intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuyên đề: Hiện trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ các làng nghề ở Việt Nam

Chia sẻ: Tran Thu Thuy | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:32

223
lượt xem
37
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chuyên đề: Hiện trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ các làng nghề ở Việt Nam với mục tiêu mô tả thực trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ làng nghề ở Việt Nam; một số giải pháp nhằm giảm tác động gây ô nhiễm nguồn nước xung quanh các làng nghề. Cùng tìm hiểu để nắm bắt nội dung thông tin tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuyên đề: Hiện trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ các làng nghề ở Việt Nam

  1. Mục lục SV: trần thu thủy                                                     1
  2. DANH MỤC VIẾT TẮT BOD5 :      Nhu cầu oxy sinh hóa COD:      Nhu cầu oxy hóa học SS:      Chất rắn lơ lửng CBNSTP:     Chế biến nông sản thực phẩm N, P :                 Nitơ, Photpho Pb, Zn, Fe:           Chì, Kẽm, Sắt TCCP:      Tiêu chuẩn cho phép TCVN:                 Tiêu chuẩn Việt Nam                    BTNMT :             Bộ tài nguyên môi trường SV: trần thu thủy                                                     2
  3. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Biểu   đồ  Phân bố các làng nghề theo vùng miền 1.2.2 Bảng  Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề 1.2.3 Bảng  Các dạng chất thải trong nước theo loại hình sản xuất 1.3 Bảng  Đặc trưng nước thải tại các làng nghề CBNSTP 3.1.1 Bảng  Tổng lượng nước thải và bã thải từ sản xuất tinh bột 3.1.2 Bảng  Phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề tái chế kim loại 3.2 Bảng  Phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề ươm tơ 3.3 Bảng  Chất lượng nước thải sản xuất của làng nghề sơn mài Hạ Thái­Hà  3.4.1 Tây và Tương Bình Hiệp, Bình Dương Bảng  Kết quả phân tích nước mặt tại thôn An Hoà 3.4.2 SV: trần thu thủy                                                     3
  4. ĐẶT VẤN ĐỀ Việc phát triển làng nghề là một phần của công cuộc công nghiệp hoá ­ hiện   đại hoá nông nghiệp và nông thôn trong những năm đầu của thế  kỷ  21. Phát triển  mạnh những ngành nghề truyền thống, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có giá  trị kinh tế cao, sử dụng được nhiều lao động địa phương là lợi thế của kinh tế làng   nghề. Đời sống nông dân ở  nhiều vùng nông thôn trong cả  nước đã khá lên từ  sản  xuất nông nghiệp đồng thời với việc khôi phục và phát triển các làng nghề. Nhiều   làng nghề đã nêu được bài học về làm giàu ở nông thôn. Tuy nhiên chính những nơi   này đã và đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường mỗi, đặc biệt tình   trạng ô nhiễm nguồn nước mặt xung quanh các làng nghề  đang ngày càng trở  nên  trầm trọng. Nguồn nước ô nhiễm cũng chính là nguồn nước phục vụ  cho nhu cầu   sản xuất và sinh hoạt của người dân trong làng, tạo ra một vòng xoắn luẩn quẩn   mà không chỉ có nguồn nước gánh chịu hậu quả, mà chính người dân đang đánh mất  sức khỏe của chính mình. Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước chính là từ  các tính chất đặc thù của   làng nghề như: quy mô nhỏ, công nghệ thủ công lạc hậu, phát triển không đồng bộ,  chủ yếu chịu sự chi phối của các thị trường kém ổn định, chạy đua theo lợi nhuận,   không nhiều kinh phí để đầu tư cho công tác xử lí nước thải thì việc xả  nước thải   ra nguồn nước tự nhiên mang lại hiệu quả kinh tế. Và một thực tế  nữa là do hiểu   biết của chính những người dân  ở  các làng nghề  về  tác động của hoạt động sản  xuất đến sức khoẻ bản thân và những người xung quanh còn hạn chế. Nhận thức được vấn đề  trên em xin thực hiện chuyên đề: “ hiện trạng ô nhiễm   nguồn nước mặt do nước thải từ các làng nghề ở Việt Nam” với mục tiêu: 1. Mô tả  thực trạng ô nhiễm nguồn nước mặt do nước thải từ  làng nghề   ở  Việt Nam. SV: trần thu thủy                                                     4
  5. 2. Một số giải pháp nhằm giảm tác động gây ô nhiễm nguồn nước xung quanh   các làng nghề. Chương 1 TỔNG QUAN 1. Nước và ô nhiễm nước 1.1.1. Khái niệm nguồn nước mặt             Tài nguyên nước mặt: Là nước phân bố  trên mặt đất, nước trong các đại   dương, sông, suối, ao hồ, đầm lầy. Đặc điểm của tài nguyên nước mặt là chịu ảnh  hưởng lớn từ điều kiện khí hậu và các tác động khác do hoạt động kinh tế của con   người; nước mặt dễ bị ô nhiễm và thành phần hóa lý của nước thường bị thay đổi;   khả  năng hồi phục trữ  lượng của nước nhanh nhất  ở  vùng thường có mưa. Tổng  lượng dòng chảy sông ngòi trung bình hàng năm của nước ta bằng khoảng 847 km3,  trong đó tổng lượng ngoài vùng chảy vào là 507 km3 chiếm 60% và dòng chảy nội  địa là 340 km3, chiếm 40%. Nếu xét chung cho cả  nước, thì tài nguyên nước mặt  của nước ta tương đối phong phú, chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy của các   sông trên thế giới, trong khi đó diện tích đất liền nước ta chỉ chiếm khoảng 1,35%   của thế  giới. Tuy nhiên, một đặc điểm quan trọng của tài nguyên nước mặt là  những biến đổi mạnh mẽ  theo thời gian (dao  động giữa các năm và phân phối   không đều trong năm) và còn phân bố rất không đều giữa các hệ thống sông và các   vùng. Tổng lượng dòng chảy năm của sông Mê Kông bằng khoảng 500 km3, chiếm  tới 59% tổng lượng dòng chảy năm của các sông trong cả  nước, sau đó đến hệ  thống sông Hồng 126,5 km3 (14,9%), hệ  thống sông Đồng Nai 36,3 km3 (4,3%),  SV: trần thu thủy                                                     5
  6. sông Mã, Cả, Thu Bồn có tổng lượng dòng chảy xấp xỉ nhau, khoảng trên dưới 20  km3 (2,3 ­ 2,6%), các hệ  thống sông Kỳ  Cùng, Thái Bình và sông Ba cũng xấp xỉ  nhau, khoảng 9 km3 (1%), các sông còn lại là 94,5 km3 (11,1%). Một đặc điểm  quan  trọng  nữa   của   tài   nguyên  nước   sông  của   nước   ta   là   phần  lớn   nước   sông   (khoảng 60%) lại được hình thành trên phần lưu vực nằm  ở nước ngoài, trong đó  hệ thống sông Mê Kông chiếm nhiều nhất (447 km3, 88%). Nếu chỉ xét thành phần  lượng nước sông được hình thành trong lãnh thổ  nước ta, thì hệ  thống sông Hồng   có tổng lượng dòng chảy lớn nhất (81,3 km3) chiếm 23,9%, sau đó đến hệ  thống  sông Mê Kông (53 km3, 15,6%), hệ thống sông Đồng Nai (32,8 km3, 9,6%).  