ö2
TRƯƠNG MINH HẰNG



CHÙA LÀNG PHÙ 'LÃNG- LAI LỊCH VÀ DẤU TÍCH CÒN LẠI
TRƯƠNG MINH HẰNGf)

ho đến đầu thế kỉ XX, làng Phù
Lãng, (nay thuộc xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) vẫn còn đủ bốn ngôi chùa. Các thôn Trung, thôn Hạ, mỗi thôn có một ngôi. Riêng thôn Thượng có hai ngôi. Một ngôi được xây dựng trên đỉnh núi Cáng nên gọi là chùa Cao!”, Một ngôi được xây dựng dưới chân núi nên gọi là chùa Thấp. Các ngôi chùa Phù Lãng hầu hết đã bị thời gian và chiến tranh làm hư hại. Chùa Hạ và chùa Thấp hiện không còn dấu tích gì. Còn chùa Cao và chùa Trung, theo lời truyền khẩu đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần. Lần sửa chữa cuối cùng, do chùa bị tàn phá nặng sau cuộc chiến tranh bắn phá miền Bắc nên hầu như phải khôi phục toàn bộ.
Khảo sát hiện trạng các ngôi chùa còn lại trên đất Phù Lãng, có thể thấy mỗi ngôi chùa xưa đều có một lai lịch khá độc đáo. Tuy nhiên, những dấu tích còn lại (từ những câu chuyện truyền ngôn, giai thoại... đến những di vật khảo cổ, văn bia.v.v... ) chưa đủ để phục dựng một cách chuẩn xác lịch sử, diện mạo những công trình kiến trúc tôn giáo này. Chính vì vậy, những ghi chép điền dã sau đây chỉ nhằm mục đích góp thêm tư liệu cho những nghiên cứu sâu rộng hơn về những vấn đề liên
f) Thạc sĩ, Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian.
quan tới lịch sử, văn hoá và mỹ thuật làng Phù Lãng.
1. Chùa Cao, tên chữ Vĩnh Phúc Tự
'Ở Phù Lãng hiện có hai ý kiến về xuất xứ của ngôi chùa này. Một ý kiến cho rằng chùa Cao có từ thế kỉ 17, 18 thời Hậu Lê, do một vị vua xuất gia xây làm nơi tu hành. Ý kiến thứ hai cho rằng, đây là ngôi chùa do các bà cung phì xây.
Dù khác nhau, hai ý kiến này đều thống nhất ở một điểm: Chùa Cao không phải do làng Phù Lãng xây, mặc dù hiện nay chùa Cao nằm trên địa phận thôn Phù Lãng Thượng.
Không rõ, khởi thuỷ chùa Cao "có đến một trăm gian" như lời truyền kể trong dân gian quanh vùng hay không, nhưng căn cứ vào mặt bằng cảnh quan chùa và nền móng kiến tạo, đối chiếu với trí nhớ của các cụ cao tuổi trong làng, có thể phác thảo diện mạo chùa Cao từ lần trùng tu đầu tiên (vào cuối thế kỉ XIX đã bị thu hẹp nhiều) cho đến năm 1951, có kết cấu kiến trúc như sau:
Từ cổng chùa bước vào, qua gác chuông và một sân rộng, tới chùa chính. Mặt chùa quay về hướng Đông. Chính chùa năm gian, có hậu cung thờ nhô ra ở phía sau. Một cụ già còn nhớ: "Phật điện chùa Cao có nhiều tượng, toàn những tượng pho cao lón, ngất ngưởng". Nằm vuông góc với chùa chính là dãy hành lang dài, phía sau hành lang là nhà tổ, nối với nhà khách, nhà tràng, nhà bếp. v.v... Bao bọc xung quanh chùa là vườn và các ngọn bảo tháp. Một cụ trong ban viết sử xã cho biết: Vườn chùa xưa có hai đãy thông lớn, thân to hai người ôm, một cây sung và một cây đa cổ thụ. Ngoài ra, chùa còn một vườn chè tươi, một vườn khế, NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI



xung quanh cây cối um tùm như rừng. Trong số 30 bảo tháp có năm ngọn lớn được xây bằng đá xanh, còn lại được xây bằng gạch.
