tổ yến.
Từ đảo Lý Sơn, thủy quân Hoàng Sa sẽ lênh đênh trên biển suốt 3 ngày đêm
để tới quần đảo Hoàng Sa. Tại đây họ sẽ tiến hành khai thác các sản vật như ốc, hải
sản, đồi mồi, hải ba, hải sâm, ngoài ra họ còn thu lượm các hóa vật còn sót lại từ các
tàu nước ngoài đắm ở đây. Trong suốt 6 tháng thực hiện công vụ, thủy quân không
99
chỉ khai thác các nguồn lợi kinh tế ở vùng quần đảo Hoàng Sa mà còn mở rộng tìm
kiếm ở các quần đảo phía Bắc. Sau khi hoàn thành công việc đến tháng 8 âm lịch họ
về đến cửa Eo (Thuận An), vào kinh đô nộp sản vật đúng quy định. Hầu hết các sản
vật mà đội Hoàng Sa thu lượm được chủ yếu là các hải sản như đồi mồi, hải sâm,
hải ba (ba ba biển), ốc tai voi, ốc hoa, ốc xà cừ, đạo mạo. Ngoài ra còn thu lượm
được một số vật từ các tàu đắm như súng đồng, vàng, bạc, thiếc chì, khẩu súng ngà
voi, sáp ong, đồ sứ, chì đen.
Tác phẩm Phủ Biên tạp lục đã ghi lại một cách cụ thể các sản phẩm mà đội
Hoàng Sa thu lượm được qua các năm. Lê Qúy Đôn đã xem xét và tra khảo sổ biên
của cai đội cũ Thuyên Đức Hầu, người đã chỉ huy đội Hoàng Sa trong nhiều năm
khi vào Phú Xuân nộp các sản vật thu lượm được từ quần đảo Hoàng Sa, cụ thể:
“Năm Nhâm Ngọ (1702) lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân được 5.1000 cân
thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỉ Sửu đến năm Qúy Tị, năm năm ấy
chỉ được 1 tấm đồi mồi hải ba. Cũng có năm được khối thiếc, bát sứ và hai khẩu
súng đồng mà thôi” (Lê Qúy Đôn, 1997, tr 155).
Những dẫn chứng trên đã cho thấy nguồn lợi mà quần đảo Hoàng Sa mang lại
khá dồi dào. Cung cấp cho chính quyền phong kiến không chỉ nguồn sản vật phong
phú, phục vụ nhu cầu tiêu dùng, mà còn giải quyết sự quan tâm của chính quyền về
vấn đề vũ khí. Do trong giai đoạn này diễn ra nhiều cuộc chiến tranh nên chính
quyền phong kiến quan tâm nhiều đến các hóa vật thu lượm được từ các con tàu
đắm hơn là nguồn hải sản. Đội Hoàng Sa sau đó được thưởng một số tiền khá lớn,
ngoài hải sản nộp theo đúng quy định phần còn lại thì chính quyền dành cho đội
Hoàng Sa. Hầu hết các sản phẩm này đều được họ đem đi bán ở những bến cảng
đông đúc như Hội An, vì nơi đây có nhiều lái buôn nước ngoài nên được giá hơn
những nơi khác.Về sau chính quyền cho thành lập thêm nhiều đội thủy quân khác
như Quế Hương, Thanh Châu, Hải Môn, Bắc Hải, cũng thực hiện việc tìm kiếm hải
vật, hóa vật và khai thác yến sào.
Đội Bắc Hải được thành lập vào năm 1775 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu.
Khác với đội Hoàng Sa, việc tuyển quân cho đội Bắc Hải không quy định rõ bao
nhiêu suất, chủ yếu dựa trên tinh thần tự nguyện. Lực lượng của đội thủy quân Bắc
100
Hải chủ yếu là người làng Tứ Chính huyện Chánh Dương tỉnh Quảng Ngãi. Họ
cũng được hưởng những quyền lợi như đội Hoàng Sa là được miễn cho tiền sưu
cùng các tiền thuế đò và qua cửa biển không phải đóng thuế. Phương tiện di chuyển
ra đảo của đội Bắc Hải cũng là những chiếc thuyền câu nhỏ giống thuyền đánh cá
của ngư dân.
Phạm vi hoạt động của đội Bắc Hải là toàn bộ vùng biển phía Nam và Tây
Nam trong đó có quần đảo Trường Sa. Tại sao tên là Bắc Hải mà lại quản lí vùng
biển phía Nam? Thực chất tên gọi Bắc Hải không phải để chỉ khu vực biển phía Bắc
mà có ý nghĩa là xa bờ dùng để chỉ vùng biển ở phía sau quần đảo Hoàng Sa.Vùng
quần đảo Trường Sa là khu vực rất ít bị thiên tai mưa bão nên các vụ đắm tàu
thường rất ít vì thế ít khi họ kiếm được các hóa vật như thiếc, chì vàng bạc, súng
ống mà chủ yếu là hải sản, đồi mồi, hải sâm….Mặc dù chịu sự cai quản của đội
Hoàng Sa nhưng thực tế Bắc Hải là một đội quân độc lập và có quan hệ gẳn bó với
đội Hoàng Sa ở phía Bắc. Thực chất việc thành lập đội Bắc Hải là nhằm mở rộng và
hỗ trợ thêm việc khai thác vùng biển phía Nam cho đội Hoàng Sa.
Do mới thành lập nên chính quyền cho cai đội Hoàng Sa kiêm quản luôn hoạt
động của đội Bắc Hải, điều này đảm bảo sự thống nhất và đồng bộ trong việc quản
lý toàn bộ vùng biển rộng lớn. Thông qua đội Hoàng Sa và Bắc Hải chính quyền
phong kiến đã tạo cơ sở vững chắc cho việc khai thác và xác lập chủ quyền của
mình ở vùng biển và các đảo, đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trải
qua các thời thời sau này, do yêu cầu bảo vệ an ninh vùng biển ngày càng cao, nên
cách thức tổ chức và hoạt động của đội thủy quân ngày càng được quân sự hóa
nhiều hơn. Khi phong trào Tây Sơn bùng nổ, do ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh
và nạn cướp biển hoành hành, chính quyền phong kiến không có điều kiện để quan
tâm đến việc cử thủy quân ra đảo để khai thác và thu lượm hóa vật như trước đây, vì
thế các hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa, Bắc Hải bị hạn chế và ngưng trệ.
Đến khi Nguyễn Nhạc làm chủ được vùng Quy Nhơn, Bình Thuận và Quảng Ngãi,
nơi có cửa biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré quê hương của đội thủy quân Hoàng Sa thì các
hoạt động khai thác vùng biển trước đây được tiến hành trở lại.
101
Sau khi nhiều năm bị gián đoạn, năm 1784 nhân dân huyện Cù Lao Ré huyện
An Vĩnh đã làm đơn xin Thái Đức Nguyễn Nhạc cho lập lại hai đội Hoàng Sa và
Quế Hương như trước đây. Đồng thời xin dùng thuyền ra các đảo và cù lao tìm
kiếm các sản vật như hải ba, đồi mồi để dâng nộp và sẵn sàng chiến đấu nếu như có
kẻ xâm lược. Trước thiện chí của dân làng An Vĩnh, chính quyền Tây Sơn cho lập
lại hai đội Hoàng Sa và Quế Hương, đồng thời sai Hội Đức Hầu mang theo bảng
hiệu thủy quân ra đảo Hoàng Sa thực hiện việc khai thác và tìm kiếm các sản vật
như trước đây. Không có tài liệu nào cho thấy thời Tây Sơn cấp lương thực cho đội
Hoàng Sa trong 6 tháng như trước. Nhưng việc Tây Sơn phái 5 chiếc thuyền câu
tiến ra Hoàng Sa, khai thác các hải vật và hóa vật thiếc đồng, chì v.v..từ các tàu đắm
đã cho thấy sự quan tâm của chính quyền Tây Sơn đối với vùng biển.
Dưới thời Tây Sơn, ngoài đội Hoàng Sa còn có các đội thủy quân khác như
đội Quế Hương, đội Đại Mạo Hải Ba, Quế Hương Chàm.Tuy nhiên, khác với trước,
trong giai đoạn này đội thủy quân Hoàng Sa đã mang dáng dấp của một tổ chức
quân đội nhà nước. Điều này cho thấy vai trò của đội thủy quân Hoàng Sa ngày
càng được nâng cao, từ một tổ chức bán quân sự, họ đã vươn lên đảm nhận sứ mệnh
lịch sử trở thành một lực lượng quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền vùng biển
đảo nước ta vào thế kỉ XIX.
Cuộc nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh kéo dài đã làm cho vùng đất từ Quy
Nhơn đến Quảng Nam trở thành chiến trường ác liệt. Các hoạt động khai thác của
đội thủy quân bị ảnh hưởng nghiêm trọng, các cuộc chiến tranh kéo dài và chính
quyền Tây Sơn do mải lo đối phó với quân Nguyễn nên không còn điều kiện để
quan tâm. Ngoài ra, chính quyền Tây Sơn còn sử dụng giặc biển Tề Ngôi để chống
lại Nguyễn Ánh, nên chúng không chỉ hoạt động ở vùng biển Trung Hoa mà còn
tràn sang cả Đại Việt. Tất cả những điều này khiến cho hoạt động của đội thủy quân
gặp nhiều khó khăn và ngưng trệ trong một thời gian dài.
Đến thời nhà Nguyễn, khi Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn lập ra triều Nguyễn
vào năm 1802, chế độ phong kiến tập quyền được tái thiết lập, bộ máy nhà nước
tương đối hoàn chỉnh. Năm 1803, vua Gia Long cho tái lập đội Hoàng Sa. Mặc dù
vẫn là lực lượng dân binh nhưng trong giai đoạn này những thủy quân Hoàng Sa đã
102
được trang bị vũ khí, tàu thuyền và được rèn luyện kĩ năng chiến đấu linh hoạt và
chuyên nghiệp hơn. Khác với các triều đại trước đây, vào thời Nguyễn đội thủy
quân Hoàng Sa có nhiệm vụ quân sự nhiều hơn là khai thác kinh tế. Tháng 7 năm
Quý Hợi (năm 1803) vua Gia Long đã cho lập lại đội Hoàng Sa “Lấy Cai cơ Võ Văn
Phú làm thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa” (Đại
Nam thực lục tập 1, 2002, tr.120 - 121).
Chính vua Gia Long đã cử cai cơ thủ ngự Võ Văn Phú mộ dân ngoại tích lập
đội Hoàng Sa. Nếu như các triều đại trước chủ yếu lấy dân chính dinh nội tịch thì
thời Gia Long lấy dân ngoại tịch, việc này nhằm tăng số lượng thủy quân Hoàng Sa,
đồng thời tạo nhân lực cho việc đóng quân ở các địa phương. Tiếp đó, đến năm
1815 và năm 1816, vua Gia Long cho tiến hành các hoạt động xác lập chủ quyền
trên quần đảo. Theo Đại Nam thực lục chính biên, tháng 12 năm Gia Long thứ 14
(1815) nhà vua sai đội Hoàng Sa ra thăm dò đường biển và đến năm 1816 triều đình
thành lập thêm đội thủy quân bên cạnh đội Hoàng Sa...
Tháng 3 năm Gia Long thứ 15 (1816), nhà vua lại “sai thủy quân và đội
Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để thám dò thủy trình”. Như vậy trong giai đọan
này nhà vua đã có sự kết hợp giữa lực lượng đội quân dân Hoàng Sa với lực lượng
chính quy của triều đình, đội thủy quân Hoàng Sa trở thành một bộ phận gắn bó với
lực lượng chính quy của nhà nước, có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn toàn vẹn
lãnh thổ. Hình thức kết hợp giữa lực lượng dân binh bên trong lực lượng nhà nước,
đã giúp chính quyền thành công trong việc nâng cao hiệu quả khai thác và thực thi
chủ quyển vùng biển. Trên cơ sở đó, chính quyền đã tạo ra một lực lượng thủy quân
chuyên trách thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa. Như vậy, từ những đội dân
binh Hoàng Sa, Bắc Hải của thời trước, chính quyền nhà Nguyễn đã đưa họ vào đội
thủy quân chính quy của triều đình, trở thành lực lượng quân sự chuyên nghiệp và
quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền vùng biển đảo.
Thông qua hoạt động của đội thủy quân trên quần đảo Hoàng Sa. Vua Gia
Long tiến hành đẩy mạnh việc xác lập và khẳng định chủ quyền của mình tại quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa một cách công khai và minh bạch mà không hề vấp phải
bất cứ một sự phản kháng hay gây ra xung đột từ bất cứ một quốc gia nào. Năm
103
1816 được coi là cơ sở quan trọng cho sự hình thành lực lượng thủy quân chính quy
đầu tiên của triều đình, đồng thời cũng là sự kiện có ý nghĩa to lớn trong việc đánh
dấu sự khẳng định chủ quyền của vua Gia Long tại quần đảo Hoàng Sa. Sự kiện này
không chỉ có ý nghĩa to lớn trong nước mà còn dành được sự quan tâm, chú ý của
nhiều quốc gia trên thế giới thời bấy giờ. Việc vua Gia Long sai “người ra Hoàng
Sa cắm cờ và long trọng” tuyên bố chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa được các tạp chí
uy tín của nước ngoài và hồi kí của những người nước ngoài bấy giờ như J.B.
Chaigneau sĩ quan hải quân, J.L. Taberd giám mục người Pháp bên cạnh triều đình
Quần Đảo Pracel hay Paracel là khu vực chằng chịt những hòn đảo nhỏ, đá
ngầm và bãi cát…Những người dân xứ Đàng Trong gọi khu vực đó là Cồn
Vàng. Mặc dù rằng quần đảo này chỉ có độc những tảng đá ngầm mà không có
gì khác và những độ sâu của biển hứa hẹn những điều bất tiện hơn là sự thuận
lợi. Nhưng nhà vua Gia Long vẫn nghĩ rằng ông ta đã tăng quyền thống trị lãnh
thổ của mình bằng sự sáp nhập tội nghiệp đó. Vào năm 1816, nhà vua Gia
Long đã tới long trọng cắm lá cờ của mình và chính thức giữ chủ quyền ở các
bãi đá nàymà không có một ai tranh giành với ông ta” (Đỗ Bang, 2017).
Gia Long... khẳng định một cách rõ ràng.
Hay trong cuốn sách Histoire et description de tous les peoples được xuất bản
Chúng tôi nhận xét là từ 34 năm nay, quần đảo Paracel (người An Nam gọi là
Cát Vàng) đã có người An Nam chiếm đóng …Chúng tôi không biết là họ có
thiết lập ở đây một cơ sở hay không nhưng chắc chắn là hoàng đế An Nam đã
tha thiết muốn gắm thêm cái hoa nhỏnày vào vuông miện của mình, vì nhà vua
đã phán đoán về việc tự mình đi chiếm hữu nó, và năm 1816 vua đã long trọng
cắm tại đây lá cờ của An Nam (Đỗ Bang, 2017).
tại Pháp năm 1848 đã ghi nhận:
Năm 1816 là sự kiện quan trọng trong lịch sử chủ quyền Việt Nam tại vùng
biển, đây là sự kiện đánh dấu mốc cho việc chiếm hữu và xác lập chủ quyền vùng
104
biển của triều Nguyễn trên cơ sở khai thác và sử dụng lâu dài ở các thế hệ trước. Vì
thế đây là thời điểm mà các vị vua Nguyễn ra sức tiến hành các hoạt động cụ thể,
tích cực nhằm khẳng định chủ quyền của mình trên biển trong bối cảnh các quốc gia
phương Tây ráo riết tìm kiếm thuộc địa và thị trường mới. Để có thể tiến hành việc
khẳng định chủ quyền của mình một cách hợp pháp vua Gia Long đã thông qua lực
lượng thủy quân chính quy trực tiếp quản lí và bảo vệ chủ quyền ở các quần đảo
giữa biển Đông. Trong thời kì nhà Nguyễn, chức năng khai thác kinh tế của đội
Hoàng Sa, Bắc Hải dần dần chuyển sang vai trò bảo vệ an ninh quốc phòng của đội
thủy quân triều đình. Mặc dù không còn hoạt động dưới danh nghĩa đội Hoàng Sa
và Bắc Hải nhưng tiềm năng về nguồn nhân lực, kinh nghiệm, điều kiện và năng lực
của họ vẫn được chính quyền phong kiến khai thác nhằm xây dựng một lực lượng
thủy quân hùng mạnh và phát huy thế mạnh trong thực thi công vụ ở các quần đảo
xa bờ.
Hoạt động của thủy quân Hoàng Sa dưới thời vua Minh Mạng
Dưới thời vua Minh Mạng trị vì các hoạt động khẳng định chủ quyền của nước
ta tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đẩy lên mức độ cao nhất so với các
triều đại khác trong lịch sử. Minh Mạng đã hoàn tất việc hợp nhất đội thủy quân
Hoàng Sa và Bắc Hải vào đội thủy quân chính quy của triều đình được triển khai
vào cuối thời Gia Long.
Vua Minh Mạng lên ngôi kế vị giữa lúc thực dân phương Tây đang thực
hiện xâm lược và đẩy mạnh các hoạt động xâm chiếm nhiều quốc gia phương Đông.
Ý thức được điều đó, ngay từ rất sớm vua Minh Mạng đã chúý đến việc đẩy mạnh
các hoạt động khẳng định chủ quyền trên vùng biển, nhất là đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Mặc dù trong giai đoạn này đội thủy quân như Hoàng Sa và Bắc Hải không
còn hoạt động như xưa nhưng những ngư dân ở xã An Vĩnh, Cù Lao Ré hay dân ở
cửa biển Sa Kỳ tỉnh Quảng Ngãi vẫn là lực lượng quan trọng được bổ sung vào đội
thủy quân. Họ có nhiệm vụ dẫn đường, thăm dò đường biển, hay thực hiện việc cắm
mốc, xây miếu, thực hiện việc cứu nạn các thuyền bị đắm ngoài khơi. Trong giai
đoạn này ngoài thủy quân, dân đinh, cai thủy thì việc thực hiện công vụ ở quần đảo
105
Hoàng Sa còn có các chức quan như biền binh (lính trong quân đội), vệ giám thành
(có nhiệm vụ vẽ bản đồ), binh đinh và dân phu thuộc các tỉnh ven biển Nam Trung
Bộ và Nam Bộ. Ngoài ra vua Minh Mạng còn quy định chặt chẽ và cụ thể về thời
gian và cách thức tiến hành, đồng thời đánh giá kết quả thực hiện để từ đó tùy theo
mức độ đóng góp hay vi phạm mà thưởng hay phạt một cách rất công minh. Có thể
nói đây là lần đầu tiên vấn đề thực thi công vụ ở quần đảo Hoàng Sa được đẩy lên
mức độ cấp nhà nước. Ở các thời trước việc thực thi công vụ ở Hoàng Sa chính
quyền đều giao cho đội thủy quân thực hiện tuy nhiên trong thời Minh Mạng thì nhà
nước trực tiếp kiểm soát và quản lý các hoạt động của đội thủy quân. Đây được coi
là bài học kinh nghiệm quy báu trong việc thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa.
Hằng năm vua Minh Mạng liên tục cử thủy quân theo lệ ra quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa để đo đạc, xem xét và vẽ bản đồ cũng như dựng bia chủ quyền. Mội
lần thực hiện công vụ ở Hoàng Sa quân được cấp tờ sai để thi hành công vụ, tờ này
sẽ được viên đội trưởng đưa cho viên quan thủ ngự khi ra vào cảng. Những nhiệm
vụ này luôn được chính quyền trực tiếp chỉ đạo và theo sát đã cho thấy vai trò quan
trọng của đội thủy quân bấy giờ. Hầu hết các hoạt động của đội thủy quân ở Hoàng
Sa đều được đặt dưới sự chỉ đạo cụ thể và rõ rệt của vua Minh Mạng thông qua các
chỉ dụ và tờ lệnh sai đi. Chẳng hạn như trong lời tâu của Bộ Công năm Minh Mạng
thứ 17 (năm 1836) đã trình lên vua chuyến đi vãng thám Hoàng Sa của đội thủy
quân do chánh đội trưởng Phạm Hữu Nhật lãnh đạo trong đó vua Minh Mạng đã chỉ
… không cứ là bãi đá nào, phàm khi thuyền đến nơi, tức thì cứ chiếu chỗ ấy
chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chu vi và nước biển bốn bề xung quanh nông
hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở bình dị thế nào,
phải xem xét đo đạc rõ ràng vẽ thành bản (Đại Nam thực lục tập 4, 2006).
rõ:
Ngoài ra vua Minh Mạng còn đề cao vai trò của việc thực hiện công vụ ở Hoàng Sa
thông qua các quy định thưởng phạt một cách công minh. Theo đó những hành
động làm sai tránh hay chậm trễ đều bị phạt. Nếu hoàn thành tốt thì sẽ được thưởng
chẳng hạn như:
Năm 1835 cai đội Phạm Văn Nguyên đi công vụ ở quần đảo Hoàng Sa về
chậm trễ, giao cho Bộ Công trị tội và phạt 80 trượng. Ngoài ra các viên giám
thành như Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Hoằng vẽ bảng đồ
Hoàng Sa chưa chu tất cũng bị phạt 80 trượng Năm 1837 kinh phái và tỉnh phái
Võ Văn Hùng, Nguyễn Văn Sênh khởi hành chậm trễ đều bị phat 80 trượng
(Nguyễn Nhã, 2012, tr.185).
106
Những quy định thưởng phạt này có tác dụng răn đe và khích lệ, tạo điều kiện
cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, đồng thời cho thấy tài năng quản lí
và lãnh đạo của vua Minh Mạng. Tuy nhiên trong số trường hợp chậm trễ nhưng có
lí do chính đáng như do bão, thiên tai không thể về như quy định đều được xét và
tha tội. Bên cạnh đó chính quyền Minh Mạng ban thưởng đối với những người dân
ngư vất vả mặc dù không hoàn thành nhiệm vụ. Trong châu bản triều Nguyễn ngày
13 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 16 (1835) Trong bản tấu trình này ghi lại việc cai
đội Phạm Văn Nguyên được phái đi Hoàng Sa như về trễ và còn sai sót trong việc
Các viên có trách nhiệm vẽ bản đồ nhưng chưa rõ rang là giám thành Trần Văn
Vân, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Hoằng cũng bị phạt 80 trượng nhưng đều
chuẩn cho tha. Viên dẫn đường Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh được ban
thưởng tiền Long Phi loại nhỏ 3 mai. Các viên tượng đợt này đều được thưởng
tiền 1 quan , cho về đơn vị cũ ( Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, 2013, tr.185).
vẽ bản đồ. Theo đó:
Các dân phu cho tỉnh phái đi được thưởng 1 hay 2 quan tiền và được miễn thuế vì
sự vất vả cực khổ, các viên chức chậm trễ hay sai phạm đều bị trị tội. Việc làm trên
đã thể hiện sự quản lí của chính quyền đối với hoạt động của thủy quân và đề cao
việc thực hiện vẽ bản đồ ở quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra cũng thể hiện sự quan tâm
của chính quyền vua Nguyễn đối với đời sống nhân dân. Tăng cường sự gắn bó giữa
nhà nước với nhân dân trong công cuộc xác lập và bảo vệ chủ quyền vùng biển
nước ta.
107
Hầu hết các chuyến đi thực hiện công vụ ở Hoàng Sa đều được tổ chức và
chuẩn bị một cách kĩ lưỡng. Vua và Bộ Công có vai trò chỉ đạo và hướng dẫn việc
đo đạc, xem xét thủy trình ở quần đảo Hoàng Sa, vệ thủy quân có nhiệm vụ thi hành
và vệ giám thành có nhiệm vụ đo đạc và vẽ bản đồ. Ngoài ra lực lượng dân phu
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn đường, cắm cọc, xây miếu cũng như
thực hiện công tác cứu hộ các tàu gặp nạn trên biển, phần lớn họ đều được lấy từ
dân của vùng biển Sa Kỳ hay Cù Lao Ré, cái nôi của đội thủy quân Hoàng Sa. Thời
gian thực hiện nhiệm vụ là vào hạ tuần tháng giêng theo đó biền binh và giám thành
sẽ đáp một chiếc thuyền đến Quảng Ngãi vào hạ tuần tháng 2. Ngoài ra chính quyền
còn thuê 4 chiếc thuyền của ngư dân làm nhiệm vụ dẫn đường. Thuyền ô là những
loại thuyền sơn đen từ mũi đến lái dài 4 trượng rộng tám thước 4 tấc, 3 thước 2 tấc
với 30 chèo. Các loại thuyền này chạy rất nhanh và có thể chở được 20 người thích
hợp cho việc tuần tra, vận tải.
Chính quyền thuê 4 loại thuyền của ngư dân vì đây là những chiếc thuyền câu
nhẹ và nhỏ di chuyển rất nhanh, dễ dàng đổ bộ vào đất liền và tránh được các mỏm
đá cũng như các bãi đá ngầm, các thủy thủ trên thuyền lại là người dân địa phương
nên đã quen với địa hình và cách thức tiến hành khai thác và tổ chức hoạt động trên
vùng biển.
Ngoài vẽ bản đồ thì chính quyền Minh Mạng còn sai thủy quân đi đến quần
đảo Hoàng Sa xây miếu, dựng bia làm dấu. Như ở chương trước tác giả đã đề cập là
trong quá trình xem xét đo đạc thủy trình thì thủy quân đã phát hiện ra ngôi miếu cổ
có từ lâu đời trên đó ghi Vạn Lý Ba Bình. Ngoài ra trong thời kì này chính quyền
còn phái quân đi đảo Hoàng Sa thực hiện việc đo đạc, vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng
bia chủ quyền. Đây được coi là việc làm tiến bộ của triều Minh Mạng có tác dụng
nâng cao hơn nữa việc xác lập chủ quyền tại vùng biển đảo. Theo bản phúc tấu của
Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 17 (năm 1836) trong đó ghi rõ châu
phê của Minh Mạng khi đội thủy quân ra quần đảo Hoàng Sa cắm mốc chủ quyền:
“Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5
thước, rộng 5 tấc khắc sâu hàng chữ “ Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), họ và
tên cai đội thủy quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu” và
108
đồng thời cũng nhấn mạnh rằng: “thuyền đi đến đâu cắm cột mốc đến đó để lưu
dấu” (Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, 2013, tr.115).
Như vậy qua mỗi năm các hoạt động đo đạc thủy trình, dựng bia, cắm mốc
chủ quyền được đội thủy quân tiến hành một cách đều đặn. Các cột mốc đều khắc rõ
tên, chức vụ, năm, tên họ của người chỉ huy theo mệnh lệnh triều đình ra đảo. Các
cột mốc này không chỉ là dấu hiệu ghi nhớ mà còn có giá trị là bằng chứng khẳng
định chủ quyển của chính quyền phong kiến Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
Cùng với hoạt động xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
thì thủy quân cũng khai thác sản vật như thời chúa Nguyễn trước đây. Trong tác
phẩm Đại Nam thực lục có chép rằng “Năm Giáp Ngọ (1836) giám thành đội
trưởng Trương Phúc Sĩ cùng với thủy quân hơn 20 người đến Hoàng Sa vẽ bản đồ
khi trở về đã đem dâng vua các hải vật cá, ba ba sò ốc bắt được ở đảo đó” (Đại
Nam thực lục tập 4, 2006, tr.120 - 121).
Thời Thiệu Trị có rất ít các tư liệu viết về việc triều đình quân ra đảo Hoàng
Sa. Do trong giai đoạn này phải đối phó với cuộc tấn công của Pháp tại Đà Nẵng
nên chính quyền phong kiến không có điều kiện để cử các đội thủy quân tiến hành
xem xét đo đạc thủy trình ở quần đảo Hoàng Sa như trước. Vì thế, Quốc sử quán
triều Nguyễn ghi nhận lại việc Bộ Công xin cho trì hoãn việc thám vãng ở Hoàng
Sa. Trong đó cụ thể nhất là hai bản tấu của Bộ Công tháng 6 năm Thiệu Trị thứ 5
(năm 1845), ngày 26 tháng 1 năm Thiệu Trị thứ 7 (năm 1847) đều được vua châu
phê cho đình hoãn việc thám sát Hoàng Sa.
Như vậy trong thời kì Thiệu Trị hoạt động thăm dò vùng đảo Hoàng Sa của
thủy quân tạm thời bị gián đoạn nhưng đây chỉ mang tính chất tạm thời. Do trong
giai đoạn này chính quyền phong kiến gặp phải đối phó với cuộc nổi dậy người Khơ
me ở Nam Kì, ở phía Nam Chân Lạp và Xiêm liên tục tiến hành gây hấn. Phía biển
năm Đinh Mùi (1847) cuộc trạm trán giữa chính quyền phong kiến với Pháp, theo
đó Pháp dùng đại bác bắn chìm tàu của Việt Nam trên biển Đông. Sự kiện này đã
làm cho chính quyền Thiệu Trị tăng cường chính sách cấm đạo Thiên Chúa gay gắt.
Thời kỳ này đánh dấu sự mở đầu cho đường lối "ngoại giao pháo hạm" của
Pháp, báo hiệu trước về hành động xâm lược sau này. Những hành động gây hấn
109
trắng trợn của tư bản Pháp trên vùng biển nước ta báo hiệu cho cuộc chiến tranh
xâm lược có thể nổ ra. Vì thế, vua Thiệu Trị đã tiến hành tăng cường các hoạt động
phòng thủ ở vùng duyên hải nhằm ngăn chặn nguy cơ xâm lược Vì thế các hoạt
động đo đạc thám vãng vùng biển trong giai đoạn này đều tạm hoãn.
Sang thời Tự Đức, thực dân Pháp ngày càng can thiệp sâu hơn vào nội bộ của
triều đình. Chính quyền phong kiến bấy giờ bộc lộ những yếu ớt và khủng hoảng.
Các cuộc nổi dậy của tầng lớp văn thân, sĩ phu, việc tăng thuế, những yếu kém về
kinh tế cũng như hạn chế trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Đại Việt với Pháp
và Trung Hoa...những khó khăn, thử thách trong và ngoài nước khiến chính quyền
Tự Đức không có điều kiện cử các đội thủy quân ra vùng quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Hoạt động chủ yếu trong giai đoạn này của thủy quân là thực hiện
nhiệm vụ cứu hộ các thuyền nước ngoài đắm hay gặp nạn như cứu tàu Pháp vào
năm Canh Dần (1830) hay cứu tàu người Xích Mao chở 540 người gặp nạn ở Vạn
Lý Trường Sa thời Tự Đức...thể hiện ứng xử nhân đạo của chính quyền cũng như
góp phần khẳng định chủ quyền tại vùng biển đảo
Hoạt động của thủy quân Hoàng Sa có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
khai thác và thực thi chủ quyền của chính quyền phong kiến tại vùng đảo xa bờ, đặc
biệt là đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong thời chúa Nguyễn các
đội thủy quân được thành lập nhằm đảm trách việc khai thác lợi ích kinh tế của
biển, đồng thời đem lại cho chính quyền phong kiến nguồn lợi to lớn về vũ khí. Các
hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa đã giúp cho chính quyền có thể mở rộng
việc khai thác và quản lí các quần đảo xa bờ. Từ tổ chức bán quân sự ban đầu trải
qua quá trình hoạt động của mình, đội thủy quân Hoàng Sa trở thành một bộ phận
của lực lượng quân sự chính quy của triều đình. Họ có vai trò to lớn là lực lượng
trực tiếp đại diện cho triều đình thực hiện việc quản lý và chiếm hữu hợp pháp vùng
biển đảo.
Trải qua các triều đại khác nhau từ thời chúa Nguyễn đến thời Tây Sơn và nhà
Nguyễn sau này đều cố gắng tổ chức và duy trì các hoạt động của đội Hoàng Sa và
xem họ là lực lượng đặc biệt đảm nhận việc khai thác và bảo vệ an ninh vùng biển.
Những ngư dân của huyện Cù Lao Ré và cửa biển Sa Kỳ đã được quân sự hóa. Họ
110
vừa thực hiện khai thác kinh tế với danh nghĩa ngư dân vừa thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ vùng biển như người lính. Họ không chỉ bảo vệ vùng biển của tổ quốc mà còn
bảo vệ quê hương, người thân và gia đình của họ. Chỉ với những công cụ thô sơ ban
đầu những người lính Hoàng Sa đã đóng góp vai trỏ quan trọng trong việc khai thác,
bảo vệ và xác lập chủ quyền tại vùng biển đảo. Đến thời nhà Nguyễn nhiệm vụ của
họ không còn đơn thuần thực hiện việc khai thác kinh tế mà đã được nâng lên thành
tổ chức chính quy và là một bộ phận của lực lượng thủy quân triều đình. Có nhiệm
vụ là thay mặt chính quyền thực hiện xem xét đo đạc thủy trình và cắm mốc, dựng
bia xác lập chủ quyền. Có thể nói những đội thủy quân Hoàng Sa là những người đã
góp phần quan trọng tạo nên trang sử vẻ vang cho dân tộc.
111
Tiểu kết Chương 2
Chính sách khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển, của chính quyền chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn là hai hoạt động được tiến hành song song liền kề
nhau. Thông qua việc khai thác kinh tế biển chính quyền phong kiến cũng tiến hành
bảo vệ chủ quyền của mình tại vùng biển. Các hoạt động khai thác thời chúa
Nguyễn được đẩy mạnh hơn. Vì trong thời kì này các chúa Nguyễn mong muốn
nhanh chóng xây dựng vùng đất Đàng Trong thành một chỗ đứng chân vững mạnh
cả về kinh tế lẫn quân sự.
Xuất phát từ nhu cầu tồn tại và cuộc chiến với thế lực Đàng Ngoài đã tạo động
lực thúc đẩy cho các chúa Nguyễn phải khai thác tối đa những tiềm năng mà vùng
đất Thuận Quảng mang lại. Các hoạt động khai thác trong thời kì này gắn liền với
hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa về sau thì có thêm đội Bắc Hải. Các đội này
lúc đầu có nhiệm vụ là khai thác ở các vùng ven biển và hải đảo những quần đảo xa
bờ như Hoàng Sa, Trường Sa (Vạn Lý Trường Sa) về sau thì kiêm thêm nhiệm vụ
bảo vệ tuần tra và giám sát. Thông qua hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa và
Bắc Hải chính quyền phong kiến cũng tiến hành việc xác lập chủ quyền của mình
đối với các quần đảo và vùng ven biển. Đây được coi là nền tảng quan trọng cho
việc tiến tới xác lập một cách hoàn thiện trong giai đoạn các vua Nguyễn sau này.
Trong chính sách hướng biển thì chính quyền chúa Nguyễn đã thực hiện rất tốt
chính sách kinh tế hải thương bằng việc mở rộng quan hệ giao thương với nhiều
quốc gia trong khu vực, đưa kinh tế vùng đất này phát triển một cách hưng thịnh và
rực rỡ nhất trong lịch sử. Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các đô thị và
thương cảng lớn như Hội An, Nước Mặn, Bãi Xàu thu hút các thương nhân từ khắp
các nơi tìm đến. Các thương nhân nước ngoài không chỉ tới mang sản phẩm mua
bán mà họ còn xây dựng những khu phố, những đô thị mang nét văn hóa của đất
nước mình.
Các chúa Nguyễn đã biết tận dụng khai thác những tiềm năng mà vùng đất này
mang lại như sự giàu có về các sản phẩm nông lâm nghiệp, long não, ngà voi, da
hưu, sừng tê giác, trầm hương, kì nam cùng với chính sách ngoại giao khôn khéo,
“không đóng cửa trước bất kì một quốc gia nào” và đối sách linh hoạt tùy theo từng
112
quốc gia. Chính đường lối ngoại giao năng động có một không hai của các chúa
Nguyễn đã thu hút đông đảo các thương nhân từ khắp các nơi tìm đến mang lại cho
chính quyền phong kiến một nguồn lợi khổng lồ từ việc đánh thuế và sự đa dạng về
các loại vũ khí từ các nước Phương Tây. Các hoạt động này đã đem lại cho chính
quyền chúa Nguyễn nguồn sức mạnh to lớn trong việc xây dựng một thể chế vững
mạnh, quân đội và vũ khí hiện đại trong cuộc chiến với chúa họ Trịnh mà còn tạo
điều kiện cho việc mở rộng lãnh thổ của các chúa Nguyễn về phía Nam.
Tư duy hướng biển của các chúa Nguyễn đã thay đổi quan điểm truyền thống
“trọng nông ức thương” của các triều đại trước đây, đưa nền kinh tế nước ta thời đó
phát triển theo hướng mới lấy ngoại thương làm bước tiến quan trọng. Thực tế lịch
sử đã chứng minh trong suốt 2 thế kỉ XVI - XVII nhờ vào hoạt động ngoại thương
phát triển mạnh mẽ đã tạo cho vùng đất Đàng Trong có tầm ảnh hưởng nhất định
trong khu vực, không chỉ vững mạnh về kinh tế mà còn cả về quân sự. Chính sách
ngoại giao của chính quyền Đàng Trong luôn cởi mở và tiếp nhận các thương nhân
từ khắp nơi tìm đến trao đổi và mua bán, đồng thời thiết lập hệ thống trục giao
thương liên vùng. Các thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc và Bồ Đào Nha đóng vai
trò quan trọng trong quan hệ giao thương với Đàng Trong không chỉ mang lại sự
phát triển về kinh tế mà còn tạo thêm liên minh đắc lực trong cuộc chiến với chiến
quyền họ Trịnh. Nhờ việc mở rộng quan hệ giao thương với Nhật Bản và Bồ Đào
Nha mang lại cho chính quyền Đàng Trong nguồn lợi to lớn về vũ khí và quân trang
hiện đại và những ảnh hưởng nhất định về văn hóa, ngoại giao. Điểm khác biệt
trong chính sách khai thác kinh tế biển đảo thời chúa Nguyễn và vua Nguyễn đó là
bắt nguồn từ sự khác nhau về ý thức của hai triều đại. Đối với chúa Nguyễn việc
khai thác nguồn lợi từ biển có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển kinh tế đất nước
tạo điều kiện cho việc tăng cường nhân lực để phát triển vùng đất mới. Còn các vua
Nguyễn thì thông qua các hoạt động khai thác để có thể kiểm soát chặt chẽ vấn đề
an ninh quốc phòng. Thời chúa Nguyễn thì các hoạt động khai thác được chú trọng
nhiều hơn. Hoạt động khai thác đi kèm với việc xác lập và bảo vệ chủ quyền đã tạo
điều kiện cho chính quyền phong kiến từng bước hợp thức hóa việc làm chủ của
mình tại vùng biển, và các hoạt động này được tiến hành một cách liên tục từ thế hệ
113
này sang thế hệ khác. Chính sách khai thác kinh tế và bảo vệ chủ quyền thời chúa
Nguyễn và vua Nguyễn được tiến hành song song và liên tục thông qua sự ra đời và
hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa, Bắc Hải. Về tổ chức quản lí thì đội Hoàng
Sa và Bắc Hải luôn được dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền phong kiến
Nguyễn thông qua các công vụ, chiếu chỉ, mệnh lệnh và được tiến hành một cách
đều dặn hằng năm. Mặc dù còn hạn chế những chính nhờ có lực lượng này mà
chính quyền chúa Nguyễn mặc dù mở rộng cửa buôn bán với tất cả các nước vẫn
đảm bảo được vấn đề an ninh quốc phòng.
Đến thời Tây Sơn, Thái Đức Nguyễn Nhạc cho đội thủy quân Hoàng Sa, Bắc
Hải phục hồi và hoạt động trở lại. Ngoài ra còn bổ sung thêm các đội như Quế
Hương, đã bị ngưng hoạt động trong cuộc chiến giữa Tây Sơn với họ Nguyễn.
Trong giai đoạn này các đội Hoàng Sa đã bắt đầu có tổ chức và hoạt động như đội
thủy quân của triều đình. Đến thời các vua Nguyễn đặc biệt là thời Gia Long Minh
Mạng đội Hoàng Sa được sáp nhập vào lực lượng chính quy của triều đình đảm
đương trọng trách quan trọng trong việc thay mặt triều đình khẳng định chủ quyền ở
các vùng biển và hải đảo nhất là vùng Hoàng Sa Trường Sa. Thời kì này đội Hoàng
Sa không còn có tên gọi và hoạt động như một tổ chức dân sự như trước mà đã trở
thành một lực lượng quan trọng không thể thiếu trong lực lượng thủy quân của triều
đình. Chính quyền nhà Nguyễn sử dụng họ là lực lượng tiên phong dẫn đường trong
việc thực hiện công vụ như cắm mốc chủ quyền, dựng bia, xây dựng chùa miếu và
trồng cây ở đảo Hoàng Sa và các đảo xa bờ.
Như vậy so với các thời kì trước đây thì đến thời nhà Nguyễn vai trò và tầm
quan trọng của đội Hoàng Sa được nâng cao rất nhiều. Vai trò của đội thủy quân
Hoàng Sa trong lịch sử xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo từ thế kỉ XVII đến
thế kỉ XIX được thể hiện rõ nét thông qua các hoạt động khai thác, tuần tra, giúp đỡ
các tàu thuyền bị đắm cho đến các hoạt động khẳng định chủ quyền ở vùng biển.
Mặc dù trải qua nhiều thế kỉ có đôi lúc hoạt động của đội Hoàng Sa bị gián
đoạn bởi các cuộc nội chiến và sự biến động của lịch sử nhưng chính quyền phong
kiến chưa bao giờ cho chấm dứt hay giải thể đội Hoàng Sa. Qua mỗi triều đại thì vai
trò của đội thủy quân này lại thể hiện một cách rõ nét và trên mức độ cao hơn trước.
114
Có thể nói quá trình phát triển của đội thủy quân Hoàng Sa được gắn liền với sự đổi
mới nhận thức trong tư duy của chính quyền và những biến động của tình hình thế
giới. Việc sử dụng đội thủy quân Hoàng Sa vào việc khai thác kinh tế và xác lập
chủ quyền đây được coi là bảo học quan trọng cho tiònh hình nước ta hiện nay.
Thực chất hiện nay việc khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển của nước ta chưa
mang lại hiệu quả cao. Hầu hết việc khai thác đều được tiến hành bởi ngư dân chứ
chưa có một lực lượng thủy quân nhà nước nào đảm nhiệm. Ngoài ra số lượng
thuyền đánh cá nhiều rải rác và các phương tiện khai thác còn lỗi thời và xuống cấp.
Vì thế gây hạn chế cho việc kiểm soát hoạt động khai thác, hiệu quả khai thác mang
lại chưa cao việc quản lí thiếu chặt chẽ . Nên thành lập một tổ chức thủy quân nhà ,
nước, bên cạnh đó cần tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát và nâng cấp các
phương tiện khai thác đánh bắt. Hiện nay chính quyền đã yêu cầu các ngư dân phải
trang bị thiết bị bộ đàm cho các tàu đánh cá có tải trọng lớn. Tuy nhiên cần có sự
thống nhất trong việc tiến hành đồng thời nhà nước nên giao trách nhiệm cho một tổ
chức ở mỗi đại phương kiểm tra và quản lí để việc này được tiến hành một cách
đồng bộ hơn.
115
Chương 3. CHÍNH SÁCH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO
THỜI CHÚA NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN
(TỪ THẾ KỈ XVII - NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX)
3.1. Hoạt động tuần tra, kiểm soát trên biển
Với ý thức kinh tế trong cái nhìn hướng biển của mình các vị vua thời phong
kiến đã biết tận dụng những lợi thế mà biển mang lại, tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa
đất nước phát triển.Từ rất sớm chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã thấy
được những lợi thế từ biển mang lại, phát huy các yếu tố kinh tế biển của cư dân
Chămpa để xây dựng vùng đất Đàng Trong ngày càng hùng mạnh về kinh tế lẫn
quân sự đứng vững trước các cuộc tấn công của chính quyền họ Trịnh, Xiêm và
Chân Lạp. Việc khai thác các yếu tố kinh tế biển cũng đặt ra yêu cầu phải đi đôi với
việc bảo vệ.
Vùng đất Đàng Trong nằm ở vị trí mở, là nơi đón nhận các thuyền bè từ các
nước ra vào phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các quốc gia trong khu vực và
trên thế giới. Các cuộc phát kiến địa lý đã tạo điều kiện cho việc nối kết các châu
lục trên thế giới, nối liền vùng châu Âu tới những nơi xa xôi của vùng đất Châu Á.
Những cuộc giao lưu tiếp xúc trên biển đã tạo cho chính quyền phong kiến thu được
những lợi nhuận to lớn về kinh tế. Thông qua việc đánh thuế, phát triển thương mại
và giao lưu văn hóa.
Trong suốt thế kỉ XVII - XVIII các chúa Nguyễn đều thực hiện chính sách mở
rộng cửa biển cho các nước vào tự do buôn bán, nhờ thế nền hải thương của nước ta
trong giai đoạn này có bước phát triển rực rỡ. Việc mua bán với các nước như Nhật
Bản, Bồ Đào Nha và phương Tây đã tạo điều kiện cho chúa Nguyễn thu mua được
một số lượng lớn vũ khí không chỉ là phương tiện cho cuộc chiến chống chính
quyền họ Trịnh mà còn cơ sở cho việc xây dựng quân đội hùng mạnh. Đây được
xem là bước đột phá lớn trong tư duy của chính quyền lúc bấy giờ, với việc mở
rộng giao thương với bên ngoài phá vỡ lối tư duy truyền thống bó hẹp trong các mối
quan hệ lân bang, tạo điều kiện cho thương nghiệp lần đầu tiên có cơ hội phát triển.
116
Bên cạnh mang lại những tiềm năng to lớn về kinh tế, thì biển cũng tiềm ẩn
những nguy cơ đó là nguy cơ xâm lược từ phía biển của các quốc gia phương Tây.
Vì thế cùng với việc chú trọng phát triển kinh tế chính quyền chúa Nguyễn trong
giai đoạn này cũng chú trọng đến vấn đề quốc phòng thông qua việc tăng cường sức
mạnh của thủy quân.Thời Chúa Nguyễn các đội thủy quân được luyện tập và huấn
luyện thường xuyên để thuần thục cách bắn súng và chiến đấu trên biển. Thời chúa
Nguyễn Phúc Nguyên tác phẩm Binh Thư của tham tán quân Đào Duy Từ có tác
dụng hữu ích là kim chỉ nan cho việc huấn luyện thủy quân. Ngoài ra việc tuyển
chọn binh lính vào lực lượng thủy quân rất kĩ càng và phải trải qua nhiều buổi huấn
luyện bài bản rồi mới được dựa vào thực hiện. Hầu hết là những thanh niên cường
tráng có sức khỏe tốt được sung vào các đội thủy quân và từ đó theo các chiến
Mỗi năm vào khoảng tháng ba, tháng tư quân nhân đi ra các làng, bắt dân từ 16
tuổi trở lên. Những người thân thể cường tráng, đóng gông lại bằng một cái
gông tre hình như cái thang nhưng hẹp hơn để giải về phủ sung quân; vào quân
đội rồi; mỗi người bắt chuyên học một nghề, kế đến phái đi theo các chuyến
thuyền để luyện tập (Thích Đại Sán, 2016, tr.191).
thuyền để luyện tập
Thời chúa Nguyễn các đội thủy quân được tăng cường luyện tập thường
xuyên, các chúa Nguyễn tạo điều kiện cho các đội thủy quân có thể phát huy năng
lực của mình. Vai trò của lực lượng thủy quân trong việc bảo vệ vùng lãnh thổ và
khai thác các thế mạnh trên biển được chính quyền chúa Nguyễn chú trọng nhất là
khả năng tác chiến linh hoạt trên biển. Trong giai đoạn này thủy binh được học cách
Qúy Mão năm thứ 15 (1663) mùa hạ tháng 5 chúa cho rằng trong trận đánh
Nhật Lệ, nghề bắn của ta chưa được tinh, muốn bắt chước phép luyện tập bắn
của Thái tổ, sai đắp ụ ở Hoằng Phúc (chiều cao hơn 30 thước, chiều rộng hơn
130 thước), trước mặt đặt một cái xạ hầu, khiến thủy sư đi lại mà bắn thi, lấy
bắn trúng hay không trúng mà định thưởng phạt từ đấy quân sĩ đều cố gắng,
luyện tập về phép sử dụng vũ khí cũng như khả năng chiến đấu trên biển.
phép bắn ngày càng thêm tinh (Quốc sử quán triều Nguyễn tập 1, 2002,
tr.55).
117
Việc thao diễn tập luyện thủy quân được chính quyền chúa Nguyễn chú trọng
tiến hành đều dặn qua các năm chứng tỏ sự quan tâm của chính quyền đối với vai
trò của lượng thủy quân trong việc bảo vệ an ninh quốc phòng. Từ thời chúa
Nguyễn Phúc Nguyên cho đến chúa Nguyễn Phúc Tần đều chú trọng đến các hoạt
động diễn tập của thủy quân. Ngoài việc luyện tập thường xuyên lực lượng thủy
quân còn được trang bị vũ khí hiện đại và thuyền chiến hỗ trợ cho các hoạt động
tuần tra của thủy quân trên biển.Vì thế trong cuộc trạm tráng với quân xâm lược sức
mạnh của đội thủy quân được thể hiện rõ rệt và khẳng định đủ sức đấu đầu với các
thế lực xâm lực bên ngoài.
Sang đến thời vua Nguyễn đội thủy quân được tổ chức và trang bị chu đáo
hơn, đặc biệt dưới thời Minh Mạng thủy quân triều đình được trang bị nhiều
phương tiện chiến đấu hiện đại và lối tác chiến điêu luyện, kĩ thuật chiến đấu cao.
Minh Mạng là vị vua luôn có sự quan tâm rất sâu sắc đến vấn đề an ninh và chủ
quyền đất nước. Vì thế ngay sau khi lên ngôi Minh Mạng đã tiến hành nhiều biện
pháp để nâng cao bảo vệ an ninh quốc phòng. Mặc dù là trong chế độ phong kiến
nhưng vua Minh Mạng không đóng cửa trước phương Tây như chính quyền Mãn
Thanh. Mà ông chủ động tiến hành nhiều cuộc xuất dương, tiếp thu sự tiến bộ về
thành tựu khoa học kĩ thuật của phương Tây và mạnh dạn áp dụng vào nước mình.
Các khẩu súng đại bác hiện đại, các con tàu chạy bằng hơi nước, những cơ sở
sản xuất vũ khí là những bằng chứng về sự tiếp nhận của Minh Mạng đối với các
thành tựu của phương Tây. Thủy quân nhà Nguyễn được chia làm hai bộ phận:
Quân ở đóng ở kinh thành và hệ thống thủy quân ở các địa phương. Thủy quân
được coi là bộ phận quan trọng trong việc tiến hành các hoạt động và thực thi chủ
quyền vùng biển. Thủy quân triều đình được tổ chức theo hệ thống ngũ doanh gồm:
Trung thủy, tiền thủy, hận thủy, tả và hữu thủy. Mỗi doanh sẽ được chia làm ba chi
Trung, Tiền, Hậu, mỗi chi sẽ quản lí hai đội Nhất và Nhị. Trong đó chi Tiền sẽ đặt
làm 6 đội từ đội nhất đến đội Ngũ chi Nhất, chi Ngũ; ba chi của các doanh Tả thủy,
118
Hữu thủy, Hậu thủy mỗi chi đặt 3 đội, tổng cộng 5 doanh có 70 đơn vị. Đến năm
1801 thủy quân triều đình được tổ chức và sắp xếp lại. Số lượng quân không thay
đổi vẫn là 60 lính / đơn vị. Và tổng cộng 5 doanh sẽ có số lượng là 4.200 quân.
Bộ phận thủy quân của triều đình tách ra làm hai bộ phận là: một bộ phận
đóng ở kinh thành và một bộ phận đóng ở các trấn. Thủy quân ở các trấn được bố trí
dọc khắp các vùng ven biển từ Bắc đến Nam tạo thành một hệ thống phòng thủ chắc
chắn và chính quyền cho thiết lập các hệ thống đồn trú để dễ vận chuyển tin tức.
Thủy quân đóng ở các trấn sẽ chịu sự kiểm soát của triều đình chứ không theo lệnh
địa phương.Việc này tăng cường sự quản lí thống nhất của chính quyền. Sự hình
thành hệ thống thủy quân ở các trấn tạo nên mối dây liên kết vững chắc giữa triều
đình và các trấn, đảm bảo việc an ninh và bảo vệ chủ quyền. Đến năm 1806 lực
lượng thủy quân ở triều đình “đổi thành mô hình 1 vệ và 5 thủy quân: gồm 1 vệ
Phấn Dực Nội thủy gồm 600 người được tổ chức làm 10 đội, mỗi đội 60 người, và
các cơ Tiền thủy, Hậu thủy, Trung thủy, Tả thủy, Hữu thủy. Tổng số quân của 1 vệ
và 5 thủy là 3.600 quân.” (Đỗ Bang, 2017, tr. 119). Về cấp chỉ huy thì thống lĩnh
toàn bộ lực lượng thủy quân trong kinh và ngoài trấn là các chức võ quan Đô thống
chế và chức Phó đô thống chế. Nhiệm vụ của đội thủy quân sẽ bao gồm là vận tải
đường biển, chở vũ khí, đạn dược, súng, tiến hành tuần tra, giám sát, đấu tranh
chống quân xâm lược..
Thời nhà Nguyễn các hoạt động tuần tra được tiến hành một cách điều đặn
nhất là các vùng trọng yếu như kinh đô, biên giới các vùng hải đảo xa bờ. Thời gian
tuần tra chủ yếu là từ tháng 3 đến tháng 8. Đây là thời gian các tàu công vụ tiến
hành các hoạt động vận tải cho triều đình, các hoạt động buôn bán diễn ra tấp nập
nhất và đây cũng là thời gian hoạt động của cướp biển. Việc tuần tra được tiến hành
luân phiên nhau để cho kẻ làm người nghỉ được đồng đều, đảm bảo việc an ninh
được tiến hành thường xuyên: “Việc vận tải cứ mỗi năm một lần, thượng tuần tháng
tư thì ra biển; thuyền chở đi qua, có cần giúp đỡ gì, tức thì chiếu cố và khám làm
chứng, đem việc tâu lên.” (Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 795). Đến thời Minh
Mạng để tăng cường hoạt động bảo vệ vùng biển vua cho quy định lại hoạt động
tuần tra:
Trước đã chuẩn hằng năm cứ tuần tháng 2, các tỉnh ven biển đều phái quân đi
tuần ở biển, nhưng từ trước đến nay quan đi bắt giặc phần nhiều không đắc lực,
thường không dám ra ngoài xa biển, gián hoặc có người dám đi lại không chịu
hết sức tìm bắt giặc. Vậy nay cho các quản vệ hiện đi tuần, vẫn lưu lại để cai
quản. Còn tự xuất đội đến binh đinh cứ 3 tháng chiếu số thay đổi, để cho khi
nhọc rỗi đều được nhau (Đại Nam thực lục tập 5, 2007, tr. 38).
119
Bên cạnh việc tuần tra mặt biển chính quyền Minh Mạng cũng quan tâm đến
tuần tra ở các hải đảo: “Chiếu theo phận biển, hòn đảo nhiều ngả mà giặc biển đậu
lại bất thường, có khi ở đảo này có khi qua đảo khác, chả qua là 1, 2 ngày để đợi
chiều gió rồi đi, các thuyền quân đi tuần liễu, xin theo dụ trước, cứ tháng 4 phái đi,
tháng 10 rút về ” (Đại Nam thực lục tập 5, 2007, tr. 85).
Chính quyền cũng tiến hành cấp kính thiên lí và ban hành các chế độ thưởng
phạt cho các hoạt động tuần tra và giám sát biển, nhờ vậy hoạt động bảo vệ an ninh
vùng biển được đảm bảo góp phần quan trọng vào công cuộc bảo vệ an ninh chủ
Cấp thêm kính thiên lí cho cữa biển Thuận An, vua ai chọn phái 1 người thị vệ
hoặc đội Kim Sang, Cảnh tất, hậu vệ đả quen thạo non dòm, chỉ bảo cho bọn
quản vệ, tất đội, tuấn thủ, thủ ngự ở cửa biển ấy học tập, cứ 10 ngày bộ công 1
lần phái đến xét hạch, nếu chưa hiểu gia hạn nữa đến 3 hạn mà không am hiểu
thì phạt tội xuy, nếu học đã biết cách chuẩn cho hằng ngày đến vọng lâu kì đài
Trấn Hải để dòm trông phàm có thuyền cọng đi trên mặt biển, tức thì xét rõ bao
bộ tâu lên, nếu có lầm lẫn để lỡ việc phải trị tội nặng.
Các tỉnh Quảng Trị, Quãng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hiòa mỗi tỉnh một ống, các
tỉnh trở vào Nam, trở ra Bắc đều được ban cấp kính (Đại Nam thực lục, tập 5,
2007, tr.129).
quyền đất nước.
120
3.2. Xây dựng hệ thống phòng thủ ở vùng duyên hải và cảng biển của các chính
quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn
3.2.1. Xây dựng hệ thống phòng thủ vùng biển thời Chúa Nguyễn
Trong chính sách bảo vệ an ninh vùng biển đảo, chính quyền chúa Nguyễn và
các vua Nguyễn rất chú trọng đến việc xây dựng hệ thống phòng thủ vững chắc.
Vùng biển nước ta được chia làm 3 vùng biển Đông Bắc, vùng biển Nam Trung Bộ
và vùng biển Tây Nam cả ba vùng đều có vị trí chiến lược quan trọng. Tuy nhiên
quan trọng nhất là vùng biển miền Trung đây là vùng có địa hình ngắn và dốc khá
hiểm trở bị chia cắt bởi các con sông chạy theo hướng Tây Nam đổ ra biển, nơi đây
trước kia người Chăm Pa đã xây dựng ở khu vực này một nền mậu dịch sôi nổi và
nhộn nhịp tạo cho cảng thị Chăm pa có sức hút lớn đối với các quốc gia trong khu
vực. Vùng biển miền trung có nhiều cảng biển, cửa biển tạo tiềm lực giao thương
buôn bán với bên ngoài vừa là chỗ quan yếu để phòng bị chống lại sự tấn công từ
các thế lực ngoại xâm. Chính vị thế quan trọng của vùng biển này mà khi vừa vào
trấn thủ vùng đất Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã chú trọng xây dựng ở vùng biển
Nam Trung Bộ một hệ thống phòng thủ vững chắc nhằm chống lại sự tấn công của
họ Mạc ở phía Bắc và người Chân Lạp ở phía Nam“Canh Thân, năm thứ 3 [1560],
mùa đông đặt đồn cửa biển giữ miền duyên hải” (Quốc sử quán triều Nguyễn tập 1,
2002).
Đến thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên việc xây dựng các công trình phòng thủ
ngày càng được chú trọng. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã biết kế thừa, phát triển
truyền thống hướng biển của người Chămpa và có tầm nhìn sáng suốt khi sử dụng
ngoại thương làm nhân tố quan trọng cho sự phát triên đất nước. Nguyễn Phúc
Nguyên đã biết nắm lấy thời cơ khi kinh tế hải thương trên thế giới đang phát triển
mạnh. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã mạnh dạn thực hiện bước tiến bộ, tận dụng
nguồn lực từ việc thiết lập giao thương với các quốc gia trong khu vực đặc biệt là
Nhật Bản điều này đã giúp cho vùng đất Đàng Trong phát triển vuợt bậc, nhanh
chóng hòa nhập vào thế giới. Cùng với việc thi hành chính sách mở cửa cho tất cả
thuyền buôn nước ngoài thì chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng chú trọng xây dựng ở
các vùng xung yếu, nhiều tàu thuyền ra vào hay các cảng biển có ý nghĩa chiến lược
121
quan trọng các công trình phòng thủ: “Đặt đài hiệu ở các trấn Cần Giờ sai Nguyễn
Văn Trung đem thủy quân đến các vùng cửa biển” (Quốc sử quán triều Nguyễn tập
1, 2002) . Ngoài ra Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng cử quân đến trấn giữ các vùng
xung yếu. Được sự cố vấn của tham tán quân cơ Đào Duy Từ, chúa Nguyễn Phúc
Nguyên cho xây dựng một công trình thủ thủ có tính chất kiên cố từ trước đến nay
là xây dựng lũy Trường Dục và Nhật Lệ. Hai tuyến phòng thủ này có tác dụng quan
trọng không chỉ trong việc phòng thủ tránh sự tấn công của quân Trịnh mà còn
Lũy cao một trượng 5 thước, ngoài đóng gỗ lim trong đắp đất làm 5 bậc voi
ngựa đi được, dựa núi men khe dài hơn 3000 trượng, mỗi trượng đặt một khẩu
súng quá sơn, cách 3 - 5 trượng lập 1 pháo đài, đặt một khẩu súng nòng lớn.
Thuốc đạn chứa như núi. Mấy tháng dắp xong, lũy thành một nơi ngăn chia
hẳn hai miền Nam - Bắc. Lại đặt xích chắn ngang các cửa biển Nhật Lệ và Ma
Linh. Đây được coi là công trình phòng thủ có tính chất quy mô nhất thời chúa
Nguyễn cùng với đó các chúa Nguyễn còn cử người đến kiểm tra giám sát các
vừng biển trọng yếu. Ngoài ra chúa Nguyễn Phúc Nguyên còn cho quân xây
dựng lũy Trường Sa và đóng cọc gỗ ở cửa biển Nhật Lệ để chống lại sự tấn
công của quan Trịnh. Đắp đồn Sa Thủy (ở cửa biển Nhật Lệ bấy giờ gọi là lũy
Mũi Dùi) (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 134).
nhằm tăng sự kiểm soát của triều đình đối với vùng biển và hải đảo trọng yếu
Việc xây dựng pháo đài trên đã chứng tỏ chính quyền chúa Nguyễn Phúc
Nguyên đã có ý thức rõ ràng về việc thực hiện ly khai khỏi chính quyền Chúa Trịnh
và đây cũng được xem là sự chuẩn bị quan trọng cho cuộc chiến chống họ Trịnh sau
này. Vì thế ngay sau khi xây xong: “là một nơi ngăn chặn chia thành hai miền Nam
Bắc lại đặt xích sắt chắn ngang cửa biển Nhật Lệ và Minh Linh” (Quốc sử quán
triều Nguyễn tập 1, 2002, tr.134). Hệ thống phòng thủ ở cửa biển Nhật Lệ được xem
là pháo đài bất khả xâm phạm của chính quyền Đàng Trong, đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ chính quyền Chúa Nguyễn trong suốt 50 năm giao tranh khốc liệt
122
với họ Trịnh từ năm 1627 – 1672. Trong suốt cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn lũy
Nhật Lệ đã chặn được nhiều cuộc tấn công của họ Trịnh và gây cho chính quyền
Đàng Ngoài tổn thất to lớn. Vì thế khi nói về tính kiên cố và tính phòng ngự chắc
chắn của lũy Nhật Lệ dân gian thường có hai câu thơ:
“Khôn ngoan qua được Thanh Hà
Dẫu là có cánh khó qua Lũy Thầy”
Như vậy với việc xây dựng hệ thống phòng thủ trên biển đã cho thấy ý thức
hướng biển sâu sắc của chúa Nguyễn Phúc Nguyên lúc bấy giờ. Chúa Nguyễn Phúc
Nguyên không chỉ thấy những tiềm năng kinh tế mà biển mang lại mà còn biết dựa
vào vị trí hiểm yếu của biển đảo để tạo nên hệ thống phòng thủ kiên cố. Nhằm bảo
vệ vùng đất Đàng Trong trước các đợt tấn công mạnh mẽ của thủy quân Đàng
Ngoài. Các hệ thống phòng thủ đã phát huy thế mạnh và cho thấy tầm quan trọng
của nó trong cuộc chiến họ Trịnh Nguyễn khiến cho đội quân hùng mạnh của Chúa
Trịnh phải chịu tổn thất nặng nề và chấp nhận từ bỏ mộng xâm lấn Đàng Trong,
Những lợi ích bước đầu trong việc xây dựng hệ thống phòng thủ, đã khiến cho
các vị chúa sau này như chúa Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần tiếp tục xây
dựng thêm nhiều hệ thống phòng thủ trên biển. Thời chúa Nguyễn Phúc Tần để tăng
cường việc phòng thủ “tháng 6 năm thứ năm [ 1653] Chúa sai đất đồn Sa Chủy ở
cửa biển Nhật Lệ, bấy giờ gọi là lũy Mũi Dùi” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002,
tr.62). Ngoài ra trong các trận đánh với quân Trịnh 1655, 1656, 1657 với việc đánh
nghi binh cùng với việc tăng cường hệ thống phòng thủ ở vùng biển, biên giới, sửa
sang thành lũy đã tạo điều kiện cho quân ta liên tiếp giành thắng lợi trước quân
Trịnh. Mùa thu tháng 9 năm 1663 trước việc quân Trịnh nhiều lần tiến đánh vùng
biển, chúa Nguyễn Phúc Tần sai hai tướng là Nguyễn Hữu Tiến vào Nguyễn Hữu
Dật đắp lũy Trấn Ninh để trấn giữ đường biển vài tháng thì lũy đắp xong. Trong
cuộc chiến với quân Trịnh nhiều hệ thống phòng thủ đường biển được xây dựng
thêm như pháo đài ở lũy Trấn Ninh, đắp pháo đài ở đồn Sa Chủy, lũy Sa Phụ.
Các hệ thống phòng thủ này đã phát huy tính tích cực, làm hao tốn lực lượng
của quân Trịnh, gây cho quân Trịnh những tổn thất nặng nề, cầm chân không cho
quân Trịnh tiến đánh vào sâu lãnh thổ Đàng Trong. Các đòn tấn công của quân
123
Trịnh vào các đồn lũy ở cửa biển đều tỏ ra vô hiệu, cùng với đó là sự tấn công liên
tiếp từ các pháo hạm của thủy quân Đàng Trong đã khiến cho lực lượng của quân
Trịnh bị tổn thất nặng nề. Quân Trịnh càng đánh càng thua vì thế buộc lòng phải rút
Tháng 11 năm 1673 tướng Trịnh là Lê Thời Hiến đem quân đánh Lũy Trấn
Ninh nhưng không được. Quân ta trên lũy bày súng bắn xuống. Quân Trịnh bu
vào đông như kiến leo lên. Quân ta chụm mác mà đâm. Quân Trịnh đào đất
khoét than lũy hoặc thả diều giấy nhân gió mà phóng hỏa hay bắn đạn lửa.
Trong một ngày mà lũy sắp bị hạ ba bốn lần. Tướng Nguyễn Hữu Dật sai quân
sĩ dựng ván làm phiên, lấy sọt tre đựng đất đắp vá những chỗ lũy vỡ. Sáng sớm
quân Trịnh hết sức tiến đánh thì lũy đã bền vững rồi không thể phá được”
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tr. 87).
quân.
Với việc xây dựng hệ thống phòng thủ ở cửa biển Nhật Lệ cùng với chiến thuật
khôn ngoan và sự trợ giúp của vũ khí hiện đại đã giúp cho thủy quân Chúa Nguyễn
dù ít quân và không tin cậy nhưng lại giành thắng lợi quyết định trước Chúa Trịnh.
đồng thời bộ quân Trịnh vậy trừ bỏ mộng xâm lược vùng đất Đàng Trong. Vì thế
tháng 12 năm 1672 hai bên quyết định: “lấy sông Gianh làm giới tuyến chia đôi đất
nước (phía Nam sông là Nam Hà, phía bắc sông là Bắc Hà). Từ đây Nam - Bắc
nghi binh” (Quốc sử quán triều Nguyễn tập 1, 2002).
Để bảo đảm an ninh ở những vùng biển hiểm yếu chúa Nguyễn Phúc Nguyên
cho thành lập đội Hoàng Sa có nhiệm vụ là tìm kiếm sản vật và các cổ vật tàu đắm,
đồng thời cũng kiêm luôn nhiệm vụ giám sát, tuần tra vẽ bảng đồ quần đảo này.
Đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu thì cho thành lập thêm đội Bắc Hải làm
nhiệm vụ tìm kiếm vùng biển Tây Nam và hỗ trợ đội Hoàng Sa trong việc tìm kiếm
các sản vật, khi mà lãnh thổ đất nước ngày càng được mở rộng về phía Nam. Đến
thời chúa Nguyễn Phúc Tần để chống cướp biển và sự tấn công của quân Trịnh.
Chúa Nguyễn đã cho xây dựng nhiều công trình phòng thủ có tính chiến lược như:
đắp lũy ở cửa biển An Náu, lũy lớn Động Hồi, dựng pháo đài sửa đường xá, đắp lũy
124
Trấn Ninh để trấn giữ đường biển. Chính quyền chúa Nguyễn cũng chú trọng việc
giám sát, kiểm tra, thăm dò địa hình vùng biển đảo “Lại coi khắp những hình thế
đầu non cửa biển đường xá xa gần, núi sông hiểm dễ, vẽ bản đồ dâng trình” (Quốc
sử quán triều Nguyễn 1, 2002).
Chủ trương trên đã thể hiện sự quan tâm của chúa Nguyễn đối với an ninh
quốc phòng của vùng đất Đàng Trong và cũng trong giai đoạn này tấm bản đồ Thiên
Nam tứ chí lộ đồ thư đã ra đời (1686) đây là tấm bản đồ xưa nhất ghi nhận một cách
chính xác và chi tiết vị trí địa lý vùng biển đảo và ranh giới nước ta thời chúa
Nguyễn trong có cả Bãi Cát Vàng (tức quần đảo Hoàng Sa) tuy nhiên do chiến tranh
nên tấm bản đồ hiện nay không còn nữa.
Trong giai đoạn đầu các triều đại phong kiến nhà Nguyễn đều chú trọng xây
dựng hệ thống phòng thủ để chống chính quyền chúa Trịnh.Trong cuộc đấu tranh
với quân Trịnh, lũy Trấn Ninh đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn sự tấn
công từ bên ngoài bảo vệ lãnh thổ Đàng Trong. Các chúa Nguyễn đều đã nhận thấy
tầm quan trọng của việc xây dựng hệ thống phòng thủ trên vùng biển đối với việc
bảo vệ an ninh quốc phòng của đất nước. Trong giai đoạn này, hệ thống phòng thủ
còn mang tính chất phòng ngự chưa có sự trang bị phương tiện cho tấn công và
quan sát. Ngoài ra các hệ thống phòng thủ còn lạc hậu và thô sơ. Sau này khi nhà
Nguyễn được thành lập thì các công trình phòng thủ mới được xây dựng một cách
hoàn chỉnh. Việc xây dựng hệ thống phòng thủ đã thể hiện ý thức chủ quyền và khả
năng tư duy hướng biển của các triều đại phong kiến xưa không chỉ về mặt kinh tế
mà còn về vấn đề an ninh quốc phòng.
3.2.2. Xây dựng hệ thống phòng thủ vùng biển thời vua Nguyễn
Thời chúa Nguyễn việc xây dựng các hệ thống phòng thủ mặt biển được chú
trọng hơn. Nguyễn Ánh là người từng có cuộc đời bôn ba trên biển, từng cùng với
cha mình đi qua hết khắp các quần đảo Tây Nam như Côn Lôn, Thổ Chu, Phú
Quốc… nếm trải bao nhiêu cay đắng khổ cực. Vì thế ngay từ rất sớm Nguyễn Ánh
nhận thấy vị trí chiến lược mà biển mang lại. Ngay cả trong thời kỳ nội chiến với
Tây Sơn - Nguyễn Ánh đã chủ trương xây dựng ở vùng biển đảo hệ thống phòng
thủ vững chắc:
Lại sai Nguyễn Văn Trương cùng với bọn vệ úy vệ Kiên uy Nguyễn Văn
Thịnh, Chánh vệ vệ Định võ Trần Văn Tứ và Cai cơ Trần Văn Búa, chia nhau
đi về phía Cu Đê (tên đất), đến cửa ải Hải Vân, theo chỗ hiểm mà đặt đồn giữ,
ngoài ra Mùa thu, tháng 7, sai Phó tướng Hậu quân Nguyễn Văn Biện và Binh
bộ Nguyễn Đức Thiện đem quân vào cửa biển Hiệp Hòa, đóng đồn ở Bến Ván
để ngăn đường cứu viện của giặc từ Quy Nhơn đến (Quốc sử quán triều
Nguyễn tập 1, 2002).
125
Bên cạnh đó còn cho đắp lũy ở cửa biển Thi Nại, Xuân Đài (Phú Yên), đặt
thêm đồn bảo ở Lão Hương, Hà Nha để chống giặc. Những đồn lũy này có tác dụng
tích cực và hiệu quả ngăn chặn và chống lại sự tấn công của quân Tây Sơn đồng
thời bảo toàn lực lượng cho quân đội của Nguyễn Ánh tránh tổn thất to lớn. Với tầm
nhìn chiến lược quân sự Nguyễn Ánh đã nhận thấy tầm quan trọng và hữu ích của
việc xây dựng các hệ thống phòng thủ. Chúng không chỉ có tác dụng là lá chắn bảo
vệ cho những vùng xung yếu mà còn có tác dụng làm tiêu hao lượng lượng của đối
phương. Cùng với việc xây dựng hệ thống đồn lũy ven biển thì Nguyễn Ánh cũng
chú trọng cho thủy quân đi tuần tra ở một số cửa biển có vị trí xung yếu quan trọng
như: Gia Định, Cần Giờ, Mỹ Tho, Côn Lôn, Thị Nại, Phú Yên, Thuận An và nếu có
Đặt thủ ngự ở các đầu nguồn và cửa biển hai phủ Triệu Phong và Quảng
Bình. Chọn Cai đội cai cơ đội Mật sai và Võ giáp sung các chức ấy. Nguồn
Sái, nguồn Phù Âu, nguồn Hưng Bình, nguồn Tả Trạch, nguồn Hữu Trạch,
nguồn Sơn Bồ, nguồn Thu Lay, hai nguồn Cổ Lâm, Ô Giang, ba nguồn An
Đại, Cẩm Lý, An Náu, nguồn An Náu Son, cửa Eo, của Tư Dung, cửa Vân
Quan, cửa Việt Hải, cửa Tòng Luật, cửa Nhật Lệ, cửa An Náu, cửa Lý Hòa,
cửa Gianh ( Đại Nam thực lục tập 2, 2006).
giặc đến, phải đốt lửa ở trên đài báo hiệu trước và tức khắc chạy báo tin.
126
Việc chú trọng xây dựng các đồn lũy cửa biển cùng với đó là bố trí lực lượng
thủy quân ở những vùng hiểm yếu đã tạo điều kiện cho quân của Nguyễn Ánh
nhanh chóng mở rộng lực lượng, từng bước chiếm Gia Định tạo bàn đạp cho việc
tiến quân lên phía Bắc thâu tóm cả toàn bộ đất nước. Trong trận đánh quyết định
với quân Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ năm 1802, để chuẩn bị cho cuộc đối đầu với
Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã tăng cường một số lượng lớn pháo quân, lương thực và vũ
khí đặt ở lũy Trấn Ninh. Ngoài ra ở mặt trận sông Gianh Nguyễn Ánh cho một hạm
đội có lục quân yểm trợ đến canh phòng. Quân Tây Sơn chia làm ba mũi quan trọng
tấn công vào Thuận Hóa trong đó nữ tướng Bùi Thị Xuân được giao trọng trách
đánh lũy Trấn Ninh. Quân Tây Sơn tiến lên đánh lũy Trấn Ninh nhưng đánh mãi mà
không đổ, cả thành Đầu Mâu cũng không thể phá được. Trong trận đánh này nhờ có
chiến thuật khôn khéo cộng với vũ khí hiện đại Nguyễn Ánh đã đánh bại Tây Sơn
buộc vua Cảnh Thịnh và các tướng phải tháo chạy ra Bắc.
Sau khi lật đổ triều Tây Sơn thống nhất đất nước lập ra triều Nguyễn, Nguyễn
Ánh vẫn luôn đề cao vấn đề an ninh quốc phòng ở các vùng trọng yếu: Côn Lôn,
Phú Quốc, Thị Nại, Cù Mông trẫm cùng với các tướng sĩ các ngươi đã trăm trận
đánh vất vả mới có ngày nay. Lúc yên đừng quên lúc nguy. Đó thực là đạo giữ nước
yên dân” (Đại Nam nhất thống chí tập 2, 1995). Chính vì thế, bảo vệ quốc gia từ
phía biển luôn được Gia Long quan tâm, chú trọng bằng những hệ thống phòng thủ
vùng biển cũng như việc tuần tra, khẳng định chủ quyền trên vùng biển, đảo. Nếu
trước kia đất là chỗ định cư truyền thống của cha ông thì biển lại có vị thế đặc biệt
quan trọng nhất là trong bối cảnh, khi phương Tây mở rộng việc tìm kiếm thị trường
mới qua đường biển.Phương Tây được xem là một thách thức phi truyền thống đến
từ phía biển với thuyền chiến và đại bác, khác hẳn mối đe dọa biên giới
trước đó đến từ đất liền. Cái nhìn chiến lược“phòng thủ từ xa” của các vua Nguyễn
về vùng biển thể hiện bởi ở đây không chỉ có đất liền mà còn có vùng biển đảo vô
cùng quan trọng.
Chính vì vị trí quan trọng của biển, đặc biệt là vùng biển miền Trung nên các
vua triều Nguyễn đều xây dựng rất nhiều các công trình pháo đài, hải tấn, đồn bảo,
cửa tấn kiên cố dọc theo vùng bờ biển, nhằm có tác dụng tăng cường phòng vệ, đảm
127
bảo an ninh quốc phòng. Đặc biệt là chú trọng xây dựng hệ thống phòng thủ vùng
ven biển miền Trung vì nơi đây có Huế là kinh đô của nước đất, có cửa biển Đà
Nẵng là nơi giao thương với bên ngoài. Thời Minh Mạng xác định rằng: “Địa lý
nước ta, lấy biển làm dải áo, lấy núi làm vạt áo, địa thế trọng yếu và hiểm trở (Đại
Nam thực lục tập 2, 2006).Vua Thiệu Trị cũng dụ rằng: “Cương giới về hải phận
của bản triều rộng, dài, những chỗ xung yếu ở nơi ven biển đều đặt pháo đài để
nghiêm việc phòng giữ” (Đại Nam thực lục tập 2, 2006). Các công trình phòng thủ
được xây dựng khắp các vùng ven biển nhưng đặc biệt chú ý hơn cả là vùng kinh đô
Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, sau đó là Quảng Trị, Quảng Bình, Bình Thuận, Phú
Yên, Khánh Hòa, Nghệ An, Thanh Hóa.
Tấn Thuận An và thành Trấn Hải là hai công trình phòng thủ đóng vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ vùng biển kinh đô Huế. Kinh đô Huế là thủ phủ của
nước ta dưới thời Nguyễn sau khi tái thống nhất đất nước Gia Long đã chọn vùng
đất này làm nơi đóng đô vì“Kinh sư là nơi miền núi, miền biển đều họp về, đứng
giữa miền nam miền bắc, đất đai cao ráo, non sông phẳng lặng; đường thủy thì có
cửa Thuận An, cửa Tư Hiền sâu hiểm; đường bộ thì có Hoành Sơn, ải Hải Vân
ngăn chặn” (Đại Nam thục lục tập 2, 2006, tr. 759).
Đến thời vua Minh Mạng, vua cũng cho rằng việc chọn kinh đô Huế làm thủ
phủ của nước ta là rất hợp lí, vì so với các vùng khác trong cả nước thì kinh đô Huế
hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết cho sự phát triển đất nước. Trong số các cửa biển
ở kinh đô Huế thì cửa biển Thuận An là nơi có vị trí quan trọng. Chỉ cách kinh đô
khoảng 13 km biển Thuận An được ví như cửa ngõ thông ra biển và cũng là nơi
trọng yếu của hải cương có tầm quan trọng đặc biệt về an ninh và quốc phòng cho
kinh đô. Đây cũng chính là nơi mà quân của Nguyễn Ánh tiến hành đánh Tây Sơn
mở đường tiến đánh Phú Xuân vào năm 1801. Vì thế các vua triều Nguyễn đã chú
trọng xây dựng ở cửa biển này hệ thống phòng thủ chặt chẽ. Tấn Thuận An được
xây dựng dưới thời Gia Long có vai trò là chỉ huy, tuần tra, giám sát việc phòng thủ
Tấn ở phía đông huyện Hương Trà, đầu đời Gia Long lập thủ sở, đặt một chức
thủ ngự Tấn ở phía đông huyện Hương Trà, đầu đời Gia Long lập thủ sở, đặt
ở Thuận An.
một chức thủ ngự và một chức tấn thủ, có 3 đội lính lệ đi tuần phòng ngoài
biển và hộ tống thuyền quan ra vào. Năm Minh Mạng thứ 15, dựng vọng lâu ở
tấn sở, cấp cho thiên lý kính để xem tàu thuyền ngoài biển; năm thứ 17, đúc
Cửu đỉnh, khắc tượng vào Nghị Đỉnh (Đại Nam thực lục tập 2, 2002).
128
Trong giai đoạn đầu thời Gia Long, Minh Mạng, Tấn Thuận An chưa được
quan tâm đúng mức nên số quân ở đây ít, chỉ đến khi thực dân Pháp tấn công Đà
Nẵng năm 1847, vua Thiệu Trị mới chú trọng xây dựng thêm đồn Hòa Duân, bố trí
súng, hỏa pháo, tăng cường thêm quân tinh nhuệ dọc khắp bờ biển, cai quan lại đến
tuần tra xem xét.
Năm 1813 vua Gia Long cho xây dựng thêm thành Trấn Hải. Đây được coi là
công trình có quy mô lớn của nhà Nguyễn nhằm ngặn chặn sự tấn công của nước
biển vào kinh thành gây xói mòn đất. Sau này đài Trấn Hải còn kiêm luôn nhiệm vụ
giám sát và tuần tra nên đổi là thành Trấn Hải. Việc xây dựng và tu sửa thành luôn
chiếm phần lớn sự quan tâm và ngân sách của nhà vua vì đặc thù nằm gần cửa biển
nên thường xuyên bị sóng biển đánh làm xói mòn. Năm 1830 Minh Mạng tiếp tục
cho gia cố thêm mặt thành, vận chuyển súng đạn và thuốc súng vào pháo đài. Để
tránh sạt lở vua cho người cắm nhiều cây bằng gỗ bên trong chất gạch đá để giữ
chắc, ngoài ra xung quanh bờ cho trồng nhiều cây dừa để tránh xói mòn đất và ngăn
Chu vi 71 trượng 2 thước, cao 15 thước; đài chu vi 17 trượng 2 thước; cao 11
thước; hào rộng 1 trượng, sâu 6 thước; 1 cửa: trên thành có 99 sở ụ súng. Gọi là
Trấn Hải đài. Ở phía trong thành ấy, phía bắc có hai kho thuốc súng xây dưới
hầm của các góc, và gần sau kho người ta có xây một cái bể đựng nước uống
cho cả đồn. Giữ thành có một ụ chứa nước ngọt, hai. Sau thấy trước mặt đài,
nước biển ngày xói vào gần tới đường ngoài quách, bèn đóng cừ xây đá để
ngăn sóng, lại trồng hơn 4000 cây dừa ở bờ biển (Đại Nam thực lục tập 1,
2002, tr. 859).
sự xâm nhập của nước biển.:
129
Vua rất coi trọng công tác phòng vệ nên hằng năm ra cửa biển Thuận An để
xem thành Trấn Hải, đồng thời ban sắc lệnh nghiêm khắc về công tác phòng thủ ở
đây, như chia số quân canh giữ ở thành theo 2 thời điểm khác nhau và số quân khác
nhau. Từ tháng 4 đến cuối tháng 7, số quân đông hơn khoảng 310 người, từ tháng 8
đến cuối tháng 3, quân số khoảng 105 người, không được tự ý rời khỏi thành khi
chưa có hiệu lệnh, thường xuyên canh gác và kiểm tra số súng đạn trong thành, khi
thấy tàu của nước ngoài đến hay thấy lửa cháy ở cửa biển Tư Dung thì phải lập tức
cấp báo và chuẩn bị lực lượng đối phó.
Bên cạnh thành Trấn Hải ở cửa biển cũng có nhiều pháo đài phòng thủ như
pháo đài Hòa Duân, pháo đài Cồn Sơn, Hạp Châu và đập chắn Thuận An. Những
pháo đài này cũng được chú trọng bố trí vũ khí hiện đại và lực lượng lớn binh lính
nhằm có tác dụng hỗ trợ cho thành Trấn Hải, kiểm soát, đối phó, bảo vệ kinh thành
trước sự tấn công của các thế lực bên ngoài. Ngoài việc chú trọng bảo vệ mặt bắc
thì các vua triều Nguyễn cũng chú trọng công tác phòng bị ở mặt nam của kinh đô:
các tấn Tư Hiền, Cảnh Dương, Chu Mãi, Hải Vân có tác dụng bảo vệ các vùng biển
quan trọng của kinh đô. Trong đó Hải Vân Quan đóng vị trí quan trọng. Vùng này
có thể quan sát được toàn cảnh biển Đà Nẵng nên Hải Vân Quan vừa là lá chắn bảo
vệ vừa có thể quan sát, vì thế nó có ý nghĩa quan trọng về an ninh quốc phòng. Các
vua Nguyễn cũng cho bố trí ở đây một lực lượng quân mạnh cùng với việc tăng
cường thêm đại bác và hỏa pháo: “Nay đã đặt thêm đại bác thì bắt thêm 10 tên lính
các hạng, 20 tên pháo thủ doanh thần cơ cùng 50 tên phái trước do thành thủ ấy
chia phòng thủ, chiếu lệ thay đổi” (Đại Nam thực lục, tập 1, 2002).
Các hệ thống phòng thủ liên hoàn này hỗ trợ đắc lực cho việc bảo vệ an ninh
vùng biển, nhanh chóng phát hiện sự xuất hiện và xâm nhập của tàu từ nhưng nơi
khác đến. Ngoài ra hệ thống phòng thủ này còn có tác dụng ngăn chặn sự xâm thực
và tấn công của nước biển.
Bên cạnh việc xây dựng hệ thống phòng thủ ở vùng kinh đô, các vua Nguyễn
cũng chú trọng bảo vệ an ninh vùng cửa biển Đà Nẵng. Trong thời nội chiến Tây
Sơn - Nguyễn Ánh, thủy quân Nguyễn Ánh đã tiến đánh Tây Sơn bằng cửa này. Sau
khi thành lập nhà Nguyễn, các vua nhà Nguyễn đều tăng cường dựng hệ thống đồn
130
lũy và lực lượng phòng thủ tại cửa biển Đà Nẵng: “Đầu đời Gia Long đặt một viên
quan thủ ngữ, một viên hiệp thủ và 17 thủ binh; năm Minh Mạng thứ 17 (1836) đặt
vọng lâu ở tấn sở, cấp cho kính thiên lý để xem xét ngoài biển” (Đại Nam thực lục
tập 2, 2006).
Để ngăn chặn thuyền buôn phương Tây xâm nhập trái phép vào Đà Nẵng
chính quyền ra quy định những tàu nào có ý neo đậu ở đây đều phải báo trước. Viên
tấn thủ sẽ đến dò hỏi tình hình. Nếu việc quan trọng phải lập tức cấp báo. Đến thời
Thiệu Trị, các thuyền buôn vẫn được phép neo đậu ở cửa biển Đà Nẵng, nhưng phải
chấp hành các quy định của triều đình. Ngoài việc cho thuyền buôn neo đậu chính
Thuyền nước ngoài nếu muốn lên chợ mua thức ăn thì chỉ được đi 10 người.
Không được đi quá nhiều, không được mang theo binh khí, súng trường lên bờ.
Nếu muốn buôn bán thì phải khai báo số lượng người và hàng hóa của mình
một cách minh bạch, viên tấn thủ kiểm tra và ghi chép kỹ càng thì cho lên bờ
tùy nơi thuận tiện gần chợ mà buôn bán. Xong việc, lại kiểm tra kỹ rồi cho về
thuyền, không được ở trong nhà dân. Nếu trái lệnh lập tức bắt giữ, chiếu theo
luật “kẻ gian nước ngoài vào cõi” xử tội chém.Thuyền nước ngoài đến đậu ở
cửa tấn không được đi lại riêng với người nước ta, ngần thông tin và không
được cho người nước ta đến thuyền để tránh gây sinh sự. Nếu ai trái lệnh thì
lập tức bắt trị tội (Minh Mạng chánh yếu, 1993).
quyền cũng quy định cụ thể các hoạt động buôn bán của họ khi cư ngụ lại tại đây:
Các vua Nguyễn cho tăng cường lực lượng quân ở Đà Nẵng, số quân gồm 39 người
được đặt dưới sự chỉ huy của 1 viên quan lãnh binh. Để tăng cường an ninh cho
vùng biển trọng yếu này chính quyền nhà Nguyễn đã cho thiết lập ở Đà Nẵng một
hệ thống phòng thủ chặt chẽ nhất bấy giờ: gồm thành Điện Hải, thành An Hải, các
pháo đài Phòng Hải, trấn dương thất bảo, Hải Vân quan. Những công trình này có ý
nghĩa chiến lược quan trọng trong việc bảo vệ và ngăn chặn sự xâm nhập bên ngoài.
131
Thành Điện Hải và An Hải là hai công trình phòng thủ quan trọng nhất của
vùng biển Đà Nẵng. Lúc đầu được gọi là pháo này đến năm 1834 thì đổi là thành.
Đây là công trình phòng thủ được xây dựng bởi kĩ sư người Pháp Oliver Puymanel.
Hai công trình này được xây dựng theo lối Vauban với tường cao, hào sâu, được
xây dựng bằng gạch các thành đều có từ 3 đến bốn cửa để tăng cường tính phòng
thủ.
Thành Điện Hải ở bên trái cửa biển Đà Nẵng thành có chu vi 139 trượng, cao
1, 2 trượng có ba vòng thành. Mỗi thành đều được bao bọc bởi những hào nước sâu
7 thước, mỗi thành đều có một cửa ở giữa có một kỳ đài, 30 sở pháo đài. Thời Gia
Long thành Điện Hải được đắp bằng đất và đặt gần biển. Thời Minh Mạng thì lại
cho xây dựng bằng gạch và trang bị thêm nhiều hỏa pháo đặt tại đây. Năm 1822 vua
Gia Long đặt chức Vệ úy, tăng thêm 200 biền binh đóng giữ thành Điện Hải.
Thành An Hải nằm ở bên phải cửa biển Đà Nẵng là tuyến phòng thủ quan
trọng của triều đình: “Chu vi 41, 2 trượng, cao 1 trượng, hào sâu 1 trượng mở ra 2
cửa có kì đài ở giữa và 7 sở pháo đài” (Thành An Hải có chu vi nhỏ hơn và không
có vị trí xung yếu bằng thành Điện Hải và số quân lính ở đây cũng ít hơn. Năm
1830 triều đình bổ nhiệm Nguyễn Văn Lượng chỉ huy thành Điện Hải và Tống Văn
Nghĩa chỉ huy thành An Hải. Ngoài ra để tăng cường sự phòng thủ chính quyền nhà
Nguyễn còn tăng cường đại bác, súng đạn và lính phòng thủ ở hai thành. Ngoài ra
chính quyền còn huy động các loại thuyền công tham gia vào việc tuần tra vùng
biển Đà Nẵng.
Thời Minh Mạng để bảo vệ an ninh, ngăn chặn sự xâm nhập của thuyền buôn
phương Tây vào nội địa.Vua đưa ra chỉ dụ: “Nếu thấy thuyền buôn phương Tây qua
mặt biển, đi vào vụng Trà Sơn cắm neo. Thì viên lãnh binh và tấn thủ của hai thành
An Hải và Điện Hải phải tiến hành xét hỏi. Nếu phát hiện tấn công phải cấp báo về
cho kinh thành, nếu chỉ là gặp nạn thì tiến hành ứng cứu và hộ tống thuyền về nước,
còn nếu không có gì quan ngại thì đưa vào trạng khẩn” (Đại Nam thục lục 5, 2007,
tr. 302 ).
Trước việc thực dân phương Tây ngày càng lớn mạnh và tiến hành xâm chiếm
nhiều nước phương Đông. Năm 1840 vua Minh Mạng cho Nguyễn Tri Phương vào
132
Đà Nẵng để tăng cường việc phòng thủ cho vùng biển này. Theo đó vua nhấn mạnh:
“Cửa biển Đà Nẵng là chỗ xung yếu nhiều thuyền bè qua lại. Ngươi nên thân hành
xem kỹ và tu chỉnh hai đồn An Hải và Điện Hải, bọn giặc dù muốn dòm ngó cũng
không thừa được sơ hở của ta, đó là kế hoạch lớn, ràng rịt cửa tổ ngay từ lúc chưa
mưa, là kế sách để giữ vững bờ cõi của mình” (Đại Nam thục lục 5, 2007, tr. 639).
Nhận định trên đã cho thấy sự quan tâm của vua Minh Mạng về tầm quan
trọng của hai hệ thống phòng thủ An Hải và Điện Hải đối với vùng biển Đà Nẵng.
Nguyễn Công Trứ đã cho tăng cường thêm binh lực khoảng 500 - 600 người ngoài
ra còn trang bị thêm súng đại bác, giáo và thiết lập ở phía Tây núi Sơn Trà pháo đài
Mỏ Diều phòng ngự. Khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công vào bán đảo Sơn
Trà. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã cùng cùng với binh lính ở thành điện Hải
đánh lui hàng chục cuộc tấn công của Pháp tại cửa sông Hàn, gây cho Pháp những
tổ thất nặng nề buộc chúng phải rút quân.
Bên cạnh thành Điện Hải và An Hải, chính quyền phong kiến còn cho thiết lập
các pháo đài và đồn lũy để nhanh chóng phát hiện và ngặn chặn kịp thời các cuộc
tấn công từ bên ngoài. Các đồn Hải Châu, Phước Ninh, Thạc Gián bên trái cửa biển
Đà Nẵng và các đồn Hóa Khuê, Mỹ Thị nằm bên phải. Để tăng cường việc phòng
thủ và ngăn chặn và phát hiện nhanh chóng các cuộc tấn công và xâm nhập chính
quyền phong kiến còn cho xây dự hai đài quan sát là pháo đài Phòng Hải và Trấn
dương thất bảo ở đông bắc Đà Nẵng.
Pháo đài Phòng Hải được xây dựng vào năm 1840 dưới thời vua Minh Mạng.
Pháo đài này rộng 9 thước cao 6 thước 3 tất, có một cửa. Để phát hiện và ngăn ngừa
thuyền bên ngoài xâm nhập, chính quyền phong kiến cấp thêm kính thiên lý để quan
sát và tăng cường ở đây 50 biền binh trấn giữ. Các binh sĩ thường xuyên được luyện
tập để nhanh chóng ứng phó với những bất trách. Để việc phòng thủ được tiến hành
Nếu thấy thuyền Tây dương tới, tấn có bắn súng không cứ mấy tiếng, trên
thành cũng chỉ bắn lại 3 tiếng. Nếu là thuyền quân có tình trạng cảnh báo thì
quan lãnh binh ở đó một mặt vào tâu, một mặt báo cho tỉnh, tăng cường thêm
chặt chẽ và thống nhất chính quyền đưa ra quy định:
biền binh, trang bị thêm súng ống và khí giới để phòng thủ (Nội các triều
Nguyễn, 1993).
133
Cùng với việc thiết lập hệ thống quan sát chính quyền vua Nguyễn còn thiết
lập các hệ thống phòng thủ để chủ động tấn công khi phát hiện xâm nhập. Tại bán
đảo Sơn Trà, vua Minh Mạng cho xây dựng các bảo phòng thủ. Bảo thứ nhất đặt tại
Mỏ Diều chu vi 23 trượng, bảo thứ hai đặt tại Hòn Cô có chu vi 41 trượng, cao 4
thước 3 tấc, hai bảo còn lại đặt ở phía Tây chân núi Sơn Trà. Thời Thiệu Trị trước
cuộc tấn công của Pháp tại Đà Nẵng vua cho xây dựng thêm 3 bảo nữa tổng cộng là
7 bảo “Thất dương trấn bảo” đồng thời tăng cường thêm súng và đại bác phòng
ngự. Các pháo đài Phong Hỏa ở phía bắc biển Đà Nẵng có nhiệm vụ đốt lửa khi
thấy có sự xuất hiện trái phép của tàu nước ngoài.
Trên bộ chính quyền phong kiến cho xây dựng Hải Vân Quan để quan sát và
cấp báo. Hải Vân Quan nằm ở đỉnh đèo Hải Vân từ đây có thể quan sát được toàn
khu vực biển Đà Nẵng. Ngoài ra Hải Vân Quan còn nằm trên con đường giao lộ
quan trọng nối liền từ Quảng Nam đến kinh thành Huế. Hải Vân có vị trí chến lược
quan trọng không chỉ đối với Đà Nẵng mà còn với vùng Quảng Nam: Dương Văn
Núi Hải Vân ở cửa ải Hải Vân huyện Tư Vinh, chân sát lợi bể, ngọn ngất tầng
mây, núi chia hai đường nam bắc, mây đưa những khách đi về. Chính là giới
hạn chia hai tỉnh Thuận Hóa và Quảng Nam rất là bao la hiểm hóc. Từ địa phận
Thuận Hóa, theo đường đi bộ ước hơn một ngày thì đến địa phận Quảng Nam.
Thực là một nơi xung yếu lớn của hai hạt, ở đó có lập đồn ải để canh phòng
(Địa Nam nhất thống chí tập 2, 2006).
An từ đời Mạc đã viết trong Ô châu cận lục (năm 1555) rằng:
Chính vì xác định được vị trí chiến lược vô cùng quan trọng của núi Hải Vân,
mà các vị vua triều Nguyễn đã ra sức củng cố địa bàn này nhằm quản lý chặt chẽ
hơn và biến nó trở thành một cứ điểm mạnh trong hệ thống phòng thủ bao quanh
kinh đô Huế. Nhà Nguyễn cho xây dựng ở đây một cứ điểm quân sự quan trọng
trong hệ thống phòng thủ từ xa nhằm bảo vệ trực tiếp vùng Đà Nẵng. Thời Minh
134
Mạng vua tiến hành xây dựng ở đây thành một hệ thống phòng thủ và quan sát:
“Đời Minh Mạng, đặt quan ải đèo Hải Sơn và 2 quan ải núi Hải Vân, xây đá làm
bậc để tiện đường đi… bên cạnh có đường đi đến địa giới Quảng Nam, sai lấp lại
và đặt binh canh giữ” (Nội các triều Nguyễn, 1993).
Vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826) vua cho xây dựng “Tháng 3…, xây đắp
cửa Hải Vân ở đỉnh núi Hải Vân, phía trước và sau đều đặt một cửa quan (ngạch
trước viết 3 chữ “Hải Vân Quan”, ngạch sau viết 6 chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng
quan”. Cửa trước bề cao và bề dài đều 15 thước, bề ngang 17 thước 1 tấc, cửa sau
bề cao 15 thước, bề dài 11 thước 1 tấc. Hai bên tả hữu cửa quan xếp đá làm đường,
trước sau liền nhau” (Đại Nam thực lục tập 2, 2006, tr. 485).
Thời Nguyễn vị thế của Hải Vân Quan được coi trọng trong thế liên hoàn
chiến lược với các cửa biển khác của kinh kỳ là cửa ải nối liền hai vùng Thừa Thiên
và Quảng Nam và cũng là cửa ngõ thông thương với phương Tây là cửa biển Đà
Nẵng. Cùng với việc xây dựng hệ thống đồn lũy vua Minh Mạng còn cho tăng
Đặt 1 viên Phòng thủ úy, biền binh thì cứ 15 ngày thì đổi; lại cấp kính thiên lý
để trông coi vùng biển, phàm thuyền nước ngoài khi vào cửa biển thì phải báo
trước cho cửa quan này (Đại Nam thực lục chính biên, 1995).
cường ở đây quân đội và vũ khí hiện đại.
Để tăng cường lực lượng phòng thủ cho Hải Vân Quan năm Minh Mạng thứ 9
(năm 1828) bổ sung lệnh chỉ về việc thay đổi phiên trực của quân lính đồn trú tại
đây:“cho phái thêm 1 tên nhà trạm, cứ 10 ngày thay đổi 1 lần, thường xuyên cùng
với binh lính ở cửa quan trông coi” (Nội các triều Nguyễn, 1993). Thời Tự Đức
công tác phòng thủ ở Hải Vân Quan được chú ý xem trọng:“Nay đã đặt thêm đại
bác, thì bắt thêm 10 tên lính các hạng và 20 tên pháo thủ doanh thần cơ, cùng với
50 tên phái trước, do thành thủ úy cửa quân ấy đảm nhiệm chia quân phòng thủ,
Các hệ thống phòng thủ được các vua Nguyễn tiến hành xây dựng qua các
chiếu lệ thay đổi” (Nội các triều Nguyễn, 1993).
triều đại một cách liên tục và coi đây là việc làm cấp thiết. Các công trình quan
trọng như thành Trấn Hải, thành Điện Hải, An Hải, Hải Vân Quan, tạo nên một hệ
135
thống phòng thủ liên hoàn có tác dụng bảo vệ vững chắc vùng lãnh thổ từ kinh đô
Huế đến Quảng Nam. Hệ thống phòng thủ này tạo nên một khối bảo vệ vững chắc
giúp chính quyền ngăn chặn được các nguy cơ tấn công từ bên ngoài. Trong đó
thành Điện Hải ở Đà Nẵng phát huy vai trò của nó trong việc bao vây và làm tiêu
hao lực lượng của Pháp khi chúng đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Ngoài ra các công
trình phụ trợ như pháo đài Định Hải, Trấn dương thất bảo, pháo đài Hòa Duân, đài
Phong Hỏa các tấn Tư Hiền, Cảnh Dương, Chu Mãi có nhiệm vụ phát hiện ngăn
chặn, cấp báo trước sự tấn công của thuyền buôn phương Tây ngăn chặn và giam
chân các cuộc tấn công của kẻ thù. Như vậy với các hệ thống phòng thủ liên hoàn
trên đã khẳng định chính quyền nhà Nguyễn đã có ý thức sâu sắc về tầm quan trọng
của việc phòng thủ vùng biển đối với an ninh quốc phòng của đất nước.
3.3. Hoạt động chống ngoại xâm vùng biển của các chính quyền phong kiến
3.3.1. Hoạt động chống ngoại xâm thời chúa Nguyễn
Trong lịch sử đấu tranh chống quân xâm lược trên biển thì trận đánh tiêu biểu
nhất là cuộc đối đầu của thủy quân Đàng Trong với chiến hạm Hà Lan vào năm
1644 trong trận đánh này chính quyền chúa Nguyễn đã thể hiện sức mạnh quân đội
của mình không hề thua kém bất cứ một cường quốc nào. Nguyên nhân của cuộc
chiến này là do xuất phát từ việc Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài cấu kết với người Hà
Lan, đem quân tấn công vào Đàng Trong với mong muốn cậy sức mạnh của người
Hà Lan để chiếm phần lãnh thổ Đàng Trong. Theo đó người Hà Lan đem theo năm
chiến thuyền tấn công vào vùng lãnh thổ của chúa Nguyễn. Cho rằng người Hà Lan
có thái độ hỗn xược với mình, chúa Nguyễn Phúc Chu ra lệnh cho tấn công các
thuyền của người Hà Lan ngoài khơi. Theo sách Đại Nam thực lục tiền biên cho
rằng 5 chiếc tàu của người Hà Lan đã bị bao vây bởi 60 chiếc thuyền của thủy quân
Đàng Trong:
Do thuyền của người Hà Lan là thuyền lớn nên di chuyển chậm chạp, dễ va
vào các tảng đá ngầm và liên tục chịu hỏa lực từ các thuyền chiến của thủy quân
Đàng Trong. Kết quả là “Trong cơn nguy khốn cùng cực, thuyền trưởng và binh lính
Hà Lan mất hết hi vọng cứu thoát giữ biển khơi, liền tự châm lửa vào kho thuốc
136
súng đốt chiếc tàu cùng với hai trăm thủy thủ đoàn trên thuyền, số còn lại nhảy
xuống biển” (Li Tana, 2004, tr. 266).
Theo tác giả Li Tana thì trong trận đấu này thì phía ta cũng chịu tổn thất nặng
với 7 chiếc thuyền bị phá hủy và 700 người bị giết. Trong trận đánh này chúa
Nguyễn sử dụng chiến thuật đánh úp và mai phục tạo sự bất ngờ cho đối phương,
cộng với khả năng chiến đấu tinh nhuệ cùng và sự hỗ trợ của vũ khí hiện đại, đã
giúp cho chính quyền Đàng Trong giành thắng lợi trước đội thủy quân hùng mạnh
của Hà Lan.
Cuộc chiến này cũng được sách Đại Nam thực lục ghi lại và cho rằng đây một
trong những chiến công lẫy lừng nhất của thế tử Dũng Lễ Hầu (tức chúa Nguyễn
Được tin giặc Ô Loan đang thực hiện việc cướp bóc ngoài biển thế tử đốc suất
chiến thuyền của mình tiến thẳng ra, Chưởng cơ Tôn Thất Trung bất đắc dĩ dốc
quân suất binh thuyền theo. Chiếc thuyền trước thuyền sau lướt nhanh như bay.
Giặc trông thấy cả sợ, nhằm thẳng phía đông mà bỏ chạy, bỏ rơi 1 chiếc thuyền
lớn, thế tử dốc quân vây bắn. Tướng giặc thế cùng phóng lửa tự đốt chết. Thế
tử tự thu quân về (Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 56).
Phúc Tần). Theo đó.
Chiến thắng này được coi là sự giương oai đầu tiên của chúa Nguyễn đối với
các thế lực bên ngoài, đồng thời cũng được coi là hành động bảo vệ chủ quyền vùng
biển của chính quyền Đàng Trong trước các thế lực ngoại xâm. Đây được coi là bài
học cho các thế lực có ý định xâm phạm lãnh thổ Đàng Trong và giáng đòn nặng nề
vào âm mưu của chính quyền Đàng Ngoài. Trong cuộc đụng độ với đội thủy quân
hùng mạnh của Hà Lan ngoài vũ khí và tinh thần chiến đấu cao của đội thủy quân
thì chính quyền Đàng Trong đã xây dựng hệ thống truyền tin rất tốt. Ngoài ra dọc
vùng ven biển chính quyền còn cho xây dựng các vọng gác. Chính hệ thống này
giúp cho chính quyền có thể truyền lệnh và tiếp nhận thông tin về các hoạt động
trên vùng biển một cách nhanh chóng, tạo cho quân xâm lược yếu tố bất ngờ và đẩy
chúng lâm vào thế bị động ngay từ đầu. Sau trận đánh này, chính quyền Đàng
137
Trong còn liên tiếp giành thắng lợi trước các thế lực ngoại xâm khác như Anh và
Pháp bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo nước ta.
Trận đánh với quân Anh ở bán đảo Côn Lôn đã thể hiện mưu trí và tinh thần
chiến đấu của thủy quân chúa Nguyễn. Trong trận chiến này thủy quân chúa
Nguyễn đã xuất sắc chiến đấu chống thủy quân Anh bảo vệ an toàn vùng biển Tây
Nam của đất nước. Đồng thời cũng khẳng định quá trình khai thác và bảo vệ chủ
quyền của chúa Nguyễn đối với quần đảo này. Thông qua trận chiến này vai trò của
thủy quân Hoàng Sa ngày càng được khẳng định họ không chỉ là những đội ngư dân
khai thác kinh tế thông thường mà còn đảm nhận vai trò của người lính bảo vệ lãnh
thổ khi có chiến tranh xảy ra.
Chúa Nguyễn đã có chiến thuật khôn khéo, sáng tạo trong việc sử dụng quân
Java vào việc đánh bại thủy quân Anh trên bán đảo Côn Lôn. Quốc sử quán triều
Nhâm Ngọ thứ 11 (1702), giặc biển người An Man Liệt có 8 chiếc thuyền đến
đậu ở đảo Côn Lôn. Trưởng là bọn Tô Thích Già Thi, 5 người tự xưng là nhất
bang, nhị bang, tam ban, tứ ban, ngũ ban cùng đồ đảng hơn 200 người kết lập
trại sách, của cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác. Trấn thủ Trương
Phúc Phan đem sự việc báo lên. Chúa sai Trương Phúc Phan tìm cách trừ bọn
ấy (Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 115 ).
Nguyễn đã ghi lại chiến thắng này như sau:
Để giành được thắng lợi này chúa Nguyễn đã biết sử dụng sức mạnh của thủy
quân Java để tiêu diệt các thế lực xâm lược khác. Tác giả Li Tana cho rằng sự kiện
này diễn ra bắt nguồn từ việc Peacook một thương gia của công ty Đông Ấn của
Anh được phái đến Đàng Trong bị mất tích. Đều này làm tăng mâu thuẫn của Anh
và chính quyền Đàng Trong. Trong lúc người Anh tạo dựng cơ sở thương mại của
mình tại vùng Côn Đảo thì đã diễn ra cuộc trạm tráng với họ Nguyễn. Theo đó
Trương Phúc Phan tướng lĩnh của họ Nguyễn đã sử dụng 15 người Bồ Đào Nha tới
làm việc cho người Anh để tìm cách giết họ.
Trước là trấn thủ Trương Phúc Phan mộ 15 người Chà Và sai làm kế nhử đảng
An Liệt (người Anh) để thừa chúng sơ hở thì giết. Bọn An Liệt không biết.Ở
Côn Lôn hơn một năm không thấy Trấn Biên xét hỏi, tự lấy làm đắc chí. Người
Chà Vàn (Bồ Đào Nha) nhân đêm phóng lửa dốt trại, đâm chết nhất ban, nhị
ban, bắt ngũ ban trói lại, còn tam ban, tứ ban trốn biệt. Trương Phúc Phan nghe
tin báo tức thì sai binh thuyền ra Côn Lôn, thu hết của cải bắt được dâng nộp.
Chúa trọng thưởng người Chà Và và tướng sĩ theo từng cấp bậc (Đại Nam thực
lục tập 1, 2002, tr. 115).
138
Những cuộc chạm trán giữa thủy quân Đàng Trong với thủy quân Hà Lan,
Anh đã chứng tỏ thủy quân Đàng Trong ngày càng tinh luyện, hùng mạnh không hề
thua kém bất kì một quốc gia nào và đủ sức đảm đương trọng trách giữ gìn và bảo
vệ an ninh đất nước chống nguy cơ xâm lược.
Đối với vùng biển Tây Nam Bộ thì chính quyền chúa Nguyễn giao cho họ
Mạc tiến hành làm chủ đồng thời có nhiều biện pháp hỗ trợ và tăng cường sự ảnh
hưởng của mình lên vùng đất này. Năm 1708 Mạc Cửu dâng vùng đất Hà Tiên lên
cho chúa Nguyễn đánh dấu việc khẳng định chủ quyền của chúa Nguyễn lên vùng
đất này, từ đây vùng đất liền và biển đảo Hà Tiên thuộc về lãnh thổ Đàng Trong.
Như vậy, với việc việc xác lập chủ quyền cho tới các hoạt động đấu tranh
chống ngoại xâm trên biển từng bước can thiệp cho tới tại các vùng biển phía Nam
chính quyền Đàng Trong đã mở rộng vùng kiểm soát, chính thức hợp thức hóa vùng
đất này vào lãnh thổ của mình. Ngoài ra chính quyền Đàng Trong còn sử dụng nhân
lực của vùng đất này tham gia vào việc khai thác và bảo vệ chủ quyền chống lại các
hành động xâm, lược từ bên ngoài. Để khai thác vùng biển phía Nam chúa Nguyễn
cho thành lập đội Bắc Hải với nhiệm vụ tìm kiếm, hải vật và hóa vật từ vùng Hà
Tiên, Côn Lôn, Phú Quốc trong đó có quần đảo Trường Sa. Ngoài ra đến thời
Nguyễn Ánh còn cho thành lập thêm đội Thanh Châu có nhiệm vụ bảo vệ an ninh
vùng biển này.
139
3.3.2. Cuộc đấu tranh chống ngoại xâm trên biển thời Nhà Nguyễn:
Thời Nguyễn, chính quyền phong kiến hạn chế tiếp xúc với phương Tây và chỉ
cho họ buôn bán ở cửa biển Đà Nẵng, bên cạnh đó chính quyền phong kiến còn cho
xây dựng nhiều hệ thống phòng thủ tại đây. Ngay từ thời Gia Long vua đã có thái
độ dè chừng trước các thuyền buôn của người nước ngoài, cự tuyệt mọi quan hệ tiếp
xúc hay buôn bán với họ. Năm 1803, nước Hồng Mao (Anh) “sai sứ đến dâng
Lại xin cho người nước ấy ở lại Đà Nẵng, đi lại buôn bán. Gia Long cho rằng:
tiên vương kinh dinh việc nước, không để người Hạ lẫn với người Di, đó thực
là ý đề phòng từ lúc việc còn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo trí trá, không
phải nòi giống ta, lòng họ hẳn khác, không cho ở lại, khước từ những phương
vật mà họ hiến. Sau đó Hồng Mao thêm hai ba lần dâng thư xin thông thương,
Gia Long đều không bằng lòng, tất cả chỉ là ý đề phòng từ xa (Đại Nam thực
phương vật, dâng biểu xin thông thương”
lục tập 1, 2002)
Đến thời vua Minh Mạng để ngăn chặn nguy cơ xâm lược, các hệ thống phòng
thủ ở vùng cửa biển duyên hải miền trung ngày càng được tăng cường, thành Trấn
Hải, An Hải và pháo đài Điện Hải được củng cố. Các trấn Định Hải và Hải Vân
Quan và Trấn dương thất bảo được xây dựng và chỉnh đốn. Hệ thống phòng thủ liên
hoàn tại cửa biển Đà Nẵng được chú ý xem trọng.
Ngoài ra trong giai đoạn này vua còn phái đội thủy quân ra vùng biển Hoàng
Sa để thám vãn, đo đạc thủy trình và vẽ bảng đồ cắm mốc chủ quyền. Những hành
động này được như là phòng thủ từ trước nhằm ngăn chặn lại mọi biến cố bất ngờ
xảy ra là “kế sách ràng rịt cửa tổ ngay từ lúc chưa mưa, để giữ vững bờ cõi của
mình”.Việc củng cố và thắt chặt an ninh quốc phòng của đất nước được diễn ra
trong bối cảnh thế giới và các quốc gia trong khu vực có những chuyển biến đáng lo
ngại. Trên thế giới chủ nghĩa tư bản ngày càng mạnh tiến hành mở nhiều cuộc tấn
công xâm lược quy mô lớn và công khai nhằm cướp đoạt thị trường và mở rộng
quyền ảnh hưởng ở nhiều khu vực trên thế giới.Tại châu Á sau thất bại của cuộc
140
chiến tranh Nha Phiến Trung Quốc buộc phải kí hiệp ước bất bình đẳng mở cửa
nhiều cảng cho các nước phương Tây tự do buôn bán.Thực dân Anh ngày càng nắm
vai trò kiểm soát trên vùng biển Đông Nam Á trong khi đó Pháp không hề có bất cứ
một ảnh hưởng nào tại khu vực này. So với các nước khác thì Pháp thì kẻ đến muộn
vì thế không muốn đứng nhìn vùng đất rộng lớn của châu Á lần lượt rơi vào tay các
cường quốc Tây Âu khác Pháp tiến hành ráo riết đẩy mạnh việc tìm kiếm thị trường
mới nhằm thiết lập cho mình quyền thống trị tại các nước Châu Á nhất là ở Việt
Nam.
Lợi dụng lúc các vua triều Nguyễn đang tỏ ra bối rối trước sự thất bại của
Trung Hoa trước quân Anh từ năm 1817 - 1830 Pháp liên tục can thiệp sâu vào Việt
Nam. Các thuyền binh của Pháp tới Việt Nam ngày một nhiều xin thiết lập quan hệ
ngoại giao đồng thời tạo sự chia rẽ, e dè giữa ta với thực dân Anh. Trước tình thế đó
vua Minh Mạng tỏ ra vô cùng lo lắng và bối rối. Để hiểu rõ hơn về những hành
động của Anh và Hà Lan, Minh Mạng đã cử 2 chiếc thuyền đến các quốc gia này để
xem xét tình hình “Ngày 28 - 2 - 1840, một thuyền của vua An Nam thả neo ở
Penang.Chiếc tàu nay đi Calcuta để xem người Anh chuẩn bị cho chiến tranh như
thế nào.Một chiếc của vua Minh Mạng cũng đi Batavia để xem người Hà Lan có
động tĩnh gì không” (Đỗ Bang, 2016).
Năm 1845 các thuyền buôn của Pháp cập cảng Đà Nẵng để xin triều đình cho
thiết lập quan hệ buôn bán. Tuy nhiên khi biết tin triều đình Nguyễn thực hiện cuộc
bách hại tôn giáo và đang giam giữ một giám mục người Pháp, hải quân Pháp đã lập
tức dùng vũ lực khống chế các quan ở cửa biển, sử dụng họ làm con tin buộc chính
quyền phong kiến phải thả vị giám mục.Tuy nhiên, trước hành động ngang ngược
của người Pháp, chính quyền Thiệu Trị tỏ ra không lo sợ hay nhượng bộ và kiên
quyết không thực hiện yêu cầu của chúng. Sau nhiều ngày dùng vũ lực uy hiếp
không thành công, quân Pháp buộc lòng phải thả con tin. Ít lâu sau đó chính quyền
phong kiến tiến hành thả vị giám mục Pháp này vì lo sợ giam giữ lâu sẽ làm cho
người Pháp có cớ xâm lược. Đây là sự kiện lần đầu tiên thực dân sử dụng bạo lực để
can thiệp vào việc nội bộ của triều đình phong kiến.
Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) diễn ra cuộc đụng độ giữa chính quyền Đàng
141
Trong với quân đội Pháp. Sách Đại Nam Thực lục và Quốc triều chính biên toát yếu
cũng ghi nhận về sự kiện này. Theo đó, các chiến thuyền của Pháp từ 5 - 6 chiếc
ngang nhiên đi lại nơi cửa biển Đà Nẵng nước ta và có thái độ thách thức. Đồng
thời khi bị xét hỏi thì quân lính người Pháp kết hợp với các nhóm thổ phỉ đem khí
giới tiến vào tấn công đồn trạm của quân đội triều đình, đồng thời đưa những bức
thư được viết bằng chữ Hán với lời ngạo mạn thách thức chính quyền, buộc chính
quyền phải thả hai giáo sĩ đang bị giam cầm, bỏ việc cấm đạo và cho tự do truyền
giáo. Nhà vua vô cùng tức giận, cho rằng sự tái phạm của giám mục Lefebvre và sự
nhún nhường của ông với người Pháp khiến cho người Pháp xem thường chính
quyền Việt Nam. Lo sợ chuyển biến xấu sẽ xảy ra, tham tri bộ lễ Lê Văn Phúc đã
tấu về kinh đô xin sự chỉ đạo của vua. Lợi dụng lúc này, người Pháp cho quân tiến
hành cướp bóc các thuyền tuần tra của ta và bắn chìm 5 chiếc thuyền bọc đồng lớn
và làm gần 1.200 thủy quân Nguyễn thương vong.
Tác giả Đỗ Bang cho rằng trong sự kiện này Pháp chỉ cướp một số tàu của
nước ta. Nhưng các nhà sử học khác lại cho rằng Pháp đã bắn chìm 5 tàu đồng của
chính quyền Việt Nam khi neo đậu tại cửa biển. Sự việc này đã làm cho quan hệ
giữa hai nước xấu đi, vua Thiệu Trị và Tự Đức sau này tiến hành chuyển từ việc
hạn chế sang chủ trương đóng cửa hoàn toàn với phương Tây và đồng thời ra lệnh
chấm dứt toàn bộ việc sai phái các đội thuyền nhà nước đến buôn bán ở các xứ
thuộc địa của phương Tây và tăng cường việc bách đạo.
Sau màn gây sự lúc đầu Pháp nhận thấy cần phải nhanh chóng tiến hành đẩy
mạnh các hoạt động mở rộng việc xâm chiếm lãnh thổ nhằm tìm kiếm thị trường và
tang tầm ảnh hưởng của mình lên các nước trong khu vực Châu Á. Vì thế đến 10
năm sau, tháng 8 năm 1856 Pháp lại cho quân đến cửa biển Đà Nẵng, cùng với việc
xin chính quyền cho tiến hành thông thương. Tuy nhiên lần này thay vì dừng ở cửa
biển Đà Nẵng thì quân Pháp lại trực tiếp đến cửa biển Thuận An. Hành động này đã
vi phạm vào việc nhập cảng trái phép và có ý định xâm phạm lãnh thổ nên chính
quyền phong kiến cự tuyệt việc buôn bán. Điều này thực chất chỉ là cái cớ cho quân
Pháp đẩy mạnh các hành động tấn công và gây hấn. Không nhận được sự đón tiếp,
quân Pháp cho thuyền tiến về cửa biển Đà Nẵng với thái độ hống hách: “đưa thơ
142
xong rồi, chạy tới đây, chờ quan chánh phó sứ đến thương thuyết nếu không chịu
hòa đồng thời về rủ nước Xích Mao (nước Anh) qua, chắc sanh việc không tốt” (Đại
Nam nhất thống chí tập 2, 1995).
Những thái độ và hành động trên đã thể hiện âm mưu xâm lược nước ta của
Pháp, gây sức ép đối với triều đình nhà Nguyễn. Vua Tự Đức vô cùng tức giận nên
tăng cường lực lượng phòng thủ ở cửa biển Thuận An và Đà Nẵng. Nhận thấy số
quân Nguyễn ngay càng đông được bố trí ở các tuyến phòng thủ, quân Pháp nghĩ
mình đang bị đe dọa nên tiến hành tấn công trước. Chúng bắn vào các thuyền của ta
đang đậu ở cửa biển Đà Nẵng và các pháo đài ở bán đảo Sơn Trà sau đó nhanh
chóng nhổ neo ra biển. Trước các đòn tấn công bất ngờ của quân Pháp, hệ thống
phòng ngự ở đây tỏ ra vô hiệu. Nhận thấy những ưu thế và sức mạnh vũ khí của
Pháp, để đối phó vua Tự Đức cho tiến hành tăng cường quân lính tinh nhuệ bố trí ở
các vùng hiểm yếu như cửa Hàn, Hải Vân Quan, tăng cường bố phòng và cho xây
thêm các đồn phòng thủ.Triều Nguyễn xây dựng các đồn phòng thủ liên hoàn hỗ trợ
lẫn nhau để ngăn chặn kẻ thù. Nếu muốn đánh sâu vào nội địa thì buộc chúng phải
vượt qua các đồn bảo, lúc đó các đồn bảo như một pháo đài ngăn chặn bước tiến
của chúng, buộc chúng phải hao tốn lực lượng. Các đồn bảo này như một pháo đài
bất khả xâm phạm, do việc đặt gần nhau nên các pháo đài có thể làm nhiệm vụ bổ
sung cho nhau thêm sức mạnh.
Tháng giêng năm 1857, tàu Pháp lại đến xin phép mở rộng quan hệ giao
thương. Trước tình hình đó, vua Tự Đức giao cho Bộ binh tiến hành lo liệu sao cho
Theo đó Bộ Binh sẽ báo cáo khi tàu Pháp đến Đà Nẵng và được đưa lên Kinh,
quan nhất phẩm sẽ tiến hành việc xét hỏi. Bộ Binh sẽ đề nghị các quan mặc
trang phục triều đình để đón tiếp và trao đổi với họ. Nếu như quân Pháp cố ý
đến cửa biển Thuận An thì sẽ kiên quyết tấn công (Đỗ Bang, 2016).
vẹn cả đôi đường:
Chính quyền Pháp liên tục gây hấn buộc ta phải chấp nhận những điều kiện có
lợi cho quân Pháp nhưng trước hầu hết các hành động đó của Pháp. Triều đình
không nao núng, sợ hãi mà kiên quyết tỏ thái độ không nhượng bộ. Tuy nhiên, hầu
143
như trước các cuộc tấn công của Pháp, triều đình phong kiến chỉ đối phó một cách
bị động và chỉ khi bị tấn công mới tiến hành tăng cường thêm hệ thống phòng thủ.
Các cuộc tấn công nhỏ lẻ của Pháp đã làm bộc lộ những hạn chế và thiếu sót
của hệ thống phòng thủ của nhà Nguyễn ở cửa biển Đà Nẵng và Thuận An. Triều
đình không nhận thấy thất bại ở cửa biển Đà Nẵng đã phản ánh sự yếu kém lạc hậu
trong hệ thống phòng thủ và các đội tàu chiến cũ kỹ của Việt Nam trước các tàu
chiến Pháp.
Sau nhiều lần tiến hành thiết lập quan hệ ngoại giao nhưng thất bại, chính
quyền thời Thiệu Trị và Tự Đức cắt dứt mọi liên hệ, thực hiện chính sách cấm đạo.
Lúc bấy giờ hầu hết các quốc gia Tây Âu lúc bấy giờ đều có được những thuộc địa
ở Đông Nam Á thì Pháp vẫn chưa có một điểm tựa nào. Vì thế bước vào thế kỉ XIX
Pháp tiến hành đẩy mạnh các hoạt động xâm lược với việc dùng vũ lực tấn công.
Sau các đợt tấn công thăm đò thử sức lực lượng phòng thủ của triều đình Huế tại
vùng cửa biển Đà Nẵng. Pháp quyết định chọn Đà Nẵng làm nơi tấn công xâm lược
đầu tiên vì: Đà Nẵng có các cảng biển nước sâu phù hợp cho tàu bè neo đậu, ngoài
ra đây còn là nơi có vị trí chiến lược quan trọng nối liền con đường giao thương từ
Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương, dễ tiến hành cuộc tấn công chớp nhoáng vào
kinh thành Huế vì chỉ cách 100 km thuận lợi cho việc đánh nhanh thắng nhanh của
Pháp.
Lấy cớ triều Nguyễn bách đạo Thiên Chúa giáo, giết hại giáo dân, trong đó có
một số giáo sĩ người Tây Ban Nha. Vì thế Pháp tiến hành liên minh với Tây Ban
Nha gấp rút tiền hành chiến tranh xâm lược Việt Nam nhằm “cứu đạo, khai hóa”.
Dựa vào lực lượng quân đội hùng mạnh cùng với vũ khí hiện đại ngày 31 tháng 8
năm Mậu Ngọ (1858) liên quân Pháp - Tây Ban Nha với 14 tàu chiến, 300 quân
dưới sự chỉ huy của Phó đô đốc Rigaul de Genouilly chỉ huy tiến vào cửa biển
Thuận An. Chúng dự định sẽ cho quân đánh vào cửa biển Đà Nẵng sau khi thắng lợi
lấy Đà Nẵng làm bàn đạp tấn công lên kinh thành Huế tiêu diệt nhanh chóng chính
quyền phong kiến Nguyễn.Trong cuộc này Pháp trang bị các tàu đồng cỡ lớn, 50
khẩu đại bác cùng với trang thiết bị và vũ khí hiện đại và tối tân nhất lúc bấy giờ.
144
Lực lượng quân đội nhà Nguyễn gần khoảng hơn 2000 quân chính quy được
bố trí ở các đồn trú, pháo đài và các trấn được trang bị đại bác, súng trường và vũ
khí các loại. Với ưu thế về lực lượng đông và vũ khí trang thiết bị hiện hại mờ sáng
ngày 1/9/1858 liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công vào hệ thống phòng thủ của
ta tại Đà Nẵng và các đồn tại bán đảo Sơn Trà. Trước đó chúng đã cho người ra tối
hậu thư đòi quan lại và nhân dân ta ở Đà Nẵng phải đầu hàng và nộp chiến lũy và
khí giới trong vòng 48 giờ.Tuy nhiên không chờ đến khi quân ta đầu hàng Pháp đã
nhanh chóng cho quân bắn phá tấn công vào chân núi Sơn Trà. Chỉ trong đột tấn
công đầu tiên hệ thống phòng thủ tại cửa biển Đà Nẵng như thành An Hải, Điện Hải
lần lượt bị thất thủ. Và Pháp lần lượt chiếm các thành này và làm chủ chiến trường
Đà Nẵng. Trước lợi thế về vũ khí hiện đại và quân số đông quân Pháp không ngừng
tấn công đẩy quân ta lâm vào thế bị động và phải lui dần vào sâu đất liền, xây dựng
tuyến phòng thủ Liêu Trì (huyện Hòa Vang) để ngăn quân pháp tiến sâu vào nội địa.
Nhận được tin các hệ thống phòng thủ của ta ở cửa biển Thuận An và Đà Nẵng
Sai Tổng đốc Nam - Ngãi là Trần Hoằng gọi biền binh của tỉnh ấy để phòng sai
phái. Đồng thờ sai chưởng dinh Hổ oai Đào Trí đi nhanh đến cùng với án sát là
Lê Văn Phổ để giữ thành. Bố chính là Thân Văn Nhiếp, hội đồng với Trần
Hoằng đánh dẹp và chống giữ (Đại Nam thục lục 5, 2006).
lần lượt bị thất thủ. Vua Tự Đức liền:
Theo đó chưởng cơ Đào Trí sẽ huy động 2.000 quân hỗ trợ cho quân đội của
Trần Hoằng để chống giặc và giữ thành. Tuy nhiên khi đến cửa biển Đà Nẵng thì
đồn An Hải và Điện Hải đã rơi vào tay của Pháp. Trước tình thế đó nhà vua sai Hữu
quân đô Lê, Trần, Lý và tham tán Pham Khắc Thuận đem 2000 quân vào Đà Nẵng
ứng cứu. Ngoài ra vua còn có chỉ dụ là cho xây dựng hệ thống phòng thủ ở cửa biển
từ Hải Vân đến núi Câu Đê để tiện liên lạc và phòng giữ. Đồng thời trên đất liền
cho xây dựng các đồn lũy để ngăn chặn quân giặc tiến sâu vào đất liền. Khi đến Đà
Nẵng, theo chỉ dụ của vua Tự Đức, tổng đốc Lê Đình Lý cho đặt đồn và dọc các sở
Chân Sảng, Câu Đê, Nam Ô, Cẩm Lệ, Hóa Khuệ đồng thời cho tăng cường lực
lượng binh lính và voi chiến tại đây, ngoài ra ở các khu vực xung yếu như cửa biển
145
đại Chiêm thì cho quân tăng cường bố phòng đóng chặn. Khi quân Pháp tấn công
vào Mỹ Thị, phá đồn Thổ Sơn. Trong trận đánh này Lê Đình Lý chiến đấu dũng
cảm và mất lâu sau đó. Vua Tự Đức cử Chu Phúc Minh tạm thời thay thế, đồng thời
cử danh tướng Nguyễn Tri Phương làm tổng đốc Quảng Nam cùng đề đốc Chu
Phúc Minh ra Đà Nẵng chặn giặc.
Tháng 11 năm 1858 liên quân Pháp Tây Ban Nha bất ngờ tấn công vào Hóa
Khuê, Nai Hiên quân ta tổn thất nghiêm trọng. Trước tình hình đó Nguyễn Tri
Phương sửa lại các đồn, chia lính luân phiên canh gác để tiếp ứng nhanh chóng.
Tình thế Đà Nẵng lúc bấy giờ giữa ta và Pháp đang ở tình thế giằng co. Liên
quân Pháp - Tây Ban Nha có sức mạnh ở tàu thuyền, vũ khí trang thiết bị hiện đại.
Còn quân đội triều Nguyễn thì không có khả năng đánh trực diện vì vũ khí không
tinh nhuệ và quân đội không đông. Vì thế Nguyễn Tri Phương đã quyết định chọn
việc phòng thủ để đối phó với quân giặc: “Giặc lấy chiến làm lợi, ta lấy thủ làm lợi.
Xin lấy thủ làm chiến, đắp thêm đồn lũy dần dần tiến đến gần giặc” (Đại Nam nhất
thống chí tập 2, 1995).
Nhận định trên của danh tướng Nguyễn Tri Phương trong việc chống quân
Tây Dương là chính xác, bởi vì quân đội triều Nguyễn yếu về vũ khí và ít về quân
số vì thế nếu chiến đấu trực diện với quân Pháp thì ta chắc chắc sẽ tổn thất nặng nề.
Vì thế ta chuyển từ thế công sang thế thủ tức là chuyển việc đánh thắng nhanh của
giặc sang đánh lâu dài có lợi cho ta. Đây được xem là chiến thuật khôn ngoan và
hiệu quả nhất của ta lúc bấy giờ khi phải đương đầu với 1 kẻ thù mạnh.
Cách đánh này của Nguyễn Tri Phương được xem là sự cứu cánh cho ta thoát
khỏi sự bế tắc, trong việc chặn đánh quân Pháp ở cửa biển Đà Nẵng trong tình thế
mà các hệ thống phòng thủ của ta đều vô hiệu hóa trước các loạt đại bác của Pháp.
Đồng thời ông còn quân lính đắp đồn lũy Phúc Ninh, Thạc Giản để chặn đánh giặc,
bên ngoài có chông tre bao phủ được ngụy trang bằng cỏ và đắp cát lên trên đồng
thời cho bố trí phục binh mai phục sẵn. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha khi đem
quân tấn công vào đây đã bị tổn thất nặng nề trước hệ thống phòng thủ của ta. Lớp
thì bị sa xuống hố chết, lớp thì bị phục binh bất ngờ chặn đánh, cùng lúc đó từ các
đồn lũy quân ta liên tục bắn hỏa pháo vào giặc. Cuộc tấn công của liên quân Pháp -
146
Tây Ban Nha vào đồn Hóa Khuê, Thạc Giản bị thất bại hoàn toàn. Nhờ kế hoạch
phòng thủ của danh tướng Nguyễn Tri Phương đã đẩy lùi cuộc hành quân và khiến
cho chúng không thể tiến lên được. Trận chiến ở thế giằng co cả ta và giặc đều ở thế
cố thủ không tiến thêm được. Sau nhiều ngày bị bao vây và liên tục bị quân ta tấn
công cộng với thời tiết khí hậu khắc nghiệt, lực lượng quân ngày càng giảm sút.
Cuối cùng liên quân Pháp - Tây Ban Nha phải rút toàn bộ quân ra khỏi Đà Nẵng và
chuyển hướng tấn công vào Nam. Theo viên tướng người Pháp là Alfred người
tham gia cuộc tấn công vào Đà Nẵng đã ghi nhận lại những khó khăn mà quân Pháp
gặp phải trong trận đánh này: “Chúng tôi ở lại cửa Hàn đã năm tháng rồi, mà
không được sự gì, có một điều là tài vật, binh lính tổn thất ngày càng nhiều mà thôi,
để phát huy thế mạnh thì phải tìm nơi khác mà đánh” (Đỗ Bang, 2016).
Trước những khó khăn mà quân Pháp gặp phải tháng 2/1859, tướng chỉ huy
quân đội Pháp là Regault de Genouilly ra lệnh rút quân khỏi Đà Nẵng chỉ để lại ở
đây một số ít quân khoảng vài trăm đóng giữ cửa Hàn, số còn lại tiến quân vào Sài
Gòn. Quân Pháp ở Đà Nẵng liên tục bị quân ta tấn công, chúng phải cố thủ bên
ngoài không dám tiến sâu vào nội địa, vùng kiểm soát bị thu hẹp. Mặc dù số lượng
quân pháp tại Đà Nẵng rất ít nhưng chính quyền phong kiến Nguyễn lại không có
kế hoạch đánh Pháp một cách dứt khoát mà lại có sự chia rẽ lẫn nhau trong nội bộ
Vì thế chính quyền nhà Nguyễn giữ thế phòng thủ trước số lượng quân Pháp ít ỏi.
Tháng 11 năm 1859, quân Tây Dương chuyển hướng tấn công về phía Nam
Hải Vân, bắn phá vào pháo đài Định Hải, chiếm giữ đồn Chân Sảng, khống chế
đường từ Huế vào Đà Nẵng. Trước tình thế đó vua sai thống đốc Nguyễn Tri
Phương cho sửa sang đồn lũy và tăng cường thêm 300 quân tiến đánh. Các cuộc tấn
công của Pháp bị dần bị đẩy lùi, Pháp phải rút quân ra khỏi Đà Nẵng. Quân Pháp rút
dần quân và đồn bốt ra khỏi vùng Trà Sơn, Điện Hải, An Hải, chúng rút lui đến đâu
ta cho quân chiếm lại ở đó.
Như vậy, kể từ khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn Trà
cho đến khi toán lính Pháp cuối cùng rút quân ra khỏi đây. Tổng cộng là gần 18
tháng (9/1858 - 3/1960). Mặc dù quân Pháp tiến hành các đợt tấn công liên tục
nhưng chúng chỉ chiếm được các thành chứ chưa thể tiến sâu vào nội đô. Kế hoạch
147
đánh vào Đà Nẵng, chiếm kinh thành Huế, làm chủ nước ta của Pháp bước đầu gặp
thất bại.
Tuy nhiên, đây được coi là chiến thắng duy nhất của vương triều Nguyễn
trong cuộc chiến chống Pháp, bởi vì về sau các tấn công của ta dần thất bại và chính
quyền phong kiến từng bước đầu hàng và đi đến thỏa hiệp với Pháp.
Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng các công trình trấn thủ, hải trấn và các chiến
lũy kiên cố của chính quyền nhà Nguyễn đã phát huy tác dụng to lớn trong việc
từng bước ngăn chặn cuộc tấn công của các thế lực ngoại xâm. Điều này cho thấy
các vương triều nhà Nguyễn đã chú trọng đến các hoạt động bảo vệ và chống lại các
nguy cơ đến từ biển. Tính quốc phòng trong thời kì này được đẩy cao hết mức bên
cạnh việc thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng ngăn cấm việc mua bán với các
thương nhân nước ngoài thì chính quyền phong kiến Nguyễn còn hết sức chú trọng
đầu tư xây dựng hệ thống phòng thủ ven biển. Những việc làm này có tác dụng nhất
định trong việc bảo vệ chế độ phong kiến tập quyền trước sự lớn mạnh của chủ
nghĩa thực dân phương Tây. Chính sách bế quan tỏa cảng mặc dù có điểm hạn chế
là làm cho nước ta bị cô lập và lạc hậu so với bên ngoài nhưng góp phần bảo vệ
vững chắc nền độc lập chủ quyền và các giá trị truyền thống của đất nước trước các
cuộc tấn công và đe dọa từ các thế lực ngoại xâm bên ngoài.
148
Tiểu kết chương 3
Các chúa Nguyễn và vua Nguyễn đã biết tận dụng những điều kiện tự nhiên
thuận lợi của vùng duyên hải Nam Trung Bộ nhất là vùng đất Quảng Nam để ra sức
xây dựng các thương cảng lớn sầm uất thúc đẩy nền hải thương phát triển nhanh
chóng. Cùng với việc khai thác kinh tế chính quyền phong kiến họ Nguyễn và các
vua Nguyễn cũng chú trọng đến tăng cường và thiết lập các hệ thống phòng thủ, bảo
vệ an ninh quốc phòng như Lũy Trường Dục (lũy Thầy cho đến các tuyến phòng
thủ kiên cố như thành Điện Hải, An Hải, pháo đài Hòa Duân, pháo đài Cồn Sơn,
Hạp Châu và đập chắn Thuận An, thất dương trấn bảo. Ngoài ra các hệ thống Hải
Vân Quan ở cửa biển Thuận An có nhiệm vụ, quan sát và cấp báo khi có sự xâm
nhập.
Những công trình này tạo nên hệ thống phòng thủ liên hoàn vững chắc có vai
trò quan trọng trong việc bảo vệ an ninh quốc phòng vùng biển. Các hệ thống phòng
thủ đã phát huy tác dụng của nó như nhờ lũy Trường Dục chính quyền họ Nguyễn
Đàng Trong có thể chặn được cuộc tấn công của quân Trịnh ở Đàng Ngoài hay
thành Trấn Hải, An Hải gây ra những tổn thất nặng nề cho quân Pháp trong cuộc
trạm tráng với nhà Nguyễn. Đây được coi là sự tiến bộ trong tư duy hướng biển của
các chính quyền phong kiến Nguyễn, không chỉ thấy được những tiềm năng về kinh
tế mà biển mang lại cho sự phát triển đất nước đặc biệt là kinh tế ngoại thương mà
chính quyền nhà Nguyễn còn biết sử dụng biển làm dựa quan trọng về mặt quốc
phòng. Chính quyền phong kiến đã kết hợp một cách khéo léo và linh hoạt giữa vấn
đề khai thác kinh tế và bảo vệ quốc phòng. Thực tế lịch sử đã cho thấy chính nhờ
những bước đi đúng đắn của Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên trong giai đoạn
đầu đã giúp cho Đàng Trong không chỉ phát triển vượt bậc về hải thương mở rộng
giao lưu xúc với bên ngoài mà còn có được sự lớn mạnh về quân sự. Một trong
những việc làm được xem là thể hiện rõ nét nhất trong việc kết hợp linh hoạt giữa
khai thác và bảo vệ vùng biển là hoạt động của đội Hoàng Sa và Bắc Hải. Thông
qua các hoạt động tìm kiếm sản vật và hóa vật chính quyền phong kiến còn sử dụng
họ là lực lượng đắc lực trong việc kiểm soát và quản lí các vùng biển và hải đảo
trọng yếu của nước ta
149
Chính quyền phong kiến đã có sự chuyển hướng một cách linh hoạt và khéo léo
trước những thay đổi của tình hình thế giới để áp dụng vào trong nước. Thời chúa
Nguyễn với nhu cầu tìm kiếm lực lượng đồng minh và vũ khí cho cuộc chiến tranh
với họ Trịnh vì thế các chúa đẩy mạnh quan hệ tiếp xúc với bên ngoài cùng lúc đó
trên thế giới đang bước vào thời kì hải thương rực rỡ, sự giao lưu tiếp xúc văn hóa
Đông - Tây được mở rộng và đẩy mạnh nhiều quốc gia trong khu vực cũng tiến
hành mở cửa tiếp nhận sự du nhập của những thành tựu vế kinh tế, văn hóa, tôn
giáo, chữ viết từ các quốc gia Tây Phương tạo ra sự liên kết các vùng và các khu
vực.
150
KẾT LUẬN
Ngay từ thời cổ đại, các cư dân văn hóa Hòa Bình, Sa Huỳnh, đã phát triển
nền kinh tế biển. Sự ra đời của thương cảng Óc Eo sầm uất đã tạo ra ý thức về nền
kinh tế văn hóa biển đầu tiên trong lịch sử nước ta. Những di tích khảo cổ học về
thuyền, dụng cụ chài lưới và bức vẽ hình thuyền trên trống đồng Đông Sơn đã
chứng minh nước ta sớm có sự tiếp xúc với biển hơn cả với người Trung Hoa. Nhờ
địa hình tự nhiên với đường bờ biển kéo dài, người Sa Huỳnh đã tiến hành buôn bán
và trao đổi với bên ngoài từ rất sớm. Đến giai đoạn phong kiến, chính quyền tiến
hành đẩy mạnh giao thương, buôn bán với nhiều quốc gia thông qua con đường
biển. Cảng Vân Đồn được mở từ rất sớm, từ thời Lý đến thời Lê Sơ, đã chứng tỏ
chính quyền phong kiến luôn có sự quan tâm đến vùng biển trong chính sách phát
triển kinh tế đất nước. Việc thành lập trang Vân Đồn đã thể hiện ý thức của các triều
đại phong kiến trong việc bảo vệ an ninh quốc phòng của đất nước nói chung và an
ninh vùng biển đảo nói riêng. Ngoài những thuận lợi mà biển còn mang lại, những
khó khăn thách thức như nạn ngoại xâm và vấn đề bảo vệ an ninh biển. Từ rất sớm,
các chính quyền phong kiến Việt Nam đã thi hành nhiều chính sách và biện pháp
nhằm xác lập chủ quyền vùng biển, tận dụng những tiềm năng của biển và bảo vệ
an ninh vùng biển đảo. Lịch sử đã cho thấy việc khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng
biển không chỉ trong thời phong kiến mà còn là sự quan tâm của nhà nước ta hiện
nay.
Từ thế kỉ XVI - XVII, chính quyền chúa Nguyễn đã xây dựng vùng đất Đàng
Trong thành cơ sở kinh tế - chính trị - quân sự hùng mạnh nhằm chống lại thế lực
Đàng Ngoài của chúa Trịnh. Các chúa Nguyễn luôn quan tâm đến việc chủ động mở
cửa giao thương với bên ngoài, xây dựng các thương cảng ở vùng ven biển miền
Trung. Đồng thời với việc chủ động mở cửa giao thương buôn bán, các chúa
Nguyễn cũng tiến hành việc xác lập quyền cai trị của mình tại vùng biển đảo, điển
hình nhất là dưới thời cai trị của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, người đầu tiên đặt cơ
sở cho vấn đề xác lập chủ quyền vùng biển nước ta.
Trong thời kì nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh, vấn đề khai thác và xác lập
chủ quyền vùng biển được coi trọng. Nguyễn Ánh đã tận dụng lợi thế của vùng biển
151
Tây Nam cho quân lính tiến hành khẩn hoang các vùng ven biển, phát triển thủy
quân hùng mạnh, chú trọng giao thương buôn bán với nước ngoài thông qua đường
biển. Từ rất sớm Nguyễn Ánh đã có ý thức về vai trò của biển, và với việc khai thác
các thế mạnh của vùng biển, cùng với sự ủng hộ của các tầng lớp địa chủ, Nguyễn
Ánh có thể nhanh chóng lấy lại vùng đất Gia Định, từ đó đem quân chiếm toàn bộ
vùng đất Quy Nhơn của Tây Sơn.
Đến thời triều Nguyễn, các vua Nguyễn tiếp nối tư duy hướng biển từ thế hệ
trước, đã ban hành nhiều chính sách quan trọng trong việc khai thác và bảo vệ chủ
quyền vùng biển. Vua Minh Mạng không chỉ tiếp nối những chính sách khai thác
biển ở vua Gia Long mà còn phát triển ý thức hướng biển ở mức độ cao, thông qua
việc chủ động xây dựng các đội hải quân Hoàng Sa, Bắc Hải, vẽ bản đồ xác định
địa giới và cắm mốc chủ quyền, chủ động cho người ra nước ngoài học hỏi kĩ thuật
đóng tàu thuyền, xây dựng hệ thống phòng thủ biển, nhằm ứng phó với kẻ thù xâm
lược từ phía biển là các nước phương Tây.
Về kinh tế, chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn đã liên tục tiến hành các
hoạt động khai thác tài nguyên vùng biển. Vùng đất Đàng Trong chứa dựng nhiều
yếu tố thuận lợi cho phát triển kinh tế ngoại thương: có trữ lượng thủy sản dồi dào,
nhiều nguồn hương liệu quý, trữ lượng gỗ và các sản phẩm nông nghiệp lớn, cùng
với vô số các cửa biển lớn nhỏ thu hút đông đảo thuyền buôn từ khắp nơi tìm đến.
Chúa Nguyễn Hoàng là người đặt nền tảng cho việc phát triển kinh tế ngoại thương,
chú trọng khai thác những điều kiện tự nhiên thuận lợi của vùng đất này. Với tư duy
hướng biển, chúa Nguyễn Hoàng đã đẩy mạnh các hoạt động giao thương buôn bán
với nước ngoài, lấy thương nghiệp làm nền tảng phát triển đất nước. Đến thời chúa
Nguyễn Phúc Nguyên, các hoạt động thương nghiệp được nâng lên tầm cao mới.
Bên cạnh việc thiết lập quan hệ ngoại giao với bên ngoài, chúa Nguyễn Phúc
Nguyên dùng con đường hôn nhân để tạo sự ràng buộc chặt chẽ với thương nhân
Nhật Bản, quốc vương Chân Lạp, quốc vương Champa, góp phần mang lại cho
chính quyền những lợi ích về các nguồn thương phẩm, vũ khí hiện đại và tiền vàng
thu được từ việc đánh thuế.Thương nghiệp Đàng Trong bước vào thời kì thịnh
vượng chưa từng có trong lịch sử. Các thương cảng Đàng Trong đặc biệt là Hội An
152
trở thành thương cảng quốc tế nổi tiếng, thu hút đông đảo thương nhân từ khắp nơi
tìm đến. Thời nhà Nguyễn, chính quyền thực hiện việc mua bán một cách có giới
hạn với các thuyền buôn phương Tây. Các loại thuyền bọc đồng chạy bằng hơi
nước, các khẩu đại bác và súng trường theo kiểu phương Tây được đội thủy quân
triều Nguyễn sử dụng để tuần tra hay trong cuộc chiến chống liên quân Pháp - Tây
Ban Nha.Điều này cho thấy chính quyền phong kiến có sự học hỏi và tiếp thu
những thành tựu tiến bộ của các nước phương Tây, để giải quyết những hạn chế của
quân đội thủy quân triều đình, góp phần đưa nước ta bước vào quỹ đạo của cuộc
cách mạng khoa học kĩ thuật trên thế giới.
Mặc dù có những gián đoạn do nội chiến hoặc chiến tranh xâm lược từ
bên ngoài, chưa bao giờ chính quyền phong kiến chấm dứt hoàn toàn việc khai thác
kinh tế biển. Dùng khai thác kinh tế biển làm hướng phát triển mở mang đất nước
được coi đó là việc làm sáng suốt của chính quyền phong kiến. Bên cạnh các hoạt
động khai thác, chính quyền phong kiến cũng tiến hành hoạt động bảo vệ chủ quyền
vùng biển. Sự ra đời và hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa và Bắc Hải đã chứng
minh điều này. Lúc đầu đội thủy quân Hoàng Sa chỉ có nhiệm vụ là khai thác các
sản vật hóa vật và kiêm quản đội Bắc Hải. Nhưng về sau đội Hoàng Sa còn có thêm
nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ an ninh vùng biển, cứu trợ các tàu đắm trên quần đảo
Hoàng Sa.
Đến thời nhà Nguyễn, hoạt động của đội Hoàng Sa gắn liền với các hoạt động
xác lập chủ quyền như cắm mốc, đo đạc và vẽ bản đồ. Chính quyền phong kiến
Nguyễn đã tiến hành các hoạt động khai thác có hiệu quả các tiềm năng của biển,
góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế bấy giờ.
Quá trình khai thác và bảo vệ chủ quyền biển của thời chúa Nguyễn và vua
Nguyễn đã để lại những kinh nghiệm lịch sử:
* Nhà nước cần phối hợp với ngư dân trong việc khai thác kinh tế biển và bảo
vệ chủ quyền trên biển
Hình thức các đội thủy quân Hoàng Sa trước đây cho thấy tầm quan trọng của
việc phối hợp giữa nhà nước và nhân dân trong khai thác và bảo vệ chủ quyền biển.
Nhà nước sẽ cung cấp các trang thiết bị cần thiết cho nhân dân tiến hành các hoạt
153
động khai thác. Người dân sẽ đóng thuế hay nộp các sản phẩm thu hoạch được cho
nhà nước. Ngoài ra nhà nước cần có sự hỗ trợ cho các ngư dân phát triển kinh tế,
hướng tới phát triển các tiềm năng sãn có như đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị khoa
học kĩ thuật vào việc khai thác. Công cuộc khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển
của chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử góp phần là bài học nhận
thức cho thế hệ trẻ hiện nay. Nguồn tài nguyên trên đất liền đang dần bị cạn kiệt vì
khai thác quá mức, biển vẫn còn chứa rất nhiều tiềm năng chưa khai thác hết. Vì thế
trong việc phát triển kinh tế, cần chú trọng phát triển kinh tế biển, tăng cường kết
hợp giữa hoạt động khai thác của ngư dân với việc quản lý của nhà nước.
* Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ chủ
quyền biển đảo
Yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay là phát
huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ biển, đảo của Việt Nam; phát triển kinh tế - văn hóa
và xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại bảo vệ chủ quyền biển đảo
trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Nhiệm vụ này được thể hiện rõ trong các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng và nhà nước Việt Nam; đặc biệt là chiến lược phát triển bền
vững kinh tế biển năm 2030. Trong hội nghị Trung Ương Đảng lần thứ 8 khóa XII.
Đảng nhấn mạnh đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, đạt cơ bản các tiêu
chí phát triển triển bền vững kinh tế biển, phát triển văn hóa sinh thái biển, chủ
động thích ứng với biến đổi khí hậu, ngăn chặn sưu thế ô nhiễm suy thoái môi
trường biển, phục hồi và bảo tồn hệ sinh thái quan trọng. Thúc đẩy phát triển bền
vững kinh tế biển (www.tapchicongsan.org.vn/.../Nghi-quyet-ve-Chien-luoc-phat-
trien-kinh-te-bien-Viet-Nam.)
Để làm được điều này, cần phải có hướng đi hợp lí, sự đầu tư đúng đắn. Bên
cạnh việc phát triển các ngành công nghiệp, nước ta cần đầu tư phát triển các ngành
công nghiệp chế biến, ngành khai thác dầu khí, chất đốt, ngành du lịch nghỉ dưỡng.
Ngoài ra, chú trọng đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông hiện đại nối liền
vùng đất liền với vùng biển, vừa tạo điều kiện cho việc khai thác vừa thuận tiện cho
việc bảo vệ vùng biển. Cần xây dựng một hệ thống mạng lưới giao thương liên
154
vùng, tăng cường các hoạt động ngoại giao, thu hút sự đầu tư phát triển từ các nước
lớn và các nước có thế mạnh về biển như Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan.
Trong lịch sử, vào các thế kỷ XVI - XIX, cùng với các hoạt động khai thác,
chính quyền phong kiến đã tăng cường các biện pháp phòng thủ, bảo vệ vùng biển
đảo. Chính quyền chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn đều cho thiết lập các hệ
thống phòng thủ chặt chẽ ở những vị trí trọng yếu nhằm chống lại sự tấn công từ
bên ngoài. Ở các quần đảo xa xôi, chính quyền đã phối hợp với nhân dân tiến hành
nhiều cuộc tuần tra giám sát, khẳng định và bảo vệ chủ quyền vùng biển. Với ý thức
hướng biển, chính quyền phong kiến đã cho xây dựng một số hệ thống phòng thủ
liên hoàn có tác dụng bảo vệ nghiêm ngặt các vùng trọng yếu, yết hầu của đất nước.
Một hệ thống thủy quân làm công tác tuần tra được bố trí dọc các cửa biển và các hệ
thống quân sự có sự liên lạc chặt chẽ với nhau. Các hệ thống pháo đài quan sát có
tác dụng là bảo vệ phát hiện từ xa sự tấn công xâm nhập của các thuyền nước ngoài.
Hệ thống phòng thủ liên hoàn này đã đảm bảo an ninh của nước ta đầu thế kỉ XIX.
* Nhà nước cần xây dựng và phát triển lực lượng thủy quân hùng hậu:
Hiện nay việc bảo vệ chủ quyền vùng biển của ta gặp nhiều khó khăn nhất là
phải đối mặt với tranh chấp biển đông với Trung Quốc. Vì thế việc bảo vệ vùng
biển đòi hỏi phải có sự linh hoạt, huy động được sức mạnh tổng lực trong cuộc đấu
tranh bảo vệ chủ quyền. được đào tạo về kĩ năng chiến đấu, được trang bị vũ khí và
các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Việc tăng cường thiết lập các hệ thống phòng thủ
ở những khu vực biển quan trọng, phát triển hệ thống thông tin liên lạc giữa vùng
biển đảo và đất liền, tăng cường sức mạnh toàn diện trong việc phòng thủ biển đảo
là hết sức cần thiết. Công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo luôn gắn liền với việc
tiếp tục kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an
ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp phát triển các vùng biển, ven
biển và hải đảo với phát triển các vùng đồng bằng và đô thị theo định hướng đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kinh nghiệm lịch sử đã khẳng định
vai trò quan trọng của việc tăng cường và thực thi có hiệu quả các biện pháp đồng
bộ để bảo vệ ngư dân, các lực lượng làm kinh tế và các hoạt động hợp pháp trên các
vùng biển, đảo của Tổ quốc Việt Nam. Cần có sự chú trọng đến việc thực hiện công
tác phòng thủ và chính sách ứng phó với những biến đổi bất thường từ phía biển
155
như ngăn chặn hoạt động xâm phạm chủ quyền vùng biểncủa Trung Quốc, xây
dựng các hệ thống phòng thủ, các phương tiện thăm dò đường biển, liên kết với các
nước trong khu vực để tìm kiếm sự đồng thuận trong việc giải quyết vấn đề trên
biển. Cần tăng cường sự hiện diện của đội thủy quân Việt Nam tại các vùng trọng
yếu. Đưa ra các chính sách và phương án hợp lí để giải quyết các tranh chấp.
* Đưa vấn đề biển đảo vào chương trình giáo dục:
Trong nhà trường hiện nay, việc giáo dục bồi dưỡng nhận thức về chủ quyền
biển đảo và nâng cao ý thức trách nhiệm trong khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng
biển, đặc biệt là đối với vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đang là vấn đề quan
trọng trong đào tạo thế hệ trẻ. Hiện nay vấn đề giáo dục biển đảo chưa được xem
trọng chủ yếu là chỉ được dạy ở các trường đại học chư chưa có sự phổ biến đến các
trường học. Vì thế đa số bộ phận giới tre chưa nắm được về quá trình làm chủ vùng
biển của nước ta. Vì thế cần đưa lịch sử khai thác và bảo vệ chủ quyền biển đảo vào
chương trình giáo dục ở các cấp từ tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Để góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo, chúng ta cần có sự kế thừa các thành
tựu, các bài học kinh nghiệm từ lịch sử. Các công bố về bằng chứng chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, việc đưa vào chương trình
giáo dục nội dung về lịch sử biển đảo... là những việc cần thiết và cấp bách đang
được thực hiện để góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ ngày nay ý thức về bảo vệ chủ
quyền và xây dựng phát triển kinh tế vùng biển.
156
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Andrew Hardy, Nguồn trong kinh tế hàng hóa ở Đàng Trong, Kỷ yếu Hội thảo
Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến
thế kỷ XIX, Hà Nội: Nxb Thế giới.
Nguyễn Thế Anh. (2016).Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn. Hà
Nội:Nxb Văn Học
Lê Tiến Công. (2007).Vị thế của biển trong cái nhìn của các vua Nguyễn, Tạp chí
Xưa và Nay (tr. 275 - tr. 276).
Đại Nam nhất thống chí, tập 1.(1992). Nxb Thuận Hóa.
Đại Nam nhất thống chí, tập 2. (1995). Huế: Nxb Thuận Hóa.
Đại Nam thực lục.(2002), tập 1, Bản dịch của Viện sử học, Tái bản lần thứ nhất.
Nxb Giáo dục Hà Nội.
Đại Nam thực lục (2006), tập 2, Bản dịch của Viện sử học, Tái bản lần thứ nhất.
Nxb Giáo dục Hà Nội.
Đại Nam thực lục (2007),, tập 5, Bản dịch của Viện sử học, Tái bản lần thứ nhất.
Nxb Giáo dục Hà Nội.
Đỗ Bang (1997).Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, Huế: Nxb
Thuận Hóa.
Đỗ Bang. (2010).Hệ thống phòng thủ mặt biển của triều Nguyễn ở phía Nam kinh
đô Huế trước năm 1858, Huế: NXB Thuận Hóa,
Trần Đức Cường. (2016). Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ từ khởi
thủy đên năm 1945.Nxb Khoa học Xã hội,
Đặng Văn Chương (chủ biên), Trần Đình Hùng - Trần Thị Quế Châu - Lê Thị Qúy
Đức. (2017).Chính sách đóng cửa và mở cửa của các nước Đông Nam Á từ cuối
thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX, Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Tổng hợp.
Phan Huy Chú. (1992). Lịch Triều hiến chương loại chí, tập 1. Viện sử học phiên
dịch và chú giải.
Cristophoro Borri. (1998). Xứ Đàng Trong năm 1621 (Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc
Xuyên và Nguyễn Văn Nghị dịch, chú giải). Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
Phạm Đức Dương. (2014). Biển với người Việt cổ. Nxb Văn hóa Thông tin
Hà Nội.
Lê Quý Đôn.(1977). Phủ biên tạp lục. Hà Nội:Nxb Khoa học xã hội.
157
Lê Quý Đôn tuyển tập. (2007).Đại Việt thông sử, tập 1, Nguyễn Khắc Thuần
dịch. Nxb Giáo dục.
Vu Hướng Đông. (2008). Ý thức hướng biển của vua Minh Mạng, Tạp chí Xưa và
nay,(317).
Trịnh Hoài Đức. (1999).Gia Định thành thông chí.Nxb Giáo dục.
Nguyễn Văn Kim. (2011).Ứng đối của chính quyền Đàng Trong với các thế lực
phương Tây, trong Việt Nam trong thế giới Đông Á: một cách tiếp cận liên
ngành và khu vực học.Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
Phan Khoang. (2001).Việt sử Đàng Trong. Nxb Văn học Hà Nội.
Khâm định đại Nam hội điển sử lệ, tập V, (2002), Nxb Khoa học Hà Nội.
Kỷ yếu hội thảo khoa học. (2008).Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch
sử Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX. Nxb Thế Giới
Phan Thanh Hải. (2004).Tìm hiểu hệ thống phòng thủ thời các chúa Nguyễn”, Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, (số 9 và 10), tr.21- 37 + tr.14 - 21.
Hội khoa học lịch sử Thừa Thiên Huế, PGS. TS Đỗ Bang (chủ biên), Tổ chức và
hoạt động bảo vệ biển đảo Việt Nam dưới triều Nguyễn 1802 - 1885. Nxb Thuận
Hóa.
Thuận Hóa. (2002).Những cuộc đối đầu của nhà Nguyễn và người Hà Lan, Những
vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay và trung
tâm bảo tồn di tích cố đô Huế.
Ts. Dương Văn Huy. (2007).Chính sách hướng biển của chính quyền chúa Nguyễn
ở Đàng Trong thế kỉ XVI - XVIII, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 8.
Huỳnh Lứa. (1987). Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ. Nhà xuất bản TP.HCM.
Minh Mệnh chính yếu, tập 2. (1994). Huế:NxbThuận Hoá.
Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 5, Nxb Thuận
Hóa, tr. 660 - 661.
Nguyễn Nhã. (2016). Đặc khảo về Hoàng Sa - Trường Sa. Nxb Nhã Nam.
Nguyễn Nhã. (2012). Những bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Nxb Giáo dục Việt Nam.
Nguyễn Nhã. (2002). Qúa trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo
Trường Sa - Hoàng Sa. Tp. HCM: Luận án tiến sĩ Lịch sử Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân Văn.
158
Nguyễn Thành Nhã. (2013).Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII,
Nguyễn Nghị dịch.Nxb Tri thức trẻ.
Đỗ Quỳnh Nga. (2012).Chúa Nguyễn với công cuộc mở đất Đông Nam Bộ thế kỉ
XVII, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (số 5), tr. 14 - 23.
Ngô Minh Oanh. (2008). Nhìn lại hệ thống đối sách của các chúa Nguyễn vớiChân
Lạp và Xiêm trong quá trình khai phá, xác lập chủ quyền ở vùng đất Nam
Bộ thế kỉ XVI - XVIII, Kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Hà Nội: NxbThế giới.
Quốc sử quán triều Nguyễn. (1998).Quốc triều chánh biên toát yếu Nxb Sài Gòn,.
Thích Đại Sán. (2016). Hải ngoại kỉ sự. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.
Nhiều tác giả, Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta, Nxb Hồng Đức
Li Tana. (1999). Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỉ XVII -
XVIII, Nguyễn Nghị dịch. Tp.HCM: Nxb Trẻ.
Vĩnh Sính. (2000).Việt Nam và Nhật Bản - Giao lưu văn hóa.TPHCM: Nxb Văn
Nghệ.
Trần Nam Tiến. (2018). Nam Bộ dưới thời chúa Nguyễn thế kỉ XVII - XVIII. Nxb
Khoa học Xã hội, Tp. Hồ Chí Minh.
Trần Thị Thanh Thanh. (2008). Góp thêm ý kiến về vai trò của các chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XIX. Hà Nội: Nxb Thế giới.
Trần Thị Thanh Thanh. (2010). Quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong các thế kỷ X
- XX, Công trình nghiên cứu Khoa học và Công nghệ cấp Bộ, Trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh.
Tôn Nữ Quỳnh Trân. (2002). Vua Gia Long và ngành đóng thuyền tại Nam Bộ,
Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam. Tạp chí Xưa và Nay
tr. 311 - 319.
Yoshiharu Tsuboi. (2011). Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847-
1885, Nguyễn Đình Đầu dịch, Nxb Tri Thức..
9DurhVGNBuY/VGWGglEhEnI/AAAAAAAAWBY/gqru1NvvGPE/s1600/Vietnam14.jp
9DurhVGNBuY/VGWGglEhEnI/AAAAAAAAWBY/gqru1NvvGPE/s1600/Vietnam18.jpg
2.Tài liệu Internet:
159
Tư liệu bảng đồ chứng minh chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa –
Trường Sa
www. nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2014/09/annamdaiquochoado.jpg)
www.tapchicongsan.org.vn/.../Nghi-quyet-ve-Chien-luoc-phat-trien-kinh-te-bien-
Viet-Nam.)