1.1.2. Khái niệm ô nhiễm nước            Mỗi mục đích sử dụng cần có tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá riêng về  mức độ phù hợp cho nhu cầu sử dụng. Để xem xét liệu nguồn nước có đạt yêu cầu  sử  dụng cho từng mục đích hay không ta cần so sánh với tiêu  chuẩn chất lượng  nước do các tổ chức chuyên môn quốc tế hoặc do nhà nước qui định. Trong các tiêu  chuẩn chất lượng nước người ta chọn lọc mét sè thông số  lí, hóa, sinh đặc trưng.  Mỗi một thông số được qui định một giá trị  tối đa cho phepsao cho có mặt của các   tác nhân đó trong nguồn nước  ở  nồng độ  không gây  ảnh hưởng tới sức khỏe con   người, sự phát riển của tôm cá, hoặc sự phát triển của cây trồng.            Cùng với sụ  phát triỉen của loài người, con người đã và đang làm cho môi   trường nước bị  ô nhiễm.Ô nhiễm môi trường nước được chia thành hai dạng: tự  nhiên và nhân tạo và được định nghĩa như  là sù thay đổi chất lượng nước làm cho  nước độc hại và không sử dụng được. Theo luật Tài nguyên nước của nước  CỘNG  HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM thì ô nhiễm nguồn nước là sự thay đổi tính  chất vật lý. Hóa học và thành phần sinh học của nước vi phạm tiêu chuẩn cho phép.            Sự ô nhiễm nước là sự  có mặt của nhiều hay mét chất lạ  trong môi trưòng   nước dù chất đó có độc hại hay không bới vì khi vượt quá ngưỡng chịu đựng của   sinh vật thì chất đó sẽ trở nên độc hại. SV: trần thu thủy                                                     6
  7.             Ô nhiễm nước tự  nhiên do các yếu tố  tự  nhiên( núi lửa, bão, lũ lụt) có thể  nghiêm trọng nhưng không thường xuyên và không phải là nguyên nhân chính gây  suy thoái chất lượng nước toàn cầu.             Ô nhiễm nhân tạo là nguyên nhân quan trọng và phổ  biến nhất được phân  thành các loại: Ô nhiễm chất hữu cơ: đó là sự có mặt của các chất tiêu thụ ôxy trong nước.  Các chỉ tiêu để đánh giá ô nhiễm chất hữu cơ là: DO, BOD, COD Ô nhiễm các chất vô cơ: là có nhiều chất vô cơ gây ô nhiễm nước, tuy nhiên  có một số nhóm điển hình như: các loại phân bón chất vô cơ (là các hợp chất  vô cơ  mà thành phần chủ  yếu là cacbon, hydro và oxy, ngoài ra chúng còn  chứa các nguyên tố  như  N, P, K cùng các nguyên tố  vi lượng khác), các  khoáng axit, cặn, các nguyên tố vết. Ô nhiễm các chất phú dưỡng: phú dưỡng là sự  gia tăng hàm lượng Nito,  Photpho trong nước nhập vào các thuỷ  vực dẫn đến sự  tăng trưởng của các   thực vật bậc thấp (rong, tảo,…). Nó tạo ra những biến đổi lớn trong hệ sinh   thái nước, làm giảm oxy trong nước. Do đó làm chất lượng nước bị suy giảm   và ô nhiễm. Ô nhiễm do kim loại nặng và các hoá chất khác: thường gặp trong các thuỷ  vực gần khu công nghiệp, khu vực khai khoáng, các thành phố lớn. Ô nhiễm  kim loại nặng và các chất nguy hại khác có tác động rất trầm trọng tới hoạt   động sống của con người và sinh vật. Chúng chậm phân huỷ  và sẽ  tích luỹ  theo chuỗi thức ăn vào cơ thể động vật và con người. Ô nhiễm vi sinh vật: thường gặp  ở các thuỷ  vực nhận nước thải sinh hoạt,   đặc biệt là nước thải bệnh viện. Các loại vi khuẩn, ký sinh trùng, sinh vật  gây bệnh sẽ theo nguồn nước lan truyền bệnh cho người và động vật. Ô nhiễm nguồn nước mặt bởi dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón  hoá học: trong quá trình sử  dụng, một lượng lớn thuốc bảo vệ  thực vật và  phân bón hóa học bị  đẩy vào vực nước ruộng, ao, hồ, đầm,… Chúng sẽ  lan  SV: trần thu thủy                                                     7