Từ hậu cung chùa chĩa ra hai phía là hai gò lớn. Bên phải là gò đảo, bên trái là gò thiêu, cũng là nơi cho các nhà sư chạy đàn. Trước chùa còn có một dãy nhà dùng để chứa kinh phật (nhà chùa nuôi một nhóm thợ chuyên để in kinh), và một gian thờ những người đóng góp hưng công tu sửa chùa. Trước kia, Pháp đã hai lần đến đóng quân tại chùa. Năm 1951, sau khi ngôi chùa bị bom đạn, pháo kích biến thành một đống gạch vụn, ở vườn chùa Cao vân còn hai pho tượng Hộ pháp rất to, đẹp (được đắp bằng vôi, giấy bản, mật mía). Rồi nắng mưa, thời gian và sự quên lãng của con người đã phá huỷ nốt hai pho tượng này.
Trước đây, hội chùa Cao mở vào ngày mồng tám tháng giêng. Đây là hội chùa lớn nhất trong các vùng lân cận. Các thôn nữ làng Lãng (tên nôm của làng Phù Lãng) được cử lên gánh nước cho nhà chùa từ ngày mồng bốn đến hết ngày mồng bảy mới đủ nước cho hội.
Về các vấn đề như chủ nhân ngôi chùa, diện mạo ban đầu của chùa, đến nay chưa có đủ cứ liệu để kết luận. Còn ý kiến cho rằng chùa Cao không phải (và không thể) do người làng Phù Lãng xây mà do triều đình phong kiến (vua, quan hoặc các bà cung phi) dựng thì có khá nhiều cơ sở để khẳng định. Nhiều tư liệu địa phương (như hương ước, phả hệ, số sưu dịch...) cho biết, Phù Lãng vốn là một vùng đất rộng, người thưa. Cho đến đầu thời Nguyễn, cả thôn Thượng cũng chỉ có vài ba chục hộ gia đình. Bởi vậy, cho dù đây là một làng
giàu có, dù đã huy động sức dân toàn xã và các làng lân cận, làng vẫn không đủ tiền để xây dựng một ngôi chùa như vậy. Và lại, với độ dốc cao gần 100m từ chân lên đỉnh núi là nền chùa Cao, chỉ riêng sức dân địa phương không thể di chuyển một khối lượng vật liệu lón đến như vậy (trong đó ngoài gạch ngói, vôi vữa, còn có những phiến đá rộng bằng một chiếc chiếu đôi để khắc bia và xây mộ tháp).
Hiện tại chùa Cao còn dấu tích một tháp đá chạm nổi chữ "Báo Ấn tháp", một bia đá màu gan gà, chữ đã mờ hết chỉ còn đọc được mấy dòng "ngày chín, tháng tắm, năm Vĩnh Hựu thứ tư" (17388), hai tảng đá kê chân cột có kích thước 50 x 50 em, và một bia bằng đá xanh khắc chữ chìm, còn đọc được những dòng sau:
“Thừa hiệu giám...
Thị nhưng thư bý Tĩnh An nam Trần
Vị
Bản quán thừa ty doanh đẳng Phật tử Pháp bảo Hoà thượng Chân Tường
Thừa tự tủ chánh đội trưởng Thạch
Trung hầu
Thái bú chức...
Chánh đội trưởng Năng An hầu
Trần Quang Tôn Chánh đội trưởng Kiên Trung hầu Trần Văn Sầm Chánh đội trưởng Đương Lộc hầu Trần Văn Chiến Trung Nghĩa bá Nguyễn Trung _ Lương... Ki
Căn cứ vào tấm bia này, một số nhà sử học cho rằng việc khởi dựng chùa Cao chắc chắn phải huy động một lực lượng lớn quân sĩ của triều đình. Các ông chánh đội trưởng trông nom việc ¿4
TRƯƠNG MINH HẰNG
——=ễễễễễ=ễễ—————ễEễŸễEŸEŸEŸEŸEŸEEEEEEEEEEEEE=———————————————
xây cất đều có tước hiệu quý tộc. Một chi tiết nữa, thông qua tấm bia đá màu gan gà có niên đại 1738 (đã dân ở trên) có thể khăng định niên đại khởi dựng chùa Cao, như lời truyền khẩu trong đân gian Phù Lãng là vào khoảng thế kỉ 17, 18 là đúng. Đây cũng là thời kì được các nhà nghiên cứu mĩ thuật ghi nhận: do tình hình chính trị, xã hội có nhiều biến động (thế kỉ 17, 18 còn được các nhà viết sử mệnh danh là "Hai thế kỉ rực rỡ Lê - Trịnh - Nguyễn", số lượng các chùa làng được các nhân vật trong hoàng cung bỏ tiền ra xây cất chiếm tỉ lệ rất cao'°. Điều này càng cho thấy chùa Cao mang một tầm cõ vượt xa các ngôi chùa làng thời đó.
