BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đàm Ngọc Phương Mai

CHÍNH SÁCH KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ

CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO THỜI CHÚA NGUYỄN

VÀ VUA NGUYỄN (THẾ KỈ XVI - XIX)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Đàm Ngọc Phương Mai

CHÍNH SÁCH KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ

CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO THỜI CHÚA NGUYỄN

VÀ VUA NGUYỄN (THẾ KỈ XVI - XIX)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam

Mã số

: 8229013

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRẦN THỊ THANH THANH

Thành phố Hồ Chí Minh – 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự tham khảo

một số nguồn tài liệu đáng tin cậy. Tôi cam kết không hề sao chép bất kì công trình

nghiên cứu của ai. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ts. Trần Thị Thanh Thanh đã tận tình hướng dẫn,

giúp cho tôi hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin giử lời cảm ơn đến thư viện

Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện Bảo Tàng thành phố Hồ Chí

Minh, bảo tàng Hội An, bảo tàng Đà Nẵng đã cung cấp tư liệu cho tôi hoàn

thành luận văn này.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019 Đàm Ngọc Phương Mai

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục hình ảnh, bản đồ

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1. QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO CỦA

CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN

(THẾ KỈ XVI – NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX) ....................................... 9

1.1. Quá trình tiếp nhận vùng đất Nam Bộ của các Chúa Nguyễn và vương

triều Nguyễn từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX ......................................... 9

1.1.1. Giai đoạn chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỉ

XVII - XVIII ................................................................................................ 9

1.1.2. Quá trình xác lập chủ quyền biển đảo của các vương triều nhà

Nguyễn thế kỉ XIX .................................................................................... 24

1.2. Tầm quan trọng của biển đảo đối với chính quyền Chúa Nguyễn và

vương triều Nguyễn từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XI ............................... 49

1.2.1. Vai trò của biển đối với chính quyền chúa Nguyễn (thế kỉ XVII

- XVIII) ...................................................................................................... 49

1.2.2. Vai trò của biển đối với triều Nguyễn ....................................................... 54

Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 60

Chương 2. CHÍNH SÁCH KHAI THÁC BIỂN ĐẢO CỦA CHÚA

NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN (THẾ KỈ XVI – NỬA ĐẦU

THẾ KỈ XIX) ..................................................................................... 62

2.1. Chính sách khai thác kinh tế biển đảo của chúa Nguyễn và vua Nguyễn

(thế kỉ XVI - nửa đầu thế kỉ XIX) .................................................................... 62

2.1.1. Chính sách khai thác kinh tế biển của chúa Nguyễn .................................. 62

2.1.2. Chính sách khai thác kinh tế biển của vua Nguyễn thế kỉ XIX ................. 76

2.2. Tổ chức và hoạt động của lực lượng thủy quân ở hai quần đảo Trường Sa

- Hoàng Sa ........................................................................................................ 87

Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................ 111

Chương 3. CHÍNH SÁCH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO THỜI

CHÚA NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN (TỪ THẾ KỈ XVII -

NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX) ................................................................. 115

3.1. Hoạt động tuần tra, kiểm soát trên biển ........................................................... 115

3.2. Xây dựng hệ thống phòng thủ ở vùng duyên hải và cảng biển của các

chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn ............................................................. 120

3.2.1. Xây dựng hệ thống phòng thủ vùng biển thời Chúa Nguyễn ................... 120

3.2.2. Xây dựng hệ thống phòng thủ vùng biển thời vua Nguyễn ..................... 124

3.3. Hoạt động chống ngoại xâm vùng biển của các chính quyền phong kiến ...... 135

3.3.1. Hoạt động chống ngoại xâm thời chúa Nguyễn ....................................... 135

3.3.2. Cuộc đấu tranh chống ngoại xâm trên biển thời Nhà Nguyễn ................. 139

Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 148

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 150

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 156

DANH MỤC HÌNH ẢNH, BẢN ĐỒ

Hình 1.1. Bản đồ vẽ xứ Quảng Nam in trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ

thư do Đỗ Bá Công Đạo soạn đời Chính Hòa (1680) ............................. 14

Hình 1.2. Bảng đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1834 .................................... 37

Hình 2.3. Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ trong từ điển Việt - La Tinh

Latino -Anamici Disposita) ..................................................................... 38

Hình 4.1. Bảng đồ do người Phương Tây có xác định vị trí của quần đảo

Hoàng Sa (Paracel) .................................................................................. 39

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Vùng biển là một phần không thể tách rời của lãnh thổ nước ta. Từ rất lâu, vấn

đề bảo vệ chủ quyền trên biển được các triều đại phong kiến xem trọng, từng được

thể hiện qua chính sách cai trị. Biển có vai trò rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển

của nước ta, với diện tích 3690 km đường bờ biển cùng với rất nhiều các đảo và bãi

đá ngầm lớn nhỏ. Biển đã đem đến cho nước ta tiềm lực lớn về nguồn lợi thủy sản

và mở ra con đường giao thương với các quốc gia trong khu vực. Biển còn góp phần

quan trọng vào việc bảo vệ an ninh quốc phòng. Ngay từ thời phong kiến các chúa

Nguyễn và vua Nguyễn luôn có ý thức về việc mở rộng mối quan hệ bên ngoài,

thông qua việc đẩy mạnh giao thương, buôn bán với nhiều quốc gia thông qua con

đường biển.

Giai đoạn từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX là thời kì có những biến động

với các sự kiện quan trọng đối với đất nước: chiến tranh Trịnh - Nguyễn, chia cắt

đất nước thành hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài, sự nổi dậy của phong trào Tây

Sơn, Nguyễn Ánh đánh bại vương triều Tây Sơn lập ra nhà Nguyễn. Như vậy từ thế

kỉ XVI đến thế kỉ XVII Đàng Trong của nước ta dưới sự cai trị của chúa Nguyễn và

giai đoạn từ thế kỉ XVIII - thế kỉ XIX nước ta được thống nhất với sự ra đời của

vương triều Nguyễn. Tuy tên gọi của hai triều đại có sự giống nhau nhưng ở mỗi

giai đoạn các triều đại phong kiến đều có ý thức khác nhau về vấn đề chủ quyền đặc

biệt là vấn đề chủ quyền trên biển. Có thể nói trong suốt một thế kỉ tồn tại của mình

từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII chính quyền chúa Nguyễn đều cố gắng ra sức xây

dựng vùng đất Đàng Trong thành cơ sở kinh tế chính trị, quân sự hùng mạnh nhằm

chống lại thế lực Đàng Ngoài của chúa Trịnh. Vì thế trong chính sách cai trị của các

chúa Nguyễn luôn có quan tâm đến việc chủ động mở cửa giao thương với bên

ngoài thông qua việc xây dựng các thương cảng ở vùng ven biển miền Trung. Đồng

thời với việc chủ động mở cửa giao thương buôn bán, thì các chúa Nguyễn cũng lần

đầu tiên tiến hành việc xác lập quyền cai trị của mình tại vùng biển đảo. Điển hình

nhất là dưới thời cai trị của chúa Nguyễn Phúc Nguyên người đầu tiên đã đặt cơ sở

cho vấn đề xác lập chủ quyền vùng biển nước ta.

2

Đến thời kì nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh vấn đề khai thác và xác lập chủ

quyền vùng biển vẫn được coi trọng. Hơn ai hết Nguyễn Ánh là người hiểu rất rõ về

tầm quan trọng của vùng biển Tây Nam. Từng bị quân Tây Sơn đánh chạy ra đảo

bốn lần, Nguyễn Ánh thấy được vùng biển đảo có vị trí chiến lược quan trọng mà

chính quyền Tây Sơn không nhận thấy được. Nguyễn Ánh đã tận dụng lợi thế của

vùng biển Tây Nam cho quân lính tiến hành khẩn hoang các vùng ven biển, phát

triển thủy quân hùng mạnh, chú trọng giao thương buôn bán với nước ngoài. Những

việc làm đó đã cho thấy từ rất sớm Nguyễn Ánh đã có ý thức về lợi thế của biển

trong cuộc đấu tranh giành lại vương triều của mình. Bằng chính sách khai thác các

tiềm năng của biển cùng với sự ủng hộ của các tầng lớp địa chủ đã giúp cho Nguyễn

Ánh có thể nhanh chóng lấy lại vùng đất Gia Định và từ đó đem quân chiếm toàn bộ

vùng đất Quy Nhơn của Tây Sơn, tiến ra Bắc, đặt cơ sở cho việc thống nhất đất

nước.

Đến thời triều Nguyễn các vị vua Nguyễn cũng tiếp nối tư duy hướng biển từ

thế hệ trước. Bằng chứng là các vị vua trong thời kì này cũng đã cho ban hành nhiều

chính sách quan trọng trong việc khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển. Trong

đó phải kể đến là ý thức hướng biển của vua Minh Mạng. Vua Minh Mạng không

chỉ tiếp nối những chính sách khai thác biển ở vua Gia Long, mà ông còn phát triển

ý thức đó ở mức độ cao thông qua việc chủ động xây dựng các đội hải quân, đóng

chiến thuyền, vẽ bản đồ xác định địa giới và cắm mốc chủ quyền. Đồng thời trước

việc thực dân phương Tây đang lớn mạnh trên thế giới vua Minh Mạng còn chủ

động cho người sang nước ngoài học hỏi những kĩ thuật của phương Tây để về ứng

dụng cho đất nước. Những việc làm đó cho thấy ngay từ rất sớm Minh Mạng đã chú

trọng đề cao an ninh quốc phòng trên biển.

Việc thực hiện đề tài có thể giúp cho tác giả có thể thấy được tầm quan

trọng của biển đối với kinh tế và an ninh quốc phòng của đất nước từ xưa và cho

đến ngày nay. Cùng theo đó là những nhận định ý thức hướng biển ngay từ rất sớm

của các triều đại phong kiến nước ta, thông qua việc xác lập chủ quyền và thi hành

các chính sách bảo vệ vùng biển trong mối quan hệ với Campuchia, Trung Quốc,

Xiêm. Các hoạt động khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển được các chúa

3

Nguyễn cũng như vua Nguyễn tiến hành từ rất sớm thông qua các đội thủy quân

Hoàng Sa và Bắc Hải. Các đội này có nhiệm vụ tìm kiếm các sản vật và các hóa vật

ở vùng biển và các đảo xa bờ. Ngoài ra họ còn làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, cứu

hộ các tàu buôn phương Tây khi gặp nạn trên quần đảo Hoàng Sa. Việc làm này

được tiến hành một cách liên tục xuyên suốt từ thời chúa Nguyễn, thời Tây Sơn cho

đến giai đoạn các vua Nguyễn.

Thông qua hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa và Bắc Hải chính quyền

phong kiến còn tiến hành việc quản lý, làm chủ một cách hợp pháp và liên tục vùng

biển suốt nhiều thế kỉ. Đây là bằng chứng quan trọng khẳng định quá trình làm chủ

vùng biển từ khá sớm của chính quyền phong kiến, là cơ sở pháp lý quan trọng

trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của ta tại biển đông nói chung và tại hai

quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nói riêng.

Tuy nhiên hiện nay việc khai thác và bảo vệ an ninh vùng biển của nước ta

còn gặp nhiều khó khăn.Thứ nhất là ta chưa có chính sách khai thác hợp lý các tiềm

năng kinh tế biển, thứ hai là chưa có sự kết hợp các nền kinh tế một cách đồng bộ.

Vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đông của ta gặp nhiều khó khăn nhất là trong nhất là

trong giai đoạn hiện nay khi phải đối mặt với cuộc tranh chấp chủ quyền với Trung

Quốc. Trong các hội nghị và các chuyên đề khoa học vấn đề về chủ quyền biển

đông cũng được chú trọng và đem ra bàn luận. Để nhận thức rõ tầm quan trọng của

biển đối với nước ta, đồng thời giáo dục cho thế hệ trẻ có sự hiểu biết về quá trình

làm chủ vùng biển của Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài: “CHÍNH SÁCH KHAI

THÁC VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO THỜI CHÚA NGUYỄN VÀ VUA

NGUYỄN TỪ THẾ KỈ XVI - XIX” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Có rất nhiều công trình nghiên cứu về triều Nguyễn, trong đó có đề cập ở

những mức độ khác nhau về những hoạt động bảo vệ biên giới, biển đảo Việt Nam

của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn.

Đại Nam thực lục do các sử thần trong Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn.

Đây là bộ sử viết về mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và ngoại giao thời các

chúa Nguyễn (phần tiền biên) tập 1, quyển I, II, III, IV, V, VII, VII, X, XI và thời

4

các vua Nguyễn (phần chính biên), từ tập 2 đến tập 10. Đây được coi là nguồn tài

liệu gốc do các sử thần nhà Nguyễn ghi chép lại một cách cụ thể và chi tiết về toàn

cảnh xã hội Việt Nam thời Nguyễn với các vấn đề về kinh tế, chính trị, ngoại giao,

quân sự...đề cập khá nhiều chi tiết phản ánh sự xác lập và thực thi chủ quyền vùng

biển.

“ Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ ” là bộ sách do các đại thần triều Nguyễn theo

lệnh vua tập hợp các tấu chương, nghị chuẩn, ghi chép những công tác của triều

đình thuộc Lục bộ, về pháp luật, điển chương, chính trị, văn hóa…Tập V của bộ

sách có nhiều sự kiện về hoạt động huấn luyện thủy quân, công tác diễn tập thuyền

bè, trang bị của lực lượng quân đội, việc phòng thủ, bảo vệ vùng biên giới và biển

đảo, hoạt động tuần biển, việc khen thưởng ban cấp cho lực lượng thủy quân, trang

bị ở các đồn, đài, tấn, sở vùng biên giới, cửa biển, về các hoạt động ở Hoàng Sa,

Trường Sa…

Sách “Phủ Biên tạp lục” của Lê Quý Đôn, được viết năm 1776 trong thời gian

ông giữ chức Hiệp chánh tham tán quân cơ của chính quyền Lê - Trịnh ở vùng

Thuận Hóa. Tập sách có giá trị lớn về văn học, lịch sử, địa lí và được coi là nguồn

tài liệu quý ghi lại rõ ràng và chi tiết về quá trình khai thác các nguồn sản vật biển

và bảo vệ chủ quyền vùng biển dưới thời chúa Nguyễn thông qua việc cho thành lập

các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, xây dựng các tấn thủ, cho người đến đo đạc, cai quản

các vùng đảo...

Ngoài các bộ sách trên, thư tịch được ghi chép và lưu giữ dưới thời các chúa

Nguyễn và nhà Nguyễn như Đại Nam nhất thống chí, Minh Mệnh chính yếu, Gia

Định thành thông chí, Lịch triều hiến chương loại chí, Châu bản triều Nguyễn…đều

có những thông tin lịch sử đề cập tới quá trình bảo vệ chủ quyền vùng biển thời

Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn.

Trong thời hiện đại, vào những năm gần đây, có nhiều công trình khoa học

được công bố viết về vấn đề khai thác và bảo vệ chủ quyền biển đảo, có thể kể tên

một số sách tiêu biểu như:

“Những bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa -

Trường Sa" (2012) của tác giả Nguyễn Nhã, trình bày khá chi tiết vị trí địa lý, tên

5

gọi và quá trình khai thác nguồn lợi kinh tế, việc xác lập chủ quyền của các vương

triều phong kiến ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tác giả đã đưa ra các hình

vẽ, lược đồ, các tư liệu của Việt Nam và Phương Tây, ghi lại những nhiệm vụ cụ thể

của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, cách tổ chức thủy quân, cắm mốc chủ quyền, tổ

chức thủy quân thi hành nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa.

Hệ thống phòng thủ Miền Trung dưới triều Nguyễn (2011) của tác giả Đỗ Bang

trình bày khá rõ nét về các hoạt động xây dựng các hệ thống đồn lũy, các tấn thủ,

tuyến phòng thủ, các hoạt động bảo vệ vùng biển miền Trung tiêu biểu là cửa biển

Đà Nẵng, quá trình thực thi chủ quyền của nhà Nguyễn ở biển Đông.

Biển với người Việt cổ (2011) của tác giả Phạm Đức Dương gồm 2 phần:

Phần 1: Giới thiệu mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa về cái nhìn về biển của

Việt Nam. Phần 2: Các nền văn hóa biển ở Việt Nam: Văn hóa Hoa Lộc - Văn hóa

biển, văn hóa Quỳnh Văn, văn hóa Bầu Tró, văn hóa Sa Huỳnh…Theo tác giả, nhờ

biết khai thác các lợi thế và tiềm năng nhiều mặt của biển mà nhiều quốc gia có biển

Chămpa, Phù Nam, Thủy Chân Lạp đã có những bước phát triển vượt bậc về văn

hóa - văn minh một thời…vì vậy biển giữ vai trò cực kỳ quan trọng từ xưa cho đến

hiện tại đối với sự tồn tại và phát triển của dân tộc ta.

Kỷ yếu hội thảo khoa học “Biển Đông và hải đảo Việt Nam” của nhiều tác

giả, công bố và cung cấp các nguồn sử liệu của nhà Nguyễn về hoạt động khai thác

và bảo vệ chủ quyền ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

Tổ chức và hoạt động bảo vệ biển đảo Việt Nam dưới triều Nguyễn 1802 -

1885 (2016), Đỗ Bang (chủ biên) tập hợp một số bài được Hội khoa học Lịch sử

tỉnh Thừa Thiên Huế công bố trong hội thảo khoa học vào tháng 12 năm 2013.

Trong tác phẩm này tác giả trình bày rất cụ thể về việc tổ chức, hoạt động và khai

thác vùng biển của thủy quân nhà Nguyễn xuyên suốt từ thời Gia Long, Minh Mạng

đến Thiệu Trị, Tự Đức. Tác giả cũng đưa ra những dẫn chứng cụ thể thông qua các

chỉ dụ, châu phê của vua Nguyễn nhằm khẳng định việc làm chủ của chính quyền

phong kiến Việt Nam tại vùng biển.

Chủ quyền biển đảo Việt Nam trong lịch sử (2017), Đỗ Bang (chủ biên) tập

hợp bài viết của nhiều tác giả về vai trò của chính quyền họ Nguyễn đối với việc

6

khai thác và bảo vệ chủ quyền biển đảo Đàng Trong trong lịch sử, đưa ra nhiều hình

ảnh về các sắc, dụ, lược đồ, các văn bản của thời Nguyễn và của người Phương Tây,

Trung Quốc, góp phần làm rõ ý thức chủ quyền về vùng biển đảo của các vương

triều phong kiến. Cuốn sách này tập trung vào một số vấn đề cơ bản: 1/Vai trò và

trách nhiệm của chính quyền Việt Nam qua các thời kì trong việc khai thác, thực thi

và bảo vệ chủ quyền biển đảo;

2/ Đóng góp của nhân dân, các địa phương, các tổ chức trong nước và quốc tế trong

việc bảo vệ chủ quyền qua các thời kì; 3/Vị trí chiến lược của biển Đông và yếu tố

nước ngoài xâm phạm, bài học từ quá khứ; 4/ Giải pháp đấu tranh để bảo vệ chủ

quyền biển đảo, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ hiện nay.

Bên cạnh đó còn có nhiều loại sách chuyên khảo về các hoạt động khai thác và

bảo vệ chủ quyền của chính quyền phong kiến như tác phẩm “Thủy quân triều

Nguyễn (1802 - 1884)” của Ts. Bùi Gia Khánh được xuất bản năm 2018. Tác phẩm

trình bày một cách cụ thể và chi tiết về tổ chức, cách thức hoạt động và vai trò của

thủy quân nhà Nguyễn trong các hoạt động xác lập và bảo vệ chủ quyền vùng biển

nửa đầu thế kỉ XIX.

Trên các tạp chí Xưa và nay, Nghiên cứu lịch sử, tạp chí Nghiên cứu - trao

đổi, Lịch sử quân sự có một số bài viết về chủ đề biển đảo của các tác giả Nguyễn

Quang Ngọc, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Nhã, Lê Công Tiến, Đỗ Quỳnh Nga,

Đoàn Anh Thái…và nhiều công trình nghiên cứu phong phú về việc khai thác và

xác lập chủ quyền chủ quyền biển đảo Việt Nam qua các thời kì lịch sử. Tuy nhiên,

hầu như chưa có công trình nào thể hiện vấn đề này một cách toàn diện và đầy đủ từ

thế kỷ XVII - XIX thời chúa Nguyễn đến triều Nguyễn.

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của tác giả khi thực hiện đề tài này là tập

trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề về hoạt động khai thác và bảo vệ chủ quyền

vùng biển của chính quyền Nguyễn, thông qua hoạt động của các đội hải quân

Hoàng Sa, Bắc Hải thời chúa Nguyễn và vua Nguyễn các hoạt động đấu tranh

chống ngoại xâm bảo vệ chủ quyền và nền độc lập cho đất nước...Từ đó có những

7

bằng chứng xác thực trong việc làm rõ chính sách khai thác và bảo vệ chủ quyền

biển đảo của các chính quyền phong kiến Việt Nam thời kỳ lịch sử.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chính sách, các hoạt động khai thác và

bảo vệ chủ quyền biển đảo thời chúa Nguyễn và vua Nguyễn (thế kỷ XVI - nửa đầu

XIX).

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Không gian nghiên cứu: Là vùng biển Đàng Trong thời Chúa Nguyễn và các

vua nhà Nguyễn được bắt đầu từ cửa biển Thuận Hóa đến vùng biển Tây Nam bao

gồm hai quần đảo nằm bên ngoài dãy đất liền là Hoàng Sa và Trường Sa.

Thời gian nghiên cứu: Thời kì chúa Nguyễn đến thời các vua Nguyễn bắt đầu

từ thế kỉ XVI - XIX. Tuy nhiên luận văn chỉ giới hạn và tập trung làm rõ việc khai

thác và bảo vệ chủ quyền biển đảo thế kỉ XVII – XIX. Trong đó nhấn mạnh đến

khai thác và bảo vệ chủ quyền biển đảo thuộc giai đoạn chúa Nguyễn Phúc Nguyên

khi mà bắt đầu có sự thành lập đội thủy quân Hoàng Sa và giai đoạn cai trị của các

vua đầu triều Nguyễn như vua Gia Long, vua Minh Mạng .

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tư liệu

Đề tài nghiên cứu dựa trên các nguồn tư liệu là: Các bộ sách về lịch sử và các

ấn phẩm triều Nguyễn gồm Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam

liệt truyện, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Phủ biên tạp lục, Gia Định thành

thông chí… là những tài liệu quan trọng để nghiên cứu về biển đảo dưới thời

Nguyễn. Tác giả khai thác triệt để nguồn tư liệu gốc là Phủ Biên tạp lục, Đại Nam

thực lục tiền biên, Đại Nam thực lục chính biên. Các bản đồ nước ta được vẽ dưới

thời Nguyễn, cùng với hệ thống bản đồ của các nước phương Tây về biển Đông

cũng được coi là nguồn tài liệu xác thực, tin cậy cần khai thác đối chiếu. Các bộ

sách thông sử và giáo trình của các trường đại học, các tác phẩm và công trình

nghiên cứu về vùng biên giới, các vùng biển đảo Việt Nam là nguồn tham khảo cho

luận văn. Tác giả luận văn cũng chú trọng việc sưu tầm tài liệu thực địa tại một vài

địa điểm nhằm phát hiện thêm các tài liệu mới có liên quan.

8

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện bằng phương pháp lịch sử và phương pháp logic, vận

dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể là tổng hợp, phân tích dữ liệu và thông tin lịch

sử, hệ thống hóa, khái quát hóa...

5. Đóng góp của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là một đóng góp về quá trình khai thác và

bảo vệ biển đảo từ chúa Nguyễn đến vương triều Nguyễn (thế kỷ XVII - XIX).

Luận văn góp phần làm rõ và khẳng định chủ quyền của chính quyền phong kiến

chúa Nguyễn và nhà Nguyễn đối với vùng biển đảo, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa.

Luận văn cũng góp phần tìm hiểu quá trình thành lập và kết thúc của đội thủy quân

Hoàng Sa, quá trình đội Hoàng Sa kiêm quản cửa biển Sa Kỳ. Trên cơ sở đó, luận

văn góp phần nêu bài học lịch sử cho thế hệ hôm nay trong việc nâng cao ý thức đối

với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Luận văn cũng góp phần nhỏ thay đổi

cách nhìn nhận, đánh giá về triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch

sử Việt Nam. Góp phần bổ sung, cung cấp thêm tư liệu phục vụ cho học tập, giảng

dạy và nghiên cứu lịch sử, giáo dục học sinh về tầm quan trọng của các vùng biên

giới, các vùng biển đảo quê hương, hưởng ứng tích cực phong trào tuyên truyền về

việc bảo vệ biển đảo quê hương.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn chia thành

3 chương.

9

Chương 1. QUÁ TRÌNH XÁC LẬP CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO

CỦA CHÍNH QUYỀN CHÚA NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN

(THẾ KỈ XVI – NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX)

1.1. Quá trình tiếp nhận vùng đất Nam Bộ của các Chúa Nguyễn và vương

triều Nguyễn từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XIX

1.1.1. Giai đoạn chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỉ

XVII - XVIII

Vùng đất Nam Bộ được khẩn hoang và khai thác khi có lưu dân Việt di cư vào

thế kỉ XVII gắn liền với sự kiện Nguyễn Hoàng trấn thủ vùng đất Thuận Hóa. Qúa

trình hợp nhất vùng đất Nam Bộ là sự kết hợp nhuần nhuyễn và khéo léo về quân

sự, chính trị, ngoại giao của chính quyền chúa Nguyễn với các nước láng giềng. Để

tăng cường vị thế của vùng đất Đàng Trong, chúa Nguyễn Hoàng tiến hành mở rộng

lãnh thổ về phía Nam thông qua các hoạt động quân sự, đánh bại các cuộc tấn công

của Chiêm Thành.

Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng phái Lương Văn Chánh đem quân sang đánh,

chiếm một vùng đất lập phủ Phú Yên, chia làm hai huyện Đồng Xuân, Tuy Hòa.

Đến thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên thì xác lập chủ quyền bằng con đường chính

trị mềm dẻo và khôn khéo hơn. Năm 1623, sau khi giúp Chân Lạp đánh bại cuộc tấn

công xâm lược của Xiêm và dựa vào quan hệ hôn nhân giữa vua Chiêm Thành là

Chay Chetta II với công nương Ngọc Vạn, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cử người

dâng các tặng phẩm mừng chiến thắng, đề nghị chính quyền Chân Lạp cho lập 2 sở

thu thuế ở Prei Nokor (Sài Gòn) và KasKrobei (Bến Nghé) để bảo vệ thành quả

khẩn hoang của lưu dân Việt ở vùng này. Việc này đặt cơ sở pháp lí quan trọng

khẳng định chủ quyền của chúa Nguyễn tại vùng đất Nam Bộ. Nơi đặt sở thu thuế là

vùng thu hút đông đảo thuyền buôn từ các nơi đến, góp phần thúc đẩy nhanh chóng

việc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên vùng đất này.

Năm 1672 diễn ra sự kiện Mô Xoài, chúa Nguyễn Phúc Tần đã phái Nguyễn

Phước Yến giúp Chân Lạp giải quyết mối bất hòa trong hoàng gia, đánh bại quân

10

Xiêm, đưa Nặc Thu lên làm vua Chân Lạp. Sau sự kiện này, lưu dân Việt đến vùng

đất Mô Xoài, Đồng Nai ngày càng đông.

Năm 1679, hai nhóm người Hoa “phản Thanh phục Minh” xin tá túc và sinh

sống ở Đàng Trong. Chúa Nguyễn phái quan lại dẫn đường để họ định cư ở Biên

Hòa và Mỹ Tho.Tại đây họ lập nên phố xá và khu vực mua bán, nơi này nhanh

chóng trở thành trung tâm mua bán sầm uất nổi tiếng của Đàng Trong như Nông

Nại đại phố, Mỹ Tho đại phố.

Sự hình thành các trung tâm đô thị lớn đã làm cho số dân của vùng đất này

tăng lên nhanh chóng. Người Việt, người Hoa, người Chăm đến sinh sống và định

cư ở đây ngày càng nhiều. Những vùng trước kia hoang vu rậm rạp bấy giờ đã có số

dân tới 4 vạn hộ. Họ khai phá đất hoang, hình thành làng mạc thôn xóm. Với số

lượng người Việt tăng lên nhanh chóng, chúa Nguyễn tìm cách xác lập quyền cai

quản của mình trên vùng đất này. Năm 1698 Chúa Nguyễn Phúc Chu cử thống suất

Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất phía Nam. Theo Đại Nam thực

lục:“Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại làm dinh đặt phủ Gia Định, lấy Đồng Nai

làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy Sài Gòn làm huyện Tân Bình,

dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để cai trị” (Trịnh

Hoài Đức,1998, tr.77).

Sau khi thành lập dinh Trấn Biên chúa Nguyễn Phúc Chu cũng cử tướng

Trương Phúc Phan làm trấn thủ tại đây. Dinh Trấn Biên bao gồm toàn bộ khu vực

huyện Phước Long và khu vực phía đông như Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước,

Bà Rịa Vũng Tàu và các đảo, quần đảo từ bờ biển đổ ra.

Vùng đất mới ngày càng được mở rộng, chúa Nguyễn chiêu mộ dân lưu tán từ

Bố Chính vào Nam đến khai hoang lập ấp, cho người Hoa ở Trấn Biên lập xã Thanh

Hà, người Hoa ở Phiên Trấn lập xã Minh Hương. Đây được coi là việc xác lập chủ

quyền theo hình thức “dân đến mở đất trước nhà nước đến cai trị sau”. Như vậy, sự

kiện trên đã chính thức đánh dấu quyền quản lí hành chính của chúa Nguyễn tại

vùng đất Nam Bộ. Cùng với việc làm chủ vùng đất liền thì chúa Nguyễn cũng tiến

hành kiểm soát các vùng biển và hải đảo như Côn Lôn, Phú Quốc, Hoàng Sa thông

qua hoạt động của đội Bắc Hải:

Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải không biết bao nhiêu suất, người thôn Tứ

Chính, Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy

sai đi, miễn tiến sưu và các thuế tiền đò, cho thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải,

Côn Lôn, Hà Tiên tìm lượm sản vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba (Lê

11

Qúy Đôn, 1977, tr. 155).

Việc thành lập đội Bắc Hải đã cho thấy chính quyền chúa Nguyễn đã kiểm soát một

khu vực biển rộng lớn kéo dài từ khu vực Bình Thuận cho đến cảng Hà Tiên.

Trên các đảo này, chính quyền chúa Nguyễn chú trọng khuyến khích lưu dân

đến khẩn hoang, khai thác sản vật. Theo ghi nhận của tác giả Trần Nam Tiến thì

trên các đảo Côn Đảo, Phú Quốc từ rất sớm đã có cư dân đến sinh sống: Ở phía

đông và phía Bắc vùng biển, người ta thấy một bãi cát rộng khoảng nửa dặm, trên

đó có những túp liều của dân nằm rải rác và hỗn độn, khi đó dân trên đảo khoảng

200 người ” (Trần Nam Tiến, 2018, tr. 89). Đầu thế kỉ XVII các đội Hoàng Sa, Bắc

Hải, Thanh Châu được thành lập, có nhiệm vụ khai thác sản vật, hóa vật và bảo vệ

Vùng biển phía Tây Nam được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt thông qua sự

kiện Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn vào năm 1708. Mạc Cửu

vốn là người Quảng Đông (Trung Quốc), vào năm 1699 đã xin phép vua Chân

Lạp đến khai khẩn vùng đất Hà Tiên và sau đó được vua Chân Lạp giao cai

quản vùng đất này. Mạc Cửu chiêu mộ dân khai hoang mở đất, lập nhiều phố

xá, trung tâm mua bán và sòng bạc. Vùng đất hoang vu rậm rạp này nhanh

chóng trở thành thị tứ đông đúc gọi là Hà Tiên trấn. Chính điều này đã thu hút

đông đảo dân cư từ khắp các nơi tìm đến sinh sống và buôn bán. Theo Gia

Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức:“ Đường xá giao nhau, phố xá nối

liền, người Việt, người Tàu người Cao Miên, người Chà Và đều họp nhau sinh

chặt chẽ an ninh vùng biển.

sống, ghe thuyền ở sông biển qua lại như mắc cửi thật là nơi đại đô hộ ở biển

vậy” (Trịnh Hoài Đức, 1999, tr. 245 - 246).

12

Do có quá trình sinh sống và khai thác lâu dài trên các vùng biển đảo nên

người dân lập thành lập nhiều ngôi làng như: Cù Lao Chàm, Đại Côn Lôn, làng An

Vĩnh, Cù Lao Ré, làng Hà Trung, xã Cảnh Dương. Họ tiến hành khai khẩn và trồng

Thôn Lý Hòa châu Nam Bố Chính đất ấy là dư khí của núi Lệ Đệ rủ xuống

thành một bãi cát bằng nổi cao và mở rộng, dân cư ở ngang bãi trông về hướng

Nam, đuôi bãi từ bên tả ôm lấy, sông Thuận Cô từ bên hữu chạy lại làm tiền

đường, một dải cát thôn Thuận Cô làm án, cho nên nhân đinh thịnh vượng đến

hơn nghìn người (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 135).

trọt, làm nông kết hợp với đánh bắt thủy sản.

Ngoài những làng dân tự lập thì trong quá trình khai khẩn vùng biển đảo chúa

Nguyễn cũng cho lập nên các làng mới và bố trí ở đây các đội tuần tra và giám sát.

Họ có nhiệm vụ là giám sát, tuần tra và báo cáo về chính quyền khi có sự xuất hiện

của thuyền nước ngoài trên biển. Các lực lượng này đều là dân ở các vùng ven biển

họ là lực lượng bán quân sự vừa có nhiệm vụ khai thác hải vật vừa là tai mắt của

triều đình.

Đây được coi là lực lượng dân sự đầu tiên của chúa Nguyễn có vai trò quan

trọng trong việc bảo vệ vững chắc vùng biển, đồng thời thể hiện mối quan hệ gắn bó

giữa nhân dân với chính quyền phong kiến. Ở các khu vực cửa biển quan trọng đều

có bộ trí những trạm gác, giúp cho chính quyền có thể quản lý chặt chẽ, tránh sự tấn

công của quân Trịnh từ phía Bắc hay Chân Lạp, Xiêm từ phía Nam. Trong các làng

kể trên thì làng Hà Trung thuộc huyện Phú Vang đóng vai trò quan trọng trong việc

khai thác giữ gìn và phòng thủ vùng ven biển Thuận Hóa. Phủ Biên Tạp lục của Lê

Huyện Phú Vang dưới thì núi, giữa thì đầm phá, dưới thì biển. Phá Hà Trung

rộng lớn không thấy bờ không biết bao nhiêu mẫu khoảng dân cư ở vòng quanh

bốn bề, hải vật nhiều thứ không kể xiết, nhà nước không có thóc thuế thiếu,

Qúy Đôn cũng đã ghi nhận về đặc điểm địa hình và dân cư của huyện Phú Vang:

dân cư không phải đói ăn, áo cơm đầy đủ kho vựa thường đầy (Lê Qúy Đôn,

1977, tr. 147).

13

Những dân chứng trên đã cho thấy vùng đất Thuận Hóa có những điều kiện

thuận lợi tạo điều kiện cho dân cư tới đây sinh sống. Theo ghi chép của T.S Võ

Vinh Quang ở phân viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Huế cho rằng dân cư làng Hà

Trung đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý vùng biển trước khi đội Hoàng Sa

ra đời. Trong bài viết của mình tác giả đã cho rằng làng Hà Trung được thành lập

Tháng 10 năm Mậu Ngọ (1558) chúa Nguyễn Hoàng đem quân vào trấn thủ

vùng Thuận Quảng tức là Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Nam lúc đó, 6 ngài

Thỉ tổ của 6 họ làng Hà Trung là họ La, họ Mai, họ Bùi, họ Trấn, họ Đặng, họ

Văn được theo phò giá, chiếm đóng Thuận Quảng, hành trình bằng đường thủy

vào cửa Tư Đông [Tư Dung] là cửa Tư Hiền ngày nay. Đầu tiên tạm đóng ở

phường Nhất Hà Trung nay vẫn còn dấu tích (Đỗ Bang, 2017, tr. 397).

sau khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ tại vùng đất Thuận Hóa

Đường đi vào vùng này sẽ đi từ cửa biển Tư Hiền đến vùng đầm Hà Trung, từ

Thuận Hóa rồi đến kinh đô Phú Xuân. Như vậy vùng đầm Hà Trung là con đường là

cửa ngõ quan trọng để tiến xuống kinh đô. Vì thế để bảo vệ cho vùng này tránh sự

tấn công của các thế lực bên ngoài, chúa Nguyễn Hoàng đã cho những thuộc hạ của

mình được tự do vào đây khai khẩn, lập làng, rồi phong cho họ chức cai cơ phó

tướng đồng thời giao cho họ kiêm quản toàn bộ vùng đất liền, vùng biển và toàn bộ

dân cư ở vùng Thuận Hóa.

Như vậy vào nửa đầu thế kỉ XVIII hầu hết các đảo và biển ở vùng Thuận

Quảng đều thuộc về chúa Nguyễn. Cùng với việc làm chủ các vùng ven biển gần bờ

chúa Nguyễn cũng tiến hành khuyến kích dân cư đến khai thác ở các đảo xa bờ như

Hoàng Sa, Trường Sa.

Quần đảo Hoàng Sa thuộc địa phận phủ Quảng Ngãi. Cách đảo Hải Lí và đảo

Hải Nam của Trung Quốc 230 hải lý. Nằm phân bố dọc bờ biển các tỉnh Quảng Trị,

Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và một phần Quảng Ngãi. Quần đảo này

14

được biết đến từ thế kỉ II khi cảng Thị Óc Eo của người Chăm pa được xây dựng

hay con đường tơ lụa trên biển của người Trung Hoa bắt đầu được hoạt động. Có

thể nói quần đảo Hoàng Sa được biết đến từ khá sớm nhưng do những hiểm họa về

mặt địa lý ở đây nên hầu như trong một thời gian dài vùng đảo này chưa có sự khai

thác của bất cứ một chính quyền nào. Đến khi chúa Nguyễn Hoàng vào khai khẩn

vùng Đàng Trong thì mới bắt đầu có sự chiếm hữu tại quần đảo này.

Lúc đầu chúa Nguyễn chỉ tiến hành cho khai thác các vùng đảo ven bờ. Về sau

do quá trình Nam tiến cộng với việc phải đối phó với sự tấn công của quân Trịnh và

nguồn lợi về thủy sản dồi dào nên chúa Nguyễn bắt đầu khai thác các quần đảo xa

bờ. Quần đảo Hoàng Sa luôn hứng gió mùa Đông Nam hay Đông Bắc thổi vào, nên

các tàu thuyền khi đến đây đều bị sóng biển đánh làm hư hại. Các vua chúa Nguyễn

thường chu cấp phương tiện cho các tàu thuyền bị nạn, vì thế khi gặp bão các

thuyền buôn thường tìm cách dạt vào bờ biển nước ta để nhận sự giúp đỡ.

Quần đảo Hoàng Sa là nơi có trữ lượng hải sản và tổ yến nhiều nên mặc dù có

nhiều nguy hiểm và trở ngại nhưng chúa Nguyễn vẫn cử quân đến khai thác.

Theo như ghi nhận của Đỗ Bá Công Đạo một vị quan của Đàng Ngoài được

chúa Trịnh cử đến vùng Đàng Trong năm 1686. Khi về ông đã vẽ tấm bảng đồ

Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư đây được coi là tài liệu xưa nhất ghi nhận về vị trí và

quá trình khai thác vùng đảo Hoàng Sa của Chúa Nguyễn:

Hình 1.1. Bản đồ vẽ xứ Quảng Nam in trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ

thư do Đỗ Bá Công Đạo soạn đời Chính Hòa (1680)

Giữa biển có một dãi cát dài gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) dài tới 400 dặm,

rộng 20 dặm. Từ cửa Chiêm đến cửa Sa Vĩnh mỗi lần có gió Nam tạt vào đấy

thì thương thuyền các nước đi vào phía trong và trôi dạt vào đấy, gió đông bắc

thì thương thuyền chạy bên ngoài cũng trôi dạt vào đấy chết đói cả. Mỗi năm

vào tháng cuối đông họ Nguyễn đưa 18 chiếc thuyền đến đó lấy hàng hóa của

cải, phần nhiều thì tiền bạc của cải và súng đạn. Từ cửa Đại Chiêm đến đó phải

mất một ngày rưỡi. Từ cửa Sa Kỳ đến đó thì nửa ngày. Chỗ bãi cát vàng ấy

cũng có đồi mồi (Nguyễn Nhã, 2013, tr. 40).

15

Những ghi chép của Đỗ Bá Công Đạo trong Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ

thư có thể thấy ông đã tìm tòi và nghiên cứu kĩ lưỡng về vị trí và đặc điểm của quần

đảo Hoàng Sa so với các vùng đảo khác. Mặc dù có một số chỗ không chính xác về

thời gian (theo nhiều sử liệu khác thì cho rằng phải mất đến 3 ngày đêm). Bãi Cát

Vàng theo tên gọi Hán Việt tức chỉ vùng Hoàng Sa. Tên gọi này đã có từ trước

chứng tỏ vùng đảo này trước kia đã có người Việt sinh sống và định cư ở đây. Vùng

quần đảo Hoàng Sa nằm ở đoạn sông Thu Bồn (cửa Đại Chiêm của vùng Quảng

Nam) cho đến cửa sông Trà Khúc (cửa Sa Kỳ) và cũng nằm trung chuyển giữa với

châu Âu xuống các quốc gia Châu Á, vì thế các thuyền buôn muốn trao đổi đều phải

đi qua khu vực này. Ngoài ra đây là vùng có nhiều khó khăn, hiểm trở bởi các đợt

gió Tây Nam liên tục thổi vào khiến cho các thuyền buôn bị lạc hướng và va vào

các bãi đá ngầm. Tuy nhiên mặc dù có nhiều khó khăn và nguy hiểm nhưng do

nguồn lợi to lớn về hải vật khoáng sản nên vào mỗi tháng cuối đông chúa Nguyễn

lại cử 18 chiếc thuyền ra khai thác và thu lượm vàng bạc, hóa vật.

Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn được người Trung Quốc biết đến từ khá

sớm. Người Trung Quốc đầu tiên đến vùng Đàng Trong này là hòa thượng Thích

Đại Sán. Năm 1695 chúa Nguyễn Phúc Chu mời ông đến vùng Hội An, Thuận

Quảng. Khi trở về Trung Quốc vào năm Đinh Sửu (1697) ông viết cuốn Hải ngoại

kỉ sự ghi lại những hiểu biết của mình trong quá trình cư trú ở vùng đất này. Trong

suốt thời gian ở Đàng Trong nhà sư đã được tận mắt chứng kiến những quan cảnh

16

cũng như cuộc sống của những người dân nơi đây: “Nước Đại Việt muôn vật đều

phát sinh về thu đông, làm việc dùng ban đêm, con trai thông minh không bằng con

gái. Hằng năm xuân hạ thường khô hạn, mặt trời đứng bóng nóng như lửa đốt. Đất

đỏ nghìn năm, cây cỏ cháy khô” (Thích Đại Sán, 2016, tr. 80).

Trong đó nhà sư Thích Đại Sán có miêu tả cụ thể và chi tiết về Vạn Lý Trường Sa

Khách có người bảo mùa gió xuôi về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng

trước và sau ngày lập thu. Chừng ấy gió Tây Nam thổi mạnh. Chạy một lèo gió

xuôi chừng 4, 5 ngày đêm có thể đến Hổ Môn. Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió

bấc dần dần thổi lên, nước chảy về hướng đông sức gió yếu, không chống nổi

dòng nước mạnh về đông. Lúc đó sẽ khó giữ được sự yên ổn. Bởi vì có những

cồn cát nằm thẳng giữa biển, chạy từ Đông Bắc qua tây Nam, động cao dựng

đứng như bức tường, bãi thấp cũng ngang mực nước biển, mặt cát khô rắn như

sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành. Bãi cát rộng đếm trăm dặm chiều dài

thăm thẳm, chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là Vạn Lý Trường Sa, mù mịt

chẳng cỏ cây nhà cửa. Nếu thuyền trái gió, trái nước mà tạt vào dẫu không tan

nát cũng không gạo không nước trở thành ma đói mà thôi.Quãng ấy cách Đại

Việt bảy ngày đường, chừng 700 dặm. Các quốc vương thời trước hằng năm

sai thuyền đánh cá đi dọc theo các bãi cát lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền

hư hỏng dạt vào. Mùa thu nước ròng cạn chảy rút về hướng đông, bị một ngọn

sóng đẩy đi thuyền có thể trôi xa trăm dặm, sức gió chẳng mạnh, sợ hiểm họa

Trường Sa (Thích Đại Sán, 2016, tr. 191).

và ghi chép này gần giống với tác giả Đỗ Bá Công Đạo theo đó:

Những ghi chép của hòa thượng Thích Đại Sán đã cho thấy rằng Vạn Lý

Trường Sa, tức vùng đảo Hoàng Sa là một vùng cồn cát lớn kéo từ Đông sang Tây.

Trước đây người ta chưa phận định ra vùng Hoàng Sa và Trường Sa mà dùng từ

Vạn Lý Trường Sa để chỉ chung cho cả hai. Những ghi chép của hòa thượng Thích

17

Đại Sán đã làm rõ và chứng minh tính đúng đắn của Đỗ Bá Công Đạo về vùng quần

đảo này. Đồng thời càng có giá trị hơn khi tài liệu này được viết bởi người Trung

Hoa góp phần khẳng định chủ quyền của người Việt ở hai quần đảo Hoàng Sa và

Trường Sa.

Cả hai nguồn tư liệu cổ của Việt Nam và Trung Hoa đều khẳng định ngay từ

rất sớm chúa Nguyễn đã tiến hành cho khai thác đảo Hoàng Sa. Có thể khẳng định

mặc dù quần đảo này được biết từ khá sớm, nhưng chưa có một quốc gia nào kể cả

Trung Quốc tiến hành khai thác và chỉ khi đến thế kỉ XVI khi Nguyễn Hoàng vào

khai khẩn vùng Đàng Trong và tiến hành các hoạt động khai thác thì vùng quần đảo

này mới thực sự có chủ.

Tác phẩm Phủ biên tạp lục cũng ghi chép khá rõ về quần đảo Hoàng Sa của

Đàng Trong: “Xã An Vĩnh huyện Bình Sơn, phủ Quảng Nghĩa ở ngoài biển có núi,

gọi là Cù Lao Ré rộng hơn 30 dặm, có phường Tứ Chính, dân cư trồng đậu, ra biển

bốn canh thì đến, phía ngoài nữa có đảo Đại Trường Sa” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr.

155). Những ghi chép của Lê Qúy Đôn coi là tư liệu có giá trị cao, vì hầu như ông

không hề tham khảo những tài liệu trước đó, mà bằng chính những việc mắt thấy tai

nghe của mình, tác giả miêu tả một cách chân thực về vùng đảo Hoàng Sa. Trong

Ở ngoài biển về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi có hơn 130 bãi

cát cách nhau hoặc đi một ngày đường hoặc một vài trống canh kéo dài không

biết mấy nghìn dặm tục gọi là “Vạn Lý trường Sa”. Trên bãi có giếng ngọt. Sản

vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa vích, ba ba v.v… (Đại Nam thực lục tập 1,

2002, tr. 164).

tác phẩm Đại Nam thực lục tiền biên cuốn 1 thì chép:

Ngoài ra trong tác phẩm Đại Nam nhất thống chí quyển 6 cũng có những ghi

Ở phía đông Cù Lao Ré. Từ bờ biển Sa Kỳ chạy ghe ra khơi, thuận gió thì 3, 4

ngày đến. Trên đảo có các núi la liệt hơn 130 hòn cách nhau một ngày đường

hoặc trong vài canh. Trên đảo có bãi Hoàng Sa (Cát Vàng) kéo dài không biết

chép về Vạn Lý Trường Sa như sau:

mấy ngàn dặm tục danh gọi là Vạn Lý Trường Sa (Đại Nam nhất thống chí tập

1, 2006).

18

Các tư liệu trên đã đều khẳng định Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi và trước

đây người ta gọi chung vùng Hoàng Sa và Trường Sa là Vạn Lý Trường Sa. Từ XVI

- XVII trên vùng biển nước ta đã có địa danh Vạn Lý Trường Sa. Đây là một dãy

cát dài nằm giữa biển, được nhiều thuyền buôn nước ngoài nhắc tới, vì nó nằm

trong vùng biển động có nhiều sóng gây nhiều nỗi sợ hãi cho những ai đi qua vùng

biển này. Ngoài ra còn có một số các sử liệu Hán Nôm ghi nhận chính quyền phong

kiến đã tiến hành khai thác và làm chủ quần đảo Hoàng Sa như Dư địa chí trong bộ

Lịch Triều hiến chương loại chí của tác giả Phan Huy Chú và các tài liệu gốc do

Quốc Sử quán biên soạn là Đại Nam thực lục tiền biên cũng ghi lại những đặc điểm

về nguồn tài nguyên phong phú và việc các chúa Nguyễn tiến hành khai thác và làm

Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi có dãy giống dáng

quần đảo còn có hơn 130 cồn cát, cách xa hoặc một ngày đường hoặc vài trống

canh, chiều dài không biết đến mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Trường Sa,

trên có giếng nước ngọt, sản vật có hải sâm, đồi mồi hải ba. Hồi quốc sơ đặt

đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân An Vĩnh xung vào hằng năm cứ tháng 3

cỡi thuyền ra đảo, 3 ngày đêm thì tới nơi, thu lượm hóa vật đến tháng 8 thì về

(Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 164).

chủ vùng đất này.

Hầu hết các đoạn trích trong các nguồn sử liệu trên đều lấy danh xưng Vạn Lý

Trường Sa dùng để chỉ vùng bãi cát dài nằm giữa biển. Do trước đây chưa có sự

phân biệt vùng Hoàng Sa và Trường Sa, nên danh xưng Vạn Lý Trường Sa dùng để

chỉ toàn bộ vùng đảo trên biển bao gồm Hoàng Sa và các đảo phía Nam trong đó có

cả vùng đảo Trường Sa. Tuy nhiên đến thời nhà Nguyễn sau này, để tránh nhầm lẫn

thì danh xưng Bãi Cát Vàng được dùng để chỉ quần đảo Hoàng Sa còn danh xưng

Vạn Lý Trường Sa dùng để chỉ các quần đảo nằm ở phía Nam biển đông tức quần

đảo Trường Sa ngày nay.

19

Ngoài những tài liệu của Việt Nam và Trung Quốc, thì ngay từ thế kỉ XVII đã

có rất nhiều các tư liệu của người nước ngoài viết về quần đảo này. Hầu hết trong

các ghi chép của người phương Tây đều cho rằng Vạn Lý Trường Sa theo tiếng anh

là Paracel là vùng nằm trong lãnh thổ của Đàng Trong và thuộc phủ Quảng Nghĩa.

Từ Paracel được các thương nhân Bồ Đào Nha sử dụng dùng để chỉ quần đảo

Hoàng Sa. Theo tác giả Nguyễn Nhã trong tác phẩm Đặc khảo về Hoàng Sa,

Trường Sa xuất bản năm 2014 thì từ này có nghĩa là đá ngầm và tác giả cho rằng

danh xưng này đầu tiên được xuất hiện trên tấm bảng đồ Bán đảo Đông Dương do

anh em nhà Van Langren, người Hòa Lan ấn hành năm 1595.

Đây được coi là nguồn tài liệu quan trọng khẳng định quần đảo Hoàng Sa

thuộc về lãnh thổ nước ta chứ không phải là của Trung Quốc, như các nhà khoa học

của nước này khẳng định. Bên cạnh người Bồ Đào Nha, người Pháp cũng sử dụng

từ Paracel để nói về quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Trong các thư từ, nhật kí về

các chuyến hải trình của người Pháp thì đáng lưu ý là nhật ký của giáo sĩ Tartre đi

trên tàu Amphitrite (năm 1701) từ Châu Âu đến Trung Quốc đã ghi lại những cảm

Người ta cho tàu nổ neo gió rất tốt. Và sau đó một thời gian đi đến mỏm đá

Pracel. Đó là một bãi đá ngầm khủng kiếp có đến hàng trăm dặm rất nhiều lần

đã xảy ra vụ đắm tàu ở đó. Pracel trải dài dọc bờ biển Nam Hà. Tàu Amphitrite

trong hành trình đầu tiên đến Trung Hoa, đã nghĩ đến nguy cơ bị đắm ở đó

(Đỗ Bang, 2017, tr.100).

nhận của vị giáo sĩ này đối với quần đảo Hoàng Sa:

Từ những ghi nhận của giáo sĩ Tatre đã cho thấy quần đảo này đã được biết

đến từ khá sớm và nằm dọc bờ biển Nam Hà. Địa danh Nam Hà mà giáo sĩ sử dụng

ở đây là để phân biệt với vùng Bắc Hà. Như vậy có thể thấy trong giai đoạn này

cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã tạm kết thúc và hai bên lấy sông Gianh làm

ranh giới chia đôi đất nước, trong đó vùng Nam Hà tức ám chỉ vùng Đàng Trong.

Đây được coi là chi tiết rất quan trọng góp phần khẳng định chủ quyền của

chính quyền Đàng Trong đối với vùng đảo này. Như vậy đến thế kỉ XVIII địa danh

Paracel hay Cát Vàng hoặc Hoàng Sa đã trở nên khá quen thuộc đối với các nhà

20

hàng hải phương Tây. Vì quần đảo này nằm trên con đường trung chuyển nối liền

các quốc gia châu Á với vùng Viễn Đông.

Về sau khi thuyền buôn nước ngoài đến vùng đất Đàng Trong ngày càng nhiều

do chính sách hải thương của chúa Nguyễn, cùng với đó các thuyền đắm ở vùng

biển này cũng tăng lên. Chúa Nguyễn đã phái một tốp thủy binh tiến hành hỗ trợ

cung cấp lương thực, nước uống và đưa họ vào bờ. Việc này đã khẳng định quyền

quản lý của chính quyền phong kiến Nguyễn đối với vùng đảo này.