  8. truyền và tích luỹ trong môi trường đất, nước và các sản phẩm nông nghiệp  thâm nhập vào cơ thể người và động vật theo chuỗi thức ăn. 1.2. Một số đặc điểm sự phát triển làng nghề tại Việt Nam 1.2.1. Các làng nghề chính ở Việt Nam         ­   Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm và chăn nuôi: có số lượng  lớn,chiếm 20% tổng số làng nghề, phân bố khá đều trên cả nước, phần nhiều sử  dụng lao động lúc nông nhàn, không yêu cầu trình độ cao, hình thức sản xuất thủ  công và gần như ít thay đổi về quy trình sản xuất so với thời điểm khi hình thành  nghề. Phần lớn các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm nước ta là các làng  nghề thủ công truyền thống nổi tiếng như nấu ruợu, làm bánh đa, đậu phụ, miến  dong, bún…          ­   Làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: nhiều làng có từ lâu đời, có các  sản phẩm mang tính lịch sử, văn hoá, mang đậm nét địa phương. Những sản phẩm  như lụa tơ tằm, thổ cẩm, dệt may không chỉ là những sản phẩm có giá trị mà còn là  những tác phẩm nghệ thuật đuợc đánh giá cao. Quy trình sản xuất không thay đổi  nhiều, với nhiều lao động có tay nghề cao. Tại các làng nghề nhóm này, lao động  nghề thường là lao động chính.         ­   Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: hình thành từ hàng  trăm năm nay, tập trung ở những vùng có khả năng cung cấp nguyên liệu cơ bản  cho hoạt động xây dựng. lao động gần như thủ công hoàn toàn, quy trình công nghệ  thô sơ, tỷ lệ cơ khí hoá thấp, ít thay đổi.        ­  Làng nghề tái chế phế liệu: chủ yếu là các làng nghề mới hình thành, số  lượng ít nhưng lại phát triển nhanh về quy mô và loại hình tái chế (chất thải, kim  loại, giấy, nhựa, vải đã qua sử dụng. Đa số các làng nghề tái chế nằm ở phía Bắc,  công nghệ sản xuất được cơ khí hoá một phần.       ­  Làng nghề thủ công mỹ nghệ: bao gồm các làng nghề gốm, sành sứ, thuỷ tinh  mỹ nghệ, sơn mài, làm nón, dệt chiếu, thêu ren. Đây là nhóm làng nghề chiếm tỷ  trọng lớn về số lượng (gần 40% tồng số làng nghề), có truyền thống lâu đời, sản  SV: trần thu thủy                                                     8
  9. phẩm có giá trị cao, mang đậm nét văn hoá, và đặc điểm địa phương, dân tộc. Quy  trình sản xuất gần như không thay đổi, lao động thủ công, nhưng đòi hỏi tay nghề  cao, chuyên môn hoá, tỉ mỉ và sáng tạo.       ­  Các nhóm ngành khác: bao gồm các làng nghề chế tạo nông cụ thô sơ như cày  bừa, cuốc xẻng, mộc gia dụng, đóng thuyền, làm quạt giấy, dây thừng, đan vó, đan  lưới… Những làng nghề nhóm này xuất hiện từ lâu, sản phẩm phục vụ trực tiếp  cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của địa phương. Lao động phần lớn là thủ công  với số lượng và chất lượng ổn định. 1.2.2. Phân bố làng nghề trên cả nước             Với các chỉ tiêu đã đề ra, cho nay, Việt Nam có khoảng 2017 làng nghề, thuộc   11 nhóm ngành nghề khác nhau, trong đó gồm 1,4 triệu hộ tham