Thời kì chùa Cao phồn thịnh, các tăng ni, phật tử thập phương qua lại đây rất đông. Nhà chùa phải xây thêm một am nhỏ dưới chân núi. Đó là tiền thân của ngôi chùa Thấp (nằm ở vị trí nhà mâu giáo xã hiện nay). Người Phù Lãng cho biết, chùa Thấp là nơi dành cho các ni ở (các tăng ở trên chùa Cao). Chùa Thấp đã bị phá huỷ thời tiêu thổ kháng chiến, 1948. (Kiểu kết cấu kiến trúc: chùa Cao (xây trên đỉnh núi) và chùa Thấp (xây dưới chân núi, còn gọi là am) là một trong những kết cấu thường gặp của Phật giáo Mật Tông).
Cho đến năm 1994, sau nhiều lần huy động, dân trong thôn Phù Lãng Thượng đã công đóng, gạo góp dựng lại trên nền móng cũ một ngôi chùa mới. Do kinh phí của dân còn hạn hẹp nên chùa Cao ngày nay từ kiến trúc đến điêu khắc trang trí và quy hoạch tổng thể đều rất sơ sài.
2. Chùa Trung, tên chữ Phúc Long Tự
Theo vị hoà thượng hiện đang trụ trì tại đây, chùa này được xây dựng
cùng thời với chùa Cao. Ban đầu chùa Trung chỉ là một am nhỏ không có người ở. Vào tuần, rằm hằng tháng, các sư trên núi chùa Cao xuống thắp hương, tụng kinh rồi ra về. Chùa Trung có một lai lịch liên quan khá chặt chẽ với chùa Cao. Nguyên do như sau: sư tổ đầu tiên của chùa Phúc Long là Mã Minh. Ông vốn là đồ đệ của vị sư tổ của chùa Cao. Được thầy cho ăn học, ông đã từng vào kinh dự thi. Sau khi thi đỗ, ông không ra làm quan mà xin với sư phụ cho ra ở chùa Trung (khi ấy còn là một am nhỏ) để tiếp tục tu thân, lập nghiệp.
Việc sư tổ Mã Minh bỏ ra chùa Trung lập nghiệp có một gia1 thoại hiện còn được truyền kể trong dân Phù Lãng như sau: Khi sư Mã Minh thi đỗ về chùa, thầy ông (sư tổ chùa Cao) hỏi: "Khi ứng tên vào thi con ghi tên al1?". Mã Minh đáp: "Ghi tên con". Thầy có vẻ không bằng lòng và không muốn tiếp nhận nữa. Sư Mã Minh bỏ chùa Cao xuống núi. Dân làng Trung bèn đón ông về chùa Phúc Long. Chùa này bắt đầu hưng thịnh từ đó.
Ông tổ Mã Minh bắt đầu tu sửa chùa rồi khai trường, thuyết pháp. Hằng năm, từ rằm tháng ba âm lịch, các tăng ni từ Hải Phòng, Quảng Yên, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Nam Định, Thanh Hoá. v.v... về đây tu học rất đông, mang theo gạo, tiền, có năm tới 50, 60 người. Họ gọi đây là "khoá Hạ".
Chùa Phúc Long dần trở thành một trung tâm đào tạo Phật giáo ở miền Bắc nước ta. Ngày mồng hai tháng năm âm lịch hằng năm là ngày giỗ tổ chùa. Dân quanh vùng quen gọi đây là ngày giỗ "sư quan" (do việc sư tổ Mã Minh là người đã từng đỗ đạt) hay "giỗ đưa". Họ giải thích về ngày "giỗ đưa" như sau: sư tổ chùa Trung vốn là người ưa sống NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
J5


thanh bạch. Khi sắp tịch, ông trăng trối rằng, vào ngày giỗ, chỉ cần làng cúng ông một đĩa xôi và một quả dưa đó là đủ (ông mất vào mùa dưa hấu, tháng năm âm lịch).