Sự kiện đắm tàu vào năm 1714 của người Hà Lan trên vùng quần đảo Hoàng

Sa, được công bố thông qua 5 bức thư qua lại của các giáo sĩ dòng tên ở Nam Hà

mà hiện nay vẫn còn được bảo tồn ở Pháp và đã được Tập San Sử Địa số 29 công

bố. Nội dung của 5 bức thư chủ yếu là nói về biến cố xảy ra cho ba chiếc thuyền

buôn của người Hà Lan khi trên đường trở về từ Nhật Bản đến Indonesia. Trong lúc

đi qua vùng biển Hoàng Sa họ đã gặp phải một trận bão lớn và kết quả là tất cả

thuyền của họ bị vỡ, số lượng người chết rất nhiều (khoảng hơn chục người). Số

người sống sót còn lại thì lưu lạc ở quần đảo Hoàng Sa suốt một tháng. Các mảnh

vỡ còn sót lại của tàu được họ sử dụng để đóng một chiếc xuồng lớn đi về phía

Nam. Nhờ theo hướng các thuyền chài lưới của ngư dân, nên chỉ sau một năm (tức

năm 1715) họ đã tới được cảng Quy Nhơn một cách an toàn. Họ được dân địa

phương đón tiếp nồng nhiệt và được cung cấp thức ăn và chỗ nghỉ. Sau đó họ đến

bái kiến chúa Nguyễn ở Phú Xuân. Trước những thiệt hại của họ và để tỏ lòng sự

nhân hậu, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban cho họ nhiều tiền bạc và lương thực đồng

thời sai thủy quân đưa họ đến cảng Hội An rồi từ đây trở về nước.

Sự kiện đắm tàu của Hà Lan năm 1714 đã cho thấy trong suốt hai thế kỉ XVI -

XVII các ngư dân không chỉ tiến hành khai thác các sản vật trên quần đảo Hoàng Sa

mà họ còn thực hiện việc tuần tra, cứu hộ, giúp đỡ các tàu nước ngoài khi bị đắm

vào đất liền an toàn. Thông qua sự việc này chúa Nguyễn bắt đầu cử đội thủy quân

Hoàng Sa, Bắc Hải đến quần đảo Hoàng Sa khai thác và cứu trợ một cách đều đặn,

góp phần thúc đẩy quá trình xác lập và bảo vệ chủ quyền của các chúa Nguyễn ở

vùng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ thế kỉ XVII - XVIII.

21

Như vậy dựa vào những ghi chép của người Việt, người Hoa và cả người Tây

Phương đã khẳng định rằng từ rất sớm Việt Nam đã tiến hành khai thác và làm chủ

vùng biển. Theo nhiều tác giả ghi nhận vào thế kỉ XV trên các đảo đã có người Việt

sinh sống. Mặc dù việc khai thác đã được tiến hành khá sớm nhưng việc xác lập chủ

quyền chỉ được tiến hành khi chúa Nguyễn vào vùng đất này.

Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho thành lập đội thủy quân Hoàng Sa. Đây được

coi là một bước tiến quan trọng trong chính sách hướng biển của chúa. Việc thành

lập đội thủy quân Hoàng Sa không chỉ nhằm khai thác các sản vật ở vùng đảo xa bờ

mà còn là sự khẳng việc chiếm hữu của chính quyền phong kiến tại đây. Các sách

Phủ Biên Tạp lục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam Thực lục, Khâm định đại nam

hội điển sử lệ đều khẳng định rằng đội Hoàng Sa ra đời vào thời kì chúa Nguyễn.

Theo sự tham khảo và thống nhất của các tác giả trong nhiều bài viết thì chúng

tôi thống nhất với giáo sư Nguyễn Quang Ngọc khi cho rằng đội Hoàng Sa được

thành lập vào thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên.Theo sự nhận định của tác giả khi

Nguyễn Hoàng đến vùng đất Đàng Trong thì chưa thực sự quan tâm đến việc khai

thác và thực thi chủ quyền trên hai quần đảo này. Việc thực thi chủ quyền biển đảo

chỉ thực sự được tiến hành khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên nắm chính quyền.

Ngoài ra tác giả cũng cho rằng các sự kiện như 1631, 1634 là những sự việc gắn

liền với quá trình hoạt động của đội Hoàng Sa đều nằm trong thời cai trị của chúa

Nguyễn Phúc Nguyên.

Quần đảo Phú Quốc thuộc trấn Hà Tiên là phần lãnh thổ cuối cùng được sáp

nhập vào lãnh thổ nước ta. Vùng đất này trước đây thuộc quyền quản lý của Mạc

Cửu một người Hoa có công khai khẩn vùng đất này. Qua quá trình khai khẩn mộ

dân lập ấp Mạc Cửu đã xây dựng vùng Hà Tiên trở thành một nơi đô thị đông đúc

và sầm uất.

Năm 1708 trước sự quấy nhiễu của Xiêm, Mạc Cửu dâng lên cho chúa

Nguyễn vùng đất này để nhận lấy sự bảo hộ từ chúa. Chúa Nguyễn phong cho ông

chức Tổng binh trấn Hà Tiên đồng thời xác nhập vùng đất này vào lãnh thổ nước ta.

Đây được coi là sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc mở mang lãnh thổ.

22

Mạc Cửu và con ông là Mạc Thiên Tứ sau này nối tiếp nhau giữ chức Tổng binh

Năm 1711 Mạc Cửu được chúa Nguyễn phái đi đo đạc vùng quần đảo Hoàng

Sa. Mùa hạ tháng 4, Tổng binh trấn Hà Tiên là Mạc Cửu đến cửa khuyết tạ ơn

chúa hậu thưởng. Sai đo bãi cát Trường Sa rộng hẹp bao nhiêu (Đại Nam thực

lục tập 1, 2002, tr.126).

vùng đất Hà Tiên có nhiệm vụ bảo vệ vùng này cả trên bộ lẫn trên biển:

Qúa trình Nam tiến của chúa Nguyễn diễn ra nhanh chóng làm cho diện tích

lãnh thổ ngày càng được mở rộng, việc xác lập chủ quyền ở vùng đất Hà Tiên, đã

làm cho phạm vi kiểm soát chúa Nguyễn ở vùng đất liền và biển đảo ngày càng

tăng. Trước đây chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho thành lập đội Hoàng Sa nhưng

về sau phạm vi hoạt động của đội này ngày càng được mở rộng, nên đội Hoàng Sa

không có đủ nhân lực để tiến hành khai thác hết vùng biển. Đến thời chúa Nguyễn

Phúc Chu cho thành lập thêm đội Bắc Hải. Các tác phẩm Phủ Biên tạp lục của Lê

Qúy Đôn, Đại Nam thực lục tiền biên, và các tác giả sử học như G.s Nguyễn Quang

Ngọc, Nguyễn Nhã đều thống nhất cho rằng đội Bắc Hải được chúa Nguyễn Phúc

Chu cho thành lập ngay sau khi đội Hoàng Sa ra đời và chính xác là sau khi thành

Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải không biết bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ

Chính ở Bình Thuận hoặc người ở xã Cảnh Dương ai tình nguyện đi thì cấp

giấy sai đi miễn cho tiền sưu và tiền đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc

Hải, Cù Lao Thôn và các đảo Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi

hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là

lấy các thứ hải vật còn vàng bạc thì ít lấy được (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 155).

lập phủ Bình Thuận năm 1697:

Chúa Nguyễn đã tiến hành khai thác và đánh dấu chủ quyền của mình trên

vùng biển, thông qua các hoạt động của đội quân Bắc Hải. Về sau tác phẩm Đại

Nam thực lục tiền biên viết về thời chúa Nguyễn cũng khẳng định thời chúa Nguyễn

Phúc Chu đã cho thành lập đội Bắc Hải: “Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ

23

Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào sai đi thuyền nhỏ đến các

xứ Bắc Hải, Côn Lôn để tìm lượm hóa vật; đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm

quản” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 155).

Cùng với sự ra đời của đội Hoàng Sa, chúa Nguyễn còn đặt thêm đội Bắc Hải

với nhiệm vụ tìm kiếm các sản vật và các hóa vật ở vùng biển Tây Nam từ vùng

Bình Thuận đến Hà Tiên, Côn Lôn và Phú Quốc bao gồm đảo Trường Sa hiện nay.

Mặc dù chịu sự kiêm quản của đội Hoàng Sa, nhưng đội quân Bắc Hải cũng đóng

vai trò quan trọng trong việc xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn ở các vùng biển

phía Tây Nam. Hầu hết lực lượng của đội quân Bắc Hải đều lấy từ các dân thuộc

làng Tứ Chính, Cảnh Dương thuộc tỉnh Bình Thuận. Nhiệm vụ của quân Bắc Hải

giống với quân Hoàng Sa khai thác các sản vật và làm nhiệm vụ tuần tra phòng vệ.

Tuy nhiên khác với Hoàng Sa đội quân Bắc Hải hoạt động linh động và độc lập

hơn.

Như vậy đến giữa thế kỉ XVIII chúa Nguyễn đã cho thành lập các đội quân

Hoàng Sa, Bắc Hải, Thanh Châu, Hải Môn để tìm kiếm các sản vật và khai thác các

nguồn lợi của biển.Thông qua các hoạt động thực tiễn của các đội hải quân thời

chúa Nguyễn đã góp phần đặt cơ sở vững chắc cho việc làm chủ và xác lập chủ

quyền của chúa Nguyễn ở vùng biển Đàng Trong nói chung và hai quần đảo Hoàng

Sa, Trường Sa nói riêng. Đây được coi là những bằng chứng quan trọng trong việc

đấu tranh chống lại những luận điểm sai trái và vô căn cứ của Trung Quốc về hai

quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và ở biển Đông.

Cùng với Nông Nại đại phố, Mỹ Tho đại phố, Hà Tiên trấn trở thành một trung

tâm mua bán và trao đổi hàng hóa với các nước Chân Lạp, Xiêm, Ấn Độ và Java.

Thương cảng Hà Tiên có vị trí biển thuận lợi nhiều chỗ nước sâu khúc khuỷu, khuất

gió thuận lợi cho tàu bè neo đậu, thu mua sản vật và lấy nước ngọt. Trong giai đoạn

này, Mạc Cửu hầu như độc lập quản lí và khai khẩn vùng Hà Tiên, chưa có sự can

thiệp của Chân Lạp.

Tiếp đó, năm 1757 Chúa Nguyễn Phúc Khoát cử quân đến giúp Chân Lạp giải

quyết cuộc nội chiến tranh ngôi báu, đưa Nặc Tôn lên làm vua. Để tạ ơn, Nặc Tôn

dâng chúa Nguyễn vùng đất Tầm Phong Long (vùng Tứ Giác Long Xuyên ngày

24

nay). Chúa Nguyễn cho lập đạo Đông Khẩu, đạo Châu Đốc, đạo Long Xuyên, cho

dân cư đến sinh sống và cử quan lại đến cai quản.

Như vậy, bằng chính sách ngoại giao khôn khéo kết hợp giữa quân sự với

chính trị và sự thay đổi trong mối quan hệ giữa Đại Việt, Chân Lạp và Xiêm. Quá

trình Nam tiến của chúa Nguyễn đã có những tác động lớn. Quan hệ Đại Việt với

Chân Lạp lúc đầu mang tính chất bình đẳng nhưng càng về sau, do sự suy yếu của

Chân Lạp, sự quấy nhiễu và tấn công của Xiêm… đã làm cho quan hệ của Chân

Lạp - Đại Việt có sự chuyển biến từ quan hệ bình đẳng sang quan hệ thần phục, việc

này giúp cho chúa Nguyễn đẩy mạnh quá trình Nam tiến của mình.

Đến thế kỉ XVII, chính quyền chúa Nguyễn đã hoàn thành việc xác lập chủ

quyền ở vùng đất Đàng Trong, ngăn chặn Chân Lạp, Xiêm xâm phạm lãnh thổ, bảo

vệ vững chắc chủ quyền. Bằng chiến lược khôn khéo, các chúa Nguyễn đã biến

vùng hoang vu rậm rạp thành một vùng đất trù phú cây cối bạt ngàn xanh tươi.

Cùng với đất liền, lần lượt vùng biển và các đảo cũng được sáp nhập vào lãnh thổ

nước ta. Đây được coi là công lao to lớn của chúa Nguyễn nhằm mở rộng cương

vực đất nước tạo nên sự thay đổi vùng đất Nam Bộ đồng thời cũng khẳng định vai

trò làm chủ của cư dân Việt.

1.1.2. Quá trình xác lập chủ quyền biển đảo của các vương triều nhà

Nguyễn thế kỉ XIX

Thời nhà Nguyễn kéo dài suốt hai thế kỉ gồm 13 đời vua Nguyễn và là vương

triều duy nhất cai trị trên một vùng lãnh thổ rộng lớn và không bị chia cắt “làm chủ

một lãnh thổ trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau bao gồm cả Đàng Trong và

Đàng Ngoài cũ” (Li Tana, 1998).

Đến thời Nguyễn vùng đất liền và biển đảo được nhập vào lãnh thổ nước ta.

Các vua Nguyễn cho tiến hành các hoạt động khai thác và mở rộng diện tích đất,

chiêu mộ dân vào khai khẩn đất hoang, thực hiện việc đắp đê, đào kênh. Ngoài ra

các vua Nguyễn còn giảm thuế, cấp không nông cụ thóc giống và cho dân được tự

chọn nơi khai hoang. Minh Mạng ban sắc lệnh cho mỗi người được khai phá đất

hoang ở vùng rừng núi, gò đống, bờ sông, bờ suối, ven đường và cho phép lập làng

25

ở vùng biên giới. Chính quyền miễn thuế 3 năm hoặc lâu hơn, nhà nước còn cho

binh lính tiến hành khẩn hoang vùng hiểm yếu như biên giới, biển đảo.

Chính sách khai hoang tích cực nhất dưới thời Nguyễn là lập đồn điền gồm hai

hình thức của nhân dân và của nhà nước. Dưới thời Gia Long có doanh điền là hình

thức tổ chức khai hoang kết hợp giữa nhà nước và nhân dân. Theo đó nhà nước tiến

hành bỏ vốn và người dân đến khai hoang. Việc khai khẩn theo hình thức doanh

điền đem lại những hiệu quả cao, diện tích đất ở đồng bằng và ven biển tăng nhanh

chóng. Các sản phẩm thu hoạch được từ cuộc khẩn hoang ở vùng ven biển được

dùng làm lương thực nuôi binh lính và tù nhân.

Bên cạnh việc lập đồn điền, chính quyền Nguyễn còn chú trọng đào vét sông,

sửa chữa các kênh như Vĩnh Tế, Thoại Hà...làm cho diện tích đất nông nghiệp tăng

lên nhanh chóng, thu hút đông đảo dân đến định cư. Chỉ trong hai thế kỉ, vùng đất

hoang vu sình lầy trở nên màu mỡ, ruộng vườn cây cối xanh tươi. Sản lượng lúa gạo

đủ tiêu dùng và được trao đổi khắp nơi, vùng đất Nam Bộ trở thành vựa lúa lớn nhất

cả nước. Ở vùng biển đảo, nhà Nguyễn cũng chú trọng chiêu mộ dân đi khai khẩn,

trồng cây xanh mở rộng diện tích đất và tăng cường bảo vệ an ninh quốc phòng.

Thời vua Nguyễn mối quan hệ với Chân Lạp vẫn được tiếp tục duy trì, chủ yếu

là thực hiện sự bảo hộ Chân Lạp trước các cuộc tấn công của Xiêm:

“Nước Chân Lạp đời đời làm thuộc quốc nước ta, nay thế nước suy yếu, nay lại

cùng với nước Xiêm có hiềm khích sợ không tự giữ yên”. Vì thế vua sai Lê Văn

Phong đi tuần biên giới: “ Ngươi nên chuẩn bị thuyền đi biển 15 chiếc, thuyền chiến

hơn 30 chiếc, biền binh hơn 2.000 người. Sai Trí lãnh tiền đạo, Phong lãnh trung

đạo, Giám lãnh hậu đạo tiến thẳng ra Tân Châu. Người Xiêm biết ta đến trước hẳn

sẽ không dám làm gì, Chân Lạp có thể giữ được vô sự” (Đại Nam thực lục tập 1,

2002, tr. 799).

Ngoài ra để tăng cường bảo vệ vùng biên giới và hải đảo, ngăn chặn các hành

động xâm phạm lãnh thổ. Vua Gia Long ban hành sáu điều cấm, trong đó có những

điều đáng chú ý là: “Tình hình ngoài biên cương giao cho đại tướng, việc thường

thì chỉ sai truyền báo. Thuyền đi công vụ không được chở hàng hóa riêng, quân nhu

lương đã có ở thành vận tải cung cấp, nếu Chân Lạp có tặng biếu cung ứng thì

26

không được nhận bừa” (Trần Đức Cường, 2016, tr. 284). Đoạn trích trên đã thể hiện

sự quan tâm của vua Nguyễn đối với Chân Lạp vốn là phiên dậu của nước ta thời

bấy giờ. Việc giúp đỡ Chân Lạp được xem là nhằm bảo đảm an toàn cho vùng Tây

Nam đất nước.

Trong thời Thiệu Trị diễn ra cuộc chiến chống quân Xiêm và Cao Miên, bảo

vệ vùng đất phía Nam. Nhà Nguyễn chủ trương xây dựng các pháo đài, hải trấn, đồn

lũy và một lực lượng thủy quân mạnh có nhiệm vụ tuần tra, giám sát vùng biển.

Dưới thời Nguyễn, hoạt động chống cướp biển, chống buôn lậu diễn ra thường

xuyên chứng tỏ chính quyền luôn đề cao việc bảo vệ chủ quyền, quốc phòng, trên

cả vùng biên giới đất liền và hải đảo

a) Việc xác lập chủ quyền vùng biển thời Gia Long:

Thời các vua Nguyễn việc xác lập chủ quyền được nâng cao hơn thông qua

việc chiếm hữu và thực thi những biện pháp tích cực và cứng rắn. Sau khi ổn định

tình hình đất nước, củng cố chính quyền, Gia Long đã cho tái lập lại đội thủy quân

Hoàng Sa, có từ thời Chúa Nguyễn trước đây: năm 1803 lấy cai cơ Võ Văn Phú là

thủ ngự cửa biển Sa Kỳ sai Mộ Dân Ngoại Tịch lập đội Hoàng Sa (Đại Nam thực

lục, tập 2, 2002, tr. 566).

Mặc dù đội Hoàng Sa đã được thành lập từ thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên

nhưng do cuộc chiến với Tây Sơn nên hoạt động của đội thủy quân này bị gián đoạn

và ngưng trệ. Bên cạnh việc duy trì các hoạt động của đội Hoàng Sa thì Gia Long

cũng nâng cao và khẳng định chủ quyền vùng đảo Hoàng Sa thông qua 2 sự kiện

năm 1815 và 1816. Nếu như so sánh hai sự kiện trên, ta thấy sự thay đổi của đội

thủy quân Hoàng Sa. Theo đó năm 1815: “Vua Gia Long sai bọn Phạm Quang Ảnh

thuộc đội Hoàng Sa ra đảo Hoàng Sa xem xét đo đạc thủy trình”. Năm 1816 bên

cạnh đội thủy quân Hoàng Sa còn có sự xuất hiện của lực lượng thủ quân triều đình.

“Sai thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường thủy”

(Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 922)

Như vậy, lực lượng thủy quân Hoàng Sa không còn là những đội dân binh như

trước mà đã phát triển thành lực lượng chính quy của triều đình. Sự kiện năm 1816

đã chính thức hóa quyền làm chủ của chính quyền phong kiến vốn đã có từ lâu đời.

27

Đây được coi là bước ngoặt vô cùng quan trọng việc khẳng định chủ quyền của

nước ta đối với quần đảo Hoàng Sa và là cơ sở pháp lý trong việc đấu tranh chống

lại mọi hoạt động xâm phạm hay những luận điểm sai trái của Trung Quốc về chủ

quyền ở vùng biển này. Sự kiện năm 1816 đã khẳng định quyền quản lý của chính

quyền phong kiến Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa thông qua việc đo đạc, thăm

dò cắm cờ của đội thủy quân trong quần đảo này. Tất cả những điều này đã cho thấy

sự chiếm hữu chính thức của chính quyền đối với vùng biển và hải đảo đồng thời sự

chiếm hữu này không hề vấp phải sự phản kháng hay tạo nên một cuộc tranh chấp

nào từ các nước trong khu vực.

Sự kiện tuyên bố chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của vua Gia Long được các

nhà sử học trong và ngoài nước bấy giờ ghi nhận một cách cụ thể. Đối với tài liệu

trong nước thì sự kiện này được các sách Đại Nam Thực Lục Chính Biên quyển thứ

hai ghi về các đời vua Nguyễn của Quốc Sử Quán ghi lại. Các châu bản triều

Nguyễn cũng ghi nhận về sự kiện này. Mặc dù nguồn tư liệu trong nước ít ỏi nhưng

giá trị mang lại của tác phẩm rất cao. Vì được thông qua chiếu chỉ, lời phê chỉ dụ

của chính nhà vua. Sự kiện năm 1816 không chỉ có trong tư liệu trong nước mà còn

có rất nhiều các nguồn tư liệu nước ngoài ghi nhận về sự kiện này. Điều đó cho thấy

việc xác lập chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của vua Gia Long là sự kiện trọng đại

thu hút sự quan tâm đông đảo của nhiều nước. Có thể thấy trong bối cảnh lúc bấy

giờ giữa lúc các nước Phương Tây đang ráo riết chinh phục những vùng đất của

Phương Đông nhằm tìm kiếm thị trường và nguồn nguyên liệu. Việc khẳng định

chủ quyền ở một vùng đất nào đó, được các cường quốc Phương Tây thời đó tiêu

biển là Bồ Đào Nha dưa ra thuyết "quyền phát hiện", nội dung là ưu tiên chiếm hữu

một vùng lãnh thổ thuộc về quốc gia nào đã phát hiện ra vùng lãnh thổ đó đầu tiên.

Quyền ưu tiên chiếm hữu được thể hiện thông qua việc bất kỳ lá cờ của một quốc

gia nào cắm lên vùng lãnh thổ đó thì vùng đó thuộc về quốc gia ấy. Đến năm 1888

trong tuyên bố của viện pháp luật Quốc Tế Lausanne đã thay thế “ thuyết quyền

phát hiện” bằng nguyên tắc chiếm hữu thực sự. Nhấn mạnh mọi hoạt động chiếm

hữu chỉ có giá trị khi được tiến hành bởi một cơ quan hay đại diện của một quốc gia

và không phải do tư nhân hay cá nhân tự ý thực hiện. Hoạt động chiếm hữu phải

28

được diễn ra hòa bình và trên vùng lãnh thổ vô chủ (không có sự xác nhận chủ

quyền của bất cứ nước nào), hay là vùng lãnh thổ đã được nước khác từ bỏ.

Vì thế một quốc gia phương Đông tuyên bố chiếm hữu lãnh thổ theo cách mà

Phương Tây đã làm đây được coi là việc làm hợp pháp và là dấu mốc quan trọng để

khẳng định việc làm chủ vùng đất mới. Theo đó các ghi chép được coi là có giá trị

và tính thuyết phục cao ghi về về sự kiện tuyên bố quyền chiếm hữu quần đảo

Vương quốc Cochinchine mà vị vua hiện nay tuyên xưng hoàng đế gồm xứ

Nam Hà theo đúng nghĩa của nó, xứ Bắc Hà, một Vương quốc Cao Miên, một

vài đảo có dân cư ở không xa bờ biển và quần đảo Paracel hợp thành từ những

đảo nhỏ, bãi đá ngầm và mỏm đá không người ở chỉ đến năm 1816 đương kim

hoàng đế mới chiếm hữu được quần đảo này (Đỗ Bang, 2016, tr.136).

Hoàng Sa của vua Gia Long năm 1816 của J. B. Chaigneau, xuất bản năm 1820:

Sự kiện vua Gia Long phái người ra quần đảo Hoàng Sa đo đạc đánh dấu chủ

quyền được ghi lại bởi người nước ngoài nên hoàn toàn mang tính khách quan và

tính xác thực, không chỉ tạo sự tin cậy cho các nhà sử học trong nước mà còn nước

ngoài. Ngoài ra trong các tư liệu, các từ điển bách khoa nguồn tư liệu địa lý nổi

tiếng và các sách xuất bản nước ngoài của phương Tây vào thế kỷ XIX cũng ghi lại

sự kiện vua Gia Long chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa năm 1816.

Các tác giả Anh Pháp, Đức, Tây Ban Nha đã chứng minh việc vua Gia Long

làm là đánh dấu chủ quyền của mình tại vùng đảo Hoàng Sa.

Tập san Journal of an Embassy from the Governor General of India to the

Count of Siam and Cochinchine được xuất bản tại London năm 1830:

“Năm 1816, Vua Cochinchina đã chiếm một quần đảo không có người ở và

hiểm trở bao gồm nhiều đá, đảo nhỏ, bãi cát… gọi là Paracels. Theo đó nhà vua

tuyên bố quần đảo này thuộc chủ quyền nước này mà hầu như sẽ không bị tranh

chấp”

Nguyên văn: Besides these, the King of Cochinchina, in 1816, took possession

of the uninhabited and dangerous archipelago of rocks, islets, and sand-banks,

called the Paracels, which he claims as part of his dominions, and over which his

29

authority is not likely to be disputed (John Crawfurd, Trần Đức Anh Sơn và Đỗ

Bang, 2014, tr.99)

Sách của tác giả Carl Ritter xuất bản 1834 tại Đức đã nêu chủ quyền của vua

Gia Long đối với các quần đảo trên biển trong đó có Paracel (Hoàng Sa). Ngoài ra

giám mục Jean Louis Taberd đến truyền đạo dưới thời Nguyễn đã có ghi chép cụ

thể về quá trình quần đảo Parasel hay Parecel là khu vực chằng chịt những quần đảo

nhỏ, đá ngầm và bãi cát những người dân xứ Cochinchina gọi khu vực đó là Cồn

Mặc dù rằng hình như quần đảo này chỉ có độc những tảng đá ngầm mà không

có gì khác và độ sâu của biển hứa hẹn những điều bất tiện hơn sự thuận lợi

nhưng vua Gia Long vẫn nghĩ rằng ông đã tăng cường được quyền thống trị

lãnh thổ của mình bằng sự sáp nhập thêm cái đất buồn bã này. Vào năm 1816,

nhà vua đã tới long trọng cắm lá cờ của mình và đã chính thức giữ quyền của

mình ở các bãi đá này mà chắc chắn là không có ai tìm cách tranh giành với

ông (Carl Ritter và Đỗ Bang, 2016, tr.136).

Vàng.

Sách TraschenbuchZur vebreitung geographischen Kenntnisse xuất bản tại

Trong vùng biển Nam Trung Hoa (tức ám chỉ vủng biển An Nam) chỉ có các

đảo sau thuộc quyền Cochinchine là quan trọng: Pulo - Condore (Côn đảo)

Pulo - Canton hay là Col - lao - Ray (Cù Lao Ré) và Tschan – col - chan hay là

Col - lao. Ts chăm (Cù lao Chăm). Ngoài các đảo này ra, năm 1816 vua

Cochinchine đã chiếm hữu bãi đá san hô nguy hiểm và không có người sinh

sống gồm nhiều bãi đá và cồn cát có tên là Paracles khó ai có thể phản đối chủ

quyền của Cochinchine về phần đất mới chiếm của vương quốc này (Đỗ Bang,

2017, tr. 100).

Praha năm 1839 cũng viết về sự kiện này:

30

Sách Lịch sử mô tả của các dân tộc có quá trình làm chủ quần đảo Hoàng Sa

Chúng tôi nhận xét thấy rằng 34 năm nay quần đảo Paracel (dân An Nam gọi là

Cát vàng) đã có người An Nam chiếm đóng chúng tôi không biết là họ có thiết

lập ở đây một cơ sở hay không (ý tác giả ám chỉ là chính quyền phải có lập

trạm để thu thuế hay để bảo vệ người đánh cá). Nhưng có một điều họ chứng

minh đó là vào năm 1816 vua Gia Long đã tiến hành xác nhận quần đảo này

vào lãnh thổ của mình với việc làm tiến hành cắm cờ của mình tại đây (Hãn

Nguyên Nguyễn Nhã, 2013, tr.61)

của dân tộc Việt trong đó có sự kiện 1816:

Như vậy, hầu hết các tư liệu, sách hay hồi ký của người Phương Tây điều

khẳng định là quần đảo Hoàng Sa (tức Paracel) vốn trước đây đã thuộc về người

Việt (An Nam). Các tác phẩm đã khẳng định một cách chắc chắn năm 1816 vua Gia

Long đã tiến hành xác lập chủ quyền của mình tại quần đảo này và họ cũng đồng

thời khẳng định là không hề có bất cứ một cuộc xung đột hay tranh chấp nào xảy ra.

Đây được coi là việc chiếm hữu mang tính hợp pháp và đúng theo quy định của luật

quốc tế Lausanna (1888) đã ghi nhận ở trên. Đây được coi là cơ sở pháp lý quan

trọng, nhằm khẳng định chủ quyền của nước ta vốn đã có từ trước và sự kiện 1816

có ý nghĩa khẳng định quyền chiếm hữu hợp pháp của nước ta tại Hoàng Sa, có thể

nói đây là một sự kiện gây sự chú ý cho các nước phương Tây bấy giờ.

Các tài liệu của Phương Tây khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã tuyên bố

xác lập quyền chiếm hữu hợp pháp của mình tại quần đảo Hoàng Sa. Bên cạnh đó

còn ghi lại vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của quần đảo này. Thậm chí còn có một

số tài liệu cho rằng chính nhà vua đã tới cắm lá cờ của mình và chính thức tuyên bố

chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa. Để làm rõ vấn đề này, TS.Trần Đức Anh Sơn

trong bài nghiên cứu về sự kiện vua Gia Long tuyên bố chủ quyền đối với đối với

quần đảo Hoàng Sa vào năm 1816 có sự đối chứng giữa các nguồn sử liệu Việt

Nam và căn cứ vào thực tế cai trị đất nước của các vị vua triều Nguyễn, đã cho

rằng:

Vua Gia Long không đích thân đi ra Hoàng Sa đế cắm lá cờ và tuyên bố chủ

quyền vào năm 1816. Nhà vua chỉ sai đội Hoàng Sa cùng với thủy quân của

triều đình để làm việc này. Nhà Nguyễn coi đây như là sự tiếp nối việc khai

chiếm Hoàng Sa và Trường Sa của tiên triều (Đỗ Bang, 2017, tr. 105 ).

31

Mặc dù còn hạn chế, nhưng điểm chung của các tài liệu Việt Nam và Phương

Tây là đều khẳng định một cách chắc chắn năm 1816, vua Gia Long đã đánh dấu

chiếm hữu và sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào lãnh thổ nước ta. Đây được coi là cơ

sở pháp lý quan trọng để ta tiến hành đấu tranh chống lại mọi luận điểm sai trái của

Trung Quốc về vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Như

vậy sự kiện năm 1816 được coi là kết quả của quá trình kế thừa và phát huy việc mở

mang bờ cõi của các thế hệ trước, không chỉ ở vùng đất liền, mà còn vươn đến các

vùng biển và hải đảo. Đồng thời tạo tiền đề quan trọng cho các vị vua sau này, đặc

biệt là Minh Mạng có thế tiến hành những hoạt động tích cực và hiệu quả trong việc

khẳng định chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và cả vùng biển Đông của nước ta.

b) Qúa trình xác lập chủ quyền vùng biển thời Minh Mạng:

Sau khi lên ngôi kế vị vua Gia Long 1820, vua Minh Mạng cũng thực hiện

nhiều biện pháp tích cực để ổn định tình hình đất nước, thực thi và xác lập chủ

quyền của mình ở vùng biển đảo. Năm 1832 Minh Mạng thực hiện một cuộc cải

cách hành chính chia nước ta thành 32 tỉnh và một phủ Thừa Thiên, ban hành nhiều

chính sách tích cực thúc đẩy kinh tế và bảo vệ đất nước. Trong giai đoạn này các

nước tư bản Phương Tây đang ráo riết tìm kiếm thuộc địa mới. Ý thức được điều

đó, vua Minh Mạng thường xuyên cho tăng cường các hoạt động bảo vệ vùng biển

đảo, đồng thời triển khai nhiều biện pháp tích cực nhằm khẳng định chủ quyền của

Việt Nam ở vùng biển đảo đặc biệt là vùng biển đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Trong

suốt hai mươi mốt năm trị vì của Minh Mạng, hoạt động chủ quyền của Việt Nam ở

biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa được đẩy lên cao nhất so với các triều đại trước

đây.

Nếu như trước đây thời Gia Long, năm 1816 được coi là sự kiện đánh dấu mốc

xác lập chủ quyền của chính quyền nước ta tại quần đảo Hoàng Sa. Thì trong thời

32

Minh Mạng việc xác lập chủ quyền tại vùng biển trong đó có hai quần đảo Hoàng

Sa, Trường Sa được thể hiện thông qua các hoạt động cụ thể như: cử thủy quân ra

Hoàng Sa đo đạc thủy trình, dựng bia, vẽ bản đồ, cắm mốc chủ quyền.Việc làm của

Minh Mạng thực chất là tiếp nối việc khẳng định chủ quyền tại các quần đảo xa bờ

đã được xác lập và chiếm hữu từ thế hệ trước.

Về việc xác lập chủ quyền ở vùng biển đảo thời Minh Mạng, các sách Đại

Nam Thực Lục Chính Biên, Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, Minh Mạng

chính yếu đã ghi lại quá trình vua Minh Mạng phái thủy quân, xem xét và dựng bia

khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa.

Trong giai đoạn này, thủy quân Hoàng Sa và Bắc Hải đã hợp nhất với đội thủy

quân của triều đình. Mặc dù không còn hoạt động với danh nghĩa như trước đây

nhưng đội Hoàng Sa và Bắc Hải cũng được coi là lực lượng hỗ trợ cho đội thủy

quân của triều đình. Họ có nhiệm vụ dẫn đường, lái thuyền, tổ chức thu thuế và đo

đạc thủy trình, thu lượm hải vật, hóa vật như các triều đại trước đây. Bên cạnh đó,

đội thủy quân Hoàng Sa còn có nhiệm vụ vẽ bản đồ cắm mốc chủ quyền, việc làm

này cho thấy vua Minh Mạng đã có sự chú ý và quan tâm nhiều hơn so với các giai

đoạn trước đây “lần đầu tiên tư liệu chính sử của triều đình Việt Nam ghi rõ lời của

một hoàng đế Việt Nam (Minh Mạng) đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại

quần đảo Hoàng Sa, đã khẳng định Hoàng Sa nằm trong hải phận Việt Nam và sai

người dựng miếu, lập bia và trồng cây” (Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, 2013, tr.117).

Lực lượng mà Minh Mạng cử ra Hoàng Sa bên cạnh các đội thủy quân còn có

một viên quan giám thành, ngoài ra còn có biện binh, binh đinh và một lực lượng

lớn sự dẫn đường của dân phu từ các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ. Khi thực hiện

nhiệm vụ ở Hoàng Sa, Trường Sa đội thủy quân đều phải có quyết định của triều

đình, được thể hiện bằng tờ sai để thi hành công vụ. Hầu hết các tờ sai công vụ đều

được Bộ Công soạn thảo và có dấu phê bằng mực đỏ của nhà vua (châu phê). Trước

khi thực hiện nhiệm vụ, người đứng đầu sẽ lãnh giấy để thi hành. Thông thường,

thời gian thực hiện sẽ kéo dài từ ba đến tám tháng. Khác với giai đoạn Chúa

Nguyễn trước đây, thời nhà Nguyễn lực lượng này được quy định một cách cụ thể,

cả nhiệm vụ và thời gian thực hiện, chứng tỏ càng về sau chính quyền phong kiến

33

càng nhận thức được tầm quan trọng của lực lượng thủy quân trong việc khai thác

và thực thi chủ quyền tại vùng biển Đông.

Trong số các vị vua triều Nguyễn thì vua Minh Mạng là người có tầm nhìn

hướng biển sâu sắc. Dưới thời cai trị của mình, vua Minh Mạng đã cử các đội thủy

quân liên tục hằng năm tiến hành đo đạc, xem xét, cắm cột mốc và dựng bia chủ

quyền. Việc này được thể hiện thông qua các chỉ dụ cụ thể, chẳng hạn năm Giáp

Ngọ, niên hiệu Minh Mạng thứ 15 (năm 1834), vua sai giám thành đội trưởng

Trương Phú Sỹ cùng đội thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến Hoàng Sa thuộc

Quãng Ngãi để vẽ bản đồ. Minh Mạng là vị vua đầu tiên chú trọng việc vẽ bản đồ ở

quần đảo xa bờ. Nó cho thấy tầm quan trọng của vùng biển đảo nói chung và vùng

quần đảo Hoàng Sa nói riêng, trong ý thức hướng biển của vua Minh Mạng. Đây

được coi là sự kiện quan trọng khẳng định vai trò làm chủ của chính quyền nhà

Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa.

Vua Minh Mạng nhiều lần cho thủy quân thực hiện việc đo đạc, thủy trình.

Mặc dù thời Minh Mạng không phải là triều đại duy nhất thực hiện việc vẽ bản đồ.

Trước đây thời Lê Sơ vua Lê Thánh Tông cũng đã cho vẽ Hồng Đức bản đồ ghi rõ

về địa giới nước ta, nhưng lại chưa thể hiện rõ nét các vùng biển đảo. Để có những

tư liệu chính xác về vùng đảo này, vua Minh Mạng đã đẩy mạnh các hoạt động đo

đạc thủy trình và xem xét về địa lý và điều kiện tự nhiên của quần đảo này, vì thế

bắt đầu từ năm 1836, vua Minh Mạng sai thủy quân ra quần đảo Hoàng Sa thám

Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực mặt biển nước ta rất là hiểm yếu, từng sai vẽ

bản đồ nhưng vì hình thế xa rộng nên mới chỉ vẽ được một nơi lại cũng chưa

biết rõ nên làm thế nào. Hằng năm thường phái người đi xem xét để thuần thục

đường biển… không cứ là đảo nào, bãi cát nào phàm khi thuyền đến nơi nào,

tức thì cứ chiếu chỗ ấy, chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng chu vi và

nước biển bốn bên xung quanh nông sâu, có bãi đá ngầm hay không, hình thế

vãng, xem xét đo đạc và quy định từ đây làm lệ hằng năm:

hiểm trở hay bình dị thế nào phải xem xét đo đạt vẽ thành bản đồ (Khâm Định

Đại Nam hội điển sử lệ, 2002).

34

Kỹ thuật đo đạc và vẽ bản đồ ở quần đảo Hoàng Sa tuy đã chu đáo hơn trước

song vẫn còn lạc hậu so với kỹ thuật của Phương Tây. Cách thức đo đạc chủ yếu là

dựa vào kinh nghiệm cùng với các thông số thường như là chiều dài, chiều ngang,

chiều cao, chiều rộng và tính theo ước lượng chưa xác định được tọa độ theo kinh

độ và vĩ độ trên toàn địa cầu. Mặc dù có những hạn chế về trang thiết bị kỹ thuật

nhưng những việc làm trên của vua Minh Mạng đã tỏ rõ ông là một vị vua rất chú

trọng đến vấn đề chủ quyền biển đảo.

Việc đo đạc thủy trình thời Minh Mạng chủ yếu là được giao cho thủy quân có

sự hỗ trợ của dân phu và thuê thuyền của nhân dân, đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ

Công. Ngoài việc tìm kiếm tư liệu chi tiết, thì việc đo đạc thủy trình đảm an toàn

cho các thuyền bè đi lại trên biển đặc biệt là trên quần đảo Hoàng Sa là nơi có nhiều

bão tố.

Những quần đảo xa bờ nhất là những vùng hiểm yếu như quần đảo Hoàng Sa

thì cần phải có người giàu kinh nghiệm biết được địa thế để tránh những mỏm đá,

quen thuộc đường đi con nước biết hướng gió để điều khiển con tàu tới nơi an toàn,

nên vì thế để thực hiện các cuộc thủy trình này chính quyền đều chọn những người

ở Cù Lao Ré quê hương của đội thủy binh Hoàng Sa. Chính quyền thời Minh Mạng

có những quy định rõ rệt về các thứ hạng tùy theo kinh nghiệm đi biển của họ. Theo

đó những người am hiểu tận tường sẽ được vào hạng ưu và được giao trách nhiệm

là thuyền trưởng hay lái tàu. Những người chỉ thạo 8 - 9 phần thì vào hạng bình,

thạo từ 5 - 6 phần thì vào hạng thứ, tùy theo các hạng mà có chức vụ cao thấp và số

tiền thưởng khác nhau.

Theo Khâm định Đại Nam Hội Định Sự Lệ, quyển 220, những lời dụ và bản

Thơ lại thủy sử thì cửa biển hiểm hay dễ, xem gió, trông khí trời, nghiêng núi,

dò nước, nhìn kiếm tìm hướng, nhớ rõ đại cầu, ai được 10 phần am hiểm thông

thuộc thì là hạng ưu, ai được 8 - 9 phần thì là hạng bình, ai có 5 - 6 phần thì là

tấu được chuẩn y như sau:

hạng thứ, các tên dư hạng ưu hạng ưu mà nguyên là chánh đội trưởng thì đề bạt

bổ nhiệm là chánh đội trưởng xuất đội, ai là ngoại ủy đội trưởng thì đề bạc bộ

nhiệm đội trưởng gặp khi có khuyết thì ưu tiên bổ nhiệm ngay. Bên cạnh việc

đề cao những người có kinh nghiệm trong việc đi biển thì trong các chỉ dụ của

vua cũng quyđịnh rõ ràng về thời gian đo đạc (Đại Nam thực lục tập 5, 2007,

tr. 329)

Xem xét ngày này về sau mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng chọ phái thủy quân

biền binh và giám thành đóng một chiếc thuyền ô tuần tháng 2 thì đến Quảng

Ngãi giao cho 2 tuần phủ Quảng Ngãi, Bình Định thuê bốn chiếc thuyền của

ngư dân ra đảo Hoàng Sa. Như thời gian hằng năm chuẩn bị từ hạ tuần tháng

giêng (tức tháng 2 dương lịch) đến thượng tuần tháng 2 (tức tháng 3 dương lịch

thì có mặt tại Quảng Ngãi, để xem tháng 3 âm lịch (tức tháng 4 dương lịch) là

lúc biển êm nhất thì khởi hành đi xem xét (Nội các triều Nguyễn, 1993).

35

Việc đo đạc giám sát quần đảo Hoàng Sa trước đây đều bắt đầu vào mùa xuân,

lúc đó thủy quân sẽ có thời gian để chuẩn bị vật dụng cần thiết cho chuyến đi trong

vòng một tháng kể cả thời gian đến kinh đô Huế để nhận tờ sai (tờ lệnh thi hành

nhiệm vụ). Tờ sai này sẽ do Bộ Công soạn và dâng lên vua phê duyệt. Trong tờ sai

sẽ ghi rõ các nhiệm vụ của quan lại, biền binh thi hành việc khảo sát, ngoài ra còn

cho chiêu mộ thêm một số dân binh ở các xứ những người am tường đường biển

xung vào làm thủy thủ. Nhiệm vụ nhà Nguyễn đều đề cao tầm quan trọng của các

chuyến đi khảo sát ở quần đảo Hoàng Sa.Theo đó, Minh Mạng còn quy định rõ các

Năm Minh Mạng thứ 16 (năm 1835) cai đội Võ Văn Nguyên đi tuần đội Hoàng

Sa về chậm trễ đã có chỉ giao cho Bộ Công luận tội và bị phạt 80 trượng. Các

viên giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Hoằng vẽ họa

đồ Hoàng Sa chưa chu tất cũng bị phạt mỗi người tám mươi trượng (Nguyễn

Nhã, tr.185)

hành vi sao nhãng, sơ xuất đều bị trị tội, chẳng hạn:

36

Mặc dù có sự ấn định thời gian khởi hành nhưng trong một số trường hợp

như gió bão lũ lụt, thì có thể chậm lại vào hạ tuần tháng 4. Hầu hết thời gian của các

chuyến đo đạc của vùng Hoàng Sa kéo dài từ 3 tháng, đi từ hạ tuần tháng 3 đến hạ

tuần tháng 6 là xong. Mặc dù có sự xuất phát chậm trễ do thời tiết nhưng thời gian

hoàn thành công vụ phải là vào tháng 6. Sau khi kết thúc công vụ họ sẽ chạy thẳng

về kinh đô và báo cáo kết quả thực hiện lên vua, khai nộp khoáng vật và sản vật thu

nhập được.

Việc đo đạc thủy trình để vẽ bản đồ ở Hoàng Sa được coi là việc làm thường

xuyên và được tiến hành qua các đời vua. Nhưng dưới triều đại Minh Mạng việc

làm này được nâng lên tầm quan trọng đặc biệt, thông qua những quy định chặt chẽ

về mức độ thưởng phạt. Theo đó vua sẽ thông qua Bộ Công kiểm tra đánh giá và

tùy vào mức độ đóng góp hay vi phạm mà luận công hay định tội rất công minh.

Đây được coi là việc làm tiến bộ của vua Minh Mạng nhằm đẩy mạnh mẽ các hoạt

động xác lập chủ quyền và tạo điều kiện cho nhà nước quản lý chặt chẽ các hoạt

động khai thác xa bờ. Giúp cho vua Minh Mạng không chỉ tăng cường kiểm soát

trên vùng lãnh thổ trên đất liền, mà cả vùng biên giới và hải đảo, đưa chế phong

kiến tập quyền phát triển hoàn thiện.

Mặc dù vua Minh Mạng là người trực tiếp đưa ra các qui định cụ thể về hoạt

động tuần ra giám sát vùng biển. Nhưng trong một số trường hợp nhà vua vẫn châm

chước và cảm thông những trường hợp chậm trễ, hay có lý do chính đáng. Chẳng

Những người trong đội Hoàng Sa như Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh hướng

dẫn đo đạc hải trình vất vả được thưởng mỗi người được 1 quan tiền Phi Long,

dân phu hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi theo cũng được thưởng mỗi

người một quan tiền. Tương tự năm 1837 những người được kinh phái đi như

thủy sư Phạm Văn Biện khởi hành chậm trễ bị phạt trong khi đó các dân binh

hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi theo cũng được thưởng hai quan tiền

(Minh Mạng chính yếu, 1994).

hạn:

37

Các quy định chặt chẽ và các hình thức thưởng phạt công minh đã tăng

cường uy tín và quyền làm chủ của chính quyền phong kiến, tạo ra một sự thống

nhất, gắn bó chặt chẽ giữa nhà nước và nhân dân, tạo điều kiện cho việc thực hiện

công vụ được tiến hành một cách nghiêm túc và có hiệu quả. Năm 1857 thủy quân

có thể đo đạc và vẽ bản đồ được ở một số quần đảo lớn nhỏ như Hoàng Sa, Côn

Lôn, tiếp đó năm 1858 thủy quân đã đo đạc được 3 nơi và 12 hòn đảo đã vẽ được 7

bức bản đồ, 3 bức vẽ riêng và 4 bức vẽ chung. Hầu hết các bản đồ này điều được

lưu ở Vệ Giám Thành hay Bộ Công. Trải qua cuộc chính biến kinh thành Huế và

cuộc kháng chiến chống Pháp, các tài liệu ghi rõ về Hoàng Sa đã không còn. Đến

nay chỉ còn sót lại tấm bản đồ được cho là vẽ dưới thời nhà Nguyễn là tấm Đại Nam

nhất thống toàn đồ.

Hình 1.2. Bảng đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1834

Tư liệu bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo

Hoàng Sa (Trần Đức Anh Sơn)

38

Mặc dù còn có một số hạn chế, nhưng tấm bản đồ này đã được vẽ khá chi tiết

các tỉnh và đường biên giới hải đảo của nước ta cùng với hai quần đảo Hoàng Sa và

Trường Sa được vẽ thành dãy dài với tên gọi là Vạn Lý Trường Sa. Ngoài tấm bản

đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ được vẽ dưới thời Minh Mạng, thì trong giai đoạn

này người phương Tây còn có tấm bản đồ ghi lại một cách chính xác chủ quyền của

Việt Nam tại Hoàng Sa (Paracel) đó là tấm bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ, tấm

bản đồ này được đính kèm vào cuốn từ điển Việt - Latinh xuất bản năm 1838 của

giám mục J.L.Taberd, bản đồ có kích thước 8cm x 4cm được in trên loại giấy in họa

đồ, nhan đề bản đồ được ghi bằng 3 thứ chữ Hán, Quốc ngữ và Latinh. Tấm bản đồ

An Nam đại quốc họa đồ có những điều đáng lưu ý sau đây

Hình 2.3. Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ trong từ điển Việt - La Tinh

(Nguồn: https://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2014/09/annamdaiquochoado.jpg)

Latino -Anamici Disposita)

Thứ nhất, Paracel là địa danh mà người Phương Tây chỉ quần đảo Hoàng Sa ở

biển Đông suốt từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, ngoài ra trong bản đồ không có

đảo Hải Nam của Trung Quốc mà chỉ có các đảo của Việt Nam. Vị trí của quần đảo

Hoàng Sa trong bản đồ ở khoản vĩ tuyến 17 độ Bắc và kinh tuyến hơn 111 độ Đông,

các đảo được biểu thị bằng một dấu chấm và được chú thích bằng hai thứ tiếng Anh

và Quốc ngữ: Paracel (Cát Vàng).

39

Thứ hai: Bản đồ xác định rất chính xác vị trí của Paracel (Hoàng Sa) từ vĩ tuyến 16

độ đến 17 độ Bắc gần với cửa biển Tư Dung, thể hiện trình độ hiểu biết của người

phương Tây về quần đảo này. Ngoài ra Paracel có nghĩa là Hoàng Sa, từ seu trong

tiếng Latinh tức nghĩa là, hay là trong Tiếng Việt, từ cát vàng bằng tiếng Nôm có

nghĩa chữ Hán là Hoàng Sa, như vậy tấm bản đồ đã phản ánh sự hiểu biết rõ nét của

người Phương Tây về quần đảo này, đồng thời cũng là chứng cứ quan trọng khẳng

định chủ quyền của nước ta tại quần đảo Hoàng Sa.

Hình 4.1. Bảng đồ do người Phương Tây có xác định vị trí của quần đảo

Hoàng Sa (Paracel)

Nguồn://3.b.p.blogspos.com/G36Yzi2V61M/VGWGLIGfVII/AAAAAAAAWB8/

XjLixabxxd4/s1600/vietnam9.jpg

40

*Hoạt động cắm mốc, dựng bia chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa

Cùng với việc đo đạc thủy trình vẽ bản đồ, vua Minh Mạng cũng cho người ra

quần đảo Hoàng Sa dựng bia cắm mốc khẳng định chủ quyền. Việc vẽ bản đồ, cắm

mốc và dựng bia được coi là hành động tích cực có tác động thúc đẩy việc chiếm

hữu quần đảo này lên mức độ cao nhất và phù hợp với quy định của luật pháp quốc

tế thời bấy giờ. Vua Minh Mạng đã sử dụng các hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy

việc xác lập chủ quyền ở các vùng biển đảo lên mức độ mới. Nếu như trước đây

thời Gia Long việc khẳng định chủ quyền được biết đến với sự kiện năm 1816 vua

cử thủy quân ra đo đạc và cắm cờ ở Hoàng Sa thì đến thời Minh Mạng, việc khẳng

định chủ quyền đã được thể hiện qua những hành động cụ thể nhằm sử dụng và

chiếm hữu lâu dài các hòn đảo vô chủ và sáp nhập các hòn đảo này vào lãnh thổ

nước ta. Việc cắm cờ của thủy quân Hoàng Sa thời Gia Long và việc đo đạc dựng

bia, cắm mốc chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa thời Minh Mạng đều không có bất

kỳ một sự phản đối hay tranh chấp từ một quốc gia nào mà diễn ra một cách hòa

bình và được sự công nhận của nhiều nước.

Các hoạt động cắm mốc dựng bia ở Hoàng Sa được vua Minh Mạng tiến hành

liên tục qua các năm từ năm 1833 đến năm 1836. Năm 1833 và năm 1834 vua Minh

Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công phái người dựng bia khẳng định chủ quyền tại quần

đảo Hoàng Sa. Tiếp đó, năm 1835 nhà vua tiếp tục sai quân lính ra dựng bia làm

dấu. Trong quá trình đo đạc thủy quân đã phát hiện ở phía tây nam của đảo có một

ngôi miếu cổ không biết được xây dựng từ bao giờ trên đó có khắc chữ “Vạn Lý Ba

Bình” (muôn dặm sóng êm). Điều này cho thấy trước đây ở quần đảo Hoàng Sa đã

có người sinh sống và việc dựng bia xây miếu đã có từ trước.

Đến năm 1836 thì việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ, cắm cột mốc chủ quyền

được tiến hành một cách thường xuyên:“Mỗi thuyền vạn thám Hoàng Sa phải mang

theo mười tấm bài (cột mốc) dài 4, 5 thước rộng 5 tấc” (Đại Nam thực lục tập 5,

2006). Ngoài ra trong sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ (cuốn 165) ghi

chép rõ rệt về sự kiện này: Qua lời tâu của Bộ Công Minh Mạng đã phê: “Sai xuất

đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi chuẩn bị mang theo 10 tấm bài

gỗ đến nơi dựng lên làm dấu mốc” (Đại Nam nhất thống chí tập 2, 2006, tr. 922).

41

Mỗi bài gỗ dài 5 thước rộng 5 tấc dày 1 tấc, mặt bài gỗ niên hiệu và tên của

người thực hiện, chẳng hạn “năm Minh Mạng thứ 17 năm Bính Thân (1836) thủy

quân chính đội trưởng xuất đội Phạm Hữu Nhật vâng lệnh ra Hoàng Sa để ghi chép

đo đạc đến đây để lưu dấu ghi nhớ”

Nguyên văn chữ Hán: “Minh Mạng thập thất bính thân thủy quân chánh sứ đội

trưởng xuất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa. Tức độ chí thủ lưu

chí đảng thư” (Đại Nam thực lục tập 5, 2007).

Quốc sử quán triều Nguyễn mặc dù không miêu tả một cách chi tiết nhưng

cũng ghi nhận về sự kiện năm 1836 Minh Mạng sai quân ra Hoàng Sa dựng mốc

Khiến thủy quân xuất đội Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đến Quảng Ngãi

thẳng đến đảo Hoàng Sa, không công nệ đảo nào, cồn cát nào, phần chiều dài,

chiều rộng chiều sâu chiều cao chu vi và 4 phía gần đó có cát, ngầm đá mọc

hay không, hình thể, vị thế vào từ cửa biển ra đó đường thẳng ước bao nhiêu,

bờ biển thuộc địa phương nào nhất nhất phải ghi chép rõ ràng lại chuẩn bị

mang theo thẻ gỗ đến nơi để làm dấu vẽ bản đổ đem về dâng lên cho ngài ngự

lãm (Nội các triều Nguyễn, 1995).

chủ quyền:

Các dẫn chứng trên đã cho thấy việc đo đạc thủy trình và dựng bia là việc làm

quan trọng, được tiến hành liên tục dưới sự chỉ đạo trực tiếp của nhà vua nhằm

khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Việc đo đạc vẽ bản đồ được thực

hiện liên tục ở các triều đại trước, nhưng chỉ dưới triều vua Minh Mạng thì việc làm

này mới được thực sự quan tâm, và được thực hiện qua việc đo đạc dựng bia, vẽ bản

đồ, qua các chiếu chỉ mệnh lệnh của vua được thể hiện qua các châu bản. Nếu như

thời Gia Long, sự kiện năm 1816 được coi là dấu mốc quan trọng của việc chiếm

hữu và xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Thì đến thời Minh Mạng việc

xác lập chủ quyền được đẩy lên cao hơn, đây được coi là bước phát triển và tiến bộ

trong việc kế thừa và phát huy quyền làm chủ vùng biển đảo của triều đại phong

kiến.

42

Vua Minh Mạng và các vua triều Nguyễn ở đầu thế kỷ XIX, đã coi vùng quần

đảo Hoàng Sa là vùng chiến lược hiểm yếu, không chỉ có giá trị về kinh tế mà còn

có tầm quan trọng về chính trị và quân sự, đối với các nước trong khu vực và trên

thế giới. Từ những năm 1836 - 1847, trong hơn 10 năm từ thời Minh Mạng đến thời

Thiệu Trị, thủy quân theo lệ được cử đến Hoàng Sa để đo đạc cắm mốc chủ quyền,

đều này thể hiện tầm nhìn chiến lược của các vị vua triều Nguyễn.

Số cột được cắm ở quần đảo ngày càng nhiều, mỗi thuyền sẽ mang theo 10

tấm bài gỗ, trên đó khắc niên hiệu, chức vụ và họ tên của viên chỉ huy theo mệnh

triều đình ra quần đảo Hoàng Sa đề làm dấu ghi nhớ. Mỗi năm triều đình sẽ cử thủy

quân mang theo 4 - 5 chiến thuyền ra quần đảo Hoàng Sa để cắm cột mốc. Một lần

thủy quân có thể mang theo tối đa từ 40 đến 50 cột, số cột mốc tại các đảo, sẽ tăng

lên hằng trăm nếu tính từ 1835 - 1837.

*Xây dựng chùa miếu, trồng cây tại quần đảo Hoàng Sa

Vua Minh Mạng đã cho người tiến hành lập bia miếu của vùng biển hay các

vùng ven biển Nam Trung Bộ trong đó có quần đảo Hoàng Sa để giúp cho người

dân dễ nhận biết và tránh việc tàu bè đụng vào các bãi đá ngầm. Năm 1833 vua đã

chuẩn lời Bộ Công cho quân tiến hành dựng miếu và trồng cây ở quần đảo Hoàng

Sa. Đây được coi là việc làm tiến bộ của vua Minh Mạng không chỉ thể hiện sự

quan tâm đối với vấn đề chủ quyền mà còn đối với đời sống của nhân dân.

Đến năm 1834 việc dựng bia Hoàng Sa gặp khó khăn do thuyền đi gặp phải

sóng lớn không thể xây được miếu như dự định, mà phải đến hạ tuần tháng 6 năm

1835 mới có thể thực hiện được. Năm 1835 xuất đội thủy quân Phạm Văn Biện

trước đây được cử ra đảo Hoàng Sa gặp phải bão tố nên về kinh trễ thời hạn.

“Chúng nó nhờ có thủy thần giúp, vua sai Bộ Lễ chọn địa điểm ở gần cửa biển

Thuận An đặt bàn dâng lễ để tam sinh hướng ra biển lạy tạ. Thưởng cho Phạm Văn

Biện” (Đỗ Bang, 2011).

Thời Minh Mạng số lượng văn miếu được xây dựng nhiều: miếu Long Vương, miếu

Nam Hải thần: “Đổi đền thờ thần cửa biển Thuận An làm miếu Nam Hải long

vương. Chính giữa là vị Nam Hải Long vương; bên tả là vị thần cửa biển Thuận An,

vị thần cửa biển Tư Dung; bên hữu là vị thần Hà Bá), gia phong thần hiệu hằng

43

năm bốn tháng trọng sai quan đến tế” (Quốc sử quán triều Nguyễn tập 2, 2006, tr.

250). Vua phái cai đội Phạm Văn Nguyên cùng với thủy quân và dân phu của hai

tỉnh Quảng Nam, Bình Định chở các vật liệu đến dựng miếu, bên trái và phía trước

cho xây dựng bình phong, quy định phải xây dựng trong vòng 10 ngày. Thời gian

thực hiện nhanh hơn so với các công vụ khác. Cùng với việc dựng bia miếu cầu

mong sự bình yên thì vua Minh Mạng cũng chú trọng cho trồng cây để giúp cho

người dân có thể dễ dàng nhận thấy khi đi biển.

Hầu hết các loại cây trồng ở quần đảo Hoàng Sa là các loại cây có hạt, vì dễ

vận chuyển, dễ bảo dưỡng và dễ trồng hơn các loại cây khác. Ngoài ra do thời gian

hoạt động của đội Hoàng Sa là bắt đầu cuối mùa khô và cuối mùa mưa nên thuận lợi

cho việc gieo hạt, các loại cây này được trồng ở ba mặt của miếu, trong ngoài, trước

sau và trái phải.

“Các quân dân đến đây thì đem những quả phương Nam mà rải trong và ngoài

miếu mong cho mọc thành cây làm dấu nhận biết ” (Nguyễn Nhã, 2016).

Những việc làm cụ thể và mang tính triệt để của vua Minh Mạng đã có tác

dụng tích cực trong việc quản lý và thực thi chủ quyền vùng biển đảo của nước ta.

Do xuất phát từ tư tưởng “thiên nhân cảm ứng” nên vua Minh Mạng cho rằng có

thiên tai là do ý muốn của trời nhằm giáo dục người đời. Vì thế những lúc gặp khó

khăn vua Minh Mạng thường coi trọng việc thờ cúng các vị thần, cho xây dựng

nhiều chùa miếu ở các cửa biển các quần đảo xa bờ như miếu hội đồng, miếu Nam

Hải Long Vương, miếu Âm Linh cầu xin thần phù hộ cho vùng biển êm, an toàn

cho hàng hải và ngư dân.

Thông qua sự quản lí chặt chẽ của vua Nguyễn việc sáp nhập chủ quyền ở các

quần đảo được tiến hành một cách liên tục và có hiệu quả. Đây được coi là bài học

qúy giá về việc tổ chức quản lý, việc khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển. Tầm

nhìn chiến lược trong việc lấy biển là nhân tố quan trọng cho việc bảo vệ đất nước

cùng với đó là những hành động cụ thể và dứt khoát trong việc quản lí và thực thi

chủ quyền của mình. Vua Minh Mạng đã tạo nên trang sử vẻ vang oai hùng về chủ

quyền biển đảo của nước ta thế kỷ thứ XIX.

44

Đến thời Thiệu Trị do các cuộc nổi dậy của người Khơme ở Nam bộ chống lại

triều đình và những xung đột với người Pháp ở phía biển vì thế chính quyền Thiệu

Trị phải tập trung lực lượng để đối phó.Vì thế hầu hết trong giai đoạn này nhà vua

không có điều kiện nên trì hoãn việc cử thủy quân ra quần đảo Hoàng Sa. Các đoạn

trích trong châu bản triều Nguyễn ngày 26 tháng giêng và ngày 28 tháng 12 năm

1847 đã ghi lại việc Bộ Công xin phép vua cho trì hoãn việc cử thủy quân ra Hoàng

Sa “Xứ Hoàng Sa thuộc vùng biển nước ta theo lệ hằng năm có phái binh thuyền ra

xem xét để thông thuộc đường biển. Năm nay bận nhiều công việc xin hoãn đến năm

sau. Vua phê: Đình hoãn” (Nguyễn Nhã, 2016, tr. 29). Việc trì hoãn chỉ là tạm thời

chứ không có nghĩa là từ bỏ việc quản lí vùng biển đảo. Ngoài ra trong Châu bản

tập Thiệu Trị, để có nhiều thời gian giải quyết các vấn đề khó khăn khác, vua hạn

chế sai đội thủy quân Hoàng Sa đến khai thác khoáng sản ở quần đảo Hoàng Sa như

trước đây, việc làm này thể hiện sự quan tâm của chính quyền đối với các quần đảo

xa bờ. Tuy nhiên giữa lúc đó bối cảnh đất nước phải đối mặt với nhiều biến đổi và

sự khủng hoảng về chính trị.Triều đình phong kiến không có điều kiện để tiến hành

việc khảo sát Hoàng Sa như các giai đoạn trước đây.

Đến thời Tự Đức đây được coi là giai đoạn có nhiều biến động và chính quyền

phong kiến lúc bấy giờ bắt đầu đi vào khủng hoảng và suy yếu. Các cuộc chiến

tranh phe phái trong nội bộ triều đình đã dẫn đến sự hình thành 2 phía chủ hòa và

chủ chiến. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp văn thân với chính quyền Tự Đức ngày

càng sâu sắc, các cuộc đấu tranh nổi dậy của các tầng lớp văn thân sĩ phu liên tiếp

nổ ra. Bên cạnh đó thực dân Pháp ngày càng can thiệp sâu hơn vào nội bộ triều đình

chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược.

Trước những khó khăn này, triều đình không có điều kiện cử các đội thủy

quân, biền binh đi đo đạc và trấn giữ vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa như thời

Gia Long, Minh Mạng trước đây. Tuy nhiên chính quyền phong kiến vẫn cho thiết

lập các quân đồn để tiến hành thu thuế và kiểm soát thuyền đánh cá. Theo The

Journal of the Geographical Society of London, trong một bài viết, tác giả Gutzlaff

đã khẳng định rằng từ lâu đời các vua An Nam đã hằng năm đến thăm các bãi nổi

này (quần đảo Hoàng Sa) và tiến hành các cuộc viễn du xa đến tận Borneo:

Tuy rằng hằng năm có hơn mười phần đắm, nhưng do cá đánh được ở đây rất

nhiều đến nỗi không những bù hết được những thiệt thòi mà còn để lại mối lợi

rất to. Chính phủ An Nam thấy những thay đổi có thể mang lại nếu như ngạch

thuế đặt ra bèn tập trung thuyền và một đội quân nhỏ ở chỗ này để thu thuế,

người nước ngoài đến đây điều phải trả tiền (Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, 2013,

tr. 63).

45

Những việc làm trên cho thấy chính quyền vẫn có sự quan tâm nhất định đến

quần đảo Hoàng Sa, qua việc thu thuế chính quyền mang lại giá trị kinh tế và góp

phần quan trọng vào việc bảo vệ an ninh quốc phòng. Mặc dù phải đối mặt với các

cuộc chiến tranh phe phái hay những xung đột mâu thuẫn trong quan hệ với Pháp và

Trung Hoa. Nhưng chính quyền Tự Đức vẫn nối tiếp các thế hệ trước kia coi biển là

nền tảng cho việc phát triển kinh tế và là lá chắn quan trọng cho công cuộc bảo vệ

đất nước. Các ghi chép về việc vua Tự Đức phái thủy quân ra Hoàng Sa rất hiếm

hoi. Mặc dù không tiến hành nhiều hoạt động khẳng định chủ quyền như vua Minh

Mạng trước đây, nhưng vua Tự Đức vẫn luôn có sự quan tâm đến quần đảo Hoàng

Sa. Cụ thể năm 1865 vua Tự Đức cho biên soạn tác phẩm Đại Nam nhất thống chí.

Đây là tác phẩm của chính quyền phong kiến nước ta ghi nhận một cách cụ thể về vị

trí cũng như quá trình xác lập chủ quyền qua các thời kì trước đây đối với quần đảo

Hoàng Sa:

Hoàng Sa nằm ở phía cù lao Ré, thuyền xuất phát từ cửa biển Sa Kỳ, thuận

gió thì từ ba đến bốn ngày đêm thì có thể tới nơi. Có đến hơn 130 đảo. Trên

đảo có bãi Cát Vàng liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm, bằng phẳng

rộng rãi, tục gọi là Vạn Lý Trường Sa, trên biển có giếng nước ngọt, chim

biển tụ tập rất đông… những hàng hóa của thuyền người Thanh bị bão trôi

dạt vào đấy. (Đại Nam nhất thống chí tập 1, 1992).

Phần thứ nhất xác định về vị trí của quần đảo Hoàng Sa

46

Bên cạnh đó tác phẩm còn khẳng định việc xác lập chủ quyền của nhà Nguyễn

Đầu triều Gia Long phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ; đầu đời

Minh Mạng thường sai thuyền công đi đến đó thăm dò đường biển, thấy một

nơi có cồn cát trắng chu vi 1.070 trượng, cây cối xanh tốt, giữa cồn cát có

giếng, phía tây nam cồn có ngôi miếu cổ, không rõ được dựng từ thời nào, bia

khắc bốn chữ “ Vạn lí bình ba” tên cũ là Phật Tự Sơn, hai bên bờ có san hô

dốc thoai thoải vây quanh mặt nước. Năm thứ 16 sai quan thuyền chở đá gạch,

đá đến cất chùa, ở phía tả chùa để bia đá làm dấu. Thời đó các binh lính, dân

phu tham gia công việc, đào được đồng lá, đồn sắt hơn 2.000 cân (Đại Nam

nhất thống chí tập 2, 1992).

đối với quần đảo Hoàng Sa qua các thời vua trước đây:

Những tài liệu và dẫn chứng trên, khẳng định một cách chắn chắn và rõ ràng

việc chính quyền nhà Nguyễn đã tiến hành nhiều biện pháp cụ thể nhằm khẳng định

chủ quyền của mình tại quần đảo Hoàng Sa qua các thời kì lịch sử. Tài liệu cổ xưa

nhất như Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá Công Đạo và tác phẩm Phủ biên

tạp lục của Lê Qúy Đôn, đều miêu tả một cách cụ thể và chi tiết về vị trí địa lí và

những điều kiện tự nhiên của quần đảo Hoàng Sa.Tuy nhiên nếu so về độ chính xác

và cụ thể thì tác phẩm Phủ biên tạp lục của tác giả Lê Qúy Đôn chi tiết và đầy đủ

hơn. Ngoài ra các tác phẩm này khẳng định chính quyền phong kiến đã xác lập chủ

quyền một cách liên tục và đều đặn thông qua hoạt động của đội Hoàng Sa và Bắc

Hải trong các thời kì lịch sử. Đội Hoàng Sa được thành lập vào thời chúa Nguyễn

Phúc Lan. Lúc đầu nhiệm vụ của họ là khai thác, tìm kiếm các sản vật ở vùng đảo

Hoàng Sa nhưng về sau họ còn có thêm nhiệm vụ là kiêm quản đội Bắc Hải và tuần

tra, canh phòng vùng biển hay giúp đỡ các thuyền buôn phương Tây gặp nạn. Đa số

những ngư dân của đội Hoàng Sa gồm 70 suất có nguồn gốc từ xã An Vĩnh, huyện

Lí Sơn tỉnh Quảng Ngãi. Cứ sáu tháng (từ tháng 3 đến tháng 8) thủy quân Hoàng Sa

đưa thuyền đến kinh đô nhận lệnh rồi thực thi nhiệm vụ ở Hoàng Sa đến tháng 8 thì

trở về. Do vùng biển nước ta rộng lớn nên để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ khai

47

thác và bảo vệ an ninh vùng biển, đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu thì cho lập thêm

đội Bắc Hải. Số lượng dân của đội Bắc Hải không quy định cụ thể bao nhiêu lấy từ

làng Bố Chính tỉnh Bình Thuận.

Thông qua hoạt động khai thác sản vật và tuần tra của đội Hoàng Sa, Bắc Hải

chính quyền phong kiến có thể quản lí và từng bước xác lập chủ quyền của mình tại

quần đảo Hoàng Sa.Từ việc làm chủ và tiến hành khai thác kinh tế liên tục của chúa

Nguyễn tại quần đảo Hoàng Sa đã làm tiền đề quan trọng cho các vua Nguyễn tiến

hành chiếm hữu và xác lập chủ quyền hợp pháp tại quần đảo Hoàng Sa. Thời vua

Gia Long việc xác lập chủ quyền được mở đầu bằng sự kiện cắm lá cờ chủ quyền

tại quần đảo Hoàng Sa năm 1816. Thời Minh Mạng thì việc xác lập chủ quyền được

đẩy mạnh với hàng loạt các hoạt động cụ thể như đo đạc, vẽ bản đồ cắm mốc chủ

quyền, trồng cây xây dựng chùa miếu. Những việc làm này được tiến hành một cách

liên tục, được chứng minh qua các văn bản, chiếu chỉ và mệnh lệnh của nhà vua ban

hành và được tiến hành bởi đội thủy quân Hoàng Sa, sau này trở thành đội quân

triều đình. Chính những hoạt động này diễn ra một cách hợp pháp, hòa bình và được

các nước công nhận. Chính quyền phong kiến Trung Hoa lúc bấy giờ rất tôn trọng

đội thủy quân Hoàng Sa và có những hành động giúp đỡ khi thuyền của họ gặp nạn

trên đất Trung Hoa và cấp lương thực thuyền cho họ trở về.

Các hoạt động xác lập chủ quyền của chính quyền nhà Nguyễn được tiến hành một

cách hòa bình nên vì thế không có bất cứ tranh chấp hay phản đối từ bất cứ quốc gia

nào suốt hai thế kỉ XVII - thế kỉ XIX.

Bên cạnh các hoạt động xác lập chủ quyền các vương triều Nguyễn thì tại

vùng đảo Hoàng Sa người Việt cũng đã sinh sống ở đây từ khá sớm. Nhận định này

được chứng minh thông qua nguồn tài liệu gốc của nước ta, của Trung Hoa và

phương Tây. Các tài liệu đều khẳng định danh xưng Bãi Cát Vàng đã có từ rất lâu.

Đây là danh từ Hán Nôm dùng để chỉ quần đảo Hoàng Sa trước kia xuất hiện trước

danh từ Hoàng Sa, Vạn Lý Trường Sa, Đại Trường Sa chứng tỏ từ sớm đã có người

Việt định cơ và sinh sống trước khi chính quyền phong kiến tiến hành khai thác và

xác lập chủ quyền tại đây “giữa biển có một dãi cát vàng, gọi là Bãi Cát Vàng, dài

độ 40 dặm, rộng 20 dặm; đứng dựng giữa biển” (Nguyễn Nhã, 2013, tr. 40).

48

Còn trong các tài liệu nước ngoài thì sử dụng từ Paracel để chỉ quần đảo

Hoàng Sa quần đảo có nhiều bãi đá ngầm nguy hiểm giữa biển. “Chúng tôi chỉ xin

lưu ý rằng từ hơn 34 năm nay, quần đảo Paracel mà người Việt gọi là Cát Vàng

(Hoàng Sa) bao gồm rất nhiều hòn đảo chằn chịt với nhau, lỏm chỏm những đá nhô

lên giữa cát, được người Việt xứ Đàng Trong chiếm cứ, đã kiến cho những kẻ đi

biển phải kính sợ” (Đỗ Bang, 2014, tr. 102).Vào thời chúa Nguyễn danh từ Bãi Cát

Vàng được dùng để chỉ quần đảo Hoàng Sa và các vùng đảo nằm ở phía Nam. Đến

thời vua Nguyễn danh từ Vạn Lý Trường Sa chỉ dùng cho quần đảo Trường Sa.

Trước sự kiện 1909 Trung Quốc tuyên bố“Paracel là đất vô chủ” mở đầu cho

những hành động tranh chấp chủ quyền với Việt Nam tại hai quần đảo Trường Sa

và Hoàng Sa. Những dẫn chứng trên đã khẳng định, từ rất sớm chính quyền phong

kiến Việt Nam đã tiến hành các hoạt động xác lập chủ quyền vùng biển liên tục và

cụ thể từ thời Chúa Nguyễn cho đến các vua Nguyễn. Qúa trình xác lập chủ quyền

của nhà nước quyền phong kiến diễn ra một cách hòa bình và không hề có bất cứ

một sự tranh chấp nào.

Đến giai đoạn Pháp thuộc, mặc dù chính quyền phong kiến không còn quyền

lực, lãnh thổ nước ta trở thành thuộc địa của Pháp, tuy nhiên chính phủ Pháp vẫn có

những có lưu tâm đến việc bảo vệ chủ quyền của Paracel (Hoàng Sa) trước sự đe

đọa từ các nước xung quanh đặc biệt là Trung Quốc. Để đấu tranh chống lại những

luận điểm sai trái của Trung Quốc, chính quyền thuộc địa Pháp đã cho lập các đồn

quân sự tại quần đảo Hoàng Sa. Đồng thời sử dụng các nguồn tư liệu chính thống

của nước ta để khẳng định quần đảo này đã được xác lập chủ quyền bởi các vị vua

Việt Nam. Trong hiệp định Giơnevơ được kí kết để chấm dứt cuộc chiến xâm lược

của Pháp tại Việt Nam, cũng chỉ rõ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong

lãnh thổ nước ta.Trong thời kì đất nước phân ly hai quần đảo này đặt dưới sự quản

lí của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Đây được coi là một sự thật không thể chối

cãi được mặc dù cho chính quyền Trung Quốc cố gắng lồng ghép các sự kiện không

xác thực về Hoàng Sa, Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa để khẳng

định cho quá trình làm chủ không có trong lịch sử của mình tại hai quần đảo này.

49

Những dẫn chứng trên có giá trị quan trọng cho ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ

quyền và chống lại những luận điểm sai trái của Trung Quốc.

1.2. Tầm quan trọng của biển đảo đối với chính quyền Chúa Nguyễn và vương

triều Nguyễn từ thế kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XI

1.2.1. Vai trò của biển đối với chính quyền chúa Nguyễn (thế kỉ XVII -

XVIII)

Khi vào trấn thủ vùng đất Thuận Quảng, Nguyễn Hoàng đã nhận thấy vị trí

chiến lược của biển. Lúc đầu Nguyễn Hoàng vào vùng này nhằm tìm kiếm chỗ náu

thân tránh thế lực của anh rể Trịnh Kiểm. Tuy nhiên, với những điều kiện tự nhiên

thuận lợi của vùng đất Thuận Quảng, các chúa Nguyễn kế tiếp nhau đã biến vùng

đất này không chỉ là mảnh đất giàu có, mà còn tạo ra lực lượng đối trọng chống lại

Đàng Ngoài.

Vùng đất Đàng Trong có khí hậu nhiệt đới gió mùa thuận lợi cho sự phát triển

của nhiều động thực vật. Nằm ở vị trí giao thương giữa Ấn Độ Dương, Trung Quốc

xuống khu vực Đông Nam Á và ven vùng biển Thái Bình Dương. Vùng biển Đàng

Trong có các tuyến đường thương mại quan trọng như con đường tơ lụa trên biển

của Trung Quốc và con đường gốm sứ của Chămpa. Những thuận lợi về tài nguyên

thiên nhiên và truyền thống thương mại của người Chăm cổ đã tạo cho vùng đất

Đàng Trong phát triển nhanh chóng về ngoại thương. Về sau Nguyễn Hoàng cai

quản thêm vùng đất Quảng Nam, đây là trung tâm mậu dịch nổi tiếng thời Chămpa,

có nguồn lợi to lớn về hệ động thực vật và các sản phẩm có giá trị cao như: trầm

hương, sừng tê giác, ngà voi, quế, hồ tiêu, sáp, đường, gỗ lạc, vàng bạc và nhiều

loại khoáng sản có giá trị. Các sản phẩm vùng biển gồm có: ngọc trai, đồi mồi, san

hô, cá muối...

Những mặt hàng này đã thu hút đông đảo thương nhân khắp nơi kéo đến tiến

hành mua bán trao đổi tạo nên sự thay đổi nhanh chóng vùng Đàng Trong. Có thể

nói trước đây người Chămpa đã khai thác một cách có hiệu quả những tiềm năng

vùng này. Vì thế trong suốt 2 thế kỉ XI - XIII Chămpa được coi là cường quốc

thương mại trên biển lớn nhất trong khu vực.

50

Tiếp nối truyền thống hướng biển của người Chămpa, Nguyễn Hoàng (chúa

Tiên) đã tận dụng những tiềm năng nơi đây để phát triển Đàng Trong. Mặc dù địa

hình không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, có nhiều sông cắt ngang làm cho

địa hình bị phân chia thành nhiều phần, nhưng đây lại là yếu tố vô cùng thuận lợi

cho sự hình thành các cảng biển. Với quan hệ ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt

Nguyễn Hoàng dần được giao quản lí vùng Thuận Hóa và sau đó là Quảng Nam. Tư

duy hướng biển của Nguyễn Hoàng được nảy sinh sau 7 năm ở đất Bắc và qua các

cuộc thủy chiến giúp họ Trịnh chống lại tàn quân họ Mạc. Qua các cuộc giao tranh

với họ Mạc, tài năng chỉ huy quân sự biển của Nguyễn Hoàng được bộc lộ. Đồng

thời thông qua việc giúp họ Trịnh xây dựng chính quyền, chúa Tiên có điều kiện

tìm hiểu về tình hình chính trị Đàng Ngoài. Qua các chuyến đi, Nguyễn Hoàng có

cơ hội so sánh giữa nền kinh tế cổ truyền nông nghiệp của Thăng Long với sự linh

động nhộn nhịp của kinh tế thương nghiệp hướng biển của Thuận Hóa. Ngoài ra, số

lượng vũ khí và các thương phẩm của nước ngoài đem đến đây đã tác động đến tư

tưởng của chúa Nguyễn Hoàng. Vì thế khi quay về Đàng Trong, chúa Tiên đã tiến

hành xây dựng ở đây một mô hình kinh tế năng động lấy ngoại thương làm hướng

phát triển chính dần xa cách với nền nông nghiệp cổ truyền.

Với những điều kiện thuận lợi như nhiều cảng biển, giàu về nguồn tài nguyên

thiên nhiên, nhiều loại thương phẩm có giá trị cao và nằm trên trục giao thương

buôn bán lâu đời với các quốc gia trong khu vực, Đàng Trong là nơi hội tụ một cách

đầy đủ nhất những điều kiện phát triển thương nghiệp. Khi được tiếp quản thêm

vùng đất Quảng Nam, Nguyễn Hoàng đã đặt dinh Ái Tử làm thủ phủ của vùng đất

này. Với vị trí nằm ở trục sông Thạch Hãn, phía dưới giáp Cửa Việt, phía trên giáp

Ai Lao, phía Tây có Cam Lộ nguồn thương phẩm dồi dào. Dinh Ái Tử không chỉ

giúp cho Đàng Trong bảo tồn được sự tồn tại của mình, mà còn để kiểm soát các

nguồn hàng hóa từ thương nhân phương Tây mở rộng giao lưu kết nối với nhiều

nước trong khu vực.

Việc xây dựng dinh Ái Tử đã thể hiện tư duy hướng biển của chúa Nguyễn

Hoàng cho việc phát triển vùng đất Đàng Trong. Các bộ lạc Sách, Nguyên với các

sản vật có nguồn gốc từ biển như muối, mắm, cá khô, đồ bạc, vòng tay, thiếc, chì,

51

đồng cho đến các sản phẩm lâm thổ sản của người Man như: mật ong, ngà voi, trầm

Đầu nguồn sông Thạch Hãn huyện Hải Lăng, tự phường Tân An xuống ngã ba

quán một ngày. Ngã Ba Quán đến tuần Ngưu Cước một ngày. Tuần Ngưu

Cước đến phường Khe Tấu. Từ tuần Viên Kiều đến ngã ba Dạ một ngày. Tự

phường Mai Hoa theo đầu nguồn sông nhỏ đi về bên hữu để lên các sách man ở

Tôi Ôi, lại đi về bên tả để đến chỗ dân man Ba Hy ở, lại đi về bên tả đến sách

Man có đường vào Đồng Nai Gia Định không quá 6 ngày (Lê Qúy Đôn, 1977,

tr. 141 - 142)

hương, thóc gạo, gà trâu đều được đem đến đây trao đổi.

Cửa Việt trước đây là thương cảng quốc tế thời Chămpa, tiếp thu trao đổi các

hàng hóa từ Trung Quốc, Ả Rập cho đến Bồ Đào Nha, đến thế kỉ XI trở thành

thương cảng của người Việt. Với những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý và nguồn

tài nguyên sẵn có, Nguyễn Hoàng cho xây dựng dinh Ái Tử, có tác dụng không chỉ

giúp Đàng Trong khởi sắc về kinh tế mà tạo ra sự giao lưu tiếp xúc văn hóa Đông -

Tây và đây thực chất là sự kế thừa và phát huy những di sản trước đây của người

Chăm.

Thế kỉ XV - XVII là thời kì huy hoàng của nền kinh tế hàng hải Đại Việt. Sự

phát triển nhanh chóng của nghành khai thác chế biến thủy sản, ngành đóng tàu và

buôn bán với nước ngoài. Vùng biển Đàng Trong có rất nhiều các sản vật quý có

Phía ngoài các cửa biển xứ Thuận Hóa, Quảng Nam đều có núi đá nổi lên trong

biển để làm trấn. Ở phủ Thăng Hoa ngoài cửa biển Đại Chiêm có núi to gọi là

Cù Lao Chàm, ba ngọn núi lớn đối nhau, hai ngọn lớn mà xanh tốt, có dân cư

ruộng nương, có các thứ cam quýt đỗ lạc, trên suối có nước ngọt đi hai canh là

tới (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 150).

giá trị kinh tế cao

Chính quyền chúa Nguyễn cũng chú trọng đến việc khai khẩn vùng biển đảo,

bằng việc cho dân đến khai hoang lập ấp, vừa có nguồn nhân lực để khai thác các

52

sản vật vừa là lực lượng quan trọng trong việc bảo vệ quốc phòng. Ở các quần đảo

xa bờ như đảo Hoàng Sa hay còn gọi là Bãi Cát Vàng cũng cung cấp nhiều nguồn

Trong đảo có vô số nước ngọt, vô số yến sào và hàng vạn thứ chim. Ồc vân thì

có ốc tai voi to bằng chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng ngón tay có thể nung

thành vôi làm nhà hay khảm đồ dùng; có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng. Đồi mồi

thì rất lớn. Có con hải ba tục gọi là con trắng bông giống đồi mồi nhưng nhỏ

hơn, vỏ mỏng có thể dùng để khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay có thể

muối ăn được (Lê Qúy Đôn, 1977, tr.154).

lợi quý:

Vùng biển Đàng Trong thuận lợi cho sự phát triển hải thương với đường bờ

biển dài khúc khuỷu nhiều vịnh đảo, độ sâu lớn hình thành nên vô số các cảng biển

là chỗ cho các tàu thuyền đến tránh bão, trao đổi nước ngọt và hàng hóa với cư dân

trong vùng. Theo sự mô tả của Cristophoro Borri trong tác phẩm Xứ Đàng Trong

1621: “Còn về hải cảng thì thật lạ lùng. Chỉ khoảng hơn 100 dặm một chút mà

người ta đếm được hơn sáu bảy cảng tất cả đều rất thuận tiện cho việc cập bến và

lên đất liền. Vì ở ven bờ có rất nhiều nhánh biển lớn” (Cristophoro Borri, 1998,

tr.91).

Vùng đất Đàng Trong có những điều kiện rất thuận lợi để phát triển kinh tế

biển mà không phải chỗ nào có được, nhờ mạng lưới sông ngòi chằng chịt tạo hệ

thống giao thông nối liền vùng rừng núi, đồng bằng và ven biển. Cảng biển ở Đàng

Trong đóng vai trò quan trọng là trung tâm trao đổi kinh tế và văn hóa của Đại Việt

với các quốc gia khác trong suốt hai thế kỉ XV - XVII. Số lượng cửa biển nhiều gần

20 cửa biển nằm rải rác từ cửa Bố Chính đến phủ Quy Nhơn đã tạo điều kiện cho

các thuyền buôn trong và ngoài nước có thể dễ dàng cập bến trao đổi hàng hóa.

Chính quyền chúa Nguyễn với tầm nhìn hướng biển đã tận dụng tốt các yếu tố

tự nhiên để xây dựng dựng nhiều hệ thống cảng biển như: Cảng Hội An, Đà Nẵng,

Thị Nại, Hà Tiên. Lúc đầu các cảng thị này là nơi thu mua và vận chuyển hàng hóa,

nhưng càng về sau do số lượng thuyền buôn đến ngày càng nhiều, nên các thương

53

cảng Đàng Trong trở thành trung tâm thương mại quan trọng trong khu vực. Trong

đó Hội An là thương cảng quốc tế quan trọng và sầm uất nhất. Không chỉ bởi phong

cảnh đẹp nơi đây mà Hội An còn nằm ở trung tâm của trục giao thương quốc tế từ

Châu Âu tới Châu Á. Thương cảng Hội An của vùng Quảng Nam là cửa ngõ giao

thương quan trọng và không thể thay thế được của vùng đất này. Các thương nhân

tìm đến Đàng Trong ngày càng nhiều ngoài vì nguồn tài nguyên phong phú mà còn

do vận chuyển hàng hóa của nơi đây đến các nước khác dễ dàng hơn. Tuy nhiên đến

thế kỉ XV- XVI thì thương nghiệp Đàng Trong mới đạt được sự hưng khởi.

Thế kỉ XIV - XVI trên thế giới diễn ra các cuộc phát kiến địa lí của Tây Ban

Nha, Bồ Đào Nha đã thúc đẩy giao lưu tiếp xúc giữa Châu Âu với Châu Á. Quan hệ

buôn bán trên biển được hình thành trong giai đoạn đầu và phát triển mạnh mẽ ở các

giai đoạn sau tạo nên thời kì rực rỡ của nền hải thương thế giới. Ngoại thương trên

biển đã rút ngắn khoảng cách địa lý giữa các quốc gia, thúc đẩy giao lưu về kinh tế

và văn hóa, nâng cao tri thức của nhân loại.

Nhật Bản và Trung Hoa là hai đối tác quan trọng trong nền kinh tế thương mại

ở Đàng Trong. Chính quyền chúa Nguyễn chủ động thiết lập quan hệ với các quốc

gia này. Những năm đầu thế kỉ XVI do thiếu nguồn nguyên liệu, chính quyền Mạc

phủ Tokugawa cho phép các con thuyền có đóng dấu ấn đỏ (châu ấn thuyền

Shuisen) vượt biển tới các nước Đông Nam Á trong đó có Đàng Trong để trao đổi

và mua bán. Chúa Nguyễn Hoàng nhanh chóng nắm bắt cơ hội đẩy mạnh các hoạt

động buôn bán với Nhật Bản mở ra thời kì phát triển rực rỡ của nền hải thương

Đàng Trong. Các thương nhân người Nhật, Trung Hoa và Bồ Đào Nha tìm đến

Đàng Trong để xây dựng các thương điếm và phố xá làm cho thương mại Đàng

Trong thêm nhộn nhịp và sôi động. Các sản phẩm như hương liệu, hồ tiêu, gỗ, trầm

hương, kì nam, gốm, tơ lụa cùng với các loại khoáng sản như than, thiếc, đồng chì

được các thương nhân nước ngoài thu mua và trao đổi với các nước khác. Việc mua

bán với các quốc gia này đã tạo ra những nguồn lợi quan trọng cả về kinh tế lẫn

chính trị, đồng thời tăng cường thêm nguồn lực cho cuộc ly khai của chính quyền

họ Nguyễn.

54

Vùng biển không chỉ mang lại tiềm lực kinh tế to lớn với các sản lượng thủy

sản dồi dào như cá, tôm mực… làm nguồn lương thực quan trọng cho cư dân mà

Nghành ngư nghiệp cũng rất thịnh vượng và cá ở đây có hương vị tuyệt diệu và

rất đặc biệt.Tôi đã đi qua nhiều nước nhưng tôi cho rằng không có nơi nào sánh

được với xứ Đàng Trong. Xứ này nằm chạy dọc bờ biển nên có rất nhiều các

thuyền đánh cá và rất nhiều các được đánh bắt từ biển đi khắp các xứ

(Cristophoro Borri, 1998, tr. 29).

còn tạo điều kiện cho sự hình thành ngành ngư nghiệp khắp vùng ven biển,

Việc khai thác thủy sản đã góp phần giải quyết những khó khăn về mặt kinh tế

trong buổi đầu khai khẩn vùng đất mới của lưu dân Việt, thu hút đông đảo nguồn

nhân lực từ khắp nơi đổ về, các tàu buôn nước ngoài đến trao đổi mua bán ngày

càng nhiều, làm cho vùng đất phía Nam khởi sắc nhanh chóng. Cùng với sự phát

triển của ngành đánh bắt thủy sản, khai thác yến sào, đóng tàu lần lượt ra đời, tạo

động lực vô cùng quan trọng giúp cho Đàng Trong có thể tồn tại vững bền trên

vùng đất mới. Đàng Trong trở thành trung tâm thu hút các mối giao lưu quốc tế, qua

đó góp phần nâng cao vị thế của vùng.

Những thuận lợi sẵn có về điều kiện tự nhiên cũng như áp lực của cuộc chiến

tranh Trịnh - Nguyễn, nhu cầu phát triển kinh tế nhanh chóng cũng như những

chuyển biến về kinh tế của thế giới và khu vực. Chính quyền chúa Nguyễn đã tạo cơ

sở vững chắc bước đầu cho tư duy hướng biển Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn

sau này, tạo nên tiền đề quan trọng cho sự hưng thịnh của nền kinh tế ở vùng đất

phía Nam.

1.2.2. Vai trò của biển đối với triều Nguyễn

Thế kỉ XVII - XVIII sự nổi dậy của phong trào Tây Sơn đã làm cho chính

quyền Đàng Trong và Đàng Ngoài tập trung lực lượng đối phó, vùng biển trước đây

có ý nghĩa quan trọng về kinh tế thì giờ đây lại có ý nghĩa to lớn về mặt quân sự.

Năm 1783 Tây Sơn tiêu diệt được chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong, làm

chủ toàn bộ vùng đất này. Nguyễn Ánh người duy nhất của dòng họ Nguyễn phải

sống lưu vong nhiều nơi từ Mũi Cà Mau, đảo Thổ Chu, Phú Quốc trước sang Thái

55

Lan sau thất bại năm 1785: “Tháng 7 - 1783, Nguyễn Huệ nghe tin Nguyễn Ánh ra

Côn Lôn, sai phò mã Trương Văn Đa đem thủy quân đến bao vây đảo. Bỗng nhiên

sóng gió nổi lên dữ dội, thuyền quân Tây Sơn bị chìm đắm rất nhiều. Nguyễn Ánh

vượt vòng vây, đến đảo Cổ Cốt, rồi trở về đảo Phú Quốc” (Đại Nam thực lục tập 1,

2002, tr. 217 - 218).

Cả cuộc đời của Nguyễn Ánh đều gắn liền với biển đảo, vì thế hơn ai hết

Nguyễn Ánh nhận thấy biển có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc chiến giành

lại vương quyền cho dòng họ mình. Trong thời gian sống lưu vong ở Xiêm, ông tiến

hành khẩn hoang lập đồn điền trên các vùng đảo ven bờ để lấy nước ngọt và lương

thực nuôi số quân ít ỏi của mình. Khi nhà Tây Sơn suy yếu, Nguyễn Ánh chiếm

Long Xuyên và tại đây ông đã cho quân lính và nông dân tiến hành khẩn hoang trên

Từ khi khanh đóng giữ đèo Gian Nam giữ vững bờ cõi, không phụ ủy thác của

triều đình, ta khen gợi nay kén người tâm phước làm thám tử đi dò xét giặc ở

Phú Yên, Quy Nhơn và chiêu dụ những sách Man ở đầu nguồn khiến họ quy

thuận, còn việc phòng bị ngoài biên cương nên gia canh giữ. Người ta nói một

người giữ ải muôn kẻ khó địch, khanh nên nghĩ đấy (Đại Nam thực lục tập 1,

2002, tr. 387).

các đảo ven bờ.

Sau khi đánh bại vương triều Tây Sơn thiết lập triều Nguyễn, tiếp nối tư duy

hướng biển thời Chúa Nguyễn trước đây, Nguyễn Ánh luôn chú trọng đến vấn đề

biển đảo và coi đây là cửa ngõ quan trọng đối với an ninh đất nước.

Bên cạnh những tiềm năng mà biển mang lại về kinh tế, phát triển thương mại,

giao lưu văn hóa thì biển cũng chứa đựng những nguy cơ, thách thức: về ngoại xâm,

nạn cướp biển.Triều Nguyễn được thiết lập trong bối cảnh các quốc gia phương Tây

có sự phát triển mạnh về khoa học kĩ thuật. Lãnh thổ dưới thời cai trị của triều

Nguyễn rộng lớn nên vấn đề chủ quyền luôn chiếm vị trí quan trọng trong chính

sách cai trị đất nước của các vua Nguyễn. Bảo vệ vùng đất liền đã khó bảo vệ vùng

56

biển còn khó hơn nên việc tăng cường bảo vệ an ninh quốc phòng ở các vùng chiến

lược có ý nghĩa quan trọng.

Các cửa biển Đà Nẵng, Thị Nại, Thuận An, Tư Hiền, Tư Dung gần với kinh

thành Huế đều có vị trí chiến lược quan trọng, ngăn chặn sự tấn công của các thế

lực ngoại xâm đồng thời cũng là cánh cửa giao thương giữa nước ta với các quốc

gia khác trong khu vực nên càng phải ra sức phòng thủ. Vì thế, trong suốt thời trị vì,

các vua Nguyễn đều có những chính sách để khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng

biển như cắm mốc chủ quyền, xây dựng các tuyến phòng thủ trên biển, tổ chức các

đội thủy quân đến tuần tra và khai thác sản vật, đóng tàu chiến. Trong đó cửa biển

Thị Nại có ý nghĩa chiến lược quan trọng, đây là nơi từng diễn ra cuộc giao tranh ác

liệt giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh năm 1801, vì thế chính quyền nhà Nguyễn rất chú

trọng đến khu vực này“cửa biển Thị Nại, nước sâu, núi cao, thuyền bè đi lại nhiều

có khi đậu ở đấy, cũng là nơi xung yếu, nên công việc phòng bị tất phải chỉnh đốn”

(Đại Nam thực lục tập 1, 2002).

Minh Mạng là vị vua có tư duy hướng biển từ khá sớm, mặc dù lên ngôi trong

thời đất nước được thanh bình nhưng Minh Mạng luôn coi trọng vấn đề chủ quyền

biển đảo: “địa lý nước ta lấy biển làm dải áo, lấy núi làm vạt áo, địa thế trọng yếu

và hiểm trở” (Nội các triều Nguyễn, 1993)

Kế thừa và phát huy những kinh nghiệm được truyền từ thời Gia Long, vua

Minh Mạng luôn đề cao việc bảo vệ chủ quyền vùng biển, coi biển là nhân tố quan

trọng cho sự tồn vong của đất nước. Minh Mạng cho ban hành nhiều chính sách bảo

vệ và phòng thủ với đối với các cảng biển có tính chất xung yếu quan trọng như cửa

biển Thuận An và Đà Nẵng. Tại đây, các vua Nguyễn đã cho xây dựng hệ thống

pháo đài, đồn, dinh, hệ thống phòng thủ…các hải trấn cùng với một lực lượng quân

đội hùng hậu được trang bị vũ khí hiện đại và nhiều chiến thuyền lớn canh giữ

“ Đổi cửa Eo làm cửa Thuận An. Xây đài Trấn Hải sai Nguyễn Đức Xuyên trong

coi công việc. Vua thấy đây là nơi trọng yếu của hải cương. Bèn xây đài ở bên

cạnh” (Đại Nam thực lục tập 2, 2006, tr. 62).

Vua Minh Mạng có những bước đi mạnh mẽ trong vấn đề chủ quyền biển,

không chỉ xây dựng các tuyến phòng thủ trên biển, còn tiến hành cho người sang

57

các nước Đông Nam Á tìm hiểu về tình hình chính trị ở các nước này. Trong bối

cảnh thế giới có nhiều biến động, chủ nghĩa phương Tây đang dần mở rộng thế lực

sang các nước phương Đông, vua Minh Mạng đã cho người học hỏi về cách chế tạo

các loại tàu, đại bác và xây dựng lực lượng thủy quân theo mô hình của Phương

Tây. Phú Xuân là vùng đất có ý nghĩa quan trọng đối với triều Nguyễn, đây là kinh

đô, là trung tâm kinh tế - văn hóa và là nơi hội tụ các yếu tố chính trị - quân sự, có

các cửa biển Thuận An, Tư Hiền là nơi giao lưu với bên ngoài. Phía bắc có núi

Hoành Sơn che chắn, các vua Nguyễn đã cho xây dựng các hệ thống phòng thủ dọc

các cửa biển, đồng thời ở vùng ven biển miền Trung, nhà Nguyễn còn cho xây dựng

các pháo đài, thành lũy để bảo vệ kinh đô từ phía xa.

Các vị vua của triều Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng rất chú trọng khai

thác các thế mạnh của biển, có tư duy hướng biển mạnh mẽ. Các nguồn thủy hải sản

phong phú dồi dào cùng với các sản vật quý không chỉ là nguồn lương thực quan

trọng nuôi sống dân mà còn là nguyên liệu để trao đổi buôn bán với bên ngoài. Các

sản phẩm thủy hải sản như cá biển, tôm, cua, sò, các loại khô mắm các loại, khô

mực, tôm khô là mặt hàng trao đổi khắp các khu vực từ miền xuôi đến miền ngược,

tạo luồng buôn bán rộng khắp nước từ chợ quê đến vùng kinh đô. Chính quyền nhà

Nguyễn tiếp thu trình độ kĩ thuật tiến bộ của phương Tây.Vì thế trong giai đoạn này

có nhiều các loại tàu thuyền hiện đại được ra đời giúp cho việc đánh bắt thủy hải

sản nhanh chóng và thuận lợi hơn đem lại sản lượng cao hơn so với trước:

“Sai các đội mộc đĩnh [xuồng gỗ] ở Chính dinh đi Quang Hóa tìm chở ván gỗ

để đóng chiến thuyền lớn và thuyền kiểu Tây dương (Quốc sử quán triều Nguyễn tập

2, 2006, tr. 590). Bên cạnh đó để thuận tiện cho việc đi lại và chuyên chở hàng vua

Gia Long còn ra chỉ dụ: “Hạ lệnh cho Nghệ An biên thuyền của dân có thể đi biển

được, thuyền gỗ bề ngang rộng 6 thước trở lên, thuyền tre rộng 7 thước trở lên làm

sổ tâu lên” (Đại Nam thực lục tập 2, 2006).

Các ngành làm muối và nước mắm tiếp tục được phát triển, là sản phẩm quan

trọng trao đổi giữa vùng biển, vùng đồng bằng với miền núi, người dân vùng biển

đem các sản phẩm của mình trao đổi với các dân ở vùng đồng bằng để đổi lấy gạo,

thịt, các đồ tiêu dùng hằng ngày. Các sản phẩm phong phú đã tạo điều kiện cho cư

58

dân các vùng ven biển có thể gắn bó lâu dài với cuộc sống bám biển khai thác

những thủy sản để mưu sinh. Những cư dân này còn là lực lượng quan trọng cho

chính quyền trong việc tham gia vào việc giám sát, bảo vệ, giữ gìn vùng biên giới,

biển đảo.

Chính quyền phong kiến cũng tiến hành cho thu hoạch và đánh thuế muối hằng

năm giống thời chúa Nguyễn trước đây. Tuy nhiên do số lượng muối thu hoạch

Trấn thần Bình thuận tâu rằng số muối chứa ở kho đã nhiều, xin cho từ năm

nay về sau xin cho nộp thuế muối bằng tiền cho tiện. Vua y cho và quy định

các trấn Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Định, Bình Hòa cũng theo lệ ấy cho

thay (một phương muối bằng 2 tiền 30 đồng) (Đại Nam thực lục tập 2, 2006,

tr. 208).

nhiều vì thế vua Minh Mạng cho thay nộp thuế muối bằng tiền:

Vùng biển có ý nghĩa quan trọng đối với chính quyền phong kiến. Không chỉ

là lá chắn bảo vệ cho đất nước trước sự tấn công của thế lực bên ngoài mà xuyên

suốt các triều đại từ chúa Nguyễn đến nhà Nguyễn, vùng biển còn là nơi có những

điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa, là con đường giao thương

và liên lạc với thế giới bên ngoài. Vì vậy, bên cạnh việc coi trọng kinh tế nông

nghiệp, chính quyền phong kiến ở các thế kỉ XVI - XIX cũng rất chú trọng đến việc

phát triển kinh tế biển, khai thác các yếu tố tự nhiên mà biển mang lại, để vừa có thể

phát triển kinh tế vừa có thể đảm bảo an ninh quốc phòng. Vùng biển không chỉ là

nơi sinh tồn, phát triển. Chính quyền nhà Nguyễn còn sử dụng biển làm con đường

giao thương kết nối giữa các vùng và các khu vực lại với nhau. Thúc đẩy sự phát

triển kinh tế thương nghiệp nội thương và ngoại thương, nâng cao việc giao lưu tiếp

biến văn hóa trong khu vực đồng thời cũng là cơ sở để chính quyền phong kiến

kiểm soát chặt chẽ an ninh, tăng cường hệ thống phòng thủ đất nước.

Mặc dù thực hiện chính sách ức thương nhưng nhà Nguyễn vẫn tạo điều kiện

cho các thương nhân nước ngoài đến nước ta trao đổi và mua bán hàng hóa qua cửa

biển Đà Nẵng. Vì thế cửa biển Đà Nẵng vừa là một quân cảng vừa là một thương

cảng quan trọng của Triều Nguyễn, là con đường thông thương duy nhất với thế

59

giới. Điều này đã làm cho chính quyền phong kiến Nguyễn không hề cô lập mà vẫn

có sự giao thương trong giới hạn với bên ngoài. Chủ trương “trọng nông ức

thương” của nhà Nguyễn không hoàn toàn thủ tiêu việc buôn bán mà chỉ tạo điều

kiện cho thương nghiệp diễn ra trong mức độ cho phép và dưới sự quản lý chặt chẽ

của chính quyền. Với cái nhìn hướng biển, các vua triều Nguyễn như Gia Long,

Minh Mạng đã biết tận dụng, khai thác các thế mạnh của biển để phát triển nội lực

kinh tế, liên kết các khu vực với nhau bằng hệ thống đường thủy và giữa triều đình

với thế giới bên ngoài. Việc chú trọng tới nhân tố biển có ý nghĩa quan trọng trong

quá trình xây dựng và bảo vệ quốc gia thống nhất dưới triều Nguyễn.

60

Tiểu kết chương 1

Người đầu tiên đặt nền tảng cho tư duy hướng biển là chúa Nguyễn Hoàng,

sau nhiều lần di quân ra Bắc và trong các trận thủy chiến với quân Mạc đã làm cho

Nguyễn Hoàng nhận thấy được vai trò của biển đối với công cuộc phục quốc của

mình. Vùng đất Thuận - Quảng là dãy đất dài và hẹp về chiều ngang có các con

sông ngắn dốc cắt ngang tạo thành những vùng đồng bằng nhỏ hẹp. Địa hình đất cát

và sét nhiều không thuận lợi cho sự phát triển thương nghiệp nhưng bù lại nơi đây

lại chứa đựng những yếu tố vô cùng thuận lợi để phát triển thương nghiệp. Vùng đất

Quảng Nam của vùng Thuận - Quảng có nguồn tài nguyên lâm, thổ, sản phong phú

như gỗ, hương liệu, ngà voi, sừng tê, sáp ong, trầm hương, kì nam và các loại

khoáng sản như than đá, thiềc, chì kẽm. Đây là sản phẩm có giá trị kinh tế cao được

người phương Tây ưa chuộng. Ngoài ra toàn bộ phía đông giáp biển cung cấp các

nguồn lợi dồi dào về hải sản, yến sào và các dược liệu quý .Dựa vào những tiềm

năng sẵn có và tư duy hướng biển, chính quyền phong kiến Nguyễn bắt đầu chọn

cho mình một lối khi khác lấy thương nghiệp làm nền tảng quan trọng, xa dần với

nền kinh tế nông nghiệp cổ truyền.

Trong suốt hai thế kỉ XVI - XVII nền kinh tế thương nghiệp có vai trò quan

trọng trong việc phát triển kinh tế Đàng Trong. Thuyền buôn của các quốc gia

phương Tây lẫn phương Đông đều tìm đến trao đổi và mua bán mang lại cho vùng

đất này sự phát triển nhanh chóng về kinh tế và giao lưu văn hóa. Nhờ chiến lược

khôn ngoan, linh hoạt, chính quyền chúa Nguyễn đã kế thừa và tiếp nối truyền

thống hướng biển của cư dân Chăm pa trước kia, đưa đất nước ta trong bước vào kỉ

nguyên hưng thịnh của hải thương. Không chỉ có ý nghĩa chiến lược về kinh tế,

trong thời nhà Nguyễn biển còn có vai trò quan trọng về quân sự. Trong giai đoạn

chủ nghĩa phương Tây lớn mạnh và mở rộng các hoạt động tìm kiếm thị trường,

việc bảo vệ an ninh hàng hải được đề cao.

Vùng biển kéo dài từ Bắc đến Nam thuận lợi cho việc xây dựng hệ thống

phòng thủ liên hoàn và mạng lưới thông tin liên vùng thuận lợi cho hoạt động quản

lí và bảo vệ vùng biển. Các cư dân ven biển vừa hoạt động khai thác kinh tế vừa là

tai mắt của chính quyền, nhà Nguyễn đã biết dựa vào những điều kiện thuận lợi để

61

vừa có thế khai thác được kinh tế vừa có thể tiến hành bảo vệ an ninh vùng biển.

Hoạt động khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển có tác dụng quan trọng tạo

thêm nhân tố cho sự phát triển kinh tế đất nước đồng thời cũng là chỗ dựa quan

trọng cho việc bảo vệ an ninh và khẳng định chủ quyền biển của chính quyền nước

ta từ quá khứ cho đến hiện tại.

62

Chương 2. CHÍNH SÁCH KHAI THÁC BIỂN ĐẢO

CỦA CHÚA NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN

(THẾ KỈ XVI – NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX)

2.1. Chính sách khai thác kinh tế biển đảo của chúa Nguyễn và vua Nguyễn

(thế kỉ XVI - nửa đầu thế kỉ XIX)

* Khai thác thủy sản:

2.1.1. Chính sách khai thác kinh tế biển của chúa Nguyễn

Qúa trình khai thác và thực thi chủ quyền vùng biển được diễn ra cùng lúc với

quá trình Nam tiến của chúa Nguyễn. Không chỉ cho dân cư đến khai khẩn vùng đất

liền mà để mở rộng lãnh thổ các chúa Nguyễn khuyến khích dân đến khai thác các

vùng đất ở hải đảo, vùng ven biển. Việc làm này đã thu hút số lượng lưu dân từ các

vùng khác đến và chỉ trong vòng một thế kỉ số lượng dân khai khẩn ngày một đông

họ lập làng, ấp, vỡ đất, khai thác các sản vật. Ngoài ra những cư dân ở các hải đảo

còn là những đội hải quân của triều đình có nhiệm vụ canh giác tuần tra bảo vệ

vùng biển nơi họ sinh sống, đồng thời góp phần giữ gìn an ninh vùng biển của đất

nước.

Các cư dân đầu tiên đến Đàng Trong chủ yếu là những người nghèo, binh lính,

thầy đồ, tội nhân để trốn đi lính tránh sưu cao thuế nặng. Họ dùng thuyền men theo

bờ biển Thuận Hóa để tiến vào. Cùng với quá trình khai khẩn các vùng đất hoang,

các lưu dân Việt cũng chọn những vùng hải đảo như Quảng Ngãi, Côn Lôn, Phú

Quốc, Hoàng Sa để khai thác hải sản, và vỡ đất trồng trọt. Các vùng hải đảo và ven

biển có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc khai thác với diện tích hoang còn lớn và

Phía ngoài các cửa biển xứ Thuận Hóa - Quảng Nam đều có núi đá nổi lên

trong biển để làm trấn, rộng hẹp không giống nhau. Ở châu Nam Bố chính có

núi gọi là Cù Lao Cỏ đi 4 canh thì đến nơi. Ngoài biển phủ Điện Bàn ở cửa

biển Đà Nẵng có núi gọi là hòn Trà, Hòn Lỗ ra biển đi nửa canh thì đến.

nguồn thủy sản dồi dào:

Ở phủ Thăng Hoa ngoài cửa biển Đại Chiêm có núi gọi là Cù Lao Chàm, ba

ngọn núi đối nhau hai ngọn lớn mà xanh tốt, có dân cư ruộng nương có các thứ

cam quýt, đỗ lạc, trên có suối nước ngọt đi hai canh thì tới (Lê Qúy Đôn, 1977,

tr.150).

63

Các nguồn lợi thủy sản dồi dào không chỉ nuôi sống lưu dân trong giai đoạn

đầu của công cuộc Nam tiến, mà còn mang lại cho chính quyền nguồn lợi to lớn cho

chính quyền từ việc đánh thuế. Sự dồi dào của sản lượng cá biển, đã giúp cho người

dân còn có thể chế biến ra các loại sản phẩm khác phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng.

Ngoài việc sử dụng cá làm bữa ăn hằng ngày thì người dân nơi đây còn sử dụng

cách phơi khô dưới nắng để tạo nên các sản phẩm khô dễ chế biến bảo quản và dễ

vận chuyển. Các sản phẩm như cá khô, tôm khô, mực khô, mắm cá các loại đều là

Từ Nghệ An đi về phía Nam, vượt núi Hoành Sơn qua các xã Thuần Thần, Phù

Lưu châu Bố Chính đi về phía đông đến các xã Lũ Đăng thì tới sông Gianh.

Thượng lưu sông này là nước từ đèo dài ở huyện Hương Sơn chảy xuống.

Nhân dân đội Phúc Nhất, sách Thăng Lãng và xã Kim Lũ huyện Hương Sơn

thường đi thuyền xuống mua mắm muối ở chợ ấy, những khúc sông khuất như

thế (Lê Qúy Đôn, 1997, tr.130).

mặt hàng trao đổi và buôn bán ở khắp các chợ miền xuôi và miền núi.

Ven biển Thuận Hóa có nghề đánh bắt cá và làm nước mắm, số lượng các biển

người dân thu hoạch được rất nhiều, không chỉ đủ làm lương thực mà còn có thể chế

biến thành các sản phẩm khác như làm khô, làm mắm thuận tiện cho việc dự trữ và

trao đổi từ vùng này đến vùng khác. Chính quyền chúa Nguyễn cũng quy định cụ

thể việc thu thuế các hộ dân làm nghề đánh các và làm nước mắm: “Lấy người có

lưới hay không có lưới làm chuẩn. Hạng tráng người có lưới nộp thuế mắm 4 chĩnh,

người không có lưới nộp 3 chĩnh, hạng quân có lưới nộp 3 chĩnh, hạng dân, hạng

64

lão, có lưới nộp 2 chĩnh, không có lưới đều miễn thuế, con cháu quan viên mỗi

người 1 chĩnh, hạng cùng có lưới nộp 1 chĩnh, không có lưới miễn thuế” (Lê Qúy

Đôn, 1977, tr. 288). Ngoài việc làm mắm thì các ngư dân cũng biết chế biến dầu từ

gan cá, làm mắm ướp. Đây là những sản phẩm làm phong phú bữa ăn của người

dân, mỗi năm người đem các sản phẩm này nộp để giảm thuế và sưu dịch:

“Xứ Quảng Nam, phủ Bình Thuận, phường Đông An, 75 người nộp dầu cá 75 vò

cho sưu lính, 30 người nộp nước mắm 30 lường, 20 người hằng năm mỗi người nộp

2 vò mắm mòi, 1 thủng mắm ướp đều miễn trừ tiết liệu, sưu dịch” (Lê Qúy Đôn,

1977, tr. 289).

Bên cạnh nghề đánh bắt cá biển, nghề làm muối cũng được đẩy mạnh. Muối

được sản xuất nhiều ở các vùng ven biển, là nguồn gia vị không thế thiếu trong bữa

ăn hằng ngày của cư dân Việt. Muối cũng là mặt hàng để trao đổi ở khắp các vùng,

nhất là miền xuôi với miền rừng núi. Những người làm muối gọi là diêm dân, họ

cũng phải nộp thuế cho chính quyền phong kiến. Hằng năm Chúa Nguyễn cũng cho

đánh thuế mặt hàng này để quản lí dân cư ở đây và duy trì các hoạt động của chính

quyền. Các thương nhân nước ngoài cũng thu mua sản phẩm muối của Đàng Trong

để bán và trao đổi với bên ngoài. Thời chúa Nguyễn việc thu thuế muối được quy

định như sau: “Tân Dậu năm thứ ba [1741], sai kiểm tra những tiền thóc thuế và

thuế muối (Thuận Hóa có thuế ruộng muối, mỗi năm thu được hơn 2.500 sọt;

Quảng Nam có thuế người làm muối, mỗi năm dân đinh phải nộp 6 sọt hay 4 sọt, 3

sọt trong 3 năm” (Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr.149). Phủ biên tạp lục của Lê

Qúy đôn cũng ghi chép về việc đánh thuế muối:

“Hạng quân, hạng nhất mỗi người nộp 6 sọt, hạng nhìn mỗi người nộp 4 sọt, hạng

3 mỗi người nộp 3 sọt, hạng lão và cháu viên mỗi người nộp 3 sọt. Các viên mục,

tướng thần, xã trưởng, lão nhiêu đều miễn” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr.287).

65

*Khai thác yến sào:

Ngoài việc khai thác thủy sản, lưu dân Việt cũng biết đến nghề khai thác yến

sào. Đây là sản phẩm có giá trị kinh tế cao và là mặt hàng xuất khẩu được nhiều

nước ưa chuộng. Tổ yến chủ yếu được khai thác ở các đảo gần cửa biển như đảo

Tam Quan, Nước Mặn, Nước Ngọt. Nhân dân ở vùng ven biển đã biết tìm đến

những vùng khe đá cao hiểm trở nơi chim yến làm tổ để khai thác. Yến sào là mặt

hàng có giá trị cao, vì thế các chính quyền phong kiến đã chủ trương thu thuế và

bảo vệ nguồn lợi từ các sản phẩm này. Chính quyền nhà Nguyễn cũng quy định

những nơi có người làm nghề khai thác yến thì phải đóng lệ hằng năm theo quy

định cụ thể:

“Phủ Thăng Hoa, huyện Hà Đông, xã Thanh Châu, có nghề lấy yến sào, dân ấy tản

cư ở các vùng Thăng Hoa, Điện Bàn, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Khang, Diên

Khánh và Bình Định hằng năm cứ đến tháng 2 phải nộp 120 tổ yến non” (Lê Qúy

Đôn, 1977, tr. 289). Chính quyền chúa Nguyễn cũng quy định cụ thể về số lượng

yến thu hoạch. Theo đó: “Mỗi người nộp 2 cân yến sào hoặc bằng tiền 2 quan,

hạng dân nộp mỗi người 1 cân 8 lạng, hạng lão và hạng định nộp mỗi người 1 cân,

cả xã nộp lễ thường tân, đinh tán 1.500 tổ ” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 290).

“Sai Bình Hòa mộ dân lập hộ yến sào (mỗi hộ mười người trở lên mỗi năm nộp

thuế mỗi người 8 lạng yến sào). Nhân chuẩn lệ nộp thuế yến cho các địa phương,

chia từng phần mà nộp” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 290).

Ngoài ra ở các vùng biển đảo xa bờ, thì chúa Nguyễn cho mộ dân ở những nơi

này đi khai thác yến, cho những người đứng đầu địa phương thực hiện việc giám sát

và đánh thuế “Vua bèn sai các dinh trấn hải phận nơi nào có yến sào thì làm sổ tâu

lên, cấm dân lấy trộm, ai lãnh thầu thì đánh thuế” (Lê Qúy Đôn, 1977). Bên cạnh

khai thác yến chính quyền cũng tiến hành cho thu hoạch cây kỳ nam. Yến sào và kỳ

nam là hai đặc sản nổi tiếng của vùng Quảng Nam, thu hút các thương nhân từ khắp

nơi tìm đến. Kỳ nam xuất hiện nhiều ở Quảng Nam, có ba loại: khổ trầm, trầm

hương và kỳ nam hương. Trong tác phẩm Phủ Biên tạp lục của Lê Qúy Đôn mô tả

rất rõ sản vật này:“ Họ Nguyễn trước đặt đội am sơn, hằng năm cứ tháng 2 thì đi

kiếm, tháng 6 thì trở về, số được nhiều ít không nhất định, lấy sắc sáp trắng là tốt

66

nhất, sắc xanh đầu vịt là thứ hai, sắc xám xanh là kém nữa, sắc như hổ vành thì kém

nhất, mềm như phấn đông là tốt nhất, bền rắn là hạng xấu” ( Lê Qúy Đôn,1977, tr.

425).

Việc khai thác sản vật này phải được tiến hành theo lệnh của vua và người dân

không được tự ý khai thác, nếu như số lượng khai thác nhiều hơn số lượng quy định

thì nhà nước trưng thu hay miễn một số thứ thuế. Bên cạnh việc khai thác tổ yến thì

nhân dân các biển đảo có trồng được nhiều loại cây như cây bàng, nhàu, mù u, dầu

hương và nhiều loại dược liệu quý.

* Khai thác các sản vật khác

Vùng biển từ Thuận Hóa có rất nhiều các sản vật có thể kể đến nhiều nhất là

cá. Cá ở vùng này rất nhiều chủng loại và có sản lượng rất lớn, chiếm tỉ trọng lớn

trong các sản phẩm thu hoạch. Theo nhận định của tác giả Cristophoro Borri

Trong: “Là người đi khắp các biển và đi quan các nước hình như tôi không tìm thấy

ở đâu nghề cá và cá có thể sánh được so với Đàng Trong… Người Đàng Trong

thích ăn cá hơn ăn thịt vì thế họ mải mê đánh cá” (Cristophoro Borri, 1998, tr. 28).

Ngoài ra còn có các loại khác như hải sâm, đồi mồi, ốc hương, các loại sò mang lại

giá trị kinh tế cao. Trong tác phẩm Phủ Biên tạp lục của Lê Qúy Đôn ghi nhận rõ về

các sản phẩm này ở Quảng Nam: “Xứ Thuận Hóa, sông Hương Giang cá sông

nhiều, có giống cá tên là cá thê, mình nhỏ đầu hẹp tục làm mắm, các biển có tên là

cá mại (mài mại) rất nhỏ, giống như các cơm. Cửa Eo có thứ tôm biển lớn hơn ở

miền Đông Nam gọi là tôm hùm” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 436). Ngoài ra tại các

vùng Phú Vang, Hà Trung người dân còn khai thác nhiều loại hải sản khác như:

cua, sò và sam: “Huyện Phú Vang, phường Phúc Yên có đầm gọi là đầm Sam, có

nhiều con sam và con sò; thuế cá ở Hà Trung mỗi năm thu hơn nghìn quan, có thứ

cá buôi, tức thảo ngư, rất béo ngon. Lại có nhiều cua béo, tục gọi là cua gạch trước

có lệ tiến” (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 437). Ngoài ra trên các đảo xa bờ như là An Vĩnh

Bên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn, hàng vạn, thấy người

thì đậu vòng quanh không tránh. Ốc vân thì có ốc tai voi to bằng chiếc chiếu,

thuộc phủ Quảng và các vùng biển đông Bắc cũng có nhiều loại hải sản:

bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục không như ngọc trai, cái vỏ có thể

đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà, có ốc xà cừ để khảm đồ

dùng. Các thứ ốc đều có thể muối và ăn được, lại có đồi mồi rất lớn. Có con hải

ba tục gọi là con trắng bông, giống đồi mồi mà nhỏ vỏ mỏng có thể khảm đồ

dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái muối ăn được, có hải sâm tục gọi là con đột

đột, bơi lộn ở bên bãi, lấy về dùng vôi xát qua bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì

ngâm nước, cua đồng gạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt (Lê Qúy

67

Đôn, 1977, tr. 154).

Việc khai thác các sản vật mang lại cho chính quyền nguồn lợi đáng kể từ việc đánh

thuế bên cạnh đó tạo nguồn sống lâu dài cho ngư dân và là nguồn thương phẩm dồi

dào cho hoạt động giao thương trao đổi với bên ngoài. Hầu hết các hoạt động khai

thác đều được tiến hành bởi ngư dân dưới sự quản lí của nhà nước, giúp cho chính

quyền không chỉ thu lại nguồn lợi về kinh tế mà còn đảm bảo được vấn đề an ninh

quốc phòng vùng biển và hải đảo.

*Ngoại thương:

Thời chúa Nguyễn các thuyền buôn nước ngoài đến trao đổi và buôn bán với

nước ta ngày càng nhiều nhờ chính sách ngoại giao cởi mở và nguồn tài nguyên dồi

dào của vùng đất Đàng Trong. Vì thế trong suốt hai thế kỉ XVII - XVIII, nước ta

bước vào thời kì hoàng kim của nền kinh tế hải thương với sự xuất hiện của rất

nhiều các thương thuyền từ các quốc gia ở châu Á, Đông Nam Á và ở các châu Âu.

Trong đó phải kể đến sự xuất hiện của các cường quốc kinh tế thế giới lúc bấy giờ

như Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Hoa, Xiêm ra vào tấp nập ở các cửa

biển như Hội An, Thanh Hà, Đà Nẵng, Cần Giờ, Phú Quốc. Có thể nói lúc bấy giờ

Đàng Trong trở thành điểm đến của các cường quốc thương mại trên thế giới. Trong

đó Nhật Bản và Trung Hoa là hai bạn hàng quan trọng với Đàng Trong.

Với số lượng người Nhật và người Hoa đến Hội An ngày càng đông, để tiện

việc buôn bán và bảo đảm an ninh chúa Nguyễn đã cho phép họ xây dựng các khu

phố tự trị theo phong tục và tập quán riêng của từng nước.

Chúa Nguyễn cho phép người Trung Quốc và Nhật Bản làm nhà cửa theo tỷ lệ

người của họ để dựng nên một đô thị. Đô thị này gọi là Faifo và nó khá lớn.

Chúng tôi có thể nói có hai thành phố, một của người Trung Quốc và một của

người Nhật. Họ sống riêng biệt, đặt quan cai trị riêng và theo phong tục, tập

quán của mỗi nước (Cristophoro Borri, 1998 ).

68

Hội An có hai con phố: là Phố Nhật của người Nhật và phố Khách của người

Hoa. Cùng với người Nhật và Trung Hoa thì có những thuyền buôn của các nước

Đông Nam Á như Xiêm, Chân Lạp đến giao thương mua bán ở Đàng Trong. Họ

trao đổi các sản phẩm: lanh da, đường phổi, da cá mập, trầm hương để đổi lấy gạo,

tơ, kì nam, họ đến buôn bán chủ yếu ở vùng Quảng Nam, Hội An. Ngoài ra chúa

Nguyễn cũng thiết lập quan hệ với người Tây phương, mở cửa cho các tàu thuyền

nước ngoài đến buôn bán, giúp cho chính quyền chúa Nguyễn thu được nguồn lợi to

lớn bằng việc đánh thuế các chuyến hàng hóa và thuế vận chuyển.Việc đánh thuế

buôn thuyền nước ngoài thời chúa Nguyễn và cả nhà Nguyễn sau này đều chủ yếu

dựa vào hai loại thuế là thuế đến và thuế đi. Thuế này được đánh dựa vào xuất xứ và

nguồn gốc của tàu, tùy theo từng nước mà thuế đánh nhiều hay ít. Dựa vào những

thông tin tác giả thu thập được từ những ghi nhận về việc đánh thuế của chúa

Nguyễn trong tác phẩm Đại Nam thực lục và Phủ Biên tạp lục tác giả có thể xây

dựng thành bảng số liệu như sau:

Bảng 2.1.Thuế đến và đi của các nước

Tàu từ Thuế đến (quan) Thuế đi (quan)

Thượng Hải 3.000 300

Quảng Đông 3.000 300

Phúc Kiến 2.000 200

Đảo Hải Nam 500 50

Tây Dương 8000 80

Macao (Bồ Đào Nha) 4.000 400

Nhật Bản 4.000 400

69

Thuế đến (quan) Thuế đi (quan) Tàu từ

Xiêm 2.000 200

Lữ Tống (Philippin) 2.000 200

Cựu Cảng (Sài Gòn) 500 50

Hà Tiên 300 30

Nguồn : Đỗ Bang, Phố cảng vùng Thuận Quảng (Hội An - Thanh Hà - Nước Mặn) thế kỉ XVII –

XVIII, NXB. Thuận Hóa. Huế, 1996, tr. 82 - 83.

Sơn Đô 300 30

Số lượng thuyền buôn các nước đến Đàng Trong vào thời gian này khá nhiều

chứng tỏ khu vực Đàng Trong có ảnh hưởng to lớn trong hoạt động thương mại trên

biển. Chính sách đánh thuế của chúa Nguyễn đối với các loại thuyền buôn mỗi nước

không giống nhau. Thuế đến cao gấp 10 lần so với thuế đi và những vùng gần Đàng

Trong thì thuế càng nhẹ như Hà Tiên, Sơn Đô (là vùng gần biên giới Xiêm -

Khơme) thì chỉ 300 quan. Tiếp theo là đến các nước Trung Quốc và Đông Nam Á

từ 500 - 2.000 quan, sau đó là Nhật Bản và Macao còn các nước phương Tây (Tây

Dương) thì tiền thuế đóng nhiều gấp đôi các nước khác. Sở dĩ có sự chênh lệch này

là do chính quyền chúa Nguyễn có sự cảnh giác đối với người Phương Tây. Mặc dù

họ có rất nhiều loại vũ khí hiện đại, mà chính quyền chúa Nguyễn cần cho cuộc

chiến tranh với họ Trịnh như đại bác, súng trường, hỏa pháo nhưng về sau do có sự

đụng độ giữa chúa Nguyễn và phương Tây như Hà Lan năm 1614, năm 1643 dưới

thời cai trị của chúa Nguyễn Phúc Lan và người Anh với họ Nguyễn (1702), cũng

như những hoạt động thăm dò của Pháp. Tất cả những điều này, làm cho chính

quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn sau này đều hạn chế giao thương và đánh thuế

cao các thuyền buôn của người Phương Tây, đồng thời không cho họ xây dựng

thương điếm tại vùng Đàng Trong.

Trong giai đoạn này Nhật Bản và Trung Hoa là hai nước có tầm quan trọng

đặc biệt đối với kinh tế Đàng Trong. Trong đó các thương nhân Trung Hoa đóng vai

trò là cầu nối trung gian giữa thương mại Nhật Bản - Đàng Trong và Đàng Trong

với các nước trong khu vực. Hàng Trung Hoa được ưa chuộng nhiều hơn so với

hàng hóa của phương Tây phần vì giá cả hàng hóa phương Tây quá mắc lại không

70

phù hợp với thu nhập của đại đa số là dân nghèo, trong khi đó các sản phẩm của

Trung Hoa vừa rẻ vừa bền vì thế được tiêu thụ rất nhanh.

Từ thế kỉ XVII - XVIII vai trò thương mại của người Hoa ở Đàng Trong ngày

càng được khẳng định khi cục diện chiến tranh Trịnh - Nguyễn chấm dứt. Hai bên

lấy sông Gianh làm tranh giới chia đôi đất nước vì thế mà nhu cầu về vũ khí không

còn nữa. Việc buôn bán với người phương Tây cũng vì thế mà bị hạn chế. Và cùng

với đó chính sách tỏa cảng của chính quyền Mạc phủ Tôkugawa Imitsu năm 1639

bắt đầu được thực hiện với tất cả các nước trừ Hà Lan nhằm mục đích bảo vệ nền an

ninh của Nhật Bản. Điều này đã làm cho Trung Hoa trở thành thương nhân duy nhất

trong hoạt động thương mại với Đàng Trong. Đối với Đàng Trong thì vai trò của

người Trung Hoa được thể hiện một cách rõ rệt nhất ở Hội An. Trước thế kỷ XVIII,

người Nhật là cư dân chủ yếu ở khu phố này và là chủ nhân của phần lớn các hoạt

động thông thương ở bến cảng Hội An, Phố Nhật. Khi các hoạt động thương mại ở

Hội An bắt đầu suy thoái người Hoa đã dần thay thế vai trò của người Nhật trong

buôn bán. Chính quyền chúa Nguyễn đã tận dụng khả năng giỏi buôn bán và mạng

lưới thu mua hàng hóa rộng lớn của người Hoa, làm trung gian trao đổi hàng hóa và

thư từ giữa Đàng Trong với Nhật Bản và các nước phương Tây. Cụ thể là các cơ

quan Tào ty thường cử người Trung Hoa kiểm tra đo lường và thu mua hàng hóa

các với số lượng lớn từ nước ngoài. Số ít sử dụng người Hoa làm người thông dịch

trong các buổi giao dịch thương mại.

Ngoài các nước phương Đông trong giai đoạn này các chúa Nguyễn cũng chú

trọng đặt quan hệ ngoại giao với phương Tây tiêu biểu là Bồ Đào Nha. Thực chất

người Bồ Đào Nha đã có mặt rất sớm tại vùng đất này. Cuộc tiếp xúc đầu tiên diễn

ra vào năm 1523, chủ yếu trong giai đoạn này là các giáo sĩ Thiên Chúa giáo đến

đây thực hiện việc truyền đạo.Về sau các thương nhân Bồ Đào Nha với mong muốn

tìm kiếm thị trường mới, các nguồn nguyên liệu và hương liệu mới nên họ đến vùng

đất này nhiều hơn. Họ đã nhanh chóng xây dựng một mạng lưới giao thương rộng

khắp vùng châu Á với sự có mặt của các công ty Đông Ấn của Bồ Đào Nha ở Trung

Quốc, Xiêm, Phi Lập Tân. Quan hệ thương mại giữa Bồ Đào Nha và Đàng Trong

71

diễn ra mạnh mẽ vào năm 1540 khi các chuyến thuyền của nước này đến vùng cửa

biển Hội An ngày càng nhiều.

“Giống với người Nhật và người Hoa thì người Bồ Đào Nha cũng tìm đến vùng Hội

An vì nơi đây có đủ loại hàng hóa từ khắp nơi đổ về. Vì thế ở nơi đây tơ vàng rất tốt

và rẻ, một số trầm hương, kì nam mặc dù rất hiếm, một số benzoic… tất cả đều là

sản phẩm của địa phương và một lớn đồng người Nhật đem đến đây” (Li Tana,

1999, tr. 121).

Người Bồ Đào Nha chủ yếu mua các thứ hàng như tơ lụa, đường, kì anh, trầm

hương đổi lại, họ đem đến vùng Đàng Trong súng ống, diêm tiêu, kẽ, đồng. Trong

đó mặt hàng súng đạn rất được chúa Nguyễn ưa chuộng, vì đây là vũ khí cần thiết

cho cuộc chiến chống quân Trịnh. Theo nhận định của tác giả Li Tana cho rằng,

quan hệ buôn bán giữa Đàng Trong và Bồ Đào Nha chỉ được thiết lập khi mà Nhật

Bản ban hành chính sách tỏa quốc và cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn bùng nổ. Khi

đó nhu cầu giao lưu buôn bán và tìm kiếm thị trường mới trở nên cần thiết với

người Bồ Đào Nha, vì thế họ bắt đầu chọn Đàng Trong làm nơi trao đổi hàng hóa

thay cho Nhật Bản. Từ thế kỉ XVI - XVII đã có 4 - 5 chiến thuyền của người Bồ

Đào Nha đến vùng Đàng Trong và họ tập trung ở Hội An rất đông đúc. Hội An lúc

bấy giờ là một trung tâm thu mua và phân phối hàng hóa. Các sản phẩm ở đây phần

lớn là có nguồn gốc địa phương và ở một số nước Đông Nam Á. Trong đó người Bồ

Đào Nha đặc biệt ưa chuộng cây kỳ nam đây là một thứ nguyên liệu tạo ra dầu có

mùi thơm và rất quý, giá của chúng ngang ngửa với bạc: “kỳ nam hương màu đen,

có dầu và giá 50cruzados một roncatty (tiền của Bồ Đào Nha), trong khi tại chính

nơi sản xuất giá của nó tương đương với bạc, bao nhiêu kì nam hương là bấy nhiêu

bạc” (Li Tana, 1999, tr.135). Có rất nhiều mặt hàng thông dụng được bán ở Đàng

Trong: như: tơ, vải bông, các vị thuốc, giấy, vàng bạc, kính, quạt giấy, bút, mực,

kim, đồ bạc, đồ ăn khô, đồ ngọt. Trong thế kỷ XVII các mặt hàng sa xỉ xuất hiện

nhiều ở các chợ Đàng Trong. Tuy nhiên đến thế kỉ XVIII thì các sản phẩm tiêu

dùng hằng ngày của người dân chiếm số lượng lớn.

Bên cạnh thực hiện chính sách ngoại giao cởi mở thì các chúa Nguyễn cũng

tăng cường việc kiểm soát chặt chẽ vấn đề an ninh quốc phòng thông qua việc đề ra

72

các quy định cụ thể đối với các tàu buôn khi đến vùng đất Đàng Trong.“Theo đó

các thuyền buôn đến các cảng nào của Đàng Trong đều phải xuất trình giấy phép

cho Tào ty hay cai bạ đây là những viên quan chuyên phụ trách việc thu thuế tàu”

(Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 358). Để bảo đảm an ninh chính quyền chúa

Nguyễn quy định các tàu buôn ra vào cảng Đàng Trong phải có giấy thông hành.

Nếu tàu nào chở hàng hóa từ bên ngoài vào phải có giấy phép và giao cho Tào Ty

kiểm tra số lượng hàng hóa. Người ta sẽ báo cho quan cai Tàu, truyền lệnh cho tuần

ty hộ tống thuyền ấy đến cửa biển. Sau đó viên Lệnh sử cùng các nha đến xem xét

giấy tờ của thuyền trưởng. Viên phó tàu phải kê khai rõ số hóa vật, nếu gian dối mà

bị phát hiện sẽ tịch thu toàn bộ số tài sản và chiếu theo luật lệ trị tội. Chính quyền

cũng quy định thuyền không chở hàng hóa thì không được vào cảng. Thuyền nào

chở khách phải khai số lượng Tào ty sẽ đối chiếu với số lượng lúc đến và lúc đi để

cấp phép, nếu trong hành lý có bất cứ vật gì cũng đều phải kê khai. Quan lại muốn

mua một số hàng hóa trên tàu thì chiếu theo số lượng mà trừ vào thuế nhập cảng.

Đối với thuyền buôn của nước khác nếu chẳng may bị sóng đánh dạt vào thì

chỉ cho đậu ở những cửa biển quy định như Cù Lao Chiêm hay cửa Hàn, cho tuần

nha giữ cửa biển và đồn thủ xem qua, chỉ ở hai ba hôm rồi sau khi sửa chữa tàu

xong thì lập tức cho người trấn áp ra biển. Nếu họ còn muốn vào hải phận để buôn

bán thì cai bạ cùng với quân của Tào ty đến xét hàng hóa của họ còn nhiều hay ít.

Nếu trên thuyền còn nhiều hàng hóa thì họ đều được miễn thuế 1/3. Nếu ít thì giảm

một nửa nếu không còn hàng hóa thì được miễn các thứ thuế. Bên cạnh đó nếu như

thuyền buôn các nước có dâng các lễ vật thì sẽ được miễn thuế đến. Tác giả Li Tana

trong tác phẩm Xứ Đàng Trong đã ghi nhận về vấn đề này khi một thương nhân

Ông khẳng định rằng nhà vua rất muốn có súng lớn bằng đồng thau và nếu như

chúng ta có thể đem một khẩu demi couluren hoặc một khẩu sacker (2 khẩu

này đều là hỏa pháo) chúng ta sẽ không phải trả thuế nữa. Những cách giải

thích này cho hiểu rằng người ngoại quốc đến buôn bán ở Đàng Trong phải trả

người Anh tên là William Adam đã đến Đàng Trong vào năm 1610:

một số thuế nhỏ nào đó trong khi một số người khách viếng thăm có mang theo

một số quà đặc biệt thì được miễn (Li Tana, 1999, tr.144).

73

Tuy nhiên không phải trong trường hợp nào các chúa Nguyễn cũng tỏ ra dễ

dàng, mặc dù có mối quan hệ thân tình với các nước láng giềng như Xiêm, Chân

Lạp nhưng các chúa Nguyễn vẫn luôn duy trì những quy định rõ ràng cụ thể trong

việc kiểm soát chặt chẽ an ninh chủ quyền vùng biển. Điều này được thể hiện trong

Lệ nước tôi cứ ba năm làm một lần xét công, năm năm làm một lần cắt bổ, đã

có phép thường có dung những bọn tham ô đâu! Việc này chẳng qua là nước

Xiêm muốn miễn đánh thuế. Lại năm Quý Dậu thuyền của Chương thành

Dương nói từ Quảng Châu đến cả thuyền hàng hóa không có chút gì, không

cho vào cảng đó là lệ thường của bản quốc vậy…Đến như việc nước Xiêm xin

cho mười thẻ long bài, có cho cũng chẳng hại gì đâu nhưng chỉ sợ chủ thuyền

lại dẫm lên vết xe của Chương Thành Dương lấy tư mà hại công, lấy lợi mà hại

nghĩa.. Vậy hãy giữ một tấm dùng để đi lại (Lê Qúy Đôn, 1977, tr.338).

bức thư của vua Xiêm và chúa Nguyễn:

Các chúa Nguyễn lúc bấy giờ có những quy định khá chặt chẽ trong việc kiểm

soát tàu thuyền ra vào các cửa biển, đồng thời thể hiện ý thức bảo vệ chủ quyền ở

vùng biển một cách nghiêm ngặt trong việc đối phó với âm mưu của các nước láng

giềng. Để tăng cường việc kiểm soát tàu bè qua lại, tại các cảng như Hội An chúa

Nguyễn cho lập các trạm tuần ty kiểm tra và canh giác, đồng thời cho đặt các chức

quan chuyên trách gọi là Tàu ty gồm 173 người dưới quyền điều kiển của viên Cai

tàu. Ngoài cai tàu còn có một Tri tàu, hai Cai bạ, 2 Cai phủ, 2 Kí lục, 2 Thủ tàu, 6

cai phòng, 30 lệnh sử, 50 nhuệ binh, 70 lính tàu, 7 Thông sự. Các cơ quan này sẽ có

nhiệm vụ giám sát, kiểm tra cân lường và đóng mọc để các tàu đi qua.

Công cuộc khai thác và xác lập chủ quyền vùng biển được các chúa Nguyễn

tiến hành thông qua việc thành lập các đội thủy quân Hoàng Sa, Bắc Hải. Họ có

nhiệm vụ khai thác các sản vật ở các vùng quần đảo xa bờ như Hoàng Sa, Trường

74

Sa. Những hoạt động thực tiễn trên đã góp phần khẳng định chặt chẽ quyền chiếm

hữu và quản lý vùng biển của các chúa Nguyễn đối với vùng biển đông của nước ta

trong suốt 2 thế kỉ XVI - XVII. Khai thác hải sản và thu gom các sản vật của các tàu

Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù

Lao Ré…, phía ngoài nữa có đảo Đại Hoàng Sa, trước kia có nhiều hải vật và

hóa vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để đi lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới tới, là chỗ

gần xứ Bắc Hải. Phủ Quy Nhơn thì các cửa biển Tân Quan, Thời Phú, Nước

Ngọt, Nước Mặn đều có đảo nhiều yến sào, lập đội Thanh Châu để lấy. Ngoài

biển phủ Bình Thuận có núi gọi là Côn Lôn, rộng mấy dặm cũng nhiều yến

sào. Ở ngoài nữa có núi gọi là Cù Lao Khoai, trước có nhiều hải vật và hóa vật,

lập đội Hải Môn lấy (Lê Qúy Đôn, 1997, tr. 151).

đắm ở các đảo Hoàng Sa (tức Bãi Cát Vàng), Trường Sa (Đại Trường Sa):

Hầu hết các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đều có nguồn gốc là dân ở 2 đảo Lý Sơn,

An Vĩnh và Bắc Hải. Các cư dân này vừa có kinh nghiệm trong việc đi biển và khá

thạo trong việc tìm kiếm các sản vật và có nhiệm vụ giám sát biển đảo. Chính quyền

chúa Nguyễn cũng quy định cụ thể ngày giờ ra biển.Theo quy định là cứ tháng hai

hay tháng ba hằng năm thực hiện nhiệm vụ, nhà nước hỗ trợ họ về lương thực, sau

khi lên đênh trên biển suốt ba ngày. Họ đến đảo kiếm các hải vật và vô số các hải

vật từ các tàu đắm: “Hồi quốc sơ đặt Hoàng Sa, ngày nay cứ tháng ba cưỡi thuyền

ra đảo, 3 ngày 3 đêm là tới, đến tháng tám lại về vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân

để nộp, cân và định hạng xong mới cho bán riêng các thứ ốc vân, hải sâm, rồi lĩnh

bằng về” (Lê Qúy Đôn, 1997, tr. 155).

Mặc dù vùng biển Hoàng Sa thời tiết xấu gió bão nhưng do nguồn lợi về thủy

sản nên chính quyền chúa Nguyễn vẫn cử họ đi khai thác. Đội Hoàng Sa được thành

lập dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc cho rằng

chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã thành lập đội Hoàng Sa có nhiệm vụ khai thác các

sản vật và giám sát các hoạt động trên đảo xa bờ.

75

Khai thác tổ yến cũng được chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn chú

trọng. Các đảo dọc ven biển nước ta từ Quảng Bình cho đến Kiên Giang có các rặng

đá khe núi đá với nhiệt độ ẩm cao thích hợp cho chim yến làm tổ. Tuy nhiên các

đảo từ Bình Thuận đến Khánh Hòa và các đảo Côn Lôn, Phú Quốc là có nhiều tổ

yến hơn cả. Thời triều Nguyễn khai thác tổ yến đều do nhà nước tiến hành qua việc

ban hành các đạo dụ: “Vua bèn sai các dinh trấn hải phận nơi nào có yến sào thì

làm sổ tâu lên, cấm dân lấy trộm, ai lãnh thầu thì đánh thuế” (Lê Qúy Đôn, 1977).

Chính sách mở cửa ải của các chính quyền chúa Nguyễn đã có tác động sâu

sắc làm kinh tế Đàng Trong phát triển nhanh chóng. Thuyền buôn nước ngoài đến

Đàng Trong ngày càng nhiều như: Nhật Bản, Trung Hoa, Xiêm, Chân Lạp, Hà Lan,

Anh, Pháp.Thương mại Đại Việt chưa bao giờ khởi sắc như trong giai này, mặc dù

cũng mở cửa giao thương nhưng so với chúa Trịnh thì chính quyền chúa Nguyễn lại

tỏ ra niềm nở và thân thiết hơn. Giao thương buôn bán với bên ngoài đã giúp cho

vùng đất Đàng Trong phát triển nhanh chóng về kinh tế, diện tích và dân số. Li

Tana đã không nói quá khi cho rằng nếu như các nước khác thương nghiệp chỉ là

vấn đề làm giàu thì đối với Đàng Trong thương nghiệp là yếu tố sống còn.

Số lượng thuyền buôn đến ngày càng nhiều giúp cho chính quyền thu mua

được những số vũ khí cần thiết cho cuộc chiến chống họ Trịnh và mang lại nguồn

lợi dồi dào từ việc thu thuế. Thuyền buôn của các nước đến cửa biển nào thì đều

phải trình giấy thông hành, quan tuần Ty sẽ dựa vào đó mà kiểm xét số người trên

thuyền. Nếu chở thêm người ngoại quốc hay đồ vật mà không khai báo thì sẽ trị tội

theo luật tùy theo mức độ nặng nhẹ từ 50 roi đến 100 trượng.

Các chúa Nguyễn đã áp dụng một chính sách ngoại thương thông thoáng và

chủ trương không đóng cửa trước một quốc gia nào, tự do và mở cửa cho tất cả

người ngoại quốc vào Hội An buôn bán. Dưới thời Nguyễn Phúc Nguyên, Hội An

càng ngày càng thịnh vượng, không chỉ là thương cảng quan trọng của Đàng Trong

mà của toàn khu vực Đông Nam Á. Hàng năm, từ tháng giêng đến tháng sáu, các

thương nhân Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Quốc từ Macao, Manila, Malacca hoặc

từ Nhật Bản, Trung Quốc đến đây buôn bán. Chúa Nguyễn cũng tạo điều kiện thuận

lợi cho thương nhân Bồ Đào Nha đến vùng Đàng Trong mua bán và cho họ thuê

76

đất, định cư ở đây. Nhận định này đi ngược với quan điểm cho rằng chúa Nguyễn từ

chối cho người phương Tây lập thương điếm và định cư ở Đàng Trong. Tác giả

Trần Nam Tiến với bài viết Quan hệ giữa chúa Nguyễn với người Bồ Đào Nha ở

Đàng Trong (từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII trên Tạp chí nghiên cứu Lịch sử số 7 -

2012 cho rằng: “Chúa Nguyễn không chỉ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương

nhân Bồ Đào Nha đến đây mua bán mà còn cho phép các thương nhân này xây

dựng những cơ sở làm ăn, lập phố, xây kho như các thương nhân Nhật Bản và

Trung Quốc. Chúa Nguyễn còn cấp đất cho người Bồ Đào Nha lập một thành phố

gần cảng Đà Nẵng” (Trần Nam Tiến, 2012, tr. 44).

Bồ Đào Nha được coi là thương nhân mang lại nhiều lợi ích cho chúa Nguyễn,

nền mậu dịch tăng lên nhanh chóng, nguồn lợi từ các mức thuế và các sản vật nhiều

vô kể, vũ khí hiện đại như súng, đại bác cho cuộc chiến chống quân Trịnh.

Như vậy có thể khẳng định việc khai thác và xác lập chủ quyền trên vùng biển

đặc biệt là ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của nước ta đã có từ lâu đời và

được tiến hành một cách liên tục và xuyên suốt từ thời các chúa Nguyễn như

Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Khoát và được tiếp tục

trong triều đại Tây Sơn. Mặc dù chỉ là việc bắt nguồn từ việc sử dụng và chiếm hữu

lâu đời một lãnh thổ vô chủ, nhưng thông qua những hoạt động khai thác và tìm

kiếm sản vật, của các triều đại phong kiến từ thời chúa Nguyễn cho đến triều Tây

Sơn đã có tác dụng là tiền đề vô cùng quan trọng do việc đánh dấu chủ quyền một

cách chính thức và liên tục suốt triều đại nhà Nguyễn, cả thời Pháp thuộc và cho

đến hiện nay.

2.1.2. Chính sách khai thác kinh tế biển của vua Nguyễn thế kỉ XIX

* Đánh thuế vận tải:

Thời nhà Nguyễn kinh tế ngoại thương bị hạn chế bởi chính sách bế quan tỏa

cảng của chính quyền phong kiến. Trong giai đoạn này chủ nghĩa phương Tây đang

phát triển mạnh và tiến hành nhiều cuộc chiến xâm lược các quốc gia phương Đông

để tìm kiếm thị trường. Đứng trước bối cảnh đó chính quyền nhà Nguyễn bắt đầu có

những động thái dè dặt hơn trong chính sách ngoại giao. Mặc dù vậy các vua

Nguyễn vẫn mở cửa giao thương với bên ngoài ở khu vực nhất định: “Nếu như có

77

người phương Tây đến mậu dịch thì chỉ cho họ mậu dịch ở những nơi quy định như

cảng biển Đà Nẵng và Sơn Trà xong thì bảo họ đi, không cho phép họ cư trú trên

bờ và cũng không cho phép nhân dân làm buôn với họ để tránh việc bé xé ra to”

(Đại Nam thực lục 1, 2002). Giống với thời chúa Nguyễn trước đây các vua Nguyễn

cũng đánh rất cao thuế nhập cảng. Phương thức đánh thuế là dựa vào xuất xứ của

các loại thuyền. Theo đó thuyền có xuất xứ từ các nước phương Tây luôn chịu thuế

cao hơn các nước phương Đông. Thời Gia Long định nghạch thuế cho các tàu buôn

nước ngoài theo đó ngoài việc đóng thuế ra vào cảng thì các thuyền buôn phương

Tâycòn phải dâng cống đồ vật cho vua, lệ phí ăn uống cho các thuyền viên “Thuyền

chủ là Đại Pháp là Cốt Tu My tới buôn ở cửa Đà Nẵng đem dâng đồ hóa vật của

Nguyễn thuyền nhập cảng 10 phần cho 5; pháp phẩm vật trong kho gởi cho ông

Chấn, ông Thắng và gởi sắc dụ hỏi thăm” (Đại Nam thực lục tập 1, 2002).

Thời Minh Mạng quy định lại mức thuế nhập cảng của thuyền buôn nước

ngoài. Đổi định lệ thuế cảng và lễ cho các thuyền buôn nước ngoài. Trước đến nay

tùy theo xứ sở thuyền buôn mà tính nhiều ít không đều, chưa được hoạch nhất bèn

chuẩn định rằng phàm tiền bạc đánh vào thuyền hộ gọi chung là thuế cảng và lễ, cứ

khi mãn kỳ thí các quan sở tại nộp kê tổng số tiền chia ra thuế cảng và lễ (lấy tổng

số tiền thu được chia làm 100 phần, 78 phần làm thuế cảng, 22 phần làm lễ, tiến lên

vua 5 phần, cung Từ Thọ 4 phần, điện Thanh Hòa 3 phần, quan cai tàu 10 phần.

Để kiểm soát các tàu buôn nước ngoài đến vùng Đàng Trong các vua Nguyễn

giữa chức Tàu ty thời chúa Nguyễn trước đây nhằm mục đích kiểm soát các tàu

buôn ra vào cảng, kiểm tra lộ trình và định ngạch thuế. Ngoài ra vua Gia Long còn

đặt thêm: “Nha Thương Bạc ở Đà Nẵng thay mặt nhà nước quan hệ chủ yếu với

thuyền buôn phương Tây” (Đại Nam thực lục 1, 2002). Thời Minh Mạng cũng quy

định các thuyền buôn ở Kinh đô, Quảng Bình, Quảng Trị đều được giảm từ 4 phần

10 tiền thuế, các tỉnh còn lại thì giảm 2 phần 10 thuế nhập cảng.. Thời Minh Mạng

quy định việc đánh thuế thuyền của Triều Châu: Thanh Hoa trấn thần Tôn Nhật

Dịch tâu về việc thuyền họ Triều Châu viên phục hưng tới buôn bán đã khám xét

đánh thuế thân lễ - lệ. Phụng chỉ tri đạo biểu (Đại Nam thực lục tập 2, 2006)

78

Cùng với việc đánh thuế chính sách quản lí thuyền buôn nước ngoài đặc biệt là

Thời Minh Mạng ấn định từ nay phàm thuyền ngoại quốc đến phận cửa biển

Đà Nẵng tỉnh Quảng Nam, không cứ là hiệu cờ nước nào và dáng thuyền thế

nào, người coi giữ cửa biển lập tức thân đến hỏi cho rõ, việc quan yếu thì tập

tâu lên, do trạm ngựa đệ đi, việc thường cũng nhờ tư bộ chuyển lên để biết

ngay tình trạng trái lệnh phải tội (Đại Nam thực lục tập 2, 2006, tr. 302 ).

các thuyền buôn khi neo đậu ở cửa biển Đà Nẵng được siết chặt hơn:

Như vậy bên cạnh việc mở cửa cho các thuyền buôn vào trao đổi buôn bán và

nhà nước theo lệ thu thuế thì ở những vùng trọng yếu thì chính quyền phong kiến

luôn đặt các cơ quan kiểm soát, các hải trấn, hải đài không chỉ có tác dụng thu thuế

mà còn có nhiệm vụ kiểm soát, giám sát tình hình an ninh của các thuyền buôn

nước ngoài.

Nhìn chung, chính sách đánh thuế thuyền buôn nước ngoài thời chúa Nguyễn

và vua Nguyễn có hai loại: thuế nhập cảng và thuế hàng hóa. Thuế đi và đến của

thuyền buôn nước ngoài đều lấy chiều ngang của thuyền làm căn cứ đánh thuế và

mức thuế khác nhau đối với từng cảng. Thời Gia Long quy định cùng một hạng

thuyền ngang từ 14 - 25 thước nếu vào cửa biển Đà Nẵng hay kinh thành Huế thì

phải nộp 96 quan tiền nhưng nếu vào cảng Sài Gòn hay các cảng khác thì phải nộp

đến 160 quan.Trong thời Nguyễn cho đóng thêm nhiều loại thuyền vận tải và cho

phép kích thước thuyền rộng hơn để có thể chuyên chở nhiều loại hàng hóa hơn

trước. Bên cạnh đó chính quyền Nguyễn cũng định lệ thuyền vận tải về:

+ Phép đo thuyền

* Bề dài: Lấy từ phần ván từ đầu đến cuối thuyền.

* Bề ngang: từ mạn thuyền bên trái đến mạng thuyền bên phải làm bề ngang,

* Bề sâu: Từ đỉnh thuyền đến mê thuyền

+ Lệnh bài: Các thuyền có bề ngang 5 thước trở lên đều được nhà nước cấp

lệnh bài. Theo đó để ra vào các cảng trên mỗi lệnh bài sẽ ghi rõ về trọng lượng, kích

thước của thuyền cùng với tên chủ sở hữu thuyền đó.

79

Các hạng thuyền công và tư có bề ngang từ 7 thước đến 7 thước 5 tấc chở

lương công là 450 phương (tức giạ); từ 7 thước 6 tấc đến 7 thước 9 tấc, chở

550 phương; 8 thước đến 8 thước 5 tấc, chở 650 phương; từ 8 thước 6 tấc đến 8

thước 9 tấc, chở 750 phương; 9 thước đến 9 thước 5 tấc, chở 850 phương; 9

thước 6 tấc đến 9 thước 9 tấc, chở 1.000 phương; từ 10 thước đến 10 thước 5

tấc chở 1.200 phương; 10 thước 6 tấc đến 10 thước 9 tấc, chở 1.400 phương;

11 thước đến 11 thước 5 tấc chở 1.600 phương; 11 thước 6 tấc đến 11 thước 9

tấc, chở 1.800 phương; 12 thước đến 12 thước 5 tấc chở 2.000 phương; 12

thước 6 tấc đến 12 thước 9 tấc, chở 2.200 phương; 13 thước đến 13 thước 5 tấc

chở 2.400 phương; 13 thước 6 tấc đến 13 thước 9 tấc, chở 2.600 phương; 14

thước đến 14 thước 5 tấc chở 2.800 phương; 14 thước 6 tấc đến 14 thước 9 tấc,

chở 3.100 phương; 15 thước đến 15 thước 5 tấc chở 3.400 phương; 15 thước 6

tấc đến 15 thước 9 tấc, chở 3.700 phương; 16 thước đến 16 thước 5 tấc chở

4.000 phương; 16 thước 6 tấc đến 16 thước 9 tấc, chở 4.300 phương; 17 thước

đến 17 thước 5 tấc chở 4.600 phương; 17 thước 6 tấc đến 17 thước 9 tấc, chở

4.900 phương; 18 thước đến 18 thước 5 tấc chở 5.200 phương; 18 tấc 6 tấc đến

18 thước 9 tấc, chở 5.500 phương; 19 thước đến 19 thước 5 tấc chở 5.800

phương; 19 thước 6 tấc đến 20 thước, 649 chở 6.100 phương (Đại Nam thục

lục tập 1, 2002, tr. 708 - 709).

+ Lệ trọng tải

Bên cạnh đó các vua Nguyễn cũng quy định các thuyền vận tải một năm chở

của công cho triều đình, thì năm sau sẽ được đi buôn. Ngoài ra chính quyền còn hỗ

trợ chi phí cho những tàu gặp gió bão hay hư hỏng.

Thuế vận tải: Những thuyền làm nhiệm vụ chở lương thực và sản vật cho

triều đình thì đều được miễn thuế, các loại thuyền tư hay thuyền buôn, thuyền chở

80

hàng hóa vận tải đóng thuế theo quy định thuyền ván bề ngang từ 5 thước trở lên

đóng 3 quan tiền, thuyền ngang và thuyền đánh cá đóng bằng một nửa thuyền ván.

Để kiểm soát chặt chẽ việc vận tải trên thì chính quyền chúa Nguyễn và triều

Nguyễn đều cấp giấy phép và thu thuế. Nhà nước cũng thực hiện việc khen thưởng

Kẻ nào dám làm bài thuyền giả để đi buôn hay cho người khác thuê mượn, một

khi bị tố cáo bắt giải thì kẻ làm giả và kẻ thuê mượn đều bị tội chết, thuyền và

hàng hóa thì nửa sung vào nhà nước, nửa thưởng cho người tố cáo bắt giải (Đại

Nam thục lục tập 2, 2006).

Thời Nguyễn thì quy định: Từ nay việc biên chở của công ở Kinh phái đi các

địa phương và chở những sản vật ở địa phương về kinh, mà cả hai chuyến đi

đều chở thì cấp thêm gạo bằng một tháng lương nếu chỉ chở 1 chuyến thì được

một nửa (Đại Nam thực lục tập 2, 2006)

và xử phạt đối với các thuyền vận tải:

Đến thời nhà Nguyễn trọng tải thuyền được quy định lại theo đó: thuyền đại

dịch, thuyền miễn dịch chỉ được giới hạn kích thước xà ngang từ 7 thước đến 17

thước 9 tấc; thuyền nan đi buôn có kích thước nhỏ hơn, xà ngang lòng thuyền không

vượt quá 10 thước 9 tấc; kích thước thuyền ván đi buôn lại càng nhỏ, xà ngang lòng

thuyền chỉ từ 6 thước 9 tấc trở xuống. Nhà nước quy định thuyền đại dịch nộp thuế

cảng theo kích thước, theo đó miễn thuế vận tải mỗi năm từ 31 quan tiền (cho

thuyền kích thước xà ngang từ 7 thước đến 7 thước 5 tấc), đến 294 quan tiền (cho

thuyền xà ngang từ 17 thước 6 tấc đến 17 thước 9 tấc). Cùng năm đó, thuyền miễn

dịch dựa vào trọng tải của thuyền để nộp, cứ mỗi 57 phương 9 thăng, trọng tải phải

nộp 2 quan tiền chuyên tiền. Những năm thuyền phải đi vận tải thì được miễn thuế

năm Bính Tý (1816).

Bên cạnh việc quản lý tàu thuyền, triều đình còn cấp giấy thông hành, cho

miễn một số loại thuế khi ra vào các cảng, triều đình thông qua việc cấp giấy phép

và thu thuế. Các loại thuyền làm nhiệm vụ tuần tra và khai thác sản vật thì được nhà

nước cấp giá cước khi khi buôn sẽ được hưởng nhiều chính sách ưu tiên.

81

Ngoài ra còn dựa vào xuất xứ của thuyền theo đó các chính quyền phong kiến

Nguyễn đều đánh thuế mạnh các thuyền buôn phương Tây giảm nhẹ cho thuyền

buôn Đông Nam Á và Trung Hoa, ngoài ra mức thuế ở các cảng biển Đàng Trong

không giống nhau. Càng xa kinh đô thuế càng giảm chẳng hạn theo đạo dụ của Gia

Long “giảm một nửa thuế lệ cho những thuyền ngoại quốc đến buôn ở Long Xuyên

đất hẹp dân nghèo, hàng hóa của lái buôn đều loàn xoàn cả” (Đại Nam thực lục tập

2, 2006).

Thứ hai là thuế hàng hóa tùy theo khối lượng hàng hóa mà thuế đánh nhiều

hay ít. Ví dụ thuế nhập cảng chiếm 5% giá sản phẩm, ván gỗ đóng thuyền là 10%.

Ngoài ra chính quyền cũng cấm xuất khẩu vàng, bạc, gạo tiền đồng và một số

hương liệu khác. Các sản phẩm nhập khẩu liên quan đến quân sự và khoáng sản như

sắt, kẽm, đồng, diêm tiêu phải bán thẳng cho nhà nước. Tuy nhiên do nguồn lợi lớn

mà mặt hàng này mang lại vì thế một số tư nhân đem trộm gạo bán cho các lại buôn

người Hoa. Chính quyền tiến hành nhiều các biện pháp chặt chẽ: “Vua thấy ở Gia

Định có nhiều gian thương chở trộm thóc gạo đem bán ở Hạ Châu cho lái buôn

người Thanh, sai đình thần bàn định điều cấm để trừ lệ ấy” (Đại Nam thực lục tập

2, 2006, tr. 343).

Đến thời Thiệu Trị xảy ra các cuộc đụng độ với người Phương Tây trên biển

và việc quân đội người Pháp bắn chìm các chiến thuyền của Việt Nam tại cảng Đà

Nẵng năm 1822 và năm 1825, vì thế quan hệ giao thương với phương Tây bị tổn hại

nghiêm trọng. Ngoài ra trong giai đoạn này chiến tranh Nha phiến bùng nổ ở Trung

Quốc. Theo đó đế quốc Anh buộc Trung Quốc phải mở cửa mua thuốc phiện của

nước này xuất khẩu sang. Nhận thấy bất lợi từ việc buôn bán với người Phương Tây

nên chính quyền Thiệu Trị và Tự Đức sau này đều hạn chế ngoại giao với họ.

Việc mở cửa thông thương với nước ngoài đã tạo nên sự thay đổi nhanh chóng

về kinh tế, bên cạnh nguồn lợi về sản phẩm hàng hóa, số lượng vũ khí hiện đại

ngoại thương còn mang lại nguồn lợi vô cùng to lớn từ thuế khóa. Việc đánh thuế

còn tạo điều kiện cho chính quyền họ Nguyễn có thể kiểm soát và quản lí chặt chẽ

các hoạt động an ninh vùng biển ngăn chặn những hành động gây rối và xâm phạm

chủ quyền của các quốc gia khác.

82

Với nhận thức và tư duy hướng biển các triều đại phong kiến Nguyễn từ chúa

Nguyễn đến nhà Nguyễn đều khai thác tốt nguồn lợi tự nhiên mà biển mang lại

trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hoạt động buôn bán trên biển

đóng vai trò quan trọng trong kinh tế nước ta thời Nguyễn. Trong giai đoạn này

chính quyền Nguyễn tiến hành đánh thuế mạnh các tàu buôn của Phương Tây và

một số mặt hàng nhất định. Điều này làm cho hoạt động thương mại giữa Đại Việt

với các nước phương Tây có sự giảm sút.

Các thương cảng sầm uất nổi tiếng ở các thế kỉ trước đây như Hội An, Phố

Hiến, Thanh Hà suy tàn và không thể phục hồi. Các thương cảng Đà Nẵng, Gia

Định bắt đầu thay thế cho các cảng thị trước đây. Thời Minh Mạng các hoạt động

giao dịch buôn bán được tiến hành thông qua các cuộc viễn dương. Chính quyền

thường đem các mặt hàng gạo, đường, muối, cá, hải sâm, yến sào, cánh kiến, ngà

voi và sừng tê đến các nước phương Đông trao đổi. Hàng mua về chủ yếu là vải, len

dạ, súng đạn, trà và rượu. Trong thời nhà Nguyễn hoạt động ngoại thương được tiến

hành bởi nhà nước và tư nhân. Tuy nhiên phần lớn hoạt động viễn đương đều do

nhà nước tiến hành vì quy định cấm mang vũ khí lên tàu nên các thuyền buôn tư

nhân luôn bị tổn thất nặng nề trước cuộc tấn công của hải tặc ở vùng biển Tây Nam.

Trong hoạt động ngoại thương thời Nguyễn các thương nhân người Hoa có vai

trò quan trọng vừa là thị trường tiêu thụ rộng lớn vừa là trung gian trong quan hệ

thương mại giữa Trung Hoa và Việt Nam. Chính quyền nhà Nguyễn cho người Hoa

được tự do đi lại trong nước và mua gạo trực tiếp từ nơi sản xuất mà không bị hạn

chế bởi các điều khoản hay quy định của chính quyền. Theo nhận định của một viên

quan người Pháp là Rheinart:

“Người Hoa có vị trí đặc biệt trong nước họ được coi như người An

Nam, họ được hưởng quyền tự do đi lại như người trong nước, khác với

thương nhân của tất cả các nước khác” (Isukiya Suboi, 2016, tr.180).

Thời Minh Mạng nhờ vào giảm thuế và khuyến khích thương nghiệp nên số

lượng các thuyền buôn Trung Quốc đến nước ta buôn bán ngày càng nhiều. Dựa

vào số liệu trong Đại Nam thực lục tập 2 trang 101 tác giả xây dựng được bảng số

liệu sau:

83

Bảng 2.2. Thống kê số lượng thương thuyền Trung Hoa vào cảng nước ta mỗi

năm:

Tên cảng Số lượng (chiếc) Trọng tải (tấn)

Sài Gòn 30 6500

Hội An 16 3000

Huế 12 2500

Đông Kinh 38 5000

Các cảng khác 20 2300

Tổng cộng 110 19300

Thời Nhà Nguyễn do hạn chế buôn bán với người phương Tây nên các

thương nhân đến Đà Nẵng trao đổi chủ yếu là người Hoa, Xiêm, Mã Lai. Trong đó

đông đảo nhất là người Hoa. Các mặt hàng của người Hoa rẻ và phù hợp với nhu

cầu tiêu dùng của nhân dân vì thế được ưa chuộng. Ngoài ra trong giai đoạn này

chính quyền Trung Quốc bỏ lệnh hải cấm nên các thương nhân người Hoa được tự

do trao đổi và buôn bán với nhiều nước trong khu vực. Nhìn vào bảng số liệu trên

có thể thấy số lượng các thuyền buôn của người Hoa đến nước ta chiếm tỉ lệ lớn.

Thời nhà Nguyễn quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và Trung Quốc có sự khởi

sắc. Số lượng thuyền buôn người Hoa cập bến ở Sài Gòn và Đông Kinh chiếm tỉ lệ

cao hơn so với các khu vực khác. Sau khi Cù Lao Phố bị tàn phá trong cuộc chiến

Tây Sơn - Nguyễn Ánh, người Hoa đã di chuyển đến vùng Sài Gòn và chọn Chợ

Lớn làm nơi sinh sống và trao đổi hàng hóa. Số lượng người Hoa đến đây ngày

càng đông dần dần biến vùng đất này trở thành trung tâm thương mại sầm uất. Sau

khi Chúa Nguyễn cử đốc suất Nguyễn Cửu Đàm đào kênh Ruột Ngựa nối liền vùng

Sài Gòn với vựa lúa miền Tây, giao thương và vận chuyển hàng hóa trở nên thuận

lợi hơn. Lúa gạo được vận chuyển từ vùng miền Tây đến vùng Sài Gòn thông qua 3

cửa chính: Cần Giờ, Đồng Tranh và Soài Rạp. Người Hoa có vai trò quan trọng

trong việc phát triển kinh tế vùng đất Sài Gòn.

Họ có một hệ thống bao thu có vai trò thu mua số lượng hàng hóa lớn từ nơi

sản xuất, phân phối đến các thương nhân nước ngoài. Các thương nhân người Hoa

84

còn hình thành nên các phường hội, thương hội có tác dụng giúp đỡ nhau sản xuất,

thống nhất về giá và giảm sự cạnh tranh lẫn nhau. Hàng hóa trao đổi ở Sài Gòn bao

gồm nhiều loại nhưng chủ lực nhất là gạo.Thông qua hoạt động thương mại của

người Hoa, gạo trở thành mặt hàng trao đổi quan trọng và có giá trị cao đưa Gia

Định trở thành thị trường lúa gạo lớn và sầm uất nhất của nước ta vào thế kỉ XVIII.

Các thuyền buôn của phương Đông, phương Tây và Trung Hoa đến Sài Gòn ngày

càng đông. Thương cảng Sài Gòn là nơi neo đậu thường xuyên của hàng trăm

thuyền buôn người Hoa lẫn người phương Tây lui tới. Ngoài gạo là mặt hàng chính

họ còn mua đường trắng. Đây là sản phẩm được các thương nhân ưa chuộng vì

đường của Đàng Trong hạt trắng, mịn. Trong Gia Định thành thông chí của Trịnh

Hoài Đức có viết: “Gia Định là chỗ đô hội thương thuyền của cả nước cho nên có

hàng trăm món hàng hóa hội tụ ở đây.”(Trịnh Hoài Đức, 2001).

Sau khi đánh bại Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Gia

Long thống nhất đất nước, để thuận tiện cho việc cai trị vua Gia Long thành lập hai

cơ quan cai trị phía Bắc có Bắc Thành, phía Nam có Gia Định Thành. Sài Gòn

thuộc Gia Định thành, đây thực sự là một trung tâm sản xuất và thương mại, nội địa

cũng như quốc tế. Ngoài xưởng đóng tàu hoàng gia, các mặt hàng ở đây sản xuất

theo lối thủ công nghiệp là chính. Từ khi Gia Long dời đô về Huế, Sài Gòn đã mất

đi phần nào ngành thủ công nghiệp cao cấp, ngành sản xuất vũ khí và ngành đóng

tàu chiến. Nhưng nền kinh tế chính của Sài Gòn vẫn là buôn bán gạo và các nông

sản khác. Gạo được xuất sang tận Manille, Batavia hay Malacca. Việc chuyên chở

do các ghe thuyền Hoa và tàu biển Âu Châu (mấy chục chuyến mỗi năm) đảm

nhiệm. Nguồn thu nhập này đã giúp mở rộng thêm diện tích canh tác vừa phát triển

giao thông thuận lợi. Nhờ đó tiềm lực phát triển của thành phố ngày càng được củng

cố. Với hoạt động giao thương sầm uất giúp cho Sài Gòn trở thành trung tâm kinh tế

và văn hóa. Giữa thế kỉ XIX Sài Gòn vươn trở thành thành phố cảng thương mại lớn

của vùng Đông Nam Á.

*Khai thác vận tải đường biển

Cùng với việc cho lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đi khai thác các khoáng vật.

Chính quyền nhà Nguyễn cũng xây dựng hệ thống vận tải đường biển, để liên kết

85

các vùng, tiện lợi cho việc vận chuyển hàng hóa khắp nơi về kinh đô, đồng thời là

công cụ hỗ trợ đắc lực cho sự quản lí của chính quyền tới các địa phương và các

vùng hải đảo. Hệ thống trục đường thủy còn giúp tạo sự tiếp biến văn hóa vùng

miền, hình thành một mạng lưới thương mại khắp nơi trong cả nước, nối các vùng

địa phương với nhau và địa phương với trung ương và sau đó nhanh chóng tỏa đi

khắp các khu vực. Cùng với hệ thống giao thông đường thủy thuận lợi, chính quyền

phong kiến còn chủ trương xây dựng các cảng biển là nơi cho tàu thuyền nước

ngoài neo đậu, tránh bão và trao đổi hàng hóa. Chính quyền nhà Nguyễn sử dụng

đường biển để tiện lợi cho việc vận chuyển hàng hóa từ các vùng về kinh đô và

ngược lại. Vận tải đường biển giúp cho chính quyền tiết kiệm được một số chi phí

và mang lại hiệu quả cao, ngoài ra vận tải đường biển có vai trò quan trọng trong

việc bảo vệ vùng biển: “Các thuyền vận tải đường biển, một là để chuyên chở, một

là để diễn tập việc binh, tiện cả hai việc” (Đại Nam thục lục tập 2, 2006).

Chính điều kiện tự nhiên thuận lợi cộng với chính sách ưu đãi của chính quyền

với thương nhân nước ngoài, đã khiến cho thuyền buôn từ khắp nước tìm đến đây

trao đổi mua bán mang lại cho chính quyền nguồn lợi đáng kể từ việc thu thuế.

* Khai thác các hải sản ở biển

Khai thác yến sào

Yến sào là sản phẩm đem lại giá trị kinh tế cao và đây cũng được coi là nguồn

dược liệu quý, ngay từ thời Chúa Nguyễn đã cho thành lập đội Thanh Châu, Quế

Hương đi khai thác sản phẩm này.Vùng biển nước ta với vô số các đảo lớn nhỏ nằm

dọc biển với khí hậu nhiệt đới ẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho chim yến làm tổ.

Giống với thời chúa Nguyễn, thời nhà Nguyễn việc khai thác tổ yến được nhà nước

tiến hành. Sản phẩm yến được nhà nước trực tiếp mua lại. Chính quyền cũng ban

những quyền lợi nhất định cho những người đi khai thác yến, cũng giống với giai

đoạn trước, họ được miễn thuế thân, thuế xâu và miễn việc đi lính…

Thời Gia Long thành lập được 2 đội khai thác yến sào: Đội thứ nhất gồm có

10 người, đội thứ hai gồm 18 người.Hầu hết đều là người ngoại tịch, không quy

định cụ thể việc tham gia ai muốn tham gia thì viết đơn xin tham gia là được. Mức

86

thuế yến sào của các đội này như sau:“ nộp thuế yến 4 cân, cộng 100 lạng, số quân

của đội là 38 người, mỗi người theo lệ dâng nộp 8 lạng” (Đỗ Bang, 2016).

Thời Minh Mạng việc khai thác yến sào được đẩy mạnh và tiến hành liên tục,

thành lập những đội khai thác ở khắp vùng ven biển. Những đội thu hoạch yến

trước đây đổi thành đội lấy yến, hộ trưởng, đội trưởng và mộ dân thực hiện việc lấy

yến: “Năm Minh Mệnh thứ 10 [1820] Đổi hai hộ Yến ở Quảng Nam làm Yến Hộ,

đội trưởng làm hộ trưởng” (Đại Nam thực lục tập 2, 2006, tr.66). Các hộ lấy yến

đều có đặt dưới sự quản lý của người đứng đầu.

Ở các đảo xa bờ như Phú Quốc và Côn Lôn nơi có số lượng yến sào lớn, chính

quyền cho thành lập ở đây những đội khai thác yến. Bên cạnh việc khai thác tổ yến

họ còn có nhiệm vụ là quản lý và bảo vệ vùng biển. Việc lấy yến được tiến hành

theo mùa vụ hằng năm: “Hằng năm chính quyền cử các đội tháng hai đi lấy, đến hạ

tuần tháng tư là hết, nếu có gió mưa thì kéo dài đến tháng 5, 6”. Tuy nhiên không

phải lúc nào những hộ đều khai thác đủ số lượng yến theo quy định, có khi đủ khi

không vì thế đối với những hộ khai thác không đủ số lượng yến thì chính quyền

cho nộp thay bằng tiền “ Chuẩn cho yến hộ ở Quảng Bình và Bình Định được nộp

thay bằng tiền thuế yến sào (Hạng nhất 1 cân nộp thay 40 quan tiền, hạng nhìn 30

quan, hạng ba 18 quan.)” (Đại Nam thực lục tập 2, 2006 tr.184). Yến sào là mặt

hàng mang lại giá trị cao nên chính quyền phong kiến độc quyền khai thác sản

phẩm này. Đối với các hành động gian lận, khai thác trộm đều bị xử lý nghiêm ngặt.

Bên cạnh việc khai thác yến chính quyền phong kiến cũng cho thành lập các

đội khai thác hải sâm: “Đặt đội thái sâm [lấy sâm] ở Quảng Ngãi (Các núi ở Sa Kỳ

có nhiều sâm, hạ lệnh cho trấn thần đặt đội lấy sâm, mộ dân ngoại tịch 50 người

sung vào” (Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 1000)

Để tăng cường diện tích đất, các vua Nguyễn cũng khuyến khích người dân

đến khẩn hoang và sinh sống ở các vùng hải đảo xa bờ. Những lực lượng ngư dân

này vừa làm nhiệm vụ khai thác vừa là tai mắt của chính quyền. Thời chúa Nguyễn

trước đây các đảo Phú Quốc, Côn Lôn đã được khai hoang và có dân cư sinh sống.

Đến thời nhà Nguyễn thì số lượng cư dân ở đây tăng lên nhanh chóng. Chính quyền

nhà Nguyễn tiến hành thiết lập các trại quân để thu thuế và bảo vệ các hoạt động

87

của ngư dân. Ngoài ra họ còn hợp tác với các ngư dân tiến hành khai thác yến sào:

“lính đồn Phú Quốc, tỉnh Hà Tiên kiếm được 21 cân nên thưởng 20 quan để tỏ lòng

khuyến khích” (Đại Nam thục lục 2, 2006). Chính quyền còn tiến hành cho ngư dân

tiến hành khẩn hoang một số hải đảo lớn nhỏ.

Với cái nhìn hướng biển, các vị vua triều Nguyễn thi hành nhiều chính sách

khai thác các thế mạnh của biển để phát triển nội lực kinh tế, liên kết các khu vực

với nhau bằng hệ thống đường thủy và giữa triều đình với thế giới bên ngoài. Các

hoạt động khai thác của chính quyền nhà Nguyễn được tiến hành thường xuyên, liên

tục và hòa bình. Những chính sách khai thác trên đã thể hiện ý thức và tư duy

hướng biển sâu sắc của chính quyền họ Nguyễn và vương triều Nguyễn. Mặc dù

còn hạn chế nhưng những chính sách trên đã cho thấy nhân tố biển có nghĩa quan

trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ quốc gia thống nhất.

2.2. Tổ chức và hoạt động của lực lượng thủy quân ở hai quần đảo Trường Sa -

Hoàng Sa

* Nguồn gốc ra đời của đội thủy quân Hoàng Sa

Thời Lê Sơ năm 1471 khi vua Lê Thánh Tông chiếm kinh đô Chà Bàn (nay

thuộc tỉnh Bình Định) của Vương quốc Chămpa. Sau đó cho thiết lập đạo thứ 13 là

đạo thừa tuyên Quảng Nam (nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và

thành phố Đà Nẵng), gồm 3 phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài Nhân, tỉnh Quảng

Ngãi thuộc Phủ Tư Nghĩa. Năm 1470 vùng đất Quảng Nam thuộc quyền quản lí của

nhà Lê. Đến thời chúa Nguyễn, khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng đất Thuận

Hóa thì vùng này thuộc trên thực tế thuộc quyền quản lí của chính quyền Đàng

Trong. Năm 1602, Nguyễn Hoàng đổi thành dinh Quảng Nam và phủ Tư Nghĩa đổi

thành phủ Quảng Ngãi hay Quảng Nghĩa. Ngoài ra chính quyền còn cho thiết lập ở

đây các chức quan Tuần phủ và Khánh lí cai trị.

Thời chúa Nguyễn các hoạt động khai thác sản vật và mở rộng giao lưu buôn

bán với bên ngoài bằng đường biển được thúc đẩy mạnh mẽ. Giữa bối cảnh phải

đương đầu với chúa Trịnh đã thúc đẩy cho các chúa Nguyễn phải tiến hành các hoạt

động khai thác mở rộng lãnh thổ trên đất liền, làm chỗ dựa vững chắc cho sự phát

triển kinh tế - xã hội để tạo thế lực đối kháng với chúa Trịnh. Cùng với công cuộc

88

Nam tiến các chúa Nguyễn còn nhận thấy những tiềm năng quan trọng mà vùng

biển mang lại cho sự tồn vong của triều đại mình. Vì thế ngay từ rất sớm các chúa

Nguyễn đã có tầm nhìn hướng biển, chọn biển làm hướng đi quan trọng cho sự phát

triển về kinh tế như là chỗ dựa vững chắc về mặt an ninh quốc phòng. Trước đây

các hoạt động khai thác biển chưa được chú ý nhiều. Chủ yếu trong giai đoạn này là

các hoạt động đánh bắt và khai thác của ngư dân. Ngoài ra chính quyền Đàng Trong

chú trọng kêu gọi dân đến khai khẩn các vùng ven biển và hải đảo. Thời chúa

Nguyễn quần đảo Hoàng Sa được đặt dưới sự quản lý của các đạo thừa tuyên tỉnh

Quảng Nam.

Chỉ đến thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên mới thành lập đội thủy quân Hoàng Sa

nhằm tìm kiếm sản vật và hóa vật ở các quần đảo xa bờ đặc biệt là quần đảo Hoàng

Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào,

cắt phiên mỗi năm cứ đến tháng hai nhận giấy sai đi, mang theo lương thực sáu

tháng, đi bằng năm chiến thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày đêm thì đến đảo ấy.

Ở đấy tha hồ bắt chim, bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu như gươm ngựa,

hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, tiền đồng, khối chiếc, khối chì, súng, ngà voi và sáp

ong, đồ sứ, đồ chiên cũng là kiếm lượm vỏ đồi mồi hải ba, hải sâm, hột ốc vân

rất nhiều.Đến kì tháng tám thì về vào đến cửa Eo (tức cửa Thuận An) đến

thành Phú Xuân để nộp…(Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 155).

Sa

Thủy quân Hoàng Sa thành lập đã cho thấy vị thế kinh tế của vùng biển trong

cái nhìn của các chúa Nguyễn. Thời chúa Nguyễn, xã An Vĩnh bao gồm hai khu vực

cách nhau là làng An Vĩnh ở cửa biển Sa Kỳ trong đất liền và thôn An Vĩnh ở Cù

Lao Ré (huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi). Vì thế, khi lựa chọn đội thủy quân đi

Hoàng Sa, luôn bao gồm dân cư của hai làng An Vĩnh trên đất liền và ven biển. Do

việc đi ra đảo Hoàng Sa nguy hiểm nên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa hai vùng

đất liền và vùng biển, chưa có sự phân chia.

89

Theo nhiều nhà sử học, mãi đến năm 1773 khi làng An Vĩnh ở Cù Lao Ré tách

thành một làng độc lập thì đội Hoàng Sa bấy giờ phân chia thành hai đội Hoàng Sa

Nhất ở cửa biển Sa Kỳ và Hoàng Sa Nhị ở vùng biển Cù Lao Ré. Mãi đến năm

1804 khi triều đình công nhận phường An Vĩnh là một đơn vị hành chính độc lập thì

Cù Lao Ré mới trở thành nơi cung cấp lực lượng cho đội thủy quân Hoàng Sa.

Vùng cửa biển Sa Kỳ bao gồm cửa biển, không có sông chảy ra nên không có hiện

tượng cát bồi, có độ sâu tương đối tốt để làm cảng (thuyền) thời bấy giờ. Vì thế, hai

bên cửa biển có đông dân cư sinh sống, nhiều nhất là bờ phía Nam, xã An Vĩnh,

sống bằng nghề biển và nông nghiệp, cách phủ Quảng Ngãi gần 30km. Bờ phía Bắc

thuộc xã An Hải, ít trù phú, ít dân cư hơn.

Vùng biển Sa Kỳ, Cù Lao Ré có rất nhiều các nguồn hải sản quý có giá trị

kinh tế cao như hải sâm, đồi mồi, ba ba đã thu hút những ngưởi đi biển tài giỏi tìm

đến đây để khai thác nguồn lợi của vùng quần đảo này và làm cho số ngư dân trong

vùng tăng lên nhanh chóng. Đây cũng là lí do mà vùng đảo Cù Lao Ré trở thành cái

nôi của đội thủy quân Hoàng Sa.

*Tổ chức thủy quân Hoàng Sa

Thủy quân Hoàng Sa là một tổ chức dân binh vừa mang tính dân sự vừa mang

tính quân sự; vừa là tổ chức tư nhân vừa làm theo kiểu nhà nước đồng thời cũng vừa

làm nhiệm vụ kinh tế vừa làm nhiệm vụ quân sự. Thông qua các hoạt động khai

thác sản vật trên biển họ cũng đồng thời tiến hành các hoạt động như tuần tra, giám

sát, thăm dò, kiểm tra các hoạt động trên biển đồng thời sẵn sàng ứng phó với các

lực lượng khác khi xảy ra những bất ổn trên biển.

Hầu hết lực lượng của đội thủy quân Hoàng Sa được lấy từ các dân ở huyện

Cù Lao Ré gọi là chính binh (hay nội binh). Bên cạnh đó các quan trấn thủ hay lưu

thủ ở các địa phương còn chú ý mộ dân từ khắp các địa phương khác không giới

hạn số lượng làm nhiệm vụ canh giữ ở các cửa biển gọi là ngoại binh. Số quân này

đông hơn nhiều so với quân chính binh, họ không được hưởng những quyền lợi như

quân chính binh như được trả lương, được cấp lương thực mà chủ yếu chỉ là được

miễn sưu thuế. Quân đội Hoàng Sa được tổ chức theo các cấp dinh, cơ, đội, thuyền.

Trong đó thuyền được coi là đơn vị thấp nhất, mỗi thuyền gồm 40 - 50 người.

90

Đội Hoàng Sa là tổ chức bán quân sự có nhiệm vụ đặc biệt vừa đảm nhận chức

năng kinh tế vừa mang tính quân sự. Đứng đầu là chức cai đội, không chỉ có nhiệm

vụ quản lí, chỉ huy các hoạt động của đội Hoàng Sa mà còn kiêm thêm các nhiệm

vụ khác như cai cơ thủ ngự hay chức cai thủ. Điều này được thể hiện rõ trong chỉ dụ

của vua Gia Long khi sai Võ Văn Phú tái lập lại đội Hoàng Sa. Theo đó: “Lấy cai

cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự cửa biển Sa Kỳ sai mộ dân ngoại tịch lập đội Hoàng

Sa” (Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 566). Như vậy Võ Văn Phú vừa là cai đội chỉ

huy đội Hoàng Sa vừa kiêm luôn chức chức cai thủ và kiêm luôn chức cai cơ thủ

ngự. Thời nhà Nguyễn cai cơ thủ ngự là chức quan phụ trách về an ninh trên biển.

Hằng năm triều đình sẽ lấy 70 suất đinh để bổ sung và thành lập đội thủy quân

Hoàng Sa. Hầu hết là những ngư dân địa phương ở 2 làng Cù Lao Ré và cửa biển Sa

Kỳ. Những ngư dân này trở thành 1 bộ phận của quân đội triều đình họ được gọi là

quân dân. Từ những ngư dân địa phương họ được quân sự hóa và theo nhận xét của

tác giả Nguyễn Quang Ngọc, thì đây được coi là là lực lượng thủy quân chính quy

đầu tiên của triều đình vừa thực hiện việc khai thác của ngư dân vừa thực hiện

nhiệm vụ của nhà nước. Mặc dù công cụ khai thác lúc bấy giờ còn thô sơ và thủy

quân còn mang tính tự quản nhưng họ đã trở thành những người có vai trò quan

trọng là lực lượng trực tiếp thay mặt chính quyền phong kiến thực hiện việc khai

thác và bảo vệ chủ quyền quần đảo Hoàng Sa. Theo Phủ Biên Tạp Lục ghi nhận thì

số quân mỗi lần ra đảo là 10 người, trong đó 2 người sẽ ở lại giữ thuyền tám người

còn lại tiến hành ra đảo khai thác. Đây là số lượng phù hợp đối với việc phải thực

Năm Kiến Long thứ 18 có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liên huyện

Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam vào tháng 7 đến Vạn Lý Trường

Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, hai tên ở lại giữ thuyền, bị gió

làm đứt dây thuyền dạt vào Thanh Lan cảng quan ở đấy xét thực đem trả về

nguyên quán (Đại Nam thực lục, tập 1, 2001, tr.164).

hiện công vụ ở quần đảo xa bờ và trên những chiếc thuyền nhỏ và nhẹ:

Đoạn trích trên đã khẳng định khẳng định hằng năm chính quyền phong kiến

sai đội thủy quân ra tìm kiếm sản vật ở quần đảo Hoàng Sa (Vạn Lý Trường Sa) và

91

những khó khăn và nguy hiểm của đội thủy quân khi thực hiện công vụ tại quần đảo

này. Tuy nhiên đoạn trích trên cũng là bằng chứng khẳng định chủ quyền của nước

ta trên quần đảo Hoàng Sa được nhà Thanh bấy giờ công nhận.

Thời chúa Nguyễn Hoàng chưa có sự ghi nhận về các hoạt động của đội thủy

quân Hoàng Sa, chủ yếu trong giai đoạn này là hoạt động đánh bắt và khai thác của

ngư dân. Ngoài ra cùng với quá trình đẩy mạnh việc khẩn hoang mở rộng diện tích

lãnh thổ, công cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn cũng gắn liền với việc khai thác

vùng biển và hải đảo. Từ rất sớm các chúa Nguyễn đều chú ý chiêu mộ dân đến

khai hoang ở những vùng hải đảo xa bờ. Nhiều tác phẩm ghi nhận sự xuất hiện của

những ngôi làng ở các vùng hải đảo như làng Hòa Vang, làng An Vĩnh.....

Đến thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên có sự xuất hiện của đội thủy quân Hoàng

Sa. Hay nói cách khác chính chúa Nguyễn Phúc Nguyên là người lập ra đội thủy

quân Hoàng Sa. Nguyễn Phúc Nguyên là người có tầm nhìn sâu sắc về biển, vì thế

với mong muốn tận dụng mọi điều kiện để phát triển vùng đất Đàng Trong thành

một vùng lãnh thổ có thế mạnh về kinh tế, chính trị, phát triển độc lập, tách khỏi sự

kiểm soát của chính quyền Đàng Ngoài, bên cạnh việc đẩy mạnh khẩn hoang, mở

rộng diện tích đất canh tác thì chúa Nguyễn cũng chú trọng việc khai thác vùng

biển, thông qua việc thành lập đội thủy quân Hoàng Sa. Tài liệu cổ của nước ta và

Trung Quốc đã ghi nhận về hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa, chẳng hạn trong

tác phẩm Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của tác giả Đỗ Bá Công Đạo năm 1686 đã nêu

rõ hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa thời chúa Nguyễn:

Họ Nguyễn mỗi năm vào cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy

lấy hàng hóa, được phần nhều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn. Từ cửa Đại

Chiêm vượt biển đến đấy thì phải mất một ngày rưỡi. Từ cửa Sa Kỳ đến

đấy phải mất nửa ngày (Nguyễn Nhã, 2014, tr.40).

Những ghi nhận trên mặc dù còn thiếu chính xác về khoảng thời gian thủy

quân từ đất liền ra đến Hoàng Sa nhưng đã khẳng định từ rất sớm triều đình đã cử

đội thủy quân ra khai thác các sản vật vùng biển. Ngoài ra, trong Hải ngoại kí sự

92

của Thích Đại Sán viết năm 1696 cũng nói về việc triều đình cử thủy quân ra khai

thác các sản vật trên biển: “Thời quốc vương trước, ở đây hằng năm sai thuyền đi

đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư tấp vào bị đắm

ở Vạn Lý Trường Sa.” (Thích Đại Sán, 2016, tr.191 - 192)

Những ghi chép trên của nhà sư Thích Đại Sán khi đến vùng đất Đàng Trong,

đã cho thấy ngay từ rất sớm chính quyền phong kiến đã cử người ra quần đảo

Hoàng Sa để thu lượm sản vật, có thể khẳng định đây là những hoạt động của đội

thủy quân Hoàng Sa. Và có thể thấy rằng trong thời kì này quần đảo Hoàng Sa chưa

hề có bất kì sự tranh chấp nào. Qua hai dẫn chứng trên ta có có thể khẳng định đội

thủy quân Hoàng Sa được thành lập vào thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 -

1635) và hoạt động kéo dài đến 7 đời chúa Nguyễn.

Theo sách Đại Nam thực lục và Phủ Biên tạp lục ghi nhận khi Nguyễn Hoàng

trở lại vùng đất Đàng Trong, chúa Nguyễn đã cho lập dinh Quảng Nam và nhận

thấy đây là vùng chiến lược của đất Thuận Hóa, nên giao quyền quản lí vùng này

cho hoàng tử thứ sáu tức chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Từ đó về sau vùng đất này

thuộc quyền cai trị trực tiếp của chúa. Để tăng cường khai thác các tiềm năng kinh

tế biển đồng thời cũng như khẳng định chủ quyền ở vùng biển đảo nhất là quần đảo

Hoàng Sa (Paracel) nơi được biết đến là có nhiều bãi đá ngầm và nhiều đảo lớn nhỏ.

Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho mộ dân ở phủ Quảng Nghĩa thành lập nên đội

thủy quân Hoàng Sa. Thực chất việc cho quân đến khai thác vùng biển chỉ được

thực hiện khi chính quyền chúa Nguyễn nhận thấy vùng đảo này thường xuyên xảy

ra các vụ tàu đắm trôi dạt vào. Do nhu cầu lớn về vũ khí nên bên cạnh việc ngoại

thương, các chúa Nguyễn cũng bắt đầu tiến hành cho người ra đảo tìm kiếm và thu

lượm các sản vật như đồ đồng chì thiếc, các khẩu pháo và đại bác bị đắm ngoài khơi

đó cũng là nguyên nhân khiến cho đội Hoàng Sa được thành lập.

*Phạm vi hoạt động của đội Hoàng Sa trong thời gian đầu chủ yếu là quần

đảo Hoàng Sa nhưng càng về sau do công cuộc Nam tiến của chúa Nguyễn nên

phạm vi hoạt động của đội Hoàng Sa cũng được mở rộng hơn về phía Nam. Tuy

nhiên do hạn chế về lực lượng nên đội Hoàng Sa không thể bao quát hết được toàn

bộ vùng biển đảo nên vì thế đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu cho thành lập thêm đội

93

Bắc Hải và cho đặt dưới sự kiêm quản của đội Hoàng Sa. Như vậy càng về sau

phạm vi hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa càng rộng lớn. Từ việc khai thác

các hải vật và hóa vật ở quần đảo Hoàng Sa cho đến việc kiêm quản các hoạt động

của đội Bắc Hải ở vùng biển duyên hải Nam Trung Bộ, các vùng biển Quảng Ngãi,

Thừa Thiên Huế và quần đảo Hoàng Sa, tức là toàn bộ vùng ven biển từ quần đảo

Hoàng Sa ở phía Bắc cho đến quần đảo Trường Sa ở phía Nam. Trước đây chưa có

sự phân biệt hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vì thế suốt thế kỉ XVI - XVII hai

quần đảo này đều được gọi chung là Vạn Lý Trường Sa. Việc kiêm quản đội Bắc

Hải của thủy quân Hoàng Sa với mục đích nhằm tăng cường sự quản lý thống nhất

của triều đình đối với vùng biển đảo. Đây được coi là quan điểm tiến bộ về việc

quản lí các hoạt động kinh tế tại vùng biển của chính quyền phong kiến lúc bấy giờ.

Như vậy, với việc kiêm quản đội Bắc Hải thì phạm vi hoạt động của đội thủy quân

Hoàng Sa là bao gồm toàn bộ vùng biển Đàng Trong từ phía Bắc cho đến các vùng

biển phía Nam và Tây Nam.

*Nhiệm vụ của đội Hoàng Sa lúc bấy giờ là tìm kiếm các sản vật và hóa vật

như hải ba, đồi mồi, thiếc chì, súng đồng, hỏa pháo từ các tàu đắm, tuần tra, xem

xét, cứu hộ các tàu đắm vùng đảo Hoàng Sa. Ngoài ra đội thủy quân Hoàng Sa còn

kiêm quản hoạt động của đội Bắc Hải theo ghi nhận của các tác phẩm Đại Nam thực

lục tiền biên, Phủ Biên tạp lục, Đại Nam nhất thống chí .

Đội Bắc Hải thì nhiệm vụ là khai thác tìm kiếm các sản vật và hóa vật ở các

vùng biển đảo phía Nam gồm Bà Rịa, Phú Quốc, Kiên Giang, Côn Lôn, Hà Tiên và

bao gồm cả quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên do vùng biển phía Nam ít khi bị thiên

tai nên số lượng tàu đắm ở đây không nhiều, vì thế đội Bắc Hải chủ yếu là tìm kiếm

sản vật như: hải sâm, ba ba, đồi mồi.. Mặc dù không có vai trò quan trọng như đội

Hoàng Sa nhưng thông qua hoạt động khai thác của đội Bắc Hải chính quyền tiến

hành quản lý vùng biển phía Nam và Tây Nam của đất nước. Bên cạnh đội Bắc Hải

thì chúa Nguyễn cũng cho thành lập các đội khác như Thanh Châu, Quế Hương, Hải

Ba khai thác các sản vật ở vùng Côn Lôn và Phú Quốc.

Các nhiệm vụ xem xét đo đạc thủy trình vẽ bản đồ thì được thực hiện vào thời

vua Gia Long. Ngoài ra trong giai đoạn này vua Gia Long cho tái lập lại đội Hoàng

94

Sa nhằm khai thác và thu lượm các sản vật như các giai đoạn trước đây. Tuy nhiên

thời Gia Long thì đội thủy quân Hoàng Sa có nhiệm vụ bảo vệ an ninh nhiều hơn là

khai thác kinh tế. Trong giai đoạn này chính quyền phong kiến tiến hành các hoạt

động chiếm hữu và xác lập chủ quyền trên cơ sở sử dụng lâu dài vùng biển đảo của

các thế hệ trước. Như vậy nhiệm vụ của đội Hoàng Sa khá nặng nề bên cạnh việc

khai thác và tìm kiếm các sản vật ở vùng biển phía bắc. Họ còn phải kiêm quản luôn

các hoạt động của đội Bắc Hải ở phía Nam. Đây được coi là bài học của chính

quyền phong kiến nhằm tạo ra sự thống nhất trong việc quản lý việc khai thác và

bảo vệ vùng biển đảo của đội thủy quân Hoàng Sa từ đó tạo ra sự liên kết thống

nhất giữa nhà nước và nhân dân trong việc đảm bảo an ninh vùng biển.

*Thời gian hoạt động ngoài các tài liệu trong Dư địa chí, Đại Nam thực lục

tiền biên, Đại Nam nhất thống chí, đều ghi nhận là thủy quân Hoàng Sa bắt đầu đi

vào tháng ba và trở về vào tháng 8 âm lịch. Sau khi nhận tờ sai công vụ họ sẽ ra đi

vào tháng 3 âm lịch (tức tháng 4 dương lịch) và trở về vào tháng 8 âm lịch (tức

tháng 9 dương lịch). Chỉ có Thiên Nam Tứ Chí lộ đồ thư của Đỗ Bá Công Đạo là

nói đi vào cuối đông, không nêu rõ thời gian về. Còn trong Phủ Biên tạp lục của Lê

Qúy Đôn thì ghi nhận là đội Hoàng Sa cứ tháng hai âm lịch nhận giấy sai đi mang

theo lương thực trong 6 tháng và đến tháng 8 thì về đến cửa Eo rồi nộp sản vật tại

chính dinh ở Phú Xuân. Tất cả các tài liệu đều ghi nhận là đội Hoàng Sa mỗi năm

đều tiến hành thực hiện công vụ mà nhà nước giao phó trong 6 tháng.

Thời gian bắt đầu thực hiện công vụ là từ tháng 3 và kết thúc tháng 8 âm lịch

tức là từ tháng 4 đến tháng 9 dương lịch. Theo tác giả Nguyễn Nhã đây là thời điểm

thuận lợi cho việc đi biển. Khi đó nhờ gió mùa Tây Nam thổi nên các loại tàu, buồm

nhẹ, có thể đi từ Cù Lao Ré đến quần đảo Hoàng Sa một cách nhanh chóng dễ dàng.

Thời gian trở về là vào tháng 8 âm lịch khi đó gió mùa Tây Nam yếu đi, gió mùa

Đông Bắc thổi mạnh đội thủy quân trở về cửa Eo nộp sản phẩm ở chính dinh đúng

thời hạn.Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân nên việc khởi hành của đội Hoàng Sa có

thể sớm và trễ hơn nhưng thông thường thời gian về sẽ là vào tháng 8 âm lịch để

tránh bão đây là sự tính toán rất hợp lý. Các tài liệu cũng thống nhất về thời gian di

chuyển của đội thủy quân Hoàng Sa là mất ba ngày ba đêm.Trong đó sách Đại Nam

95

nhất thống chí thì cho là mất 3 - 4 ngày và 6 ngày thực hiện công vụ. Đội thủy quân

có nhiệm vụ tìm kiếm sản vật và hóa vật của các tàu đắm ở quần đảo Hoàng Sa và

các đảo ở phía Bắc. Còn đội Bắc Hải tiến hành khai thác ở các quần đảo phía Nam

trong đó có quần đảo Trường Sa. So với đội Bắc Hải thì đội Hoàng Sa có vai trò và

nhiệm vụ lớn hơn do việc ra đảo Hoàng Sa là một việc làm đầy khó khăn thách thức

và mạo hiểm nên chính quyền phong kiến xem trọng đội Hoàng Sa hơn. Bên cạnh

việc khai thác thì đội Hoàng Sa còn có nhiệm vụ tìm kiếm các hóa vật như tàu,

gươm, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, đồ sứ súng đạn từ các tàu đắm ở quần đảo

Hoàng Sa.

Do quần đảo Hoàng Sa là nơi thường xuyên diễn ra các vụ đắm tàu nên số

lượng vũ khí thu được ở đây rất nhiều. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có, đôi

khi đội Hoàng Sa phải trở về tay không, số lượng vũ khí phần nhiều là vàng bạc,

tiền tệ, súng ống. Và hầu hết số vũ khí mà chúa Nguyễn có được đều được lấy từ

quần đảo Hoàng Sa. Đội thủy quân Hoàng Sa là những tổ chức dân binh địa phương

họ theo lệnh của triều đình đi thực hiện công vụ họ không phải là quân đội chính

quy mà là lực lượng quân nhân. Họ được hưởng những quyền lợi nhất định như

được miễn thuế đò, miễn sưu và được cấp lương ăn trong 6 tháng chủ yếu là gạo,

ngoài ra họ phải tự tìm kiếm thức ăn nhờ vào việc đánh bắt cá và chim trên các đảo.

Thủy quân Hoàng Sa phải mang theo các vật dụng sinh hoạt cần thiết khi đi

biển như củi khô, nùi dây, dừa khô để tạo lửa, thùng chứa nước ngọt để uống. Họ

còn mang theo nồi đồng, chảo đồng để nấu nước và lưỡi mác để bắt cá, dầu rái và

vỏ cây tràm để phòng khi thuyền bị vô nước. Bên cạnh đó do vùng biển Hoàng Sa

là nơi có rất nhiều các trận bão tố nên thường xuyên diễn ra các nạn tàu đắm. Vì thế

để phòng trường hợp bất ngờ hay tai nạn hay nếu chẳng may có người chết trên biển

thì thủy quân Hoàng Sa còn chuẩn bị chiếu để quấn xác, thẻ tre dùng để cố định và

dây mây dùng để buộc. Trên thẻ tre ghi rõ tên tuổi quê quán năm sinh và tên đơn vị

của người mất được đặt cố định trong chiếu rồi sau đó thi thể sẽ được thả xuống

biển và nếu ai vớt được thì dựa vào thông tin trên thẻ để nhận biết.

Vùng biển Hoàng Sa là nơi rất nguy hiểm, có nhiều mỏm đá ngầm và sóng lớn

vì thế có câu “lính Hoàng Sa đi dễ khó về ” Mỗi người lính Hoàng Sa khi thực hiện

96

công vụ là những người liều lĩnh sẵn sàng dám dương đầu với cái chết với sự hiểm

nguy, nên vì thế hầu hết những người gia nhập đội Hoàng Sa đều là những thanh

niên trẻ khỏe mạnh chưa lập gia đình họ ra đi thực hiện nghĩa vụ với triều đình. Do

việc ra đảo Hoàng Sa quá nguy hiểm, vì thế để cho họ có thể an tâm ra đương đầu

với những thử thách thì những người dân ở đảo Lý Sơn và Cù Lao Ré còn thực hiện

lễ tế sống quân lính Hoàng Sa.Theo đó một đêm trước khi thực hiện công vụ ở

Hoàng Sa các họ tộc sẽ dùng những hình nhân được làm bằng tre và cho dán giấy

ngũ sắc trên có ghi tên và ngày sinh thay cho người thật đem đi tế tại các đình làng.

Sau khi tế xong họ sẽ đem đốt hoặc làm bè chuối đặt hình người nộm lên và thả trôi

ra biển. Việc làm này có ý nghĩa là các hình nộm kia sẽ thay thế mạng cho người

thật chịu những nguy hiểm và tai nạn thậm chí là chết thay cho họ. Hiện nay các

làng ở đảo Lý Sơn vẫn còn giữ tục tế sống lính Hoàng Sa, tại đây cũng còn lưu giữ

nhiều bài văn tế được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm có nội dung là tế lính Hoàng

Sa. Tác giả Nguyễn Nhã trong chuyến đi thực địa huyện đảo Lý Sơn đã ghi lại một

đoạn văn tế: “Ngày hôm nay hoặc đêm nay, buổi sáng nay) có theo ý

người.................. ở tỉnh............ nước Đại Nam, xin cúng tế một cổ thuyền mô hình,

trôi theo đường thủy Hoàng Sa, mấy cỗ bàn, vàng, bạc, đáp lễ thần quan, xin dâng

lên khảo thủy đạo một tiệc, thành kính bày la liệt...” (Nguyễn Nhã, 2013, tr.102).

Ngoài ra trong bài viết của tác giả Đỗ Quỳnh Nga cũng có những hình ảnh về

lễ khao tế lính Hoàng Sa “Trong lễ kháo tế này ngoài hình nộm tượng trưng cho

người lính ra thì những người trong làng còn sử dụng những mô hình thuyền thay

cho thuyền thật của thủy quân Hoàng Sa để thực hiện việc tế lễ với mong muốn cầu

xin thủy thần che chở cho họ trong chặn đường ra đảo Hoàng Sa” (Đỗ Quỳnh Nga,

2016 )

Các quân lính sau khi thực hiện tế lễ xong sẽ chuẩn bị những vật dụng cần

thiết cho chuyến đi của mình trong suốt 6 tháng. Ngoài những đồ dùng sinh hoạt

vừa kể trên thì quân lính Hoàng Sa cũng mang theo trên thuyền một đôi chiếu, bảy

sợi dây mây và bảy đòn tre. Do vùng biển Hoàng Sa là nơi có rất nhiều bão tố và rất

nhiều nguy hiểm. Vì thế nếu như bị tai nạn hay chết bất ngờ giữa biển, những người

lính này sẽ sử dụng đôi chiếu để quấn xác và dùng những sợi dây mây để buộc chặt

97

và cố định lại bằng một nẹp tre. Ngoài ra họ còn sử dụng một thẻ tre nhỏ để ghi rõ

tên tuổi quê quán, đơn vị của người mất rồi thả xuống biển nếu ai vớt được thì được

vào thẻ bài mà có thể nhận biết và đưa về cốt cất.

Hoàng Sa lắm đá nhiều cồn

Người đi thì có mà không thấy về

Hoàng Sa mây nước bốn bề

Lệnh vua sai phải quyết lòng ra đi

Những câu thơ trên đã thể hiện những khó khăn cũng như lòng quyết tâm của

quân lính khi thực hiện công vụ ở quần đảo Hoàng Sa. Sau khi thực hiện lễ tế thủy

quân Hoàng Sa sẽ lên đường thực hiện công vụ ở quần đảo Hoàng Sa. Họ dùng 4

hoặc 5 chiếc thuyền câu nhỏ và nhẹ ra biển chủ yếu là các loại thuyền đánh cá của

ngư dân.

Do có kết cấu nhẹ nên dễ dàng luồn lách qua các mỏm đá tránh được các bãi

đá ngầm hay san hô. Các loại thuyền này đều do ngư dân ở làng Lý Sơn vùng Cù

Lao Ré làm ra. Vùng đảo Cù Lao Ré có nhiều các sản vật quý như đồi mồi, hải ba

ngoài ra ở cửa biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré có nhiều nguyên liệu như tre lá, gỗ thuận

tiện cho việc đóng tàu.

Hầu hết các nguyên liệu dùng để đóng tàu đều có nguồn gốc từ đảo Cù Lao Ré

như gỗ trò, gỗ kềnh kềnh đều được khai thác và vận chuyển từ các cánh rừng của

vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi cách đó không xa.

Phần lớn quần đảo Hoàng Sa được cấu tạo bởi nhiều đảo nhỏ với các rạn đá

ngầm và san hô. Vì thế hầu hết các thuyền buôn nước ngoài khi đi qua đây đều va

vào đá ngầm hay bị sóng biển đánh vỡ. Nhận thấy rõ những nguy hiểm trên quần

đảo này nên phương tiện di chuyển của thủy quân khi đến đây chủ yếu là những

chiếc thuyền buồm nhẹ và nhanh. Các chiếc thuyền này có thể lướt nhanh trên biển

và luồng lách qua các bãi đá ngầm và ít bị mắc cạn hay va vào các bãi san hô trên

đảo. Đội thủy quân Hoàng Sa hầu hết sử dụng những loại thuyền đánh cá của ngư

dân như thuyền ô và thuyền lê để ra đảo Hoàng Sa và tới các đảo Lý Sơn hay Cù

Lao Ré và tới cả đảo Cù Lao Chàm. Trong Hải ngoại kí sự của nhà sư Thích Đại

Sán cũng ghi nhận về sự xuất hiện của những loại thuyền này khi nhà sư đến vùng

98

đất Đàng Trong. “Thời trước quốc vương hằng năm sai thuyền đánh cá đi dọc bãi

cát, lượm vàng bạc khí cụ của những thuyền buôn tấp vào” (Thích Đại Sán, 2016, tr

191). Tác giả gọi những loại thuyền đánh cá này là Điếu ngư. Nhà sư Thích Đại Sán

khi đến vùng Đàng Trong sử dụng phương tiện là những loại tàu cỡ lớn vì thế có lần

bị mắc cạn được các thuyền nhỏ của ngư dân dẫn đường để vào được cảng.

Theo tài liệu mà tác giả Nguyễn Nhã sau chuyến đi thực tế ở vùng huyện đảo

Lý Sơn đã ghi chép lại về những chiếc thuyền buồm dùng để đi Hoàng Sa của đội

thủy quân lúc bấy giờ thì đó là những loại tàu nhẹ được làm từ tre hay các loại gỗ

nhẹ như gỗ sao hay gỗ kền kền, đây là những loại gỗ sẵn có ở địa phương.

Thuyền được cấu tạo bởi hai phần: phần đáy (hay mê) được đan bằng tre, nứa

sau đó họ phết lên đó một lớp phâu trâu và lớp ngoài cùng là dầu rái hay dầu mù u

để ngăn nước vào trong bên trong thuyền. Phía trên thành thuyền là những miếng gỗ

trò hay gỗ sao cán mỏng ghép lại, có ba cột buồm là buồm long, buồm mũi và buồm

được làm từ lá diệm và may lại bằng những dây xơ dừa. Các loại thuyền này đều do

những ngư dân ở huyện Lý Sơn tự đóng và có kích thước là chiều dài khoảng 20 m,

ngang (chiều rộng tính từ mạn thuyền bên trái đến mạn thuyền bên phải) là 4m và

chiều sâu là 3 mét 5 thước. Hầu hết các loại thuyền ra đảo Hoàng Sa là những

thuyền nhẹ với trọng tải thấp chỉ khoảng 50 tấn. Vì thế nếu như thuận gió thuyền có

thể chạy nhanh gấp 10 lần so với các loại thuyền khác. Các loại thuyền này chủ yếu

là do ngư dân trên các đảo tự đóng nên phần nhiều là nhanh và nhẹ, có thể nhanh

chóng tới được quần đảo Hoàng Sa và các đảo khác cũng như tránh được những bãi

đá ngầm hay san hô. Mặc dù các loại thuyền này rất thích hợp cho việc ra đảo

Hoàng Sa do có kích thích nhẹ và nhỏ gọn được làm từ những nguyên liệu sẵn có

trên đảo nhưng phần lớn còn thô sơ và lạc hậu nên gặp khó khăn khi vượt đại

dương, bên cạnh đó các loại thuyền này không trang bị vũ khí và do có trọng lượng

thấp nên chủ yếu dùng để khai thác sản vật và tổ yến.

Từ đảo Lý Sơn, thủy quân Hoàng Sa sẽ lênh đênh trên biển suốt 3 ngày đêm

để tới quần đảo Hoàng Sa. Tại đây họ sẽ tiến hành khai thác các sản vật như ốc, hải

sản, đồi mồi, hải ba, hải sâm, ngoài ra họ còn thu lượm các hóa vật còn sót lại từ các

tàu nước ngoài đắm ở đây. Trong suốt 6 tháng thực hiện công vụ, thủy quân không

99

chỉ khai thác các nguồn lợi kinh tế ở vùng quần đảo Hoàng Sa mà còn mở rộng tìm

kiếm ở các quần đảo phía Bắc. Sau khi hoàn thành công việc đến tháng 8 âm lịch họ

về đến cửa Eo (Thuận An), vào kinh đô nộp sản vật đúng quy định. Hầu hết các sản

vật mà đội Hoàng Sa thu lượm được chủ yếu là các hải sản như đồi mồi, hải sâm,

hải ba (ba ba biển), ốc tai voi, ốc hoa, ốc xà cừ, đạo mạo. Ngoài ra còn thu lượm

được một số vật từ các tàu đắm như súng đồng, vàng, bạc, thiếc chì, khẩu súng ngà

voi, sáp ong, đồ sứ, chì đen.

Tác phẩm Phủ Biên tạp lục đã ghi lại một cách cụ thể các sản phẩm mà đội

Hoàng Sa thu lượm được qua các năm. Lê Qúy Đôn đã xem xét và tra khảo sổ biên

của cai đội cũ Thuyên Đức Hầu, người đã chỉ huy đội Hoàng Sa trong nhiều năm

khi vào Phú Xuân nộp các sản vật thu lượm được từ quần đảo Hoàng Sa, cụ thể:

“Năm Nhâm Ngọ (1702) lượm được 30 hốt bạc; năm Giáp Thân được 5.1000 cân

thiếc; năm Ất Dậu được 126 hốt bạc; từ năm Kỉ Sửu đến năm Qúy Tị, năm năm ấy

chỉ được 1 tấm đồi mồi hải ba. Cũng có năm được khối thiếc, bát sứ và hai khẩu

súng đồng mà thôi” (Lê Qúy Đôn, 1997, tr 155).

Những dẫn chứng trên đã cho thấy nguồn lợi mà quần đảo Hoàng Sa mang lại

khá dồi dào. Cung cấp cho chính quyền phong kiến không chỉ nguồn sản vật phong

phú, phục vụ nhu cầu tiêu dùng, mà còn giải quyết sự quan tâm của chính quyền về

vấn đề vũ khí. Do trong giai đoạn này diễn ra nhiều cuộc chiến tranh nên chính

quyền phong kiến quan tâm nhiều đến các hóa vật thu lượm được từ các con tàu

đắm hơn là nguồn hải sản. Đội Hoàng Sa sau đó được thưởng một số tiền khá lớn,

ngoài hải sản nộp theo đúng quy định phần còn lại thì chính quyền dành cho đội

Hoàng Sa. Hầu hết các sản phẩm này đều được họ đem đi bán ở những bến cảng

đông đúc như Hội An, vì nơi đây có nhiều lái buôn nước ngoài nên được giá hơn

những nơi khác.Về sau chính quyền cho thành lập thêm nhiều đội thủy quân khác

như Quế Hương, Thanh Châu, Hải Môn, Bắc Hải, cũng thực hiện việc tìm kiếm hải

vật, hóa vật và khai thác yến sào.

Đội Bắc Hải được thành lập vào năm 1775 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu.

Khác với đội Hoàng Sa, việc tuyển quân cho đội Bắc Hải không quy định rõ bao

nhiêu suất, chủ yếu dựa trên tinh thần tự nguyện. Lực lượng của đội thủy quân Bắc

100

Hải chủ yếu là người làng Tứ Chính huyện Chánh Dương tỉnh Quảng Ngãi. Họ

cũng được hưởng những quyền lợi như đội Hoàng Sa là được miễn cho tiền sưu

cùng các tiền thuế đò và qua cửa biển không phải đóng thuế. Phương tiện di chuyển

ra đảo của đội Bắc Hải cũng là những chiếc thuyền câu nhỏ giống thuyền đánh cá

của ngư dân.

Phạm vi hoạt động của đội Bắc Hải là toàn bộ vùng biển phía Nam và Tây

Nam trong đó có quần đảo Trường Sa. Tại sao tên là Bắc Hải mà lại quản lí vùng

biển phía Nam? Thực chất tên gọi Bắc Hải không phải để chỉ khu vực biển phía Bắc

mà có ý nghĩa là xa bờ dùng để chỉ vùng biển ở phía sau quần đảo Hoàng Sa.Vùng

quần đảo Trường Sa là khu vực rất ít bị thiên tai mưa bão nên các vụ đắm tàu

thường rất ít vì thế ít khi họ kiếm được các hóa vật như thiếc, chì vàng bạc, súng

ống mà chủ yếu là hải sản, đồi mồi, hải sâm….Mặc dù chịu sự cai quản của đội

Hoàng Sa nhưng thực tế Bắc Hải là một đội quân độc lập và có quan hệ gẳn bó với

đội Hoàng Sa ở phía Bắc. Thực chất việc thành lập đội Bắc Hải là nhằm mở rộng và

hỗ trợ thêm việc khai thác vùng biển phía Nam cho đội Hoàng Sa.

Do mới thành lập nên chính quyền cho cai đội Hoàng Sa kiêm quản luôn hoạt

động của đội Bắc Hải, điều này đảm bảo sự thống nhất và đồng bộ trong việc quản

lý toàn bộ vùng biển rộng lớn. Thông qua đội Hoàng Sa và Bắc Hải chính quyền

phong kiến đã tạo cơ sở vững chắc cho việc khai thác và xác lập chủ quyền của

mình ở vùng biển và các đảo, đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trải

qua các thời thời sau này, do yêu cầu bảo vệ an ninh vùng biển ngày càng cao, nên

cách thức tổ chức và hoạt động của đội thủy quân ngày càng được quân sự hóa

nhiều hơn. Khi phong trào Tây Sơn bùng nổ, do ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh

và nạn cướp biển hoành hành, chính quyền phong kiến không có điều kiện để quan

tâm đến việc cử thủy quân ra đảo để khai thác và thu lượm hóa vật như trước đây, vì

thế các hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa, Bắc Hải bị hạn chế và ngưng trệ.

Đến khi Nguyễn Nhạc làm chủ được vùng Quy Nhơn, Bình Thuận và Quảng Ngãi,

nơi có cửa biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré quê hương của đội thủy quân Hoàng Sa thì các

hoạt động khai thác vùng biển trước đây được tiến hành trở lại.

101

Sau khi nhiều năm bị gián đoạn, năm 1784 nhân dân huyện Cù Lao Ré huyện

An Vĩnh đã làm đơn xin Thái Đức Nguyễn Nhạc cho lập lại hai đội Hoàng Sa và

Quế Hương như trước đây. Đồng thời xin dùng thuyền ra các đảo và cù lao tìm

kiếm các sản vật như hải ba, đồi mồi để dâng nộp và sẵn sàng chiến đấu nếu như có

kẻ xâm lược. Trước thiện chí của dân làng An Vĩnh, chính quyền Tây Sơn cho lập

lại hai đội Hoàng Sa và Quế Hương, đồng thời sai Hội Đức Hầu mang theo bảng

hiệu thủy quân ra đảo Hoàng Sa thực hiện việc khai thác và tìm kiếm các sản vật

như trước đây. Không có tài liệu nào cho thấy thời Tây Sơn cấp lương thực cho đội

Hoàng Sa trong 6 tháng như trước. Nhưng việc Tây Sơn phái 5 chiếc thuyền câu

tiến ra Hoàng Sa, khai thác các hải vật và hóa vật thiếc đồng, chì v.v..từ các tàu đắm

đã cho thấy sự quan tâm của chính quyền Tây Sơn đối với vùng biển.

Dưới thời Tây Sơn, ngoài đội Hoàng Sa còn có các đội thủy quân khác như

đội Quế Hương, đội Đại Mạo Hải Ba, Quế Hương Chàm.Tuy nhiên, khác với trước,

trong giai đoạn này đội thủy quân Hoàng Sa đã mang dáng dấp của một tổ chức

quân đội nhà nước. Điều này cho thấy vai trò của đội thủy quân Hoàng Sa ngày

càng được nâng cao, từ một tổ chức bán quân sự, họ đã vươn lên đảm nhận sứ mệnh

lịch sử trở thành một lực lượng quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền vùng biển

đảo nước ta vào thế kỉ XIX.

Cuộc nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh kéo dài đã làm cho vùng đất từ Quy

Nhơn đến Quảng Nam trở thành chiến trường ác liệt. Các hoạt động khai thác của

đội thủy quân bị ảnh hưởng nghiêm trọng, các cuộc chiến tranh kéo dài và chính

quyền Tây Sơn do mải lo đối phó với quân Nguyễn nên không còn điều kiện để

quan tâm. Ngoài ra, chính quyền Tây Sơn còn sử dụng giặc biển Tề Ngôi để chống

lại Nguyễn Ánh, nên chúng không chỉ hoạt động ở vùng biển Trung Hoa mà còn

tràn sang cả Đại Việt. Tất cả những điều này khiến cho hoạt động của đội thủy quân

gặp nhiều khó khăn và ngưng trệ trong một thời gian dài.

Đến thời nhà Nguyễn, khi Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn lập ra triều Nguyễn

vào năm 1802, chế độ phong kiến tập quyền được tái thiết lập, bộ máy nhà nước

tương đối hoàn chỉnh. Năm 1803, vua Gia Long cho tái lập đội Hoàng Sa. Mặc dù

vẫn là lực lượng dân binh nhưng trong giai đoạn này những thủy quân Hoàng Sa đã

102

được trang bị vũ khí, tàu thuyền và được rèn luyện kĩ năng chiến đấu linh hoạt và

chuyên nghiệp hơn. Khác với các triều đại trước đây, vào thời Nguyễn đội thủy

quân Hoàng Sa có nhiệm vụ quân sự nhiều hơn là khai thác kinh tế. Tháng 7 năm

Quý Hợi (năm 1803) vua Gia Long đã cho lập lại đội Hoàng Sa “Lấy Cai cơ Võ Văn

Phú làm thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa” (Đại

Nam thực lục tập 1, 2002, tr.120 - 121).

Chính vua Gia Long đã cử cai cơ thủ ngự Võ Văn Phú mộ dân ngoại tích lập

đội Hoàng Sa. Nếu như các triều đại trước chủ yếu lấy dân chính dinh nội tịch thì

thời Gia Long lấy dân ngoại tịch, việc này nhằm tăng số lượng thủy quân Hoàng Sa,

đồng thời tạo nhân lực cho việc đóng quân ở các địa phương. Tiếp đó, đến năm

1815 và năm 1816, vua Gia Long cho tiến hành các hoạt động xác lập chủ quyền

trên quần đảo. Theo Đại Nam thực lục chính biên, tháng 12 năm Gia Long thứ 14

(1815) nhà vua sai đội Hoàng Sa ra thăm dò đường biển và đến năm 1816 triều đình

thành lập thêm đội thủy quân bên cạnh đội Hoàng Sa...

Tháng 3 năm Gia Long thứ 15 (1816), nhà vua lại “sai thủy quân và đội

Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để thám dò thủy trình”. Như vậy trong giai đọan

này nhà vua đã có sự kết hợp giữa lực lượng đội quân dân Hoàng Sa với lực lượng

chính quy của triều đình, đội thủy quân Hoàng Sa trở thành một bộ phận gắn bó với

lực lượng chính quy của nhà nước, có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn toàn vẹn

lãnh thổ. Hình thức kết hợp giữa lực lượng dân binh bên trong lực lượng nhà nước,

đã giúp chính quyền thành công trong việc nâng cao hiệu quả khai thác và thực thi

chủ quyển vùng biển. Trên cơ sở đó, chính quyền đã tạo ra một lực lượng thủy quân

chuyên trách thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa. Như vậy, từ những đội dân

binh Hoàng Sa, Bắc Hải của thời trước, chính quyền nhà Nguyễn đã đưa họ vào đội

thủy quân chính quy của triều đình, trở thành lực lượng quân sự chuyên nghiệp và

quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền vùng biển đảo.

Thông qua hoạt động của đội thủy quân trên quần đảo Hoàng Sa. Vua Gia

Long tiến hành đẩy mạnh việc xác lập và khẳng định chủ quyền của mình tại quần

đảo Hoàng Sa, Trường Sa một cách công khai và minh bạch mà không hề vấp phải

bất cứ một sự phản kháng hay gây ra xung đột từ bất cứ một quốc gia nào. Năm

103

1816 được coi là cơ sở quan trọng cho sự hình thành lực lượng thủy quân chính quy

đầu tiên của triều đình, đồng thời cũng là sự kiện có ý nghĩa to lớn trong việc đánh

dấu sự khẳng định chủ quyền của vua Gia Long tại quần đảo Hoàng Sa. Sự kiện này

không chỉ có ý nghĩa to lớn trong nước mà còn dành được sự quan tâm, chú ý của

nhiều quốc gia trên thế giới thời bấy giờ. Việc vua Gia Long sai “người ra Hoàng

Sa cắm cờ và long trọng” tuyên bố chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa được các tạp chí

uy tín của nước ngoài và hồi kí của những người nước ngoài bấy giờ như J.B.

Chaigneau sĩ quan hải quân, J.L. Taberd giám mục người Pháp bên cạnh triều đình

Quần Đảo Pracel hay Paracel là khu vực chằng chịt những hòn đảo nhỏ, đá

ngầm và bãi cát…Những người dân xứ Đàng Trong gọi khu vực đó là Cồn

Vàng. Mặc dù rằng quần đảo này chỉ có độc những tảng đá ngầm mà không có

gì khác và những độ sâu của biển hứa hẹn những điều bất tiện hơn là sự thuận

lợi. Nhưng nhà vua Gia Long vẫn nghĩ rằng ông ta đã tăng quyền thống trị lãnh

thổ của mình bằng sự sáp nhập tội nghiệp đó. Vào năm 1816, nhà vua Gia

Long đã tới long trọng cắm lá cờ của mình và chính thức giữ chủ quyền ở các

bãi đá nàymà không có một ai tranh giành với ông ta” (Đỗ Bang, 2017).

Gia Long... khẳng định một cách rõ ràng.

Hay trong cuốn sách Histoire et description de tous les peoples được xuất bản

Chúng tôi nhận xét là từ 34 năm nay, quần đảo Paracel (người An Nam gọi là

Cát Vàng) đã có người An Nam chiếm đóng …Chúng tôi không biết là họ có

thiết lập ở đây một cơ sở hay không nhưng chắc chắn là hoàng đế An Nam đã

tha thiết muốn gắm thêm cái hoa nhỏnày vào vuông miện của mình, vì nhà vua

đã phán đoán về việc tự mình đi chiếm hữu nó, và năm 1816 vua đã long trọng

cắm tại đây lá cờ của An Nam (Đỗ Bang, 2017).

tại Pháp năm 1848 đã ghi nhận:

Năm 1816 là sự kiện quan trọng trong lịch sử chủ quyền Việt Nam tại vùng

biển, đây là sự kiện đánh dấu mốc cho việc chiếm hữu và xác lập chủ quyền vùng

104

biển của triều Nguyễn trên cơ sở khai thác và sử dụng lâu dài ở các thế hệ trước. Vì

thế đây là thời điểm mà các vị vua Nguyễn ra sức tiến hành các hoạt động cụ thể,

tích cực nhằm khẳng định chủ quyền của mình trên biển trong bối cảnh các quốc gia

phương Tây ráo riết tìm kiếm thuộc địa và thị trường mới. Để có thể tiến hành việc

khẳng định chủ quyền của mình một cách hợp pháp vua Gia Long đã thông qua lực

lượng thủy quân chính quy trực tiếp quản lí và bảo vệ chủ quyền ở các quần đảo

giữa biển Đông. Trong thời kì nhà Nguyễn, chức năng khai thác kinh tế của đội

Hoàng Sa, Bắc Hải dần dần chuyển sang vai trò bảo vệ an ninh quốc phòng của đội

thủy quân triều đình. Mặc dù không còn hoạt động dưới danh nghĩa đội Hoàng Sa

và Bắc Hải nhưng tiềm năng về nguồn nhân lực, kinh nghiệm, điều kiện và năng lực

của họ vẫn được chính quyền phong kiến khai thác nhằm xây dựng một lực lượng

thủy quân hùng mạnh và phát huy thế mạnh trong thực thi công vụ ở các quần đảo

xa bờ.

Hoạt động của thủy quân Hoàng Sa dưới thời vua Minh Mạng

Dưới thời vua Minh Mạng trị vì các hoạt động khẳng định chủ quyền của nước

ta tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đẩy lên mức độ cao nhất so với các

triều đại khác trong lịch sử. Minh Mạng đã hoàn tất việc hợp nhất đội thủy quân

Hoàng Sa và Bắc Hải vào đội thủy quân chính quy của triều đình được triển khai

vào cuối thời Gia Long.

Vua Minh Mạng lên ngôi kế vị giữa lúc thực dân phương Tây đang thực

hiện xâm lược và đẩy mạnh các hoạt động xâm chiếm nhiều quốc gia phương Đông.

Ý thức được điều đó, ngay từ rất sớm vua Minh Mạng đã chúý đến việc đẩy mạnh

các hoạt động khẳng định chủ quyền trên vùng biển, nhất là đối với hai quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa.

Mặc dù trong giai đoạn này đội thủy quân như Hoàng Sa và Bắc Hải không

còn hoạt động như xưa nhưng những ngư dân ở xã An Vĩnh, Cù Lao Ré hay dân ở

cửa biển Sa Kỳ tỉnh Quảng Ngãi vẫn là lực lượng quan trọng được bổ sung vào đội

thủy quân. Họ có nhiệm vụ dẫn đường, thăm dò đường biển, hay thực hiện việc cắm

mốc, xây miếu, thực hiện việc cứu nạn các thuyền bị đắm ngoài khơi. Trong giai

đoạn này ngoài thủy quân, dân đinh, cai thủy thì việc thực hiện công vụ ở quần đảo

105

Hoàng Sa còn có các chức quan như biền binh (lính trong quân đội), vệ giám thành

(có nhiệm vụ vẽ bản đồ), binh đinh và dân phu thuộc các tỉnh ven biển Nam Trung

Bộ và Nam Bộ. Ngoài ra vua Minh Mạng còn quy định chặt chẽ và cụ thể về thời

gian và cách thức tiến hành, đồng thời đánh giá kết quả thực hiện để từ đó tùy theo

mức độ đóng góp hay vi phạm mà thưởng hay phạt một cách rất công minh. Có thể

nói đây là lần đầu tiên vấn đề thực thi công vụ ở quần đảo Hoàng Sa được đẩy lên

mức độ cấp nhà nước. Ở các thời trước việc thực thi công vụ ở Hoàng Sa chính

quyền đều giao cho đội thủy quân thực hiện tuy nhiên trong thời Minh Mạng thì nhà

nước trực tiếp kiểm soát và quản lý các hoạt động của đội thủy quân. Đây được coi

là bài học kinh nghiệm quy báu trong việc thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa.

Hằng năm vua Minh Mạng liên tục cử thủy quân theo lệ ra quần đảo Hoàng Sa

và Trường Sa để đo đạc, xem xét và vẽ bản đồ cũng như dựng bia chủ quyền. Mội

lần thực hiện công vụ ở Hoàng Sa quân được cấp tờ sai để thi hành công vụ, tờ này

sẽ được viên đội trưởng đưa cho viên quan thủ ngự khi ra vào cảng. Những nhiệm

vụ này luôn được chính quyền trực tiếp chỉ đạo và theo sát đã cho thấy vai trò quan

trọng của đội thủy quân bấy giờ. Hầu hết các hoạt động của đội thủy quân ở Hoàng

Sa đều được đặt dưới sự chỉ đạo cụ thể và rõ rệt của vua Minh Mạng thông qua các

chỉ dụ và tờ lệnh sai đi. Chẳng hạn như trong lời tâu của Bộ Công năm Minh Mạng

thứ 17 (năm 1836) đã trình lên vua chuyến đi vãng thám Hoàng Sa của đội thủy

quân do chánh đội trưởng Phạm Hữu Nhật lãnh đạo trong đó vua Minh Mạng đã chỉ

… không cứ là bãi đá nào, phàm khi thuyền đến nơi, tức thì cứ chiếu chỗ ấy

chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chu vi và nước biển bốn bề xung quanh nông

hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở bình dị thế nào,

phải xem xét đo đạc rõ ràng vẽ thành bản (Đại Nam thực lục tập 4, 2006).

rõ:

Ngoài ra vua Minh Mạng còn đề cao vai trò của việc thực hiện công vụ ở Hoàng Sa

thông qua các quy định thưởng phạt một cách công minh. Theo đó những hành

động làm sai tránh hay chậm trễ đều bị phạt. Nếu hoàn thành tốt thì sẽ được thưởng

chẳng hạn như:

Năm 1835 cai đội Phạm Văn Nguyên đi công vụ ở quần đảo Hoàng Sa về

chậm trễ, giao cho Bộ Công trị tội và phạt 80 trượng. Ngoài ra các viên giám

thành như Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Hoằng vẽ bảng đồ

Hoàng Sa chưa chu tất cũng bị phạt 80 trượng Năm 1837 kinh phái và tỉnh phái

Võ Văn Hùng, Nguyễn Văn Sênh khởi hành chậm trễ đều bị phat 80 trượng

(Nguyễn Nhã, 2012, tr.185).

106

Những quy định thưởng phạt này có tác dụng răn đe và khích lệ, tạo điều kiện

cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, đồng thời cho thấy tài năng quản lí

và lãnh đạo của vua Minh Mạng. Tuy nhiên trong số trường hợp chậm trễ nhưng có

lí do chính đáng như do bão, thiên tai không thể về như quy định đều được xét và

tha tội. Bên cạnh đó chính quyền Minh Mạng ban thưởng đối với những người dân

ngư vất vả mặc dù không hoàn thành nhiệm vụ. Trong châu bản triều Nguyễn ngày

13 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 16 (1835) Trong bản tấu trình này ghi lại việc cai

đội Phạm Văn Nguyên được phái đi Hoàng Sa như về trễ và còn sai sót trong việc

Các viên có trách nhiệm vẽ bản đồ nhưng chưa rõ rang là giám thành Trần Văn

Vân, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Hoằng cũng bị phạt 80 trượng nhưng đều

chuẩn cho tha. Viên dẫn đường Vũ Văn Hùng, Phạm Văn Sênh được ban

thưởng tiền Long Phi loại nhỏ 3 mai. Các viên tượng đợt này đều được thưởng

tiền 1 quan , cho về đơn vị cũ ( Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, 2013, tr.185).

vẽ bản đồ. Theo đó:

Các dân phu cho tỉnh phái đi được thưởng 1 hay 2 quan tiền và được miễn thuế vì

sự vất vả cực khổ, các viên chức chậm trễ hay sai phạm đều bị trị tội. Việc làm trên

đã thể hiện sự quản lí của chính quyền đối với hoạt động của thủy quân và đề cao

việc thực hiện vẽ bản đồ ở quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra cũng thể hiện sự quan tâm

của chính quyền vua Nguyễn đối với đời sống nhân dân. Tăng cường sự gắn bó giữa

nhà nước với nhân dân trong công cuộc xác lập và bảo vệ chủ quyền vùng biển

nước ta.

107

Hầu hết các chuyến đi thực hiện công vụ ở Hoàng Sa đều được tổ chức và

chuẩn bị một cách kĩ lưỡng. Vua và Bộ Công có vai trò chỉ đạo và hướng dẫn việc

đo đạc, xem xét thủy trình ở quần đảo Hoàng Sa, vệ thủy quân có nhiệm vụ thi hành

và vệ giám thành có nhiệm vụ đo đạc và vẽ bản đồ. Ngoài ra lực lượng dân phu

cũng đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn đường, cắm cọc, xây miếu cũng như

thực hiện công tác cứu hộ các tàu gặp nạn trên biển, phần lớn họ đều được lấy từ

dân của vùng biển Sa Kỳ hay Cù Lao Ré, cái nôi của đội thủy quân Hoàng Sa. Thời

gian thực hiện nhiệm vụ là vào hạ tuần tháng giêng theo đó biền binh và giám thành

sẽ đáp một chiếc thuyền đến Quảng Ngãi vào hạ tuần tháng 2. Ngoài ra chính quyền

còn thuê 4 chiếc thuyền của ngư dân làm nhiệm vụ dẫn đường. Thuyền ô là những

loại thuyền sơn đen từ mũi đến lái dài 4 trượng rộng tám thước 4 tấc, 3 thước 2 tấc

với 30 chèo. Các loại thuyền này chạy rất nhanh và có thể chở được 20 người thích

hợp cho việc tuần tra, vận tải.

Chính quyền thuê 4 loại thuyền của ngư dân vì đây là những chiếc thuyền câu

nhẹ và nhỏ di chuyển rất nhanh, dễ dàng đổ bộ vào đất liền và tránh được các mỏm

đá cũng như các bãi đá ngầm, các thủy thủ trên thuyền lại là người dân địa phương

nên đã quen với địa hình và cách thức tiến hành khai thác và tổ chức hoạt động trên

vùng biển.

Ngoài vẽ bản đồ thì chính quyền Minh Mạng còn sai thủy quân đi đến quần

đảo Hoàng Sa xây miếu, dựng bia làm dấu. Như ở chương trước tác giả đã đề cập là

trong quá trình xem xét đo đạc thủy trình thì thủy quân đã phát hiện ra ngôi miếu cổ

có từ lâu đời trên đó ghi Vạn Lý Ba Bình. Ngoài ra trong thời kì này chính quyền

còn phái quân đi đảo Hoàng Sa thực hiện việc đo đạc, vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng

bia chủ quyền. Đây được coi là việc làm tiến bộ của triều Minh Mạng có tác dụng

nâng cao hơn nữa việc xác lập chủ quyền tại vùng biển đảo. Theo bản phúc tấu của

Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 17 (năm 1836) trong đó ghi rõ châu

phê của Minh Mạng khi đội thủy quân ra quần đảo Hoàng Sa cắm mốc chủ quyền:

“Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5

thước, rộng 5 tấc khắc sâu hàng chữ “ Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), họ và

tên cai đội thủy quân phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu” và

108

đồng thời cũng nhấn mạnh rằng: “thuyền đi đến đâu cắm cột mốc đến đó để lưu

dấu” (Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, 2013, tr.115).

Như vậy qua mỗi năm các hoạt động đo đạc thủy trình, dựng bia, cắm mốc

chủ quyền được đội thủy quân tiến hành một cách đều đặn. Các cột mốc đều khắc rõ

tên, chức vụ, năm, tên họ của người chỉ huy theo mệnh lệnh triều đình ra đảo. Các

cột mốc này không chỉ là dấu hiệu ghi nhớ mà còn có giá trị là bằng chứng khẳng

định chủ quyển của chính quyền phong kiến Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.

Cùng với hoạt động xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

thì thủy quân cũng khai thác sản vật như thời chúa Nguyễn trước đây. Trong tác

phẩm Đại Nam thực lục có chép rằng “Năm Giáp Ngọ (1836) giám thành đội

trưởng Trương Phúc Sĩ cùng với thủy quân hơn 20 người đến Hoàng Sa vẽ bản đồ

khi trở về đã đem dâng vua các hải vật cá, ba ba sò ốc bắt được ở đảo đó” (Đại

Nam thực lục tập 4, 2006, tr.120 - 121).

Thời Thiệu Trị có rất ít các tư liệu viết về việc triều đình quân ra đảo Hoàng

Sa. Do trong giai đoạn này phải đối phó với cuộc tấn công của Pháp tại Đà Nẵng

nên chính quyền phong kiến không có điều kiện để cử các đội thủy quân tiến hành

xem xét đo đạc thủy trình ở quần đảo Hoàng Sa như trước. Vì thế, Quốc sử quán

triều Nguyễn ghi nhận lại việc Bộ Công xin cho trì hoãn việc thám vãng ở Hoàng

Sa. Trong đó cụ thể nhất là hai bản tấu của Bộ Công tháng 6 năm Thiệu Trị thứ 5

(năm 1845), ngày 26 tháng 1 năm Thiệu Trị thứ 7 (năm 1847) đều được vua châu

phê cho đình hoãn việc thám sát Hoàng Sa.

Như vậy trong thời kì Thiệu Trị hoạt động thăm dò vùng đảo Hoàng Sa của

thủy quân tạm thời bị gián đoạn nhưng đây chỉ mang tính chất tạm thời. Do trong

giai đoạn này chính quyền phong kiến gặp phải đối phó với cuộc nổi dậy người Khơ

me ở Nam Kì, ở phía Nam Chân Lạp và Xiêm liên tục tiến hành gây hấn. Phía biển

năm Đinh Mùi (1847) cuộc trạm trán giữa chính quyền phong kiến với Pháp, theo

đó Pháp dùng đại bác bắn chìm tàu của Việt Nam trên biển Đông. Sự kiện này đã

làm cho chính quyền Thiệu Trị tăng cường chính sách cấm đạo Thiên Chúa gay gắt.

Thời kỳ này đánh dấu sự mở đầu cho đường lối "ngoại giao pháo hạm" của

Pháp, báo hiệu trước về hành động xâm lược sau này. Những hành động gây hấn

109

trắng trợn của tư bản Pháp trên vùng biển nước ta báo hiệu cho cuộc chiến tranh

xâm lược có thể nổ ra. Vì thế, vua Thiệu Trị đã tiến hành tăng cường các hoạt động

phòng thủ ở vùng duyên hải nhằm ngăn chặn nguy cơ xâm lược Vì thế các hoạt

động đo đạc thám vãng vùng biển trong giai đoạn này đều tạm hoãn.

Sang thời Tự Đức, thực dân Pháp ngày càng can thiệp sâu hơn vào nội bộ của

triều đình. Chính quyền phong kiến bấy giờ bộc lộ những yếu ớt và khủng hoảng.

Các cuộc nổi dậy của tầng lớp văn thân, sĩ phu, việc tăng thuế, những yếu kém về

kinh tế cũng như hạn chế trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Đại Việt với Pháp

và Trung Hoa...những khó khăn, thử thách trong và ngoài nước khiến chính quyền

Tự Đức không có điều kiện cử các đội thủy quân ra vùng quần đảo Hoàng Sa và

Trường Sa. Hoạt động chủ yếu trong giai đoạn này của thủy quân là thực hiện

nhiệm vụ cứu hộ các thuyền nước ngoài đắm hay gặp nạn như cứu tàu Pháp vào

năm Canh Dần (1830) hay cứu tàu người Xích Mao chở 540 người gặp nạn ở Vạn

Lý Trường Sa thời Tự Đức...thể hiện ứng xử nhân đạo của chính quyền cũng như

góp phần khẳng định chủ quyền tại vùng biển đảo

Hoạt động của thủy quân Hoàng Sa có vai trò vô cùng quan trọng trong việc

khai thác và thực thi chủ quyền của chính quyền phong kiến tại vùng đảo xa bờ, đặc

biệt là đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong thời chúa Nguyễn các

đội thủy quân được thành lập nhằm đảm trách việc khai thác lợi ích kinh tế của

biển, đồng thời đem lại cho chính quyền phong kiến nguồn lợi to lớn về vũ khí. Các

hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa đã giúp cho chính quyền có thể mở rộng

việc khai thác và quản lí các quần đảo xa bờ. Từ tổ chức bán quân sự ban đầu trải

qua quá trình hoạt động của mình, đội thủy quân Hoàng Sa trở thành một bộ phận

của lực lượng quân sự chính quy của triều đình. Họ có vai trò to lớn là lực lượng

trực tiếp đại diện cho triều đình thực hiện việc quản lý và chiếm hữu hợp pháp vùng

biển đảo.

Trải qua các triều đại khác nhau từ thời chúa Nguyễn đến thời Tây Sơn và nhà

Nguyễn sau này đều cố gắng tổ chức và duy trì các hoạt động của đội Hoàng Sa và

xem họ là lực lượng đặc biệt đảm nhận việc khai thác và bảo vệ an ninh vùng biển.

Những ngư dân của huyện Cù Lao Ré và cửa biển Sa Kỳ đã được quân sự hóa. Họ

110

vừa thực hiện khai thác kinh tế với danh nghĩa ngư dân vừa thực hiện nhiệm vụ bảo

vệ vùng biển như người lính. Họ không chỉ bảo vệ vùng biển của tổ quốc mà còn

bảo vệ quê hương, người thân và gia đình của họ. Chỉ với những công cụ thô sơ ban

đầu những người lính Hoàng Sa đã đóng góp vai trỏ quan trọng trong việc khai thác,

bảo vệ và xác lập chủ quyền tại vùng biển đảo. Đến thời nhà Nguyễn nhiệm vụ của

họ không còn đơn thuần thực hiện việc khai thác kinh tế mà đã được nâng lên thành

tổ chức chính quy và là một bộ phận của lực lượng thủy quân triều đình. Có nhiệm

vụ là thay mặt chính quyền thực hiện xem xét đo đạc thủy trình và cắm mốc, dựng

bia xác lập chủ quyền. Có thể nói những đội thủy quân Hoàng Sa là những người đã

góp phần quan trọng tạo nên trang sử vẻ vang cho dân tộc.

111

Tiểu kết Chương 2

Chính sách khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển, của chính quyền chúa

Nguyễn và vương triều Nguyễn là hai hoạt động được tiến hành song song liền kề

nhau. Thông qua việc khai thác kinh tế biển chính quyền phong kiến cũng tiến hành

bảo vệ chủ quyền của mình tại vùng biển. Các hoạt động khai thác thời chúa

Nguyễn được đẩy mạnh hơn. Vì trong thời kì này các chúa Nguyễn mong muốn

nhanh chóng xây dựng vùng đất Đàng Trong thành một chỗ đứng chân vững mạnh

cả về kinh tế lẫn quân sự.

Xuất phát từ nhu cầu tồn tại và cuộc chiến với thế lực Đàng Ngoài đã tạo động

lực thúc đẩy cho các chúa Nguyễn phải khai thác tối đa những tiềm năng mà vùng

đất Thuận Quảng mang lại. Các hoạt động khai thác trong thời kì này gắn liền với

hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa về sau thì có thêm đội Bắc Hải. Các đội này

lúc đầu có nhiệm vụ là khai thác ở các vùng ven biển và hải đảo những quần đảo xa

bờ như Hoàng Sa, Trường Sa (Vạn Lý Trường Sa) về sau thì kiêm thêm nhiệm vụ

bảo vệ tuần tra và giám sát. Thông qua hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa và

Bắc Hải chính quyền phong kiến cũng tiến hành việc xác lập chủ quyền của mình

đối với các quần đảo và vùng ven biển. Đây được coi là nền tảng quan trọng cho

việc tiến tới xác lập một cách hoàn thiện trong giai đoạn các vua Nguyễn sau này.

Trong chính sách hướng biển thì chính quyền chúa Nguyễn đã thực hiện rất tốt

chính sách kinh tế hải thương bằng việc mở rộng quan hệ giao thương với nhiều

quốc gia trong khu vực, đưa kinh tế vùng đất này phát triển một cách hưng thịnh và

rực rỡ nhất trong lịch sử. Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các đô thị và

thương cảng lớn như Hội An, Nước Mặn, Bãi Xàu thu hút các thương nhân từ khắp

các nơi tìm đến. Các thương nhân nước ngoài không chỉ tới mang sản phẩm mua

bán mà họ còn xây dựng những khu phố, những đô thị mang nét văn hóa của đất

nước mình.

Các chúa Nguyễn đã biết tận dụng khai thác những tiềm năng mà vùng đất này

mang lại như sự giàu có về các sản phẩm nông lâm nghiệp, long não, ngà voi, da

hưu, sừng tê giác, trầm hương, kì nam cùng với chính sách ngoại giao khôn khéo,

“không đóng cửa trước bất kì một quốc gia nào” và đối sách linh hoạt tùy theo từng

112

quốc gia. Chính đường lối ngoại giao năng động có một không hai của các chúa

Nguyễn đã thu hút đông đảo các thương nhân từ khắp các nơi tìm đến mang lại cho

chính quyền phong kiến một nguồn lợi khổng lồ từ việc đánh thuế và sự đa dạng về

các loại vũ khí từ các nước Phương Tây. Các hoạt động này đã đem lại cho chính

quyền chúa Nguyễn nguồn sức mạnh to lớn trong việc xây dựng một thể chế vững

mạnh, quân đội và vũ khí hiện đại trong cuộc chiến với chúa họ Trịnh mà còn tạo

điều kiện cho việc mở rộng lãnh thổ của các chúa Nguyễn về phía Nam.

Tư duy hướng biển của các chúa Nguyễn đã thay đổi quan điểm truyền thống

“trọng nông ức thương” của các triều đại trước đây, đưa nền kinh tế nước ta thời đó

phát triển theo hướng mới lấy ngoại thương làm bước tiến quan trọng. Thực tế lịch

sử đã chứng minh trong suốt 2 thế kỉ XVI - XVII nhờ vào hoạt động ngoại thương

phát triển mạnh mẽ đã tạo cho vùng đất Đàng Trong có tầm ảnh hưởng nhất định

trong khu vực, không chỉ vững mạnh về kinh tế mà còn cả về quân sự. Chính sách

ngoại giao của chính quyền Đàng Trong luôn cởi mở và tiếp nhận các thương nhân

từ khắp nơi tìm đến trao đổi và mua bán, đồng thời thiết lập hệ thống trục giao

thương liên vùng. Các thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc và Bồ Đào Nha đóng vai

trò quan trọng trong quan hệ giao thương với Đàng Trong không chỉ mang lại sự

phát triển về kinh tế mà còn tạo thêm liên minh đắc lực trong cuộc chiến với chiến

quyền họ Trịnh. Nhờ việc mở rộng quan hệ giao thương với Nhật Bản và Bồ Đào

Nha mang lại cho chính quyền Đàng Trong nguồn lợi to lớn về vũ khí và quân trang

hiện đại và những ảnh hưởng nhất định về văn hóa, ngoại giao. Điểm khác biệt

trong chính sách khai thác kinh tế biển đảo thời chúa Nguyễn và vua Nguyễn đó là

bắt nguồn từ sự khác nhau về ý thức của hai triều đại. Đối với chúa Nguyễn việc

khai thác nguồn lợi từ biển có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển kinh tế đất nước

tạo điều kiện cho việc tăng cường nhân lực để phát triển vùng đất mới. Còn các vua

Nguyễn thì thông qua các hoạt động khai thác để có thể kiểm soát chặt chẽ vấn đề

an ninh quốc phòng. Thời chúa Nguyễn thì các hoạt động khai thác được chú trọng

nhiều hơn. Hoạt động khai thác đi kèm với việc xác lập và bảo vệ chủ quyền đã tạo

điều kiện cho chính quyền phong kiến từng bước hợp thức hóa việc làm chủ của

mình tại vùng biển, và các hoạt động này được tiến hành một cách liên tục từ thế hệ

113

này sang thế hệ khác. Chính sách khai thác kinh tế và bảo vệ chủ quyền thời chúa

Nguyễn và vua Nguyễn được tiến hành song song và liên tục thông qua sự ra đời và

hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa, Bắc Hải. Về tổ chức quản lí thì đội Hoàng

Sa và Bắc Hải luôn được dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền phong kiến

Nguyễn thông qua các công vụ, chiếu chỉ, mệnh lệnh và được tiến hành một cách

đều dặn hằng năm. Mặc dù còn hạn chế những chính nhờ có lực lượng này mà

chính quyền chúa Nguyễn mặc dù mở rộng cửa buôn bán với tất cả các nước vẫn

đảm bảo được vấn đề an ninh quốc phòng.

Đến thời Tây Sơn, Thái Đức Nguyễn Nhạc cho đội thủy quân Hoàng Sa, Bắc

Hải phục hồi và hoạt động trở lại. Ngoài ra còn bổ sung thêm các đội như Quế

Hương, đã bị ngưng hoạt động trong cuộc chiến giữa Tây Sơn với họ Nguyễn.

Trong giai đoạn này các đội Hoàng Sa đã bắt đầu có tổ chức và hoạt động như đội

thủy quân của triều đình. Đến thời các vua Nguyễn đặc biệt là thời Gia Long Minh

Mạng đội Hoàng Sa được sáp nhập vào lực lượng chính quy của triều đình đảm

đương trọng trách quan trọng trong việc thay mặt triều đình khẳng định chủ quyền ở

các vùng biển và hải đảo nhất là vùng Hoàng Sa Trường Sa. Thời kì này đội Hoàng

Sa không còn có tên gọi và hoạt động như một tổ chức dân sự như trước mà đã trở

thành một lực lượng quan trọng không thể thiếu trong lực lượng thủy quân của triều

đình. Chính quyền nhà Nguyễn sử dụng họ là lực lượng tiên phong dẫn đường trong

việc thực hiện công vụ như cắm mốc chủ quyền, dựng bia, xây dựng chùa miếu và

trồng cây ở đảo Hoàng Sa và các đảo xa bờ.

Như vậy so với các thời kì trước đây thì đến thời nhà Nguyễn vai trò và tầm

quan trọng của đội Hoàng Sa được nâng cao rất nhiều. Vai trò của đội thủy quân

Hoàng Sa trong lịch sử xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo từ thế kỉ XVII đến

thế kỉ XIX được thể hiện rõ nét thông qua các hoạt động khai thác, tuần tra, giúp đỡ

các tàu thuyền bị đắm cho đến các hoạt động khẳng định chủ quyền ở vùng biển.

Mặc dù trải qua nhiều thế kỉ có đôi lúc hoạt động của đội Hoàng Sa bị gián

đoạn bởi các cuộc nội chiến và sự biến động của lịch sử nhưng chính quyền phong

kiến chưa bao giờ cho chấm dứt hay giải thể đội Hoàng Sa. Qua mỗi triều đại thì vai

trò của đội thủy quân này lại thể hiện một cách rõ nét và trên mức độ cao hơn trước.

114

Có thể nói quá trình phát triển của đội thủy quân Hoàng Sa được gắn liền với sự đổi

mới nhận thức trong tư duy của chính quyền và những biến động của tình hình thế

giới. Việc sử dụng đội thủy quân Hoàng Sa vào việc khai thác kinh tế và xác lập

chủ quyền đây được coi là bảo học quan trọng cho tiònh hình nước ta hiện nay.

Thực chất hiện nay việc khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển của nước ta chưa

mang lại hiệu quả cao. Hầu hết việc khai thác đều được tiến hành bởi ngư dân chứ

chưa có một lực lượng thủy quân nhà nước nào đảm nhiệm. Ngoài ra số lượng

thuyền đánh cá nhiều rải rác và các phương tiện khai thác còn lỗi thời và xuống cấp.

Vì thế gây hạn chế cho việc kiểm soát hoạt động khai thác, hiệu quả khai thác mang

lại chưa cao việc quản lí thiếu chặt chẽ . Nên thành lập một tổ chức thủy quân nhà ,

nước, bên cạnh đó cần tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát và nâng cấp các

phương tiện khai thác đánh bắt. Hiện nay chính quyền đã yêu cầu các ngư dân phải

trang bị thiết bị bộ đàm cho các tàu đánh cá có tải trọng lớn. Tuy nhiên cần có sự

thống nhất trong việc tiến hành đồng thời nhà nước nên giao trách nhiệm cho một tổ

chức ở mỗi đại phương kiểm tra và quản lí để việc này được tiến hành một cách

đồng bộ hơn.

115

Chương 3. CHÍNH SÁCH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO

THỜI CHÚA NGUYỄN VÀ VUA NGUYỄN

(TỪ THẾ KỈ XVII - NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX)

3.1. Hoạt động tuần tra, kiểm soát trên biển

Với ý thức kinh tế trong cái nhìn hướng biển của mình các vị vua thời phong

kiến đã biết tận dụng những lợi thế mà biển mang lại, tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa

đất nước phát triển.Từ rất sớm chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã thấy

được những lợi thế từ biển mang lại, phát huy các yếu tố kinh tế biển của cư dân

Chămpa để xây dựng vùng đất Đàng Trong ngày càng hùng mạnh về kinh tế lẫn

quân sự đứng vững trước các cuộc tấn công của chính quyền họ Trịnh, Xiêm và

Chân Lạp. Việc khai thác các yếu tố kinh tế biển cũng đặt ra yêu cầu phải đi đôi với

việc bảo vệ.

Vùng đất Đàng Trong nằm ở vị trí mở, là nơi đón nhận các thuyền bè từ các

nước ra vào phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các quốc gia trong khu vực và

trên thế giới. Các cuộc phát kiến địa lý đã tạo điều kiện cho việc nối kết các châu

lục trên thế giới, nối liền vùng châu Âu tới những nơi xa xôi của vùng đất Châu Á.

Những cuộc giao lưu tiếp xúc trên biển đã tạo cho chính quyền phong kiến thu được

những lợi nhuận to lớn về kinh tế. Thông qua việc đánh thuế, phát triển thương mại

và giao lưu văn hóa.

Trong suốt thế kỉ XVII - XVIII các chúa Nguyễn đều thực hiện chính sách mở

rộng cửa biển cho các nước vào tự do buôn bán, nhờ thế nền hải thương của nước ta

trong giai đoạn này có bước phát triển rực rỡ. Việc mua bán với các nước như Nhật

Bản, Bồ Đào Nha và phương Tây đã tạo điều kiện cho chúa Nguyễn thu mua được

một số lượng lớn vũ khí không chỉ là phương tiện cho cuộc chiến chống chính

quyền họ Trịnh mà còn cơ sở cho việc xây dựng quân đội hùng mạnh. Đây được

xem là bước đột phá lớn trong tư duy của chính quyền lúc bấy giờ, với việc mở

rộng giao thương với bên ngoài phá vỡ lối tư duy truyền thống bó hẹp trong các mối

quan hệ lân bang, tạo điều kiện cho thương nghiệp lần đầu tiên có cơ hội phát triển.

116

Bên cạnh mang lại những tiềm năng to lớn về kinh tế, thì biển cũng tiềm ẩn

những nguy cơ đó là nguy cơ xâm lược từ phía biển của các quốc gia phương Tây.

Vì thế cùng với việc chú trọng phát triển kinh tế chính quyền chúa Nguyễn trong

giai đoạn này cũng chú trọng đến vấn đề quốc phòng thông qua việc tăng cường sức

mạnh của thủy quân.Thời Chúa Nguyễn các đội thủy quân được luyện tập và huấn

luyện thường xuyên để thuần thục cách bắn súng và chiến đấu trên biển. Thời chúa

Nguyễn Phúc Nguyên tác phẩm Binh Thư của tham tán quân Đào Duy Từ có tác

dụng hữu ích là kim chỉ nan cho việc huấn luyện thủy quân. Ngoài ra việc tuyển

chọn binh lính vào lực lượng thủy quân rất kĩ càng và phải trải qua nhiều buổi huấn

luyện bài bản rồi mới được dựa vào thực hiện. Hầu hết là những thanh niên cường

tráng có sức khỏe tốt được sung vào các đội thủy quân và từ đó theo các chiến

Mỗi năm vào khoảng tháng ba, tháng tư quân nhân đi ra các làng, bắt dân từ 16

tuổi trở lên. Những người thân thể cường tráng, đóng gông lại bằng một cái

gông tre hình như cái thang nhưng hẹp hơn để giải về phủ sung quân; vào quân

đội rồi; mỗi người bắt chuyên học một nghề, kế đến phái đi theo các chuyến

thuyền để luyện tập (Thích Đại Sán, 2016, tr.191).

thuyền để luyện tập

Thời chúa Nguyễn các đội thủy quân được tăng cường luyện tập thường

xuyên, các chúa Nguyễn tạo điều kiện cho các đội thủy quân có thể phát huy năng

lực của mình. Vai trò của lực lượng thủy quân trong việc bảo vệ vùng lãnh thổ và

khai thác các thế mạnh trên biển được chính quyền chúa Nguyễn chú trọng nhất là

khả năng tác chiến linh hoạt trên biển. Trong giai đoạn này thủy binh được học cách

Qúy Mão năm thứ 15 (1663) mùa hạ tháng 5 chúa cho rằng trong trận đánh

Nhật Lệ, nghề bắn của ta chưa được tinh, muốn bắt chước phép luyện tập bắn

của Thái tổ, sai đắp ụ ở Hoằng Phúc (chiều cao hơn 30 thước, chiều rộng hơn

130 thước), trước mặt đặt một cái xạ hầu, khiến thủy sư đi lại mà bắn thi, lấy

bắn trúng hay không trúng mà định thưởng phạt từ đấy quân sĩ đều cố gắng,

luyện tập về phép sử dụng vũ khí cũng như khả năng chiến đấu trên biển.

phép bắn ngày càng thêm tinh (Quốc sử quán triều Nguyễn tập 1, 2002,

tr.55).

117

Việc thao diễn tập luyện thủy quân được chính quyền chúa Nguyễn chú trọng

tiến hành đều dặn qua các năm chứng tỏ sự quan tâm của chính quyền đối với vai

trò của lượng thủy quân trong việc bảo vệ an ninh quốc phòng. Từ thời chúa

Nguyễn Phúc Nguyên cho đến chúa Nguyễn Phúc Tần đều chú trọng đến các hoạt

động diễn tập của thủy quân. Ngoài việc luyện tập thường xuyên lực lượng thủy

quân còn được trang bị vũ khí hiện đại và thuyền chiến hỗ trợ cho các hoạt động

tuần tra của thủy quân trên biển.Vì thế trong cuộc trạm tráng với quân xâm lược sức

mạnh của đội thủy quân được thể hiện rõ rệt và khẳng định đủ sức đấu đầu với các

thế lực xâm lực bên ngoài.

Sang đến thời vua Nguyễn đội thủy quân được tổ chức và trang bị chu đáo

hơn, đặc biệt dưới thời Minh Mạng thủy quân triều đình được trang bị nhiều

phương tiện chiến đấu hiện đại và lối tác chiến điêu luyện, kĩ thuật chiến đấu cao.

Minh Mạng là vị vua luôn có sự quan tâm rất sâu sắc đến vấn đề an ninh và chủ

quyền đất nước. Vì thế ngay sau khi lên ngôi Minh Mạng đã tiến hành nhiều biện

pháp để nâng cao bảo vệ an ninh quốc phòng. Mặc dù là trong chế độ phong kiến

nhưng vua Minh Mạng không đóng cửa trước phương Tây như chính quyền Mãn

Thanh. Mà ông chủ động tiến hành nhiều cuộc xuất dương, tiếp thu sự tiến bộ về

thành tựu khoa học kĩ thuật của phương Tây và mạnh dạn áp dụng vào nước mình.

Các khẩu súng đại bác hiện đại, các con tàu chạy bằng hơi nước, những cơ sở

sản xuất vũ khí là những bằng chứng về sự tiếp nhận của Minh Mạng đối với các

thành tựu của phương Tây. Thủy quân nhà Nguyễn được chia làm hai bộ phận:

Quân ở đóng ở kinh thành và hệ thống thủy quân ở các địa phương. Thủy quân

được coi là bộ phận quan trọng trong việc tiến hành các hoạt động và thực thi chủ

quyền vùng biển. Thủy quân triều đình được tổ chức theo hệ thống ngũ doanh gồm:

Trung thủy, tiền thủy, hận thủy, tả và hữu thủy. Mỗi doanh sẽ được chia làm ba chi

Trung, Tiền, Hậu, mỗi chi sẽ quản lí hai đội Nhất và Nhị. Trong đó chi Tiền sẽ đặt

làm 6 đội từ đội nhất đến đội Ngũ chi Nhất, chi Ngũ; ba chi của các doanh Tả thủy,

118

Hữu thủy, Hậu thủy mỗi chi đặt 3 đội, tổng cộng 5 doanh có 70 đơn vị. Đến năm

1801 thủy quân triều đình được tổ chức và sắp xếp lại. Số lượng quân không thay

đổi vẫn là 60 lính / đơn vị. Và tổng cộng 5 doanh sẽ có số lượng là 4.200 quân.

Bộ phận thủy quân của triều đình tách ra làm hai bộ phận là: một bộ phận

đóng ở kinh thành và một bộ phận đóng ở các trấn. Thủy quân ở các trấn được bố trí

dọc khắp các vùng ven biển từ Bắc đến Nam tạo thành một hệ thống phòng thủ chắc

chắn và chính quyền cho thiết lập các hệ thống đồn trú để dễ vận chuyển tin tức.

Thủy quân đóng ở các trấn sẽ chịu sự kiểm soát của triều đình chứ không theo lệnh

địa phương.Việc này tăng cường sự quản lí thống nhất của chính quyền. Sự hình

thành hệ thống thủy quân ở các trấn tạo nên mối dây liên kết vững chắc giữa triều

đình và các trấn, đảm bảo việc an ninh và bảo vệ chủ quyền. Đến năm 1806 lực

lượng thủy quân ở triều đình “đổi thành mô hình 1 vệ và 5 thủy quân: gồm 1 vệ

Phấn Dực Nội thủy gồm 600 người được tổ chức làm 10 đội, mỗi đội 60 người, và

các cơ Tiền thủy, Hậu thủy, Trung thủy, Tả thủy, Hữu thủy. Tổng số quân của 1 vệ

và 5 thủy là 3.600 quân.” (Đỗ Bang, 2017, tr. 119). Về cấp chỉ huy thì thống lĩnh

toàn bộ lực lượng thủy quân trong kinh và ngoài trấn là các chức võ quan Đô thống

chế và chức Phó đô thống chế. Nhiệm vụ của đội thủy quân sẽ bao gồm là vận tải

đường biển, chở vũ khí, đạn dược, súng, tiến hành tuần tra, giám sát, đấu tranh

chống quân xâm lược..

Thời nhà Nguyễn các hoạt động tuần tra được tiến hành một cách điều đặn

nhất là các vùng trọng yếu như kinh đô, biên giới các vùng hải đảo xa bờ. Thời gian

tuần tra chủ yếu là từ tháng 3 đến tháng 8. Đây là thời gian các tàu công vụ tiến

hành các hoạt động vận tải cho triều đình, các hoạt động buôn bán diễn ra tấp nập

nhất và đây cũng là thời gian hoạt động của cướp biển. Việc tuần tra được tiến hành

luân phiên nhau để cho kẻ làm người nghỉ được đồng đều, đảm bảo việc an ninh

được tiến hành thường xuyên: “Việc vận tải cứ mỗi năm một lần, thượng tuần tháng

tư thì ra biển; thuyền chở đi qua, có cần giúp đỡ gì, tức thì chiếu cố và khám làm

chứng, đem việc tâu lên.” (Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 795). Đến thời Minh

Mạng để tăng cường hoạt động bảo vệ vùng biển vua cho quy định lại hoạt động

tuần tra:

Trước đã chuẩn hằng năm cứ tuần tháng 2, các tỉnh ven biển đều phái quân đi

tuần ở biển, nhưng từ trước đến nay quan đi bắt giặc phần nhiều không đắc lực,

thường không dám ra ngoài xa biển, gián hoặc có người dám đi lại không chịu

hết sức tìm bắt giặc. Vậy nay cho các quản vệ hiện đi tuần, vẫn lưu lại để cai

quản. Còn tự xuất đội đến binh đinh cứ 3 tháng chiếu số thay đổi, để cho khi

nhọc rỗi đều được nhau (Đại Nam thực lục tập 5, 2007, tr. 38).

119

Bên cạnh việc tuần tra mặt biển chính quyền Minh Mạng cũng quan tâm đến

tuần tra ở các hải đảo: “Chiếu theo phận biển, hòn đảo nhiều ngả mà giặc biển đậu

lại bất thường, có khi ở đảo này có khi qua đảo khác, chả qua là 1, 2 ngày để đợi

chiều gió rồi đi, các thuyền quân đi tuần liễu, xin theo dụ trước, cứ tháng 4 phái đi,

tháng 10 rút về ” (Đại Nam thực lục tập 5, 2007, tr. 85).

Chính quyền cũng tiến hành cấp kính thiên lí và ban hành các chế độ thưởng

phạt cho các hoạt động tuần tra và giám sát biển, nhờ vậy hoạt động bảo vệ an ninh

vùng biển được đảm bảo góp phần quan trọng vào công cuộc bảo vệ an ninh chủ

Cấp thêm kính thiên lí cho cữa biển Thuận An, vua ai chọn phái 1 người thị vệ

hoặc đội Kim Sang, Cảnh tất, hậu vệ đả quen thạo non dòm, chỉ bảo cho bọn

quản vệ, tất đội, tuấn thủ, thủ ngự ở cửa biển ấy học tập, cứ 10 ngày bộ công 1

lần phái đến xét hạch, nếu chưa hiểu gia hạn nữa đến 3 hạn mà không am hiểu

thì phạt tội xuy, nếu học đã biết cách chuẩn cho hằng ngày đến vọng lâu kì đài

Trấn Hải để dòm trông phàm có thuyền cọng đi trên mặt biển, tức thì xét rõ bao

bộ tâu lên, nếu có lầm lẫn để lỡ việc phải trị tội nặng.

Các tỉnh Quảng Trị, Quãng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hiòa mỗi tỉnh một ống, các

tỉnh trở vào Nam, trở ra Bắc đều được ban cấp kính (Đại Nam thực lục, tập 5,

2007, tr.129).

quyền đất nước.

120

3.2. Xây dựng hệ thống phòng thủ ở vùng duyên hải và cảng biển của các chính

quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn

3.2.1. Xây dựng hệ thống phòng thủ vùng biển thời Chúa Nguyễn

Trong chính sách bảo vệ an ninh vùng biển đảo, chính quyền chúa Nguyễn và

các vua Nguyễn rất chú trọng đến việc xây dựng hệ thống phòng thủ vững chắc.

Vùng biển nước ta được chia làm 3 vùng biển Đông Bắc, vùng biển Nam Trung Bộ

và vùng biển Tây Nam cả ba vùng đều có vị trí chiến lược quan trọng. Tuy nhiên

quan trọng nhất là vùng biển miền Trung đây là vùng có địa hình ngắn và dốc khá

hiểm trở bị chia cắt bởi các con sông chạy theo hướng Tây Nam đổ ra biển, nơi đây

trước kia người Chăm Pa đã xây dựng ở khu vực này một nền mậu dịch sôi nổi và

nhộn nhịp tạo cho cảng thị Chăm pa có sức hút lớn đối với các quốc gia trong khu

vực. Vùng biển miền trung có nhiều cảng biển, cửa biển tạo tiềm lực giao thương

buôn bán với bên ngoài vừa là chỗ quan yếu để phòng bị chống lại sự tấn công từ

các thế lực ngoại xâm. Chính vị thế quan trọng của vùng biển này mà khi vừa vào

trấn thủ vùng đất Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã chú trọng xây dựng ở vùng biển

Nam Trung Bộ một hệ thống phòng thủ vững chắc nhằm chống lại sự tấn công của

họ Mạc ở phía Bắc và người Chân Lạp ở phía Nam“Canh Thân, năm thứ 3 [1560],

mùa đông đặt đồn cửa biển giữ miền duyên hải” (Quốc sử quán triều Nguyễn tập 1,

2002).

Đến thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên việc xây dựng các công trình phòng thủ

ngày càng được chú trọng. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã biết kế thừa, phát triển

truyền thống hướng biển của người Chămpa và có tầm nhìn sáng suốt khi sử dụng

ngoại thương làm nhân tố quan trọng cho sự phát triên đất nước. Nguyễn Phúc

Nguyên đã biết nắm lấy thời cơ khi kinh tế hải thương trên thế giới đang phát triển

mạnh. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã mạnh dạn thực hiện bước tiến bộ, tận dụng

nguồn lực từ việc thiết lập giao thương với các quốc gia trong khu vực đặc biệt là

Nhật Bản điều này đã giúp cho vùng đất Đàng Trong phát triển vuợt bậc, nhanh

chóng hòa nhập vào thế giới. Cùng với việc thi hành chính sách mở cửa cho tất cả

thuyền buôn nước ngoài thì chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng chú trọng xây dựng ở

các vùng xung yếu, nhiều tàu thuyền ra vào hay các cảng biển có ý nghĩa chiến lược

121

quan trọng các công trình phòng thủ: “Đặt đài hiệu ở các trấn Cần Giờ sai Nguyễn

Văn Trung đem thủy quân đến các vùng cửa biển” (Quốc sử quán triều Nguyễn tập

1, 2002) . Ngoài ra Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng cử quân đến trấn giữ các vùng

xung yếu. Được sự cố vấn của tham tán quân cơ Đào Duy Từ, chúa Nguyễn Phúc

Nguyên cho xây dựng một công trình thủ thủ có tính chất kiên cố từ trước đến nay

là xây dựng lũy Trường Dục và Nhật Lệ. Hai tuyến phòng thủ này có tác dụng quan

trọng không chỉ trong việc phòng thủ tránh sự tấn công của quân Trịnh mà còn

Lũy cao một trượng 5 thước, ngoài đóng gỗ lim trong đắp đất làm 5 bậc voi

ngựa đi được, dựa núi men khe dài hơn 3000 trượng, mỗi trượng đặt một khẩu

súng quá sơn, cách 3 - 5 trượng lập 1 pháo đài, đặt một khẩu súng nòng lớn.

Thuốc đạn chứa như núi. Mấy tháng dắp xong, lũy thành một nơi ngăn chia

hẳn hai miền Nam - Bắc. Lại đặt xích chắn ngang các cửa biển Nhật Lệ và Ma

Linh. Đây được coi là công trình phòng thủ có tính chất quy mô nhất thời chúa

Nguyễn cùng với đó các chúa Nguyễn còn cử người đến kiểm tra giám sát các

vừng biển trọng yếu. Ngoài ra chúa Nguyễn Phúc Nguyên còn cho quân xây

dựng lũy Trường Sa và đóng cọc gỗ ở cửa biển Nhật Lệ để chống lại sự tấn

công của quan Trịnh. Đắp đồn Sa Thủy (ở cửa biển Nhật Lệ bấy giờ gọi là lũy

Mũi Dùi) (Lê Qúy Đôn, 1977, tr. 134).

nhằm tăng sự kiểm soát của triều đình đối với vùng biển và hải đảo trọng yếu

Việc xây dựng pháo đài trên đã chứng tỏ chính quyền chúa Nguyễn Phúc

Nguyên đã có ý thức rõ ràng về việc thực hiện ly khai khỏi chính quyền Chúa Trịnh

và đây cũng được xem là sự chuẩn bị quan trọng cho cuộc chiến chống họ Trịnh sau

này. Vì thế ngay sau khi xây xong: “là một nơi ngăn chặn chia thành hai miền Nam

Bắc lại đặt xích sắt chắn ngang cửa biển Nhật Lệ và Minh Linh” (Quốc sử quán

triều Nguyễn tập 1, 2002, tr.134). Hệ thống phòng thủ ở cửa biển Nhật Lệ được xem

là pháo đài bất khả xâm phạm của chính quyền Đàng Trong, đóng vai trò quan trọng

trong việc bảo vệ chính quyền Chúa Nguyễn trong suốt 50 năm giao tranh khốc liệt

122

với họ Trịnh từ năm 1627 – 1672. Trong suốt cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn lũy

Nhật Lệ đã chặn được nhiều cuộc tấn công của họ Trịnh và gây cho chính quyền

Đàng Ngoài tổn thất to lớn. Vì thế khi nói về tính kiên cố và tính phòng ngự chắc

chắn của lũy Nhật Lệ dân gian thường có hai câu thơ:

“Khôn ngoan qua được Thanh Hà

Dẫu là có cánh khó qua Lũy Thầy”

Như vậy với việc xây dựng hệ thống phòng thủ trên biển đã cho thấy ý thức

hướng biển sâu sắc của chúa Nguyễn Phúc Nguyên lúc bấy giờ. Chúa Nguyễn Phúc

Nguyên không chỉ thấy những tiềm năng kinh tế mà biển mang lại mà còn biết dựa

vào vị trí hiểm yếu của biển đảo để tạo nên hệ thống phòng thủ kiên cố. Nhằm bảo

vệ vùng đất Đàng Trong trước các đợt tấn công mạnh mẽ của thủy quân Đàng

Ngoài. Các hệ thống phòng thủ đã phát huy thế mạnh và cho thấy tầm quan trọng

của nó trong cuộc chiến họ Trịnh Nguyễn khiến cho đội quân hùng mạnh của Chúa

Trịnh phải chịu tổn thất nặng nề và chấp nhận từ bỏ mộng xâm lấn Đàng Trong,

Những lợi ích bước đầu trong việc xây dựng hệ thống phòng thủ, đã khiến cho

các vị chúa sau này như chúa Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần tiếp tục xây

dựng thêm nhiều hệ thống phòng thủ trên biển. Thời chúa Nguyễn Phúc Tần để tăng

cường việc phòng thủ “tháng 6 năm thứ năm [ 1653] Chúa sai đất đồn Sa Chủy ở

cửa biển Nhật Lệ, bấy giờ gọi là lũy Mũi Dùi” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002,

tr.62). Ngoài ra trong các trận đánh với quân Trịnh 1655, 1656, 1657 với việc đánh

nghi binh cùng với việc tăng cường hệ thống phòng thủ ở vùng biển, biên giới, sửa

sang thành lũy đã tạo điều kiện cho quân ta liên tiếp giành thắng lợi trước quân

Trịnh. Mùa thu tháng 9 năm 1663 trước việc quân Trịnh nhiều lần tiến đánh vùng

biển, chúa Nguyễn Phúc Tần sai hai tướng là Nguyễn Hữu Tiến vào Nguyễn Hữu

Dật đắp lũy Trấn Ninh để trấn giữ đường biển vài tháng thì lũy đắp xong. Trong

cuộc chiến với quân Trịnh nhiều hệ thống phòng thủ đường biển được xây dựng

thêm như pháo đài ở lũy Trấn Ninh, đắp pháo đài ở đồn Sa Chủy, lũy Sa Phụ.

Các hệ thống phòng thủ này đã phát huy tính tích cực, làm hao tốn lực lượng

của quân Trịnh, gây cho quân Trịnh những tổn thất nặng nề, cầm chân không cho

quân Trịnh tiến đánh vào sâu lãnh thổ Đàng Trong. Các đòn tấn công của quân

123

Trịnh vào các đồn lũy ở cửa biển đều tỏ ra vô hiệu, cùng với đó là sự tấn công liên

tiếp từ các pháo hạm của thủy quân Đàng Trong đã khiến cho lực lượng của quân

Trịnh bị tổn thất nặng nề. Quân Trịnh càng đánh càng thua vì thế buộc lòng phải rút

Tháng 11 năm 1673 tướng Trịnh là Lê Thời Hiến đem quân đánh Lũy Trấn

Ninh nhưng không được. Quân ta trên lũy bày súng bắn xuống. Quân Trịnh bu

vào đông như kiến leo lên. Quân ta chụm mác mà đâm. Quân Trịnh đào đất

khoét than lũy hoặc thả diều giấy nhân gió mà phóng hỏa hay bắn đạn lửa.

Trong một ngày mà lũy sắp bị hạ ba bốn lần. Tướng Nguyễn Hữu Dật sai quân

sĩ dựng ván làm phiên, lấy sọt tre đựng đất đắp vá những chỗ lũy vỡ. Sáng sớm

quân Trịnh hết sức tiến đánh thì lũy đã bền vững rồi không thể phá được”

(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tr. 87).

quân.

Với việc xây dựng hệ thống phòng thủ ở cửa biển Nhật Lệ cùng với chiến thuật

khôn ngoan và sự trợ giúp của vũ khí hiện đại đã giúp cho thủy quân Chúa Nguyễn

dù ít quân và không tin cậy nhưng lại giành thắng lợi quyết định trước Chúa Trịnh.

đồng thời bộ quân Trịnh vậy trừ bỏ mộng xâm lược vùng đất Đàng Trong. Vì thế

tháng 12 năm 1672 hai bên quyết định: “lấy sông Gianh làm giới tuyến chia đôi đất

nước (phía Nam sông là Nam Hà, phía bắc sông là Bắc Hà). Từ đây Nam - Bắc

nghi binh” (Quốc sử quán triều Nguyễn tập 1, 2002).

Để bảo đảm an ninh ở những vùng biển hiểm yếu chúa Nguyễn Phúc Nguyên

cho thành lập đội Hoàng Sa có nhiệm vụ là tìm kiếm sản vật và các cổ vật tàu đắm,

đồng thời cũng kiêm luôn nhiệm vụ giám sát, tuần tra vẽ bảng đồ quần đảo này.

Đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu thì cho thành lập thêm đội Bắc Hải làm

nhiệm vụ tìm kiếm vùng biển Tây Nam và hỗ trợ đội Hoàng Sa trong việc tìm kiếm

các sản vật, khi mà lãnh thổ đất nước ngày càng được mở rộng về phía Nam. Đến

thời chúa Nguyễn Phúc Tần để chống cướp biển và sự tấn công của quân Trịnh.

Chúa Nguyễn đã cho xây dựng nhiều công trình phòng thủ có tính chiến lược như:

đắp lũy ở cửa biển An Náu, lũy lớn Động Hồi, dựng pháo đài sửa đường xá, đắp lũy

124

Trấn Ninh để trấn giữ đường biển. Chính quyền chúa Nguyễn cũng chú trọng việc

giám sát, kiểm tra, thăm dò địa hình vùng biển đảo “Lại coi khắp những hình thế

đầu non cửa biển đường xá xa gần, núi sông hiểm dễ, vẽ bản đồ dâng trình” (Quốc

sử quán triều Nguyễn 1, 2002).

Chủ trương trên đã thể hiện sự quan tâm của chúa Nguyễn đối với an ninh

quốc phòng của vùng đất Đàng Trong và cũng trong giai đoạn này tấm bản đồ Thiên

Nam tứ chí lộ đồ thư đã ra đời (1686) đây là tấm bản đồ xưa nhất ghi nhận một cách

chính xác và chi tiết vị trí địa lý vùng biển đảo và ranh giới nước ta thời chúa

Nguyễn trong có cả Bãi Cát Vàng (tức quần đảo Hoàng Sa) tuy nhiên do chiến tranh

nên tấm bản đồ hiện nay không còn nữa.

Trong giai đoạn đầu các triều đại phong kiến nhà Nguyễn đều chú trọng xây

dựng hệ thống phòng thủ để chống chính quyền chúa Trịnh.Trong cuộc đấu tranh

với quân Trịnh, lũy Trấn Ninh đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn sự tấn

công từ bên ngoài bảo vệ lãnh thổ Đàng Trong. Các chúa Nguyễn đều đã nhận thấy

tầm quan trọng của việc xây dựng hệ thống phòng thủ trên vùng biển đối với việc

bảo vệ an ninh quốc phòng của đất nước. Trong giai đoạn này, hệ thống phòng thủ

còn mang tính chất phòng ngự chưa có sự trang bị phương tiện cho tấn công và

quan sát. Ngoài ra các hệ thống phòng thủ còn lạc hậu và thô sơ. Sau này khi nhà

Nguyễn được thành lập thì các công trình phòng thủ mới được xây dựng một cách

hoàn chỉnh. Việc xây dựng hệ thống phòng thủ đã thể hiện ý thức chủ quyền và khả

năng tư duy hướng biển của các triều đại phong kiến xưa không chỉ về mặt kinh tế

mà còn về vấn đề an ninh quốc phòng.

3.2.2. Xây dựng hệ thống phòng thủ vùng biển thời vua Nguyễn

Thời chúa Nguyễn việc xây dựng các hệ thống phòng thủ mặt biển được chú

trọng hơn. Nguyễn Ánh là người từng có cuộc đời bôn ba trên biển, từng cùng với

cha mình đi qua hết khắp các quần đảo Tây Nam như Côn Lôn, Thổ Chu, Phú

Quốc… nếm trải bao nhiêu cay đắng khổ cực. Vì thế ngay từ rất sớm Nguyễn Ánh

nhận thấy vị trí chiến lược mà biển mang lại. Ngay cả trong thời kỳ nội chiến với

Tây Sơn - Nguyễn Ánh đã chủ trương xây dựng ở vùng biển đảo hệ thống phòng

thủ vững chắc:

Lại sai Nguyễn Văn Trương cùng với bọn vệ úy vệ Kiên uy Nguyễn Văn

Thịnh, Chánh vệ vệ Định võ Trần Văn Tứ và Cai cơ Trần Văn Búa, chia nhau

đi về phía Cu Đê (tên đất), đến cửa ải Hải Vân, theo chỗ hiểm mà đặt đồn giữ,

ngoài ra Mùa thu, tháng 7, sai Phó tướng Hậu quân Nguyễn Văn Biện và Binh

bộ Nguyễn Đức Thiện đem quân vào cửa biển Hiệp Hòa, đóng đồn ở Bến Ván

để ngăn đường cứu viện của giặc từ Quy Nhơn đến (Quốc sử quán triều

Nguyễn tập 1, 2002).

125

Bên cạnh đó còn cho đắp lũy ở cửa biển Thi Nại, Xuân Đài (Phú Yên), đặt

thêm đồn bảo ở Lão Hương, Hà Nha để chống giặc. Những đồn lũy này có tác dụng

tích cực và hiệu quả ngăn chặn và chống lại sự tấn công của quân Tây Sơn đồng

thời bảo toàn lực lượng cho quân đội của Nguyễn Ánh tránh tổn thất to lớn. Với tầm

nhìn chiến lược quân sự Nguyễn Ánh đã nhận thấy tầm quan trọng và hữu ích của

việc xây dựng các hệ thống phòng thủ. Chúng không chỉ có tác dụng là lá chắn bảo

vệ cho những vùng xung yếu mà còn có tác dụng làm tiêu hao lượng lượng của đối

phương. Cùng với việc xây dựng hệ thống đồn lũy ven biển thì Nguyễn Ánh cũng

chú trọng cho thủy quân đi tuần tra ở một số cửa biển có vị trí xung yếu quan trọng

như: Gia Định, Cần Giờ, Mỹ Tho, Côn Lôn, Thị Nại, Phú Yên, Thuận An và nếu có

Đặt thủ ngự ở các đầu nguồn và cửa biển hai phủ Triệu Phong và Quảng

Bình. Chọn Cai đội cai cơ đội Mật sai và Võ giáp sung các chức ấy. Nguồn

Sái, nguồn Phù Âu, nguồn Hưng Bình, nguồn Tả Trạch, nguồn Hữu Trạch,

nguồn Sơn Bồ, nguồn Thu Lay, hai nguồn Cổ Lâm, Ô Giang, ba nguồn An

Đại, Cẩm Lý, An Náu, nguồn An Náu Son, cửa Eo, của Tư Dung, cửa Vân

Quan, cửa Việt Hải, cửa Tòng Luật, cửa Nhật Lệ, cửa An Náu, cửa Lý Hòa,

cửa Gianh ( Đại Nam thực lục tập 2, 2006).

giặc đến, phải đốt lửa ở trên đài báo hiệu trước và tức khắc chạy báo tin.

126

Việc chú trọng xây dựng các đồn lũy cửa biển cùng với đó là bố trí lực lượng

thủy quân ở những vùng hiểm yếu đã tạo điều kiện cho quân của Nguyễn Ánh

nhanh chóng mở rộng lực lượng, từng bước chiếm Gia Định tạo bàn đạp cho việc

tiến quân lên phía Bắc thâu tóm cả toàn bộ đất nước. Trong trận đánh quyết định

với quân Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ năm 1802, để chuẩn bị cho cuộc đối đầu với

Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã tăng cường một số lượng lớn pháo quân, lương thực và vũ

khí đặt ở lũy Trấn Ninh. Ngoài ra ở mặt trận sông Gianh Nguyễn Ánh cho một hạm

đội có lục quân yểm trợ đến canh phòng. Quân Tây Sơn chia làm ba mũi quan trọng

tấn công vào Thuận Hóa trong đó nữ tướng Bùi Thị Xuân được giao trọng trách

đánh lũy Trấn Ninh. Quân Tây Sơn tiến lên đánh lũy Trấn Ninh nhưng đánh mãi mà

không đổ, cả thành Đầu Mâu cũng không thể phá được. Trong trận đánh này nhờ có

chiến thuật khôn khéo cộng với vũ khí hiện đại Nguyễn Ánh đã đánh bại Tây Sơn

buộc vua Cảnh Thịnh và các tướng phải tháo chạy ra Bắc.

Sau khi lật đổ triều Tây Sơn thống nhất đất nước lập ra triều Nguyễn, Nguyễn

Ánh vẫn luôn đề cao vấn đề an ninh quốc phòng ở các vùng trọng yếu: Côn Lôn,

Phú Quốc, Thị Nại, Cù Mông trẫm cùng với các tướng sĩ các ngươi đã trăm trận

đánh vất vả mới có ngày nay. Lúc yên đừng quên lúc nguy. Đó thực là đạo giữ nước

yên dân” (Đại Nam nhất thống chí tập 2, 1995). Chính vì thế, bảo vệ quốc gia từ

phía biển luôn được Gia Long quan tâm, chú trọng bằng những hệ thống phòng thủ

vùng biển cũng như việc tuần tra, khẳng định chủ quyền trên vùng biển, đảo. Nếu

trước kia đất là chỗ định cư truyền thống của cha ông thì biển lại có vị thế đặc biệt

quan trọng nhất là trong bối cảnh, khi phương Tây mở rộng việc tìm kiếm thị trường

mới qua đường biển.Phương Tây được xem là một thách thức phi truyền thống đến

từ phía biển với thuyền chiến và đại bác, khác hẳn mối đe dọa biên giới

trước đó đến từ đất liền. Cái nhìn chiến lược“phòng thủ từ xa” của các vua Nguyễn

về vùng biển thể hiện bởi ở đây không chỉ có đất liền mà còn có vùng biển đảo vô

cùng quan trọng.

Chính vì vị trí quan trọng của biển, đặc biệt là vùng biển miền Trung nên các

vua triều Nguyễn đều xây dựng rất nhiều các công trình pháo đài, hải tấn, đồn bảo,

cửa tấn kiên cố dọc theo vùng bờ biển, nhằm có tác dụng tăng cường phòng vệ, đảm

127

bảo an ninh quốc phòng. Đặc biệt là chú trọng xây dựng hệ thống phòng thủ vùng

ven biển miền Trung vì nơi đây có Huế là kinh đô của nước đất, có cửa biển Đà

Nẵng là nơi giao thương với bên ngoài. Thời Minh Mạng xác định rằng: “Địa lý

nước ta, lấy biển làm dải áo, lấy núi làm vạt áo, địa thế trọng yếu và hiểm trở (Đại

Nam thực lục tập 2, 2006).Vua Thiệu Trị cũng dụ rằng: “Cương giới về hải phận

của bản triều rộng, dài, những chỗ xung yếu ở nơi ven biển đều đặt pháo đài để

nghiêm việc phòng giữ” (Đại Nam thực lục tập 2, 2006). Các công trình phòng thủ

được xây dựng khắp các vùng ven biển nhưng đặc biệt chú ý hơn cả là vùng kinh đô

Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, sau đó là Quảng Trị, Quảng Bình, Bình Thuận, Phú

Yên, Khánh Hòa, Nghệ An, Thanh Hóa.

Tấn Thuận An và thành Trấn Hải là hai công trình phòng thủ đóng vai trò

quan trọng trong việc bảo vệ vùng biển kinh đô Huế. Kinh đô Huế là thủ phủ của

nước ta dưới thời Nguyễn sau khi tái thống nhất đất nước Gia Long đã chọn vùng

đất này làm nơi đóng đô vì“Kinh sư là nơi miền núi, miền biển đều họp về, đứng

giữa miền nam miền bắc, đất đai cao ráo, non sông phẳng lặng; đường thủy thì có

cửa Thuận An, cửa Tư Hiền sâu hiểm; đường bộ thì có Hoành Sơn, ải Hải Vân

ngăn chặn” (Đại Nam thục lục tập 2, 2006, tr. 759).

Đến thời vua Minh Mạng, vua cũng cho rằng việc chọn kinh đô Huế làm thủ

phủ của nước ta là rất hợp lí, vì so với các vùng khác trong cả nước thì kinh đô Huế

hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết cho sự phát triển đất nước. Trong số các cửa biển

ở kinh đô Huế thì cửa biển Thuận An là nơi có vị trí quan trọng. Chỉ cách kinh đô

khoảng 13 km biển Thuận An được ví như cửa ngõ thông ra biển và cũng là nơi

trọng yếu của hải cương có tầm quan trọng đặc biệt về an ninh và quốc phòng cho

kinh đô. Đây cũng chính là nơi mà quân của Nguyễn Ánh tiến hành đánh Tây Sơn

mở đường tiến đánh Phú Xuân vào năm 1801. Vì thế các vua triều Nguyễn đã chú

trọng xây dựng ở cửa biển này hệ thống phòng thủ chặt chẽ. Tấn Thuận An được

xây dựng dưới thời Gia Long có vai trò là chỉ huy, tuần tra, giám sát việc phòng thủ

Tấn ở phía đông huyện Hương Trà, đầu đời Gia Long lập thủ sở, đặt một chức

thủ ngự Tấn ở phía đông huyện Hương Trà, đầu đời Gia Long lập thủ sở, đặt

ở Thuận An.

một chức thủ ngự và một chức tấn thủ, có 3 đội lính lệ đi tuần phòng ngoài

biển và hộ tống thuyền quan ra vào. Năm Minh Mạng thứ 15, dựng vọng lâu ở

tấn sở, cấp cho thiên lý kính để xem tàu thuyền ngoài biển; năm thứ 17, đúc

Cửu đỉnh, khắc tượng vào Nghị Đỉnh (Đại Nam thực lục tập 2, 2002).

128

Trong giai đoạn đầu thời Gia Long, Minh Mạng, Tấn Thuận An chưa được

quan tâm đúng mức nên số quân ở đây ít, chỉ đến khi thực dân Pháp tấn công Đà

Nẵng năm 1847, vua Thiệu Trị mới chú trọng xây dựng thêm đồn Hòa Duân, bố trí

súng, hỏa pháo, tăng cường thêm quân tinh nhuệ dọc khắp bờ biển, cai quan lại đến

tuần tra xem xét.

Năm 1813 vua Gia Long cho xây dựng thêm thành Trấn Hải. Đây được coi là

công trình có quy mô lớn của nhà Nguyễn nhằm ngặn chặn sự tấn công của nước

biển vào kinh thành gây xói mòn đất. Sau này đài Trấn Hải còn kiêm luôn nhiệm vụ

giám sát và tuần tra nên đổi là thành Trấn Hải. Việc xây dựng và tu sửa thành luôn

chiếm phần lớn sự quan tâm và ngân sách của nhà vua vì đặc thù nằm gần cửa biển

nên thường xuyên bị sóng biển đánh làm xói mòn. Năm 1830 Minh Mạng tiếp tục

cho gia cố thêm mặt thành, vận chuyển súng đạn và thuốc súng vào pháo đài. Để

tránh sạt lở vua cho người cắm nhiều cây bằng gỗ bên trong chất gạch đá để giữ

chắc, ngoài ra xung quanh bờ cho trồng nhiều cây dừa để tránh xói mòn đất và ngăn

Chu vi 71 trượng 2 thước, cao 15 thước; đài chu vi 17 trượng 2 thước; cao 11

thước; hào rộng 1 trượng, sâu 6 thước; 1 cửa: trên thành có 99 sở ụ súng. Gọi là

Trấn Hải đài. Ở phía trong thành ấy, phía bắc có hai kho thuốc súng xây dưới

hầm của các góc, và gần sau kho người ta có xây một cái bể đựng nước uống

cho cả đồn. Giữ thành có một ụ chứa nước ngọt, hai. Sau thấy trước mặt đài,

nước biển ngày xói vào gần tới đường ngoài quách, bèn đóng cừ xây đá để

ngăn sóng, lại trồng hơn 4000 cây dừa ở bờ biển (Đại Nam thực lục tập 1,

2002, tr. 859).

sự xâm nhập của nước biển.:

129

Vua rất coi trọng công tác phòng vệ nên hằng năm ra cửa biển Thuận An để

xem thành Trấn Hải, đồng thời ban sắc lệnh nghiêm khắc về công tác phòng thủ ở

đây, như chia số quân canh giữ ở thành theo 2 thời điểm khác nhau và số quân khác

nhau. Từ tháng 4 đến cuối tháng 7, số quân đông hơn khoảng 310 người, từ tháng 8

đến cuối tháng 3, quân số khoảng 105 người, không được tự ý rời khỏi thành khi

chưa có hiệu lệnh, thường xuyên canh gác và kiểm tra số súng đạn trong thành, khi

thấy tàu của nước ngoài đến hay thấy lửa cháy ở cửa biển Tư Dung thì phải lập tức

cấp báo và chuẩn bị lực lượng đối phó.

Bên cạnh thành Trấn Hải ở cửa biển cũng có nhiều pháo đài phòng thủ như

pháo đài Hòa Duân, pháo đài Cồn Sơn, Hạp Châu và đập chắn Thuận An. Những

pháo đài này cũng được chú trọng bố trí vũ khí hiện đại và lực lượng lớn binh lính

nhằm có tác dụng hỗ trợ cho thành Trấn Hải, kiểm soát, đối phó, bảo vệ kinh thành

trước sự tấn công của các thế lực bên ngoài. Ngoài việc chú trọng bảo vệ mặt bắc

thì các vua triều Nguyễn cũng chú trọng công tác phòng bị ở mặt nam của kinh đô:

các tấn Tư Hiền, Cảnh Dương, Chu Mãi, Hải Vân có tác dụng bảo vệ các vùng biển

quan trọng của kinh đô. Trong đó Hải Vân Quan đóng vị trí quan trọng. Vùng này

có thể quan sát được toàn cảnh biển Đà Nẵng nên Hải Vân Quan vừa là lá chắn bảo

vệ vừa có thể quan sát, vì thế nó có ý nghĩa quan trọng về an ninh quốc phòng. Các

vua Nguyễn cũng cho bố trí ở đây một lực lượng quân mạnh cùng với việc tăng

cường thêm đại bác và hỏa pháo: “Nay đã đặt thêm đại bác thì bắt thêm 10 tên lính

các hạng, 20 tên pháo thủ doanh thần cơ cùng 50 tên phái trước do thành thủ ấy

chia phòng thủ, chiếu lệ thay đổi” (Đại Nam thực lục, tập 1, 2002).

Các hệ thống phòng thủ liên hoàn này hỗ trợ đắc lực cho việc bảo vệ an ninh

vùng biển, nhanh chóng phát hiện sự xuất hiện và xâm nhập của tàu từ nhưng nơi

khác đến. Ngoài ra hệ thống phòng thủ này còn có tác dụng ngăn chặn sự xâm thực

và tấn công của nước biển.

Bên cạnh việc xây dựng hệ thống phòng thủ ở vùng kinh đô, các vua Nguyễn

cũng chú trọng bảo vệ an ninh vùng cửa biển Đà Nẵng. Trong thời nội chiến Tây

Sơn - Nguyễn Ánh, thủy quân Nguyễn Ánh đã tiến đánh Tây Sơn bằng cửa này. Sau

khi thành lập nhà Nguyễn, các vua nhà Nguyễn đều tăng cường dựng hệ thống đồn

130

lũy và lực lượng phòng thủ tại cửa biển Đà Nẵng: “Đầu đời Gia Long đặt một viên

quan thủ ngữ, một viên hiệp thủ và 17 thủ binh; năm Minh Mạng thứ 17 (1836) đặt

vọng lâu ở tấn sở, cấp cho kính thiên lý để xem xét ngoài biển” (Đại Nam thực lục

tập 2, 2006).

Để ngăn chặn thuyền buôn phương Tây xâm nhập trái phép vào Đà Nẵng

chính quyền ra quy định những tàu nào có ý neo đậu ở đây đều phải báo trước. Viên

tấn thủ sẽ đến dò hỏi tình hình. Nếu việc quan trọng phải lập tức cấp báo. Đến thời

Thiệu Trị, các thuyền buôn vẫn được phép neo đậu ở cửa biển Đà Nẵng, nhưng phải

chấp hành các quy định của triều đình. Ngoài việc cho thuyền buôn neo đậu chính

Thuyền nước ngoài nếu muốn lên chợ mua thức ăn thì chỉ được đi 10 người.

Không được đi quá nhiều, không được mang theo binh khí, súng trường lên bờ.

Nếu muốn buôn bán thì phải khai báo số lượng người và hàng hóa của mình

một cách minh bạch, viên tấn thủ kiểm tra và ghi chép kỹ càng thì cho lên bờ

tùy nơi thuận tiện gần chợ mà buôn bán. Xong việc, lại kiểm tra kỹ rồi cho về

thuyền, không được ở trong nhà dân. Nếu trái lệnh lập tức bắt giữ, chiếu theo

luật “kẻ gian nước ngoài vào cõi” xử tội chém.Thuyền nước ngoài đến đậu ở

cửa tấn không được đi lại riêng với người nước ta, ngần thông tin và không

được cho người nước ta đến thuyền để tránh gây sinh sự. Nếu ai trái lệnh thì

lập tức bắt trị tội (Minh Mạng chánh yếu, 1993).

quyền cũng quy định cụ thể các hoạt động buôn bán của họ khi cư ngụ lại tại đây:

Các vua Nguyễn cho tăng cường lực lượng quân ở Đà Nẵng, số quân gồm 39 người

được đặt dưới sự chỉ huy của 1 viên quan lãnh binh. Để tăng cường an ninh cho

vùng biển trọng yếu này chính quyền nhà Nguyễn đã cho thiết lập ở Đà Nẵng một

hệ thống phòng thủ chặt chẽ nhất bấy giờ: gồm thành Điện Hải, thành An Hải, các

pháo đài Phòng Hải, trấn dương thất bảo, Hải Vân quan. Những công trình này có ý

nghĩa chiến lược quan trọng trong việc bảo vệ và ngăn chặn sự xâm nhập bên ngoài.

131

Thành Điện Hải và An Hải là hai công trình phòng thủ quan trọng nhất của

vùng biển Đà Nẵng. Lúc đầu được gọi là pháo này đến năm 1834 thì đổi là thành.

Đây là công trình phòng thủ được xây dựng bởi kĩ sư người Pháp Oliver Puymanel.

Hai công trình này được xây dựng theo lối Vauban với tường cao, hào sâu, được

xây dựng bằng gạch các thành đều có từ 3 đến bốn cửa để tăng cường tính phòng

thủ.

Thành Điện Hải ở bên trái cửa biển Đà Nẵng thành có chu vi 139 trượng, cao

1, 2 trượng có ba vòng thành. Mỗi thành đều được bao bọc bởi những hào nước sâu

7 thước, mỗi thành đều có một cửa ở giữa có một kỳ đài, 30 sở pháo đài. Thời Gia

Long thành Điện Hải được đắp bằng đất và đặt gần biển. Thời Minh Mạng thì lại

cho xây dựng bằng gạch và trang bị thêm nhiều hỏa pháo đặt tại đây. Năm 1822 vua

Gia Long đặt chức Vệ úy, tăng thêm 200 biền binh đóng giữ thành Điện Hải.

Thành An Hải nằm ở bên phải cửa biển Đà Nẵng là tuyến phòng thủ quan

trọng của triều đình: “Chu vi 41, 2 trượng, cao 1 trượng, hào sâu 1 trượng mở ra 2

cửa có kì đài ở giữa và 7 sở pháo đài” (Thành An Hải có chu vi nhỏ hơn và không

có vị trí xung yếu bằng thành Điện Hải và số quân lính ở đây cũng ít hơn. Năm

1830 triều đình bổ nhiệm Nguyễn Văn Lượng chỉ huy thành Điện Hải và Tống Văn

Nghĩa chỉ huy thành An Hải. Ngoài ra để tăng cường sự phòng thủ chính quyền nhà

Nguyễn còn tăng cường đại bác, súng đạn và lính phòng thủ ở hai thành. Ngoài ra

chính quyền còn huy động các loại thuyền công tham gia vào việc tuần tra vùng

biển Đà Nẵng.

Thời Minh Mạng để bảo vệ an ninh, ngăn chặn sự xâm nhập của thuyền buôn

phương Tây vào nội địa.Vua đưa ra chỉ dụ: “Nếu thấy thuyền buôn phương Tây qua

mặt biển, đi vào vụng Trà Sơn cắm neo. Thì viên lãnh binh và tấn thủ của hai thành

An Hải và Điện Hải phải tiến hành xét hỏi. Nếu phát hiện tấn công phải cấp báo về

cho kinh thành, nếu chỉ là gặp nạn thì tiến hành ứng cứu và hộ tống thuyền về nước,

còn nếu không có gì quan ngại thì đưa vào trạng khẩn” (Đại Nam thục lục 5, 2007,

tr. 302 ).

Trước việc thực dân phương Tây ngày càng lớn mạnh và tiến hành xâm chiếm

nhiều nước phương Đông. Năm 1840 vua Minh Mạng cho Nguyễn Tri Phương vào

132

Đà Nẵng để tăng cường việc phòng thủ cho vùng biển này. Theo đó vua nhấn mạnh:

“Cửa biển Đà Nẵng là chỗ xung yếu nhiều thuyền bè qua lại. Ngươi nên thân hành

xem kỹ và tu chỉnh hai đồn An Hải và Điện Hải, bọn giặc dù muốn dòm ngó cũng

không thừa được sơ hở của ta, đó là kế hoạch lớn, ràng rịt cửa tổ ngay từ lúc chưa

mưa, là kế sách để giữ vững bờ cõi của mình” (Đại Nam thục lục 5, 2007, tr. 639).

Nhận định trên đã cho thấy sự quan tâm của vua Minh Mạng về tầm quan

trọng của hai hệ thống phòng thủ An Hải và Điện Hải đối với vùng biển Đà Nẵng.

Nguyễn Công Trứ đã cho tăng cường thêm binh lực khoảng 500 - 600 người ngoài

ra còn trang bị thêm súng đại bác, giáo và thiết lập ở phía Tây núi Sơn Trà pháo đài

Mỏ Diều phòng ngự. Khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công vào bán đảo Sơn

Trà. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đã cùng cùng với binh lính ở thành điện Hải

đánh lui hàng chục cuộc tấn công của Pháp tại cửa sông Hàn, gây cho Pháp những

tổ thất nặng nề buộc chúng phải rút quân.

Bên cạnh thành Điện Hải và An Hải, chính quyền phong kiến còn cho thiết lập

các pháo đài và đồn lũy để nhanh chóng phát hiện và ngặn chặn kịp thời các cuộc

tấn công từ bên ngoài. Các đồn Hải Châu, Phước Ninh, Thạc Gián bên trái cửa biển

Đà Nẵng và các đồn Hóa Khuê, Mỹ Thị nằm bên phải. Để tăng cường việc phòng

thủ và ngăn chặn và phát hiện nhanh chóng các cuộc tấn công và xâm nhập chính

quyền phong kiến còn cho xây dự hai đài quan sát là pháo đài Phòng Hải và Trấn

dương thất bảo ở đông bắc Đà Nẵng.

Pháo đài Phòng Hải được xây dựng vào năm 1840 dưới thời vua Minh Mạng.

Pháo đài này rộng 9 thước cao 6 thước 3 tất, có một cửa. Để phát hiện và ngăn ngừa

thuyền bên ngoài xâm nhập, chính quyền phong kiến cấp thêm kính thiên lý để quan

sát và tăng cường ở đây 50 biền binh trấn giữ. Các binh sĩ thường xuyên được luyện

tập để nhanh chóng ứng phó với những bất trách. Để việc phòng thủ được tiến hành

Nếu thấy thuyền Tây dương tới, tấn có bắn súng không cứ mấy tiếng, trên

thành cũng chỉ bắn lại 3 tiếng. Nếu là thuyền quân có tình trạng cảnh báo thì

quan lãnh binh ở đó một mặt vào tâu, một mặt báo cho tỉnh, tăng cường thêm

chặt chẽ và thống nhất chính quyền đưa ra quy định:

biền binh, trang bị thêm súng ống và khí giới để phòng thủ (Nội các triều

Nguyễn, 1993).

133

Cùng với việc thiết lập hệ thống quan sát chính quyền vua Nguyễn còn thiết

lập các hệ thống phòng thủ để chủ động tấn công khi phát hiện xâm nhập. Tại bán

đảo Sơn Trà, vua Minh Mạng cho xây dựng các bảo phòng thủ. Bảo thứ nhất đặt tại

Mỏ Diều chu vi 23 trượng, bảo thứ hai đặt tại Hòn Cô có chu vi 41 trượng, cao 4

thước 3 tấc, hai bảo còn lại đặt ở phía Tây chân núi Sơn Trà. Thời Thiệu Trị trước

cuộc tấn công của Pháp tại Đà Nẵng vua cho xây dựng thêm 3 bảo nữa tổng cộng là

7 bảo “Thất dương trấn bảo” đồng thời tăng cường thêm súng và đại bác phòng

ngự. Các pháo đài Phong Hỏa ở phía bắc biển Đà Nẵng có nhiệm vụ đốt lửa khi

thấy có sự xuất hiện trái phép của tàu nước ngoài.

Trên bộ chính quyền phong kiến cho xây dựng Hải Vân Quan để quan sát và

cấp báo. Hải Vân Quan nằm ở đỉnh đèo Hải Vân từ đây có thể quan sát được toàn

khu vực biển Đà Nẵng. Ngoài ra Hải Vân Quan còn nằm trên con đường giao lộ

quan trọng nối liền từ Quảng Nam đến kinh thành Huế. Hải Vân có vị trí chến lược

quan trọng không chỉ đối với Đà Nẵng mà còn với vùng Quảng Nam: Dương Văn

Núi Hải Vân ở cửa ải Hải Vân huyện Tư Vinh, chân sát lợi bể, ngọn ngất tầng

mây, núi chia hai đường nam bắc, mây đưa những khách đi về. Chính là giới

hạn chia hai tỉnh Thuận Hóa và Quảng Nam rất là bao la hiểm hóc. Từ địa phận

Thuận Hóa, theo đường đi bộ ước hơn một ngày thì đến địa phận Quảng Nam.

Thực là một nơi xung yếu lớn của hai hạt, ở đó có lập đồn ải để canh phòng

(Địa Nam nhất thống chí tập 2, 2006).

An từ đời Mạc đã viết trong Ô châu cận lục (năm 1555) rằng:

Chính vì xác định được vị trí chiến lược vô cùng quan trọng của núi Hải Vân,

mà các vị vua triều Nguyễn đã ra sức củng cố địa bàn này nhằm quản lý chặt chẽ

hơn và biến nó trở thành một cứ điểm mạnh trong hệ thống phòng thủ bao quanh

kinh đô Huế. Nhà Nguyễn cho xây dựng ở đây một cứ điểm quân sự quan trọng

trong hệ thống phòng thủ từ xa nhằm bảo vệ trực tiếp vùng Đà Nẵng. Thời Minh

134

Mạng vua tiến hành xây dựng ở đây thành một hệ thống phòng thủ và quan sát:

“Đời Minh Mạng, đặt quan ải đèo Hải Sơn và 2 quan ải núi Hải Vân, xây đá làm

bậc để tiện đường đi… bên cạnh có đường đi đến địa giới Quảng Nam, sai lấp lại

và đặt binh canh giữ” (Nội các triều Nguyễn, 1993).

Vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826) vua cho xây dựng “Tháng 3…, xây đắp

cửa Hải Vân ở đỉnh núi Hải Vân, phía trước và sau đều đặt một cửa quan (ngạch

trước viết 3 chữ “Hải Vân Quan”, ngạch sau viết 6 chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng

quan”. Cửa trước bề cao và bề dài đều 15 thước, bề ngang 17 thước 1 tấc, cửa sau

bề cao 15 thước, bề dài 11 thước 1 tấc. Hai bên tả hữu cửa quan xếp đá làm đường,

trước sau liền nhau” (Đại Nam thực lục tập 2, 2006, tr. 485).

Thời Nguyễn vị thế của Hải Vân Quan được coi trọng trong thế liên hoàn

chiến lược với các cửa biển khác của kinh kỳ là cửa ải nối liền hai vùng Thừa Thiên

và Quảng Nam và cũng là cửa ngõ thông thương với phương Tây là cửa biển Đà

Nẵng. Cùng với việc xây dựng hệ thống đồn lũy vua Minh Mạng còn cho tăng

Đặt 1 viên Phòng thủ úy, biền binh thì cứ 15 ngày thì đổi; lại cấp kính thiên lý

để trông coi vùng biển, phàm thuyền nước ngoài khi vào cửa biển thì phải báo

trước cho cửa quan này (Đại Nam thực lục chính biên, 1995).

cường ở đây quân đội và vũ khí hiện đại.

Để tăng cường lực lượng phòng thủ cho Hải Vân Quan năm Minh Mạng thứ 9

(năm 1828) bổ sung lệnh chỉ về việc thay đổi phiên trực của quân lính đồn trú tại

đây:“cho phái thêm 1 tên nhà trạm, cứ 10 ngày thay đổi 1 lần, thường xuyên cùng

với binh lính ở cửa quan trông coi” (Nội các triều Nguyễn, 1993). Thời Tự Đức

công tác phòng thủ ở Hải Vân Quan được chú ý xem trọng:“Nay đã đặt thêm đại

bác, thì bắt thêm 10 tên lính các hạng và 20 tên pháo thủ doanh thần cơ, cùng với

50 tên phái trước, do thành thủ úy cửa quân ấy đảm nhiệm chia quân phòng thủ,

Các hệ thống phòng thủ được các vua Nguyễn tiến hành xây dựng qua các

chiếu lệ thay đổi” (Nội các triều Nguyễn, 1993).

triều đại một cách liên tục và coi đây là việc làm cấp thiết. Các công trình quan

trọng như thành Trấn Hải, thành Điện Hải, An Hải, Hải Vân Quan, tạo nên một hệ

135

thống phòng thủ liên hoàn có tác dụng bảo vệ vững chắc vùng lãnh thổ từ kinh đô

Huế đến Quảng Nam. Hệ thống phòng thủ này tạo nên một khối bảo vệ vững chắc

giúp chính quyền ngăn chặn được các nguy cơ tấn công từ bên ngoài. Trong đó

thành Điện Hải ở Đà Nẵng phát huy vai trò của nó trong việc bao vây và làm tiêu

hao lực lượng của Pháp khi chúng đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Ngoài ra các công

trình phụ trợ như pháo đài Định Hải, Trấn dương thất bảo, pháo đài Hòa Duân, đài

Phong Hỏa các tấn Tư Hiền, Cảnh Dương, Chu Mãi có nhiệm vụ phát hiện ngăn

chặn, cấp báo trước sự tấn công của thuyền buôn phương Tây ngăn chặn và giam

chân các cuộc tấn công của kẻ thù. Như vậy với các hệ thống phòng thủ liên hoàn

trên đã khẳng định chính quyền nhà Nguyễn đã có ý thức sâu sắc về tầm quan trọng

của việc phòng thủ vùng biển đối với an ninh quốc phòng của đất nước.

3.3. Hoạt động chống ngoại xâm vùng biển của các chính quyền phong kiến

3.3.1. Hoạt động chống ngoại xâm thời chúa Nguyễn

Trong lịch sử đấu tranh chống quân xâm lược trên biển thì trận đánh tiêu biểu

nhất là cuộc đối đầu của thủy quân Đàng Trong với chiến hạm Hà Lan vào năm

1644 trong trận đánh này chính quyền chúa Nguyễn đã thể hiện sức mạnh quân đội

của mình không hề thua kém bất cứ một cường quốc nào. Nguyên nhân của cuộc

chiến này là do xuất phát từ việc Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài cấu kết với người Hà

Lan, đem quân tấn công vào Đàng Trong với mong muốn cậy sức mạnh của người

Hà Lan để chiếm phần lãnh thổ Đàng Trong. Theo đó người Hà Lan đem theo năm

chiến thuyền tấn công vào vùng lãnh thổ của chúa Nguyễn. Cho rằng người Hà Lan

có thái độ hỗn xược với mình, chúa Nguyễn Phúc Chu ra lệnh cho tấn công các

thuyền của người Hà Lan ngoài khơi. Theo sách Đại Nam thực lục tiền biên cho

rằng 5 chiếc tàu của người Hà Lan đã bị bao vây bởi 60 chiếc thuyền của thủy quân

Đàng Trong:

Do thuyền của người Hà Lan là thuyền lớn nên di chuyển chậm chạp, dễ va

vào các tảng đá ngầm và liên tục chịu hỏa lực từ các thuyền chiến của thủy quân

Đàng Trong. Kết quả là “Trong cơn nguy khốn cùng cực, thuyền trưởng và binh lính

Hà Lan mất hết hi vọng cứu thoát giữ biển khơi, liền tự châm lửa vào kho thuốc

136

súng đốt chiếc tàu cùng với hai trăm thủy thủ đoàn trên thuyền, số còn lại nhảy

xuống biển” (Li Tana, 2004, tr. 266).

Theo tác giả Li Tana thì trong trận đấu này thì phía ta cũng chịu tổn thất nặng

với 7 chiếc thuyền bị phá hủy và 700 người bị giết. Trong trận đánh này chúa

Nguyễn sử dụng chiến thuật đánh úp và mai phục tạo sự bất ngờ cho đối phương,

cộng với khả năng chiến đấu tinh nhuệ cùng và sự hỗ trợ của vũ khí hiện đại, đã

giúp cho chính quyền Đàng Trong giành thắng lợi trước đội thủy quân hùng mạnh

của Hà Lan.

Cuộc chiến này cũng được sách Đại Nam thực lục ghi lại và cho rằng đây một

trong những chiến công lẫy lừng nhất của thế tử Dũng Lễ Hầu (tức chúa Nguyễn

Được tin giặc Ô Loan đang thực hiện việc cướp bóc ngoài biển thế tử đốc suất

chiến thuyền của mình tiến thẳng ra, Chưởng cơ Tôn Thất Trung bất đắc dĩ dốc

quân suất binh thuyền theo. Chiếc thuyền trước thuyền sau lướt nhanh như bay.

Giặc trông thấy cả sợ, nhằm thẳng phía đông mà bỏ chạy, bỏ rơi 1 chiếc thuyền

lớn, thế tử dốc quân vây bắn. Tướng giặc thế cùng phóng lửa tự đốt chết. Thế

tử tự thu quân về (Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 56).

Phúc Tần). Theo đó.

Chiến thắng này được coi là sự giương oai đầu tiên của chúa Nguyễn đối với

các thế lực bên ngoài, đồng thời cũng được coi là hành động bảo vệ chủ quyền vùng

biển của chính quyền Đàng Trong trước các thế lực ngoại xâm. Đây được coi là bài

học cho các thế lực có ý định xâm phạm lãnh thổ Đàng Trong và giáng đòn nặng nề

vào âm mưu của chính quyền Đàng Ngoài. Trong cuộc đụng độ với đội thủy quân

hùng mạnh của Hà Lan ngoài vũ khí và tinh thần chiến đấu cao của đội thủy quân

thì chính quyền Đàng Trong đã xây dựng hệ thống truyền tin rất tốt. Ngoài ra dọc

vùng ven biển chính quyền còn cho xây dựng các vọng gác. Chính hệ thống này

giúp cho chính quyền có thể truyền lệnh và tiếp nhận thông tin về các hoạt động

trên vùng biển một cách nhanh chóng, tạo cho quân xâm lược yếu tố bất ngờ và đẩy

chúng lâm vào thế bị động ngay từ đầu. Sau trận đánh này, chính quyền Đàng

137

Trong còn liên tiếp giành thắng lợi trước các thế lực ngoại xâm khác như Anh và

Pháp bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo nước ta.

Trận đánh với quân Anh ở bán đảo Côn Lôn đã thể hiện mưu trí và tinh thần

chiến đấu của thủy quân chúa Nguyễn. Trong trận chiến này thủy quân chúa

Nguyễn đã xuất sắc chiến đấu chống thủy quân Anh bảo vệ an toàn vùng biển Tây

Nam của đất nước. Đồng thời cũng khẳng định quá trình khai thác và bảo vệ chủ

quyền của chúa Nguyễn đối với quần đảo này. Thông qua trận chiến này vai trò của

thủy quân Hoàng Sa ngày càng được khẳng định họ không chỉ là những đội ngư dân

khai thác kinh tế thông thường mà còn đảm nhận vai trò của người lính bảo vệ lãnh

thổ khi có chiến tranh xảy ra.

Chúa Nguyễn đã có chiến thuật khôn khéo, sáng tạo trong việc sử dụng quân

Java vào việc đánh bại thủy quân Anh trên bán đảo Côn Lôn. Quốc sử quán triều

Nhâm Ngọ thứ 11 (1702), giặc biển người An Man Liệt có 8 chiếc thuyền đến

đậu ở đảo Côn Lôn. Trưởng là bọn Tô Thích Già Thi, 5 người tự xưng là nhất

bang, nhị bang, tam ban, tứ ban, ngũ ban cùng đồ đảng hơn 200 người kết lập

trại sách, của cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác. Trấn thủ Trương

Phúc Phan đem sự việc báo lên. Chúa sai Trương Phúc Phan tìm cách trừ bọn

ấy (Đại Nam thực lục tập 1, 2002, tr. 115 ).

Nguyễn đã ghi lại chiến thắng này như sau:

Để giành được thắng lợi này chúa Nguyễn đã biết sử dụng sức mạnh của thủy

quân Java để tiêu diệt các thế lực xâm lược khác. Tác giả Li Tana cho rằng sự kiện

này diễn ra bắt nguồn từ việc Peacook một thương gia của công ty Đông Ấn của

Anh được phái đến Đàng Trong bị mất tích. Đều này làm tăng mâu thuẫn của Anh

và chính quyền Đàng Trong. Trong lúc người Anh tạo dựng cơ sở thương mại của

mình tại vùng Côn Đảo thì đã diễn ra cuộc trạm tráng với họ Nguyễn. Theo đó

Trương Phúc Phan tướng lĩnh của họ Nguyễn đã sử dụng 15 người Bồ Đào Nha tới

làm việc cho người Anh để tìm cách giết họ.

Trước là trấn thủ Trương Phúc Phan mộ 15 người Chà Và sai làm kế nhử đảng

An Liệt (người Anh) để thừa chúng sơ hở thì giết. Bọn An Liệt không biết.Ở

Côn Lôn hơn một năm không thấy Trấn Biên xét hỏi, tự lấy làm đắc chí. Người

Chà Vàn (Bồ Đào Nha) nhân đêm phóng lửa dốt trại, đâm chết nhất ban, nhị

ban, bắt ngũ ban trói lại, còn tam ban, tứ ban trốn biệt. Trương Phúc Phan nghe

tin báo tức thì sai binh thuyền ra Côn Lôn, thu hết của cải bắt được dâng nộp.

Chúa trọng thưởng người Chà Và và tướng sĩ theo từng cấp bậc (Đại Nam thực

lục tập 1, 2002, tr. 115).

138

Những cuộc chạm trán giữa thủy quân Đàng Trong với thủy quân Hà Lan,

Anh đã chứng tỏ thủy quân Đàng Trong ngày càng tinh luyện, hùng mạnh không hề

thua kém bất kì một quốc gia nào và đủ sức đảm đương trọng trách giữ gìn và bảo

vệ an ninh đất nước chống nguy cơ xâm lược.

Đối với vùng biển Tây Nam Bộ thì chính quyền chúa Nguyễn giao cho họ

Mạc tiến hành làm chủ đồng thời có nhiều biện pháp hỗ trợ và tăng cường sự ảnh

hưởng của mình lên vùng đất này. Năm 1708 Mạc Cửu dâng vùng đất Hà Tiên lên

cho chúa Nguyễn đánh dấu việc khẳng định chủ quyền của chúa Nguyễn lên vùng

đất này, từ đây vùng đất liền và biển đảo Hà Tiên thuộc về lãnh thổ Đàng Trong.

Như vậy, với việc việc xác lập chủ quyền cho tới các hoạt động đấu tranh

chống ngoại xâm trên biển từng bước can thiệp cho tới tại các vùng biển phía Nam

chính quyền Đàng Trong đã mở rộng vùng kiểm soát, chính thức hợp thức hóa vùng

đất này vào lãnh thổ của mình. Ngoài ra chính quyền Đàng Trong còn sử dụng nhân

lực của vùng đất này tham gia vào việc khai thác và bảo vệ chủ quyền chống lại các

hành động xâm, lược từ bên ngoài. Để khai thác vùng biển phía Nam chúa Nguyễn

cho thành lập đội Bắc Hải với nhiệm vụ tìm kiếm, hải vật và hóa vật từ vùng Hà

Tiên, Côn Lôn, Phú Quốc trong đó có quần đảo Trường Sa. Ngoài ra đến thời

Nguyễn Ánh còn cho thành lập thêm đội Thanh Châu có nhiệm vụ bảo vệ an ninh

vùng biển này.

139

3.3.2. Cuộc đấu tranh chống ngoại xâm trên biển thời Nhà Nguyễn:

Thời Nguyễn, chính quyền phong kiến hạn chế tiếp xúc với phương Tây và chỉ

cho họ buôn bán ở cửa biển Đà Nẵng, bên cạnh đó chính quyền phong kiến còn cho

xây dựng nhiều hệ thống phòng thủ tại đây. Ngay từ thời Gia Long vua đã có thái

độ dè chừng trước các thuyền buôn của người nước ngoài, cự tuyệt mọi quan hệ tiếp

xúc hay buôn bán với họ. Năm 1803, nước Hồng Mao (Anh) “sai sứ đến dâng

Lại xin cho người nước ấy ở lại Đà Nẵng, đi lại buôn bán. Gia Long cho rằng:

tiên vương kinh dinh việc nước, không để người Hạ lẫn với người Di, đó thực

là ý đề phòng từ lúc việc còn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo trí trá, không

phải nòi giống ta, lòng họ hẳn khác, không cho ở lại, khước từ những phương

vật mà họ hiến. Sau đó Hồng Mao thêm hai ba lần dâng thư xin thông thương,

Gia Long đều không bằng lòng, tất cả chỉ là ý đề phòng từ xa (Đại Nam thực

phương vật, dâng biểu xin thông thương”

lục tập 1, 2002)

Đến thời vua Minh Mạng để ngăn chặn nguy cơ xâm lược, các hệ thống phòng

thủ ở vùng cửa biển duyên hải miền trung ngày càng được tăng cường, thành Trấn

Hải, An Hải và pháo đài Điện Hải được củng cố. Các trấn Định Hải và Hải Vân

Quan và Trấn dương thất bảo được xây dựng và chỉnh đốn. Hệ thống phòng thủ liên

hoàn tại cửa biển Đà Nẵng được chú ý xem trọng.

Ngoài ra trong giai đoạn này vua còn phái đội thủy quân ra vùng biển Hoàng

Sa để thám vãn, đo đạc thủy trình và vẽ bảng đồ cắm mốc chủ quyền. Những hành

động này được như là phòng thủ từ trước nhằm ngăn chặn lại mọi biến cố bất ngờ

xảy ra là “kế sách ràng rịt cửa tổ ngay từ lúc chưa mưa, để giữ vững bờ cõi của

mình”.Việc củng cố và thắt chặt an ninh quốc phòng của đất nước được diễn ra

trong bối cảnh thế giới và các quốc gia trong khu vực có những chuyển biến đáng lo

ngại. Trên thế giới chủ nghĩa tư bản ngày càng mạnh tiến hành mở nhiều cuộc tấn

công xâm lược quy mô lớn và công khai nhằm cướp đoạt thị trường và mở rộng

quyền ảnh hưởng ở nhiều khu vực trên thế giới.Tại châu Á sau thất bại của cuộc

140

chiến tranh Nha Phiến Trung Quốc buộc phải kí hiệp ước bất bình đẳng mở cửa

nhiều cảng cho các nước phương Tây tự do buôn bán.Thực dân Anh ngày càng nắm

vai trò kiểm soát trên vùng biển Đông Nam Á trong khi đó Pháp không hề có bất cứ

một ảnh hưởng nào tại khu vực này. So với các nước khác thì Pháp thì kẻ đến muộn

vì thế không muốn đứng nhìn vùng đất rộng lớn của châu Á lần lượt rơi vào tay các

cường quốc Tây Âu khác Pháp tiến hành ráo riết đẩy mạnh việc tìm kiếm thị trường

mới nhằm thiết lập cho mình quyền thống trị tại các nước Châu Á nhất là ở Việt

Nam.

Lợi dụng lúc các vua triều Nguyễn đang tỏ ra bối rối trước sự thất bại của

Trung Hoa trước quân Anh từ năm 1817 - 1830 Pháp liên tục can thiệp sâu vào Việt

Nam. Các thuyền binh của Pháp tới Việt Nam ngày một nhiều xin thiết lập quan hệ

ngoại giao đồng thời tạo sự chia rẽ, e dè giữa ta với thực dân Anh. Trước tình thế đó

vua Minh Mạng tỏ ra vô cùng lo lắng và bối rối. Để hiểu rõ hơn về những hành

động của Anh và Hà Lan, Minh Mạng đã cử 2 chiếc thuyền đến các quốc gia này để

xem xét tình hình “Ngày 28 - 2 - 1840, một thuyền của vua An Nam thả neo ở

Penang.Chiếc tàu nay đi Calcuta để xem người Anh chuẩn bị cho chiến tranh như

thế nào.Một chiếc của vua Minh Mạng cũng đi Batavia để xem người Hà Lan có

động tĩnh gì không” (Đỗ Bang, 2016).

Năm 1845 các thuyền buôn của Pháp cập cảng Đà Nẵng để xin triều đình cho

thiết lập quan hệ buôn bán. Tuy nhiên khi biết tin triều đình Nguyễn thực hiện cuộc

bách hại tôn giáo và đang giam giữ một giám mục người Pháp, hải quân Pháp đã lập

tức dùng vũ lực khống chế các quan ở cửa biển, sử dụng họ làm con tin buộc chính

quyền phong kiến phải thả vị giám mục.Tuy nhiên, trước hành động ngang ngược

của người Pháp, chính quyền Thiệu Trị tỏ ra không lo sợ hay nhượng bộ và kiên

quyết không thực hiện yêu cầu của chúng. Sau nhiều ngày dùng vũ lực uy hiếp

không thành công, quân Pháp buộc lòng phải thả con tin. Ít lâu sau đó chính quyền

phong kiến tiến hành thả vị giám mục Pháp này vì lo sợ giam giữ lâu sẽ làm cho

người Pháp có cớ xâm lược. Đây là sự kiện lần đầu tiên thực dân sử dụng bạo lực để

can thiệp vào việc nội bộ của triều đình phong kiến.

Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) diễn ra cuộc đụng độ giữa chính quyền Đàng

141

Trong với quân đội Pháp. Sách Đại Nam Thực lục và Quốc triều chính biên toát yếu

cũng ghi nhận về sự kiện này. Theo đó, các chiến thuyền của Pháp từ 5 - 6 chiếc

ngang nhiên đi lại nơi cửa biển Đà Nẵng nước ta và có thái độ thách thức. Đồng

thời khi bị xét hỏi thì quân lính người Pháp kết hợp với các nhóm thổ phỉ đem khí

giới tiến vào tấn công đồn trạm của quân đội triều đình, đồng thời đưa những bức

thư được viết bằng chữ Hán với lời ngạo mạn thách thức chính quyền, buộc chính

quyền phải thả hai giáo sĩ đang bị giam cầm, bỏ việc cấm đạo và cho tự do truyền

giáo. Nhà vua vô cùng tức giận, cho rằng sự tái phạm của giám mục Lefebvre và sự

nhún nhường của ông với người Pháp khiến cho người Pháp xem thường chính

quyền Việt Nam. Lo sợ chuyển biến xấu sẽ xảy ra, tham tri bộ lễ Lê Văn Phúc đã

tấu về kinh đô xin sự chỉ đạo của vua. Lợi dụng lúc này, người Pháp cho quân tiến

hành cướp bóc các thuyền tuần tra của ta và bắn chìm 5 chiếc thuyền bọc đồng lớn

và làm gần 1.200 thủy quân Nguyễn thương vong.

Tác giả Đỗ Bang cho rằng trong sự kiện này Pháp chỉ cướp một số tàu của

nước ta. Nhưng các nhà sử học khác lại cho rằng Pháp đã bắn chìm 5 tàu đồng của

chính quyền Việt Nam khi neo đậu tại cửa biển. Sự việc này đã làm cho quan hệ

giữa hai nước xấu đi, vua Thiệu Trị và Tự Đức sau này tiến hành chuyển từ việc

hạn chế sang chủ trương đóng cửa hoàn toàn với phương Tây và đồng thời ra lệnh

chấm dứt toàn bộ việc sai phái các đội thuyền nhà nước đến buôn bán ở các xứ

thuộc địa của phương Tây và tăng cường việc bách đạo.

Sau màn gây sự lúc đầu Pháp nhận thấy cần phải nhanh chóng tiến hành đẩy

mạnh các hoạt động mở rộng việc xâm chiếm lãnh thổ nhằm tìm kiếm thị trường và

tang tầm ảnh hưởng của mình lên các nước trong khu vực Châu Á. Vì thế đến 10

năm sau, tháng 8 năm 1856 Pháp lại cho quân đến cửa biển Đà Nẵng, cùng với việc

xin chính quyền cho tiến hành thông thương. Tuy nhiên lần này thay vì dừng ở cửa

biển Đà Nẵng thì quân Pháp lại trực tiếp đến cửa biển Thuận An. Hành động này đã

vi phạm vào việc nhập cảng trái phép và có ý định xâm phạm lãnh thổ nên chính

quyền phong kiến cự tuyệt việc buôn bán. Điều này thực chất chỉ là cái cớ cho quân

Pháp đẩy mạnh các hành động tấn công và gây hấn. Không nhận được sự đón tiếp,

quân Pháp cho thuyền tiến về cửa biển Đà Nẵng với thái độ hống hách: “đưa thơ

142

xong rồi, chạy tới đây, chờ quan chánh phó sứ đến thương thuyết nếu không chịu

hòa đồng thời về rủ nước Xích Mao (nước Anh) qua, chắc sanh việc không tốt” (Đại

Nam nhất thống chí tập 2, 1995).

Những thái độ và hành động trên đã thể hiện âm mưu xâm lược nước ta của

Pháp, gây sức ép đối với triều đình nhà Nguyễn. Vua Tự Đức vô cùng tức giận nên

tăng cường lực lượng phòng thủ ở cửa biển Thuận An và Đà Nẵng. Nhận thấy số

quân Nguyễn ngay càng đông được bố trí ở các tuyến phòng thủ, quân Pháp nghĩ

mình đang bị đe dọa nên tiến hành tấn công trước. Chúng bắn vào các thuyền của ta

đang đậu ở cửa biển Đà Nẵng và các pháo đài ở bán đảo Sơn Trà sau đó nhanh

chóng nhổ neo ra biển. Trước các đòn tấn công bất ngờ của quân Pháp, hệ thống

phòng ngự ở đây tỏ ra vô hiệu. Nhận thấy những ưu thế và sức mạnh vũ khí của

Pháp, để đối phó vua Tự Đức cho tiến hành tăng cường quân lính tinh nhuệ bố trí ở

các vùng hiểm yếu như cửa Hàn, Hải Vân Quan, tăng cường bố phòng và cho xây

thêm các đồn phòng thủ.Triều Nguyễn xây dựng các đồn phòng thủ liên hoàn hỗ trợ

lẫn nhau để ngăn chặn kẻ thù. Nếu muốn đánh sâu vào nội địa thì buộc chúng phải

vượt qua các đồn bảo, lúc đó các đồn bảo như một pháo đài ngăn chặn bước tiến

của chúng, buộc chúng phải hao tốn lực lượng. Các đồn bảo này như một pháo đài

bất khả xâm phạm, do việc đặt gần nhau nên các pháo đài có thể làm nhiệm vụ bổ

sung cho nhau thêm sức mạnh.

Tháng giêng năm 1857, tàu Pháp lại đến xin phép mở rộng quan hệ giao

thương. Trước tình hình đó, vua Tự Đức giao cho Bộ binh tiến hành lo liệu sao cho

Theo đó Bộ Binh sẽ báo cáo khi tàu Pháp đến Đà Nẵng và được đưa lên Kinh,

quan nhất phẩm sẽ tiến hành việc xét hỏi. Bộ Binh sẽ đề nghị các quan mặc

trang phục triều đình để đón tiếp và trao đổi với họ. Nếu như quân Pháp cố ý

đến cửa biển Thuận An thì sẽ kiên quyết tấn công (Đỗ Bang, 2016).

vẹn cả đôi đường:

Chính quyền Pháp liên tục gây hấn buộc ta phải chấp nhận những điều kiện có

lợi cho quân Pháp nhưng trước hầu hết các hành động đó của Pháp. Triều đình

không nao núng, sợ hãi mà kiên quyết tỏ thái độ không nhượng bộ. Tuy nhiên, hầu

143

như trước các cuộc tấn công của Pháp, triều đình phong kiến chỉ đối phó một cách

bị động và chỉ khi bị tấn công mới tiến hành tăng cường thêm hệ thống phòng thủ.

Các cuộc tấn công nhỏ lẻ của Pháp đã làm bộc lộ những hạn chế và thiếu sót

của hệ thống phòng thủ của nhà Nguyễn ở cửa biển Đà Nẵng và Thuận An. Triều

đình không nhận thấy thất bại ở cửa biển Đà Nẵng đã phản ánh sự yếu kém lạc hậu

trong hệ thống phòng thủ và các đội tàu chiến cũ kỹ của Việt Nam trước các tàu

chiến Pháp.

Sau nhiều lần tiến hành thiết lập quan hệ ngoại giao nhưng thất bại, chính

quyền thời Thiệu Trị và Tự Đức cắt dứt mọi liên hệ, thực hiện chính sách cấm đạo.

Lúc bấy giờ hầu hết các quốc gia Tây Âu lúc bấy giờ đều có được những thuộc địa

ở Đông Nam Á thì Pháp vẫn chưa có một điểm tựa nào. Vì thế bước vào thế kỉ XIX

Pháp tiến hành đẩy mạnh các hoạt động xâm lược với việc dùng vũ lực tấn công.

Sau các đợt tấn công thăm đò thử sức lực lượng phòng thủ của triều đình Huế tại

vùng cửa biển Đà Nẵng. Pháp quyết định chọn Đà Nẵng làm nơi tấn công xâm lược

đầu tiên vì: Đà Nẵng có các cảng biển nước sâu phù hợp cho tàu bè neo đậu, ngoài

ra đây còn là nơi có vị trí chiến lược quan trọng nối liền con đường giao thương từ

Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương, dễ tiến hành cuộc tấn công chớp nhoáng vào

kinh thành Huế vì chỉ cách 100 km thuận lợi cho việc đánh nhanh thắng nhanh của

Pháp.

Lấy cớ triều Nguyễn bách đạo Thiên Chúa giáo, giết hại giáo dân, trong đó có

một số giáo sĩ người Tây Ban Nha. Vì thế Pháp tiến hành liên minh với Tây Ban

Nha gấp rút tiền hành chiến tranh xâm lược Việt Nam nhằm “cứu đạo, khai hóa”.

Dựa vào lực lượng quân đội hùng mạnh cùng với vũ khí hiện đại ngày 31 tháng 8

năm Mậu Ngọ (1858) liên quân Pháp - Tây Ban Nha với 14 tàu chiến, 300 quân

dưới sự chỉ huy của Phó đô đốc Rigaul de Genouilly chỉ huy tiến vào cửa biển

Thuận An. Chúng dự định sẽ cho quân đánh vào cửa biển Đà Nẵng sau khi thắng lợi

lấy Đà Nẵng làm bàn đạp tấn công lên kinh thành Huế tiêu diệt nhanh chóng chính

quyền phong kiến Nguyễn.Trong cuộc này Pháp trang bị các tàu đồng cỡ lớn, 50

khẩu đại bác cùng với trang thiết bị và vũ khí hiện đại và tối tân nhất lúc bấy giờ.

144

Lực lượng quân đội nhà Nguyễn gần khoảng hơn 2000 quân chính quy được

bố trí ở các đồn trú, pháo đài và các trấn được trang bị đại bác, súng trường và vũ

khí các loại. Với ưu thế về lực lượng đông và vũ khí trang thiết bị hiện hại mờ sáng

ngày 1/9/1858 liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công vào hệ thống phòng thủ của

ta tại Đà Nẵng và các đồn tại bán đảo Sơn Trà. Trước đó chúng đã cho người ra tối

hậu thư đòi quan lại và nhân dân ta ở Đà Nẵng phải đầu hàng và nộp chiến lũy và

khí giới trong vòng 48 giờ.Tuy nhiên không chờ đến khi quân ta đầu hàng Pháp đã

nhanh chóng cho quân bắn phá tấn công vào chân núi Sơn Trà. Chỉ trong đột tấn

công đầu tiên hệ thống phòng thủ tại cửa biển Đà Nẵng như thành An Hải, Điện Hải

lần lượt bị thất thủ. Và Pháp lần lượt chiếm các thành này và làm chủ chiến trường

Đà Nẵng. Trước lợi thế về vũ khí hiện đại và quân số đông quân Pháp không ngừng

tấn công đẩy quân ta lâm vào thế bị động và phải lui dần vào sâu đất liền, xây dựng

tuyến phòng thủ Liêu Trì (huyện Hòa Vang) để ngăn quân pháp tiến sâu vào nội địa.

Nhận được tin các hệ thống phòng thủ của ta ở cửa biển Thuận An và Đà Nẵng

Sai Tổng đốc Nam - Ngãi là Trần Hoằng gọi biền binh của tỉnh ấy để phòng sai

phái. Đồng thờ sai chưởng dinh Hổ oai Đào Trí đi nhanh đến cùng với án sát là

Lê Văn Phổ để giữ thành. Bố chính là Thân Văn Nhiếp, hội đồng với Trần

Hoằng đánh dẹp và chống giữ (Đại Nam thục lục 5, 2006).

lần lượt bị thất thủ. Vua Tự Đức liền:

Theo đó chưởng cơ Đào Trí sẽ huy động 2.000 quân hỗ trợ cho quân đội của

Trần Hoằng để chống giặc và giữ thành. Tuy nhiên khi đến cửa biển Đà Nẵng thì

đồn An Hải và Điện Hải đã rơi vào tay của Pháp. Trước tình thế đó nhà vua sai Hữu

quân đô Lê, Trần, Lý và tham tán Pham Khắc Thuận đem 2000 quân vào Đà Nẵng

ứng cứu. Ngoài ra vua còn có chỉ dụ là cho xây dựng hệ thống phòng thủ ở cửa biển

từ Hải Vân đến núi Câu Đê để tiện liên lạc và phòng giữ. Đồng thời trên đất liền

cho xây dựng các đồn lũy để ngăn chặn quân giặc tiến sâu vào đất liền. Khi đến Đà

Nẵng, theo chỉ dụ của vua Tự Đức, tổng đốc Lê Đình Lý cho đặt đồn và dọc các sở

Chân Sảng, Câu Đê, Nam Ô, Cẩm Lệ, Hóa Khuệ đồng thời cho tăng cường lực

lượng binh lính và voi chiến tại đây, ngoài ra ở các khu vực xung yếu như cửa biển

145

đại Chiêm thì cho quân tăng cường bố phòng đóng chặn. Khi quân Pháp tấn công

vào Mỹ Thị, phá đồn Thổ Sơn. Trong trận đánh này Lê Đình Lý chiến đấu dũng

cảm và mất lâu sau đó. Vua Tự Đức cử Chu Phúc Minh tạm thời thay thế, đồng thời

cử danh tướng Nguyễn Tri Phương làm tổng đốc Quảng Nam cùng đề đốc Chu

Phúc Minh ra Đà Nẵng chặn giặc.

Tháng 11 năm 1858 liên quân Pháp Tây Ban Nha bất ngờ tấn công vào Hóa

Khuê, Nai Hiên quân ta tổn thất nghiêm trọng. Trước tình hình đó Nguyễn Tri

Phương sửa lại các đồn, chia lính luân phiên canh gác để tiếp ứng nhanh chóng.

Tình thế Đà Nẵng lúc bấy giờ giữa ta và Pháp đang ở tình thế giằng co. Liên

quân Pháp - Tây Ban Nha có sức mạnh ở tàu thuyền, vũ khí trang thiết bị hiện đại.

Còn quân đội triều Nguyễn thì không có khả năng đánh trực diện vì vũ khí không

tinh nhuệ và quân đội không đông. Vì thế Nguyễn Tri Phương đã quyết định chọn

việc phòng thủ để đối phó với quân giặc: “Giặc lấy chiến làm lợi, ta lấy thủ làm lợi.

Xin lấy thủ làm chiến, đắp thêm đồn lũy dần dần tiến đến gần giặc” (Đại Nam nhất

thống chí tập 2, 1995).

Nhận định trên của danh tướng Nguyễn Tri Phương trong việc chống quân

Tây Dương là chính xác, bởi vì quân đội triều Nguyễn yếu về vũ khí và ít về quân

số vì thế nếu chiến đấu trực diện với quân Pháp thì ta chắc chắc sẽ tổn thất nặng nề.

Vì thế ta chuyển từ thế công sang thế thủ tức là chuyển việc đánh thắng nhanh của

giặc sang đánh lâu dài có lợi cho ta. Đây được xem là chiến thuật khôn ngoan và

hiệu quả nhất của ta lúc bấy giờ khi phải đương đầu với 1 kẻ thù mạnh.

Cách đánh này của Nguyễn Tri Phương được xem là sự cứu cánh cho ta thoát

khỏi sự bế tắc, trong việc chặn đánh quân Pháp ở cửa biển Đà Nẵng trong tình thế

mà các hệ thống phòng thủ của ta đều vô hiệu hóa trước các loạt đại bác của Pháp.

Đồng thời ông còn quân lính đắp đồn lũy Phúc Ninh, Thạc Giản để chặn đánh giặc,

bên ngoài có chông tre bao phủ được ngụy trang bằng cỏ và đắp cát lên trên đồng

thời cho bố trí phục binh mai phục sẵn. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha khi đem

quân tấn công vào đây đã bị tổn thất nặng nề trước hệ thống phòng thủ của ta. Lớp

thì bị sa xuống hố chết, lớp thì bị phục binh bất ngờ chặn đánh, cùng lúc đó từ các

đồn lũy quân ta liên tục bắn hỏa pháo vào giặc. Cuộc tấn công của liên quân Pháp -

146

Tây Ban Nha vào đồn Hóa Khuê, Thạc Giản bị thất bại hoàn toàn. Nhờ kế hoạch

phòng thủ của danh tướng Nguyễn Tri Phương đã đẩy lùi cuộc hành quân và khiến

cho chúng không thể tiến lên được. Trận chiến ở thế giằng co cả ta và giặc đều ở thế

cố thủ không tiến thêm được. Sau nhiều ngày bị bao vây và liên tục bị quân ta tấn

công cộng với thời tiết khí hậu khắc nghiệt, lực lượng quân ngày càng giảm sút.

Cuối cùng liên quân Pháp - Tây Ban Nha phải rút toàn bộ quân ra khỏi Đà Nẵng và

chuyển hướng tấn công vào Nam. Theo viên tướng người Pháp là Alfred người

tham gia cuộc tấn công vào Đà Nẵng đã ghi nhận lại những khó khăn mà quân Pháp

gặp phải trong trận đánh này: “Chúng tôi ở lại cửa Hàn đã năm tháng rồi, mà

không được sự gì, có một điều là tài vật, binh lính tổn thất ngày càng nhiều mà thôi,

để phát huy thế mạnh thì phải tìm nơi khác mà đánh” (Đỗ Bang, 2016).

Trước những khó khăn mà quân Pháp gặp phải tháng 2/1859, tướng chỉ huy

quân đội Pháp là Regault de Genouilly ra lệnh rút quân khỏi Đà Nẵng chỉ để lại ở

đây một số ít quân khoảng vài trăm đóng giữ cửa Hàn, số còn lại tiến quân vào Sài

Gòn. Quân Pháp ở Đà Nẵng liên tục bị quân ta tấn công, chúng phải cố thủ bên

ngoài không dám tiến sâu vào nội địa, vùng kiểm soát bị thu hẹp. Mặc dù số lượng

quân pháp tại Đà Nẵng rất ít nhưng chính quyền phong kiến Nguyễn lại không có

kế hoạch đánh Pháp một cách dứt khoát mà lại có sự chia rẽ lẫn nhau trong nội bộ

Vì thế chính quyền nhà Nguyễn giữ thế phòng thủ trước số lượng quân Pháp ít ỏi.

Tháng 11 năm 1859, quân Tây Dương chuyển hướng tấn công về phía Nam

Hải Vân, bắn phá vào pháo đài Định Hải, chiếm giữ đồn Chân Sảng, khống chế

đường từ Huế vào Đà Nẵng. Trước tình thế đó vua sai thống đốc Nguyễn Tri

Phương cho sửa sang đồn lũy và tăng cường thêm 300 quân tiến đánh. Các cuộc tấn

công của Pháp bị dần bị đẩy lùi, Pháp phải rút quân ra khỏi Đà Nẵng. Quân Pháp rút

dần quân và đồn bốt ra khỏi vùng Trà Sơn, Điện Hải, An Hải, chúng rút lui đến đâu

ta cho quân chiếm lại ở đó.

Như vậy, kể từ khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn Trà

cho đến khi toán lính Pháp cuối cùng rút quân ra khỏi đây. Tổng cộng là gần 18

tháng (9/1858 - 3/1960). Mặc dù quân Pháp tiến hành các đợt tấn công liên tục

nhưng chúng chỉ chiếm được các thành chứ chưa thể tiến sâu vào nội đô. Kế hoạch

147

đánh vào Đà Nẵng, chiếm kinh thành Huế, làm chủ nước ta của Pháp bước đầu gặp

thất bại.

Tuy nhiên, đây được coi là chiến thắng duy nhất của vương triều Nguyễn

trong cuộc chiến chống Pháp, bởi vì về sau các tấn công của ta dần thất bại và chính

quyền phong kiến từng bước đầu hàng và đi đến thỏa hiệp với Pháp.

Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng các công trình trấn thủ, hải trấn và các chiến

lũy kiên cố của chính quyền nhà Nguyễn đã phát huy tác dụng to lớn trong việc

từng bước ngăn chặn cuộc tấn công của các thế lực ngoại xâm. Điều này cho thấy

các vương triều nhà Nguyễn đã chú trọng đến các hoạt động bảo vệ và chống lại các

nguy cơ đến từ biển. Tính quốc phòng trong thời kì này được đẩy cao hết mức bên

cạnh việc thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng ngăn cấm việc mua bán với các

thương nhân nước ngoài thì chính quyền phong kiến Nguyễn còn hết sức chú trọng

đầu tư xây dựng hệ thống phòng thủ ven biển. Những việc làm này có tác dụng nhất

định trong việc bảo vệ chế độ phong kiến tập quyền trước sự lớn mạnh của chủ

nghĩa thực dân phương Tây. Chính sách bế quan tỏa cảng mặc dù có điểm hạn chế

là làm cho nước ta bị cô lập và lạc hậu so với bên ngoài nhưng góp phần bảo vệ

vững chắc nền độc lập chủ quyền và các giá trị truyền thống của đất nước trước các

cuộc tấn công và đe dọa từ các thế lực ngoại xâm bên ngoài.

148

Tiểu kết chương 3

Các chúa Nguyễn và vua Nguyễn đã biết tận dụng những điều kiện tự nhiên

thuận lợi của vùng duyên hải Nam Trung Bộ nhất là vùng đất Quảng Nam để ra sức

xây dựng các thương cảng lớn sầm uất thúc đẩy nền hải thương phát triển nhanh

chóng. Cùng với việc khai thác kinh tế chính quyền phong kiến họ Nguyễn và các

vua Nguyễn cũng chú trọng đến tăng cường và thiết lập các hệ thống phòng thủ, bảo

vệ an ninh quốc phòng như Lũy Trường Dục (lũy Thầy cho đến các tuyến phòng

thủ kiên cố như thành Điện Hải, An Hải, pháo đài Hòa Duân, pháo đài Cồn Sơn,

Hạp Châu và đập chắn Thuận An, thất dương trấn bảo. Ngoài ra các hệ thống Hải

Vân Quan ở cửa biển Thuận An có nhiệm vụ, quan sát và cấp báo khi có sự xâm

nhập.

Những công trình này tạo nên hệ thống phòng thủ liên hoàn vững chắc có vai

trò quan trọng trong việc bảo vệ an ninh quốc phòng vùng biển. Các hệ thống phòng

thủ đã phát huy tác dụng của nó như nhờ lũy Trường Dục chính quyền họ Nguyễn

Đàng Trong có thể chặn được cuộc tấn công của quân Trịnh ở Đàng Ngoài hay

thành Trấn Hải, An Hải gây ra những tổn thất nặng nề cho quân Pháp trong cuộc

trạm tráng với nhà Nguyễn. Đây được coi là sự tiến bộ trong tư duy hướng biển của

các chính quyền phong kiến Nguyễn, không chỉ thấy được những tiềm năng về kinh

tế mà biển mang lại cho sự phát triển đất nước đặc biệt là kinh tế ngoại thương mà

chính quyền nhà Nguyễn còn biết sử dụng biển làm dựa quan trọng về mặt quốc

phòng. Chính quyền phong kiến đã kết hợp một cách khéo léo và linh hoạt giữa vấn

đề khai thác kinh tế và bảo vệ quốc phòng. Thực tế lịch sử đã cho thấy chính nhờ

những bước đi đúng đắn của Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên trong giai đoạn

đầu đã giúp cho Đàng Trong không chỉ phát triển vượt bậc về hải thương mở rộng

giao lưu xúc với bên ngoài mà còn có được sự lớn mạnh về quân sự. Một trong

những việc làm được xem là thể hiện rõ nét nhất trong việc kết hợp linh hoạt giữa

khai thác và bảo vệ vùng biển là hoạt động của đội Hoàng Sa và Bắc Hải. Thông

qua các hoạt động tìm kiếm sản vật và hóa vật chính quyền phong kiến còn sử dụng

họ là lực lượng đắc lực trong việc kiểm soát và quản lí các vùng biển và hải đảo

trọng yếu của nước ta

149

Chính quyền phong kiến đã có sự chuyển hướng một cách linh hoạt và khéo léo

trước những thay đổi của tình hình thế giới để áp dụng vào trong nước. Thời chúa

Nguyễn với nhu cầu tìm kiếm lực lượng đồng minh và vũ khí cho cuộc chiến tranh

với họ Trịnh vì thế các chúa đẩy mạnh quan hệ tiếp xúc với bên ngoài cùng lúc đó

trên thế giới đang bước vào thời kì hải thương rực rỡ, sự giao lưu tiếp xúc văn hóa

Đông - Tây được mở rộng và đẩy mạnh nhiều quốc gia trong khu vực cũng tiến

hành mở cửa tiếp nhận sự du nhập của những thành tựu vế kinh tế, văn hóa, tôn

giáo, chữ viết từ các quốc gia Tây Phương tạo ra sự liên kết các vùng và các khu

vực.

150

KẾT LUẬN

Ngay từ thời cổ đại, các cư dân văn hóa Hòa Bình, Sa Huỳnh, đã phát triển

nền kinh tế biển. Sự ra đời của thương cảng Óc Eo sầm uất đã tạo ra ý thức về nền

kinh tế văn hóa biển đầu tiên trong lịch sử nước ta. Những di tích khảo cổ học về

thuyền, dụng cụ chài lưới và bức vẽ hình thuyền trên trống đồng Đông Sơn đã

chứng minh nước ta sớm có sự tiếp xúc với biển hơn cả với người Trung Hoa. Nhờ

địa hình tự nhiên với đường bờ biển kéo dài, người Sa Huỳnh đã tiến hành buôn bán

và trao đổi với bên ngoài từ rất sớm. Đến giai đoạn phong kiến, chính quyền tiến

hành đẩy mạnh giao thương, buôn bán với nhiều quốc gia thông qua con đường

biển. Cảng Vân Đồn được mở từ rất sớm, từ thời Lý đến thời Lê Sơ, đã chứng tỏ

chính quyền phong kiến luôn có sự quan tâm đến vùng biển trong chính sách phát

triển kinh tế đất nước. Việc thành lập trang Vân Đồn đã thể hiện ý thức của các triều

đại phong kiến trong việc bảo vệ an ninh quốc phòng của đất nước nói chung và an

ninh vùng biển đảo nói riêng. Ngoài những thuận lợi mà biển còn mang lại, những

khó khăn thách thức như nạn ngoại xâm và vấn đề bảo vệ an ninh biển. Từ rất sớm,

các chính quyền phong kiến Việt Nam đã thi hành nhiều chính sách và biện pháp

nhằm xác lập chủ quyền vùng biển, tận dụng những tiềm năng của biển và bảo vệ

an ninh vùng biển đảo. Lịch sử đã cho thấy việc khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng

biển không chỉ trong thời phong kiến mà còn là sự quan tâm của nhà nước ta hiện

nay.

Từ thế kỉ XVI - XVII, chính quyền chúa Nguyễn đã xây dựng vùng đất Đàng

Trong thành cơ sở kinh tế - chính trị - quân sự hùng mạnh nhằm chống lại thế lực

Đàng Ngoài của chúa Trịnh. Các chúa Nguyễn luôn quan tâm đến việc chủ động mở

cửa giao thương với bên ngoài, xây dựng các thương cảng ở vùng ven biển miền

Trung. Đồng thời với việc chủ động mở cửa giao thương buôn bán, các chúa

Nguyễn cũng tiến hành việc xác lập quyền cai trị của mình tại vùng biển đảo, điển

hình nhất là dưới thời cai trị của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, người đầu tiên đặt cơ

sở cho vấn đề xác lập chủ quyền vùng biển nước ta.

Trong thời kì nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh, vấn đề khai thác và xác lập

chủ quyền vùng biển được coi trọng. Nguyễn Ánh đã tận dụng lợi thế của vùng biển

151

Tây Nam cho quân lính tiến hành khẩn hoang các vùng ven biển, phát triển thủy

quân hùng mạnh, chú trọng giao thương buôn bán với nước ngoài thông qua đường

biển. Từ rất sớm Nguyễn Ánh đã có ý thức về vai trò của biển, và với việc khai thác

các thế mạnh của vùng biển, cùng với sự ủng hộ của các tầng lớp địa chủ, Nguyễn

Ánh có thể nhanh chóng lấy lại vùng đất Gia Định, từ đó đem quân chiếm toàn bộ

vùng đất Quy Nhơn của Tây Sơn.

Đến thời triều Nguyễn, các vua Nguyễn tiếp nối tư duy hướng biển từ thế hệ

trước, đã ban hành nhiều chính sách quan trọng trong việc khai thác và bảo vệ chủ

quyền vùng biển. Vua Minh Mạng không chỉ tiếp nối những chính sách khai thác

biển ở vua Gia Long mà còn phát triển ý thức hướng biển ở mức độ cao, thông qua

việc chủ động xây dựng các đội hải quân Hoàng Sa, Bắc Hải, vẽ bản đồ xác định

địa giới và cắm mốc chủ quyền, chủ động cho người ra nước ngoài học hỏi kĩ thuật

đóng tàu thuyền, xây dựng hệ thống phòng thủ biển, nhằm ứng phó với kẻ thù xâm

lược từ phía biển là các nước phương Tây.

Về kinh tế, chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn đã liên tục tiến hành các

hoạt động khai thác tài nguyên vùng biển. Vùng đất Đàng Trong chứa dựng nhiều

yếu tố thuận lợi cho phát triển kinh tế ngoại thương: có trữ lượng thủy sản dồi dào,

nhiều nguồn hương liệu quý, trữ lượng gỗ và các sản phẩm nông nghiệp lớn, cùng

với vô số các cửa biển lớn nhỏ thu hút đông đảo thuyền buôn từ khắp nơi tìm đến.

Chúa Nguyễn Hoàng là người đặt nền tảng cho việc phát triển kinh tế ngoại thương,

chú trọng khai thác những điều kiện tự nhiên thuận lợi của vùng đất này. Với tư duy

hướng biển, chúa Nguyễn Hoàng đã đẩy mạnh các hoạt động giao thương buôn bán

với nước ngoài, lấy thương nghiệp làm nền tảng phát triển đất nước. Đến thời chúa

Nguyễn Phúc Nguyên, các hoạt động thương nghiệp được nâng lên tầm cao mới.

Bên cạnh việc thiết lập quan hệ ngoại giao với bên ngoài, chúa Nguyễn Phúc

Nguyên dùng con đường hôn nhân để tạo sự ràng buộc chặt chẽ với thương nhân

Nhật Bản, quốc vương Chân Lạp, quốc vương Champa, góp phần mang lại cho

chính quyền những lợi ích về các nguồn thương phẩm, vũ khí hiện đại và tiền vàng

thu được từ việc đánh thuế.Thương nghiệp Đàng Trong bước vào thời kì thịnh

vượng chưa từng có trong lịch sử. Các thương cảng Đàng Trong đặc biệt là Hội An

152

trở thành thương cảng quốc tế nổi tiếng, thu hút đông đảo thương nhân từ khắp nơi

tìm đến. Thời nhà Nguyễn, chính quyền thực hiện việc mua bán một cách có giới

hạn với các thuyền buôn phương Tây. Các loại thuyền bọc đồng chạy bằng hơi

nước, các khẩu đại bác và súng trường theo kiểu phương Tây được đội thủy quân

triều Nguyễn sử dụng để tuần tra hay trong cuộc chiến chống liên quân Pháp - Tây

Ban Nha.Điều này cho thấy chính quyền phong kiến có sự học hỏi và tiếp thu

những thành tựu tiến bộ của các nước phương Tây, để giải quyết những hạn chế của

quân đội thủy quân triều đình, góp phần đưa nước ta bước vào quỹ đạo của cuộc

cách mạng khoa học kĩ thuật trên thế giới.

Mặc dù có những gián đoạn do nội chiến hoặc chiến tranh xâm lược từ

bên ngoài, chưa bao giờ chính quyền phong kiến chấm dứt hoàn toàn việc khai thác

kinh tế biển. Dùng khai thác kinh tế biển làm hướng phát triển mở mang đất nước

được coi đó là việc làm sáng suốt của chính quyền phong kiến. Bên cạnh các hoạt

động khai thác, chính quyền phong kiến cũng tiến hành hoạt động bảo vệ chủ quyền

vùng biển. Sự ra đời và hoạt động của đội thủy quân Hoàng Sa và Bắc Hải đã chứng

minh điều này. Lúc đầu đội thủy quân Hoàng Sa chỉ có nhiệm vụ là khai thác các

sản vật hóa vật và kiêm quản đội Bắc Hải. Nhưng về sau đội Hoàng Sa còn có thêm

nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ an ninh vùng biển, cứu trợ các tàu đắm trên quần đảo

Hoàng Sa.

Đến thời nhà Nguyễn, hoạt động của đội Hoàng Sa gắn liền với các hoạt động

xác lập chủ quyền như cắm mốc, đo đạc và vẽ bản đồ. Chính quyền phong kiến

Nguyễn đã tiến hành các hoạt động khai thác có hiệu quả các tiềm năng của biển,

góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế bấy giờ.

Quá trình khai thác và bảo vệ chủ quyền biển của thời chúa Nguyễn và vua

Nguyễn đã để lại những kinh nghiệm lịch sử:

* Nhà nước cần phối hợp với ngư dân trong việc khai thác kinh tế biển và bảo

vệ chủ quyền trên biển

Hình thức các đội thủy quân Hoàng Sa trước đây cho thấy tầm quan trọng của

việc phối hợp giữa nhà nước và nhân dân trong khai thác và bảo vệ chủ quyền biển.

Nhà nước sẽ cung cấp các trang thiết bị cần thiết cho nhân dân tiến hành các hoạt

153

động khai thác. Người dân sẽ đóng thuế hay nộp các sản phẩm thu hoạch được cho

nhà nước. Ngoài ra nhà nước cần có sự hỗ trợ cho các ngư dân phát triển kinh tế,

hướng tới phát triển các tiềm năng sãn có như đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị khoa

học kĩ thuật vào việc khai thác. Công cuộc khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng biển

của chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử góp phần là bài học nhận

thức cho thế hệ trẻ hiện nay. Nguồn tài nguyên trên đất liền đang dần bị cạn kiệt vì

khai thác quá mức, biển vẫn còn chứa rất nhiều tiềm năng chưa khai thác hết. Vì thế

trong việc phát triển kinh tế, cần chú trọng phát triển kinh tế biển, tăng cường kết

hợp giữa hoạt động khai thác của ngư dân với việc quản lý của nhà nước.

* Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ chủ

quyền biển đảo

Yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay là phát

huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ biển, đảo của Việt Nam; phát triển kinh tế - văn hóa

và xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại bảo vệ chủ quyền biển đảo

trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Nhiệm vụ này được thể hiện rõ trong các chỉ thị,

nghị quyết của Đảng và nhà nước Việt Nam; đặc biệt là chiến lược phát triển bền

vững kinh tế biển năm 2030. Trong hội nghị Trung Ương Đảng lần thứ 8 khóa XII.

Đảng nhấn mạnh đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, đạt cơ bản các tiêu

chí phát triển triển bền vững kinh tế biển, phát triển văn hóa sinh thái biển, chủ

động thích ứng với biến đổi khí hậu, ngăn chặn sưu thế ô nhiễm suy thoái môi

trường biển, phục hồi và bảo tồn hệ sinh thái quan trọng. Thúc đẩy phát triển bền

vững kinh tế biển (www.tapchicongsan.org.vn/.../Nghi-quyet-ve-Chien-luoc-phat-

trien-kinh-te-bien-Viet-Nam.)

Để làm được điều này, cần phải có hướng đi hợp lí, sự đầu tư đúng đắn. Bên

cạnh việc phát triển các ngành công nghiệp, nước ta cần đầu tư phát triển các ngành

công nghiệp chế biến, ngành khai thác dầu khí, chất đốt, ngành du lịch nghỉ dưỡng.

Ngoài ra, chú trọng đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông hiện đại nối liền

vùng đất liền với vùng biển, vừa tạo điều kiện cho việc khai thác vừa thuận tiện cho

việc bảo vệ vùng biển. Cần xây dựng một hệ thống mạng lưới giao thương liên

154

vùng, tăng cường các hoạt động ngoại giao, thu hút sự đầu tư phát triển từ các nước

lớn và các nước có thế mạnh về biển như Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan.

Trong lịch sử, vào các thế kỷ XVI - XIX, cùng với các hoạt động khai thác,

chính quyền phong kiến đã tăng cường các biện pháp phòng thủ, bảo vệ vùng biển

đảo. Chính quyền chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn đều cho thiết lập các hệ

thống phòng thủ chặt chẽ ở những vị trí trọng yếu nhằm chống lại sự tấn công từ

bên ngoài. Ở các quần đảo xa xôi, chính quyền đã phối hợp với nhân dân tiến hành

nhiều cuộc tuần tra giám sát, khẳng định và bảo vệ chủ quyền vùng biển. Với ý thức

hướng biển, chính quyền phong kiến đã cho xây dựng một số hệ thống phòng thủ

liên hoàn có tác dụng bảo vệ nghiêm ngặt các vùng trọng yếu, yết hầu của đất nước.

Một hệ thống thủy quân làm công tác tuần tra được bố trí dọc các cửa biển và các hệ

thống quân sự có sự liên lạc chặt chẽ với nhau. Các hệ thống pháo đài quan sát có

tác dụng là bảo vệ phát hiện từ xa sự tấn công xâm nhập của các thuyền nước ngoài.

Hệ thống phòng thủ liên hoàn này đã đảm bảo an ninh của nước ta đầu thế kỉ XIX.

* Nhà nước cần xây dựng và phát triển lực lượng thủy quân hùng hậu:

Hiện nay việc bảo vệ chủ quyền vùng biển của ta gặp nhiều khó khăn nhất là

phải đối mặt với tranh chấp biển đông với Trung Quốc. Vì thế việc bảo vệ vùng

biển đòi hỏi phải có sự linh hoạt, huy động được sức mạnh tổng lực trong cuộc đấu

tranh bảo vệ chủ quyền. được đào tạo về kĩ năng chiến đấu, được trang bị vũ khí và

các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Việc tăng cường thiết lập các hệ thống phòng thủ

ở những khu vực biển quan trọng, phát triển hệ thống thông tin liên lạc giữa vùng

biển đảo và đất liền, tăng cường sức mạnh toàn diện trong việc phòng thủ biển đảo

là hết sức cần thiết. Công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo luôn gắn liền với việc

tiếp tục kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an

ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường, kết hợp phát triển các vùng biển, ven

biển và hải đảo với phát triển các vùng đồng bằng và đô thị theo định hướng đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kinh nghiệm lịch sử đã khẳng định

vai trò quan trọng của việc tăng cường và thực thi có hiệu quả các biện pháp đồng

bộ để bảo vệ ngư dân, các lực lượng làm kinh tế và các hoạt động hợp pháp trên các

vùng biển, đảo của Tổ quốc Việt Nam. Cần có sự chú trọng đến việc thực hiện công

tác phòng thủ và chính sách ứng phó với những biến đổi bất thường từ phía biển

155

như ngăn chặn hoạt động xâm phạm chủ quyền vùng biểncủa Trung Quốc, xây

dựng các hệ thống phòng thủ, các phương tiện thăm dò đường biển, liên kết với các

nước trong khu vực để tìm kiếm sự đồng thuận trong việc giải quyết vấn đề trên

biển. Cần tăng cường sự hiện diện của đội thủy quân Việt Nam tại các vùng trọng

yếu. Đưa ra các chính sách và phương án hợp lí để giải quyết các tranh chấp.

* Đưa vấn đề biển đảo vào chương trình giáo dục:

Trong nhà trường hiện nay, việc giáo dục bồi dưỡng nhận thức về chủ quyền

biển đảo và nâng cao ý thức trách nhiệm trong khai thác và bảo vệ chủ quyền vùng

biển, đặc biệt là đối với vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đang là vấn đề quan

trọng trong đào tạo thế hệ trẻ. Hiện nay vấn đề giáo dục biển đảo chưa được xem

trọng chủ yếu là chỉ được dạy ở các trường đại học chư chưa có sự phổ biến đến các

trường học. Vì thế đa số bộ phận giới tre chưa nắm được về quá trình làm chủ vùng

biển của nước ta. Vì thế cần đưa lịch sử khai thác và bảo vệ chủ quyền biển đảo vào

chương trình giáo dục ở các cấp từ tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông

Để góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo, chúng ta cần có sự kế thừa các thành

tựu, các bài học kinh nghiệm từ lịch sử. Các công bố về bằng chứng chủ quyền của

Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, việc đưa vào chương trình

giáo dục nội dung về lịch sử biển đảo... là những việc cần thiết và cấp bách đang

được thực hiện để góp phần giáo dục cho thế hệ trẻ ngày nay ý thức về bảo vệ chủ

quyền và xây dựng phát triển kinh tế vùng biển.

156

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Andrew Hardy, Nguồn trong kinh tế hàng hóa ở Đàng Trong, Kỷ yếu Hội thảo

Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến

thế kỷ XIX, Hà Nội: Nxb Thế giới.

Nguyễn Thế Anh. (2016).Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn. Hà

Nội:Nxb Văn Học

Lê Tiến Công. (2007).Vị thế của biển trong cái nhìn của các vua Nguyễn, Tạp chí

Xưa và Nay (tr. 275 - tr. 276).

Đại Nam nhất thống chí, tập 1.(1992). Nxb Thuận Hóa.

Đại Nam nhất thống chí, tập 2. (1995). Huế: Nxb Thuận Hóa.

Đại Nam thực lục.(2002), tập 1, Bản dịch của Viện sử học, Tái bản lần thứ nhất.

Nxb Giáo dục Hà Nội.

Đại Nam thực lục (2006), tập 2, Bản dịch của Viện sử học, Tái bản lần thứ nhất.

Nxb Giáo dục Hà Nội.

Đại Nam thực lục (2007),, tập 5, Bản dịch của Viện sử học, Tái bản lần thứ nhất.

Nxb Giáo dục Hà Nội.

Đỗ Bang (1997).Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, Huế: Nxb

Thuận Hóa.

Đỗ Bang. (2010).Hệ thống phòng thủ mặt biển của triều Nguyễn ở phía Nam kinh

đô Huế trước năm 1858, Huế: NXB Thuận Hóa,

Trần Đức Cường. (2016). Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ từ khởi

thủy đên năm 1945.Nxb Khoa học Xã hội,

Đặng Văn Chương (chủ biên), Trần Đình Hùng - Trần Thị Quế Châu - Lê Thị Qúy

Đức. (2017).Chính sách đóng cửa và mở cửa của các nước Đông Nam Á từ cuối

thế kỉ XVIII đến cuối thế kỉ XIX, Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Tổng hợp.

Phan Huy Chú. (1992). Lịch Triều hiến chương loại chí, tập 1. Viện sử học phiên

dịch và chú giải.

Cristophoro Borri. (1998). Xứ Đàng Trong năm 1621 (Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc

Xuyên và Nguyễn Văn Nghị dịch, chú giải). Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,

Phạm Đức Dương. (2014). Biển với người Việt cổ. Nxb Văn hóa Thông tin

Hà Nội.

Lê Quý Đôn.(1977). Phủ biên tạp lục. Hà Nội:Nxb Khoa học xã hội.

157

Lê Quý Đôn tuyển tập. (2007).Đại Việt thông sử, tập 1, Nguyễn Khắc Thuần

dịch. Nxb Giáo dục.

Vu Hướng Đông. (2008). Ý thức hướng biển của vua Minh Mạng, Tạp chí Xưa và

nay,(317).

Trịnh Hoài Đức. (1999).Gia Định thành thông chí.Nxb Giáo dục.

Nguyễn Văn Kim. (2011).Ứng đối của chính quyền Đàng Trong với các thế lực

phương Tây, trong Việt Nam trong thế giới Đông Á: một cách tiếp cận liên

ngành và khu vực học.Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.

Phan Khoang. (2001).Việt sử Đàng Trong. Nxb Văn học Hà Nội.

Khâm định đại Nam hội điển sử lệ, tập V, (2002), Nxb Khoa học Hà Nội.

Kỷ yếu hội thảo khoa học. (2008).Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch

sử Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX. Nxb Thế Giới

Phan Thanh Hải. (2004).Tìm hiểu hệ thống phòng thủ thời các chúa Nguyễn”, Tạp

chí Nghiên cứu lịch sử, (số 9 và 10), tr.21- 37 + tr.14 - 21.

Hội khoa học lịch sử Thừa Thiên Huế, PGS. TS Đỗ Bang (chủ biên), Tổ chức và

hoạt động bảo vệ biển đảo Việt Nam dưới triều Nguyễn 1802 - 1885. Nxb Thuận

Hóa.

Thuận Hóa. (2002).Những cuộc đối đầu của nhà Nguyễn và người Hà Lan, Những

vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam, Tạp chí Xưa và Nay và trung

tâm bảo tồn di tích cố đô Huế.

Ts. Dương Văn Huy. (2007).Chính sách hướng biển của chính quyền chúa Nguyễn

ở Đàng Trong thế kỉ XVI - XVIII, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 8.

Huỳnh Lứa. (1987). Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ. Nhà xuất bản TP.HCM.

Minh Mệnh chính yếu, tập 2. (1994). Huế:NxbThuận Hoá.

Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 5, Nxb Thuận

Hóa, tr. 660 - 661.

Nguyễn Nhã. (2016). Đặc khảo về Hoàng Sa - Trường Sa. Nxb Nhã Nam.

Nguyễn Nhã. (2012). Những bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai

quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Nxb Giáo dục Việt Nam.

Nguyễn Nhã. (2002). Qúa trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo

Trường Sa - Hoàng Sa. Tp. HCM: Luận án tiến sĩ Lịch sử Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân Văn.

158

Nguyễn Thành Nhã. (2013).Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII,

Nguyễn Nghị dịch.Nxb Tri thức trẻ.

Đỗ Quỳnh Nga. (2012).Chúa Nguyễn với công cuộc mở đất Đông Nam Bộ thế kỉ

XVII, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (số 5), tr. 14 - 23.

Ngô Minh Oanh. (2008). Nhìn lại hệ thống đối sách của các chúa Nguyễn vớiChân

Lạp và Xiêm trong quá trình khai phá, xác lập chủ quyền ở vùng đất Nam

Bộ thế kỉ XVI - XVIII, Kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn

trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Hà Nội: NxbThế giới.

Quốc sử quán triều Nguyễn. (1998).Quốc triều chánh biên toát yếu Nxb Sài Gòn,.

Thích Đại Sán. (2016). Hải ngoại kỉ sự. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.

Nhiều tác giả, Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta, Nxb Hồng Đức

Li Tana. (1999). Xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỉ XVII -

XVIII, Nguyễn Nghị dịch. Tp.HCM: Nxb Trẻ.

Vĩnh Sính. (2000).Việt Nam và Nhật Bản - Giao lưu văn hóa.TPHCM: Nxb Văn

Nghệ.

Trần Nam Tiến. (2018). Nam Bộ dưới thời chúa Nguyễn thế kỉ XVII - XVIII. Nxb

Khoa học Xã hội, Tp. Hồ Chí Minh.

Trần Thị Thanh Thanh. (2008). Góp thêm ý kiến về vai trò của các chúa

Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Chúa

Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ

XIX. Hà Nội: Nxb Thế giới.

Trần Thị Thanh Thanh. (2010). Quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong các thế kỷ X

- XX, Công trình nghiên cứu Khoa học và Công nghệ cấp Bộ, Trường Đại học Sư

phạm TP. Hồ Chí Minh.

Tôn Nữ Quỳnh Trân. (2002). Vua Gia Long và ngành đóng thuyền tại Nam Bộ,

Những vấn đề lịch sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam. Tạp chí Xưa và Nay

tr. 311 - 319.

Yoshiharu Tsuboi. (2011). Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847-

1885, Nguyễn Đình Đầu dịch, Nxb Tri Thức..

9DurhVGNBuY/VGWGglEhEnI/AAAAAAAAWBY/gqru1NvvGPE/s1600/Vietnam14.jp

9DurhVGNBuY/VGWGglEhEnI/AAAAAAAAWBY/gqru1NvvGPE/s1600/Vietnam18.jpg

2.Tài liệu Internet:

159

Tư liệu bảng đồ chứng minh chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa –

Trường Sa

www. nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2014/09/annamdaiquochoado.jpg)

www.tapchicongsan.org.vn/.../Nghi-quyet-ve-Chien-luoc-phat-trien-kinh-te-bien-

Viet-Nam.)