Có một điều rất lạ là từ khi chùa Trung - Phúc Long Tự hưng thịnh thì chùa Cao bắt đầu sa sút, nhất là từ sau khi vị sư tổ cuối cùng của chùa tịch thì các đồ đệ dần bỏ chùa đi nơi khác.
Còn chùa Trung, ngoài khoá Hạ kéo dài bốn tháng, vào các ngày tuần, rằm và hội chùa, Phật tử, tăng ni từ các nơi tụ về rất đông. Được nhiều nơi đóng góp, nhà chùa có kinh phí để tu sửa, tôn tạo chùa cũ, biến chùa Trung thành một chốn thiền sầm uất.
Sư tổ cuối cùng của chùa Trung là hoà thượng Thanh Trúc. Ông tiếp tục sự nghiệp của các vị tiền sư (và cả việc dạy chữ cho học trò làng). Một cụ, xưa đã từng theo học "Tam tự kinh" trong chùa cho biết, chùa có rất nhiều ván 1n kinh Phật bằng gỗ.
Cho tới năm 1948, khi cụ Thanh Trúc mất thì việc tu học của các tăng ni ở chùa này cũng chấm dứt. Cũng từ đó chùa Trung bị bỏ vắng rồi bị chiến tranh tàn phá. Mãi đến năm 1989 dân làng Trung mới tìm và mời được một đồ đệ của sư tổ Thanh Trúc về trông nom chùa. Ông cùng dân làng hưng công góp sức khôi phục chùa xưa. Năm 1995, chùa được đại tu theo mặt bằng kiến trúc cũ.
Chùa Phúc Long nằm ở đầu thôn Phù Lãng Trung, đối diện với đền thờ Hồ Chí Minh (mới khánh thành năm 1997). Chùa được xây dựng trên một khu đất cao, thoáng, xung quanh là ao hồ, bãi có. Vào mùa mưa, toàn bộ sân chùa và khu phụ bị ngập nước. Trông xa, chùa Trung giống như một đảo nhỏ.
Chùa có kết cấu mặt bằng kiểu chữ công ( ). Chính chùa ba gian, có hậu cung thờ nhô ra ở phía sau. Gác chuông chùa nằm nối tiếp giữa hậu cung và nhà tổ. Đây là một lối kết cấu độc đáo. Hiếm thấy chùa nào đặt gác chuông ở vị trí như vậy. Nhà ngang được xây vuông góc và nối tiếp tới nhà tổ. Sau nhà tổ là sân chùa.
Xét trên mặt bằng tổng thể, ngay cả thời kì phồn thịnh nhất, chùa Trung cũng không có được lối quy hoạch bề thế và kiểu kiến trúc, điêu khắc hoành tráng như chùa Cao. Nhưng vị hoà thượng trụ trì chùa Trung cho biết chùa này trước đây có nhiều tượng đẹp, đặc biệt phải kể tới ba pho tượng tổ.
Xét về vị trí đặt để, chùa Trung được coi là nơi "đắc địa" bởi nó nằm ở ngay đầu làng, sát đường cái, thuận tiện cho giao lưu Phật giáo và các khoá tu nghiệp của tăng ni, Phật tử thập phương.
Tục ngữ có câu: "Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài". Xứ Bắc, từ thời Lý (thế ký XI - XII) đã nổi tiếng là nơi có nhiều ngôi chùa đẹp và mật độ chùa am, bảo tháp nơi đây rất đậm đặc. Chùa làng Phù Lãng, từ ngôi chùa có "tầm cỡ" quốc gia như chùa Cao, đến ngôi chùa có vóc dáng khiêm nhường như chùa Hạ, chùa Thấp đều mang một vẻ đẹp u tịch cổ kính. Sự hiện diện của chúng luôn là một dấu ấn đậm trong đời sống văn hoá, đời sống tâm linh Phù Lãng.
T1.M.H
(1) Từ khi có chùa, núi này được gọi là núi chùa Cao
(2) Những đoạn ... là những chỗ bị mờ, không đọc được
(3), (4) Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1978), Mĩ thuật của người Việt, Nxb Mỹ Thuật, tr164 - 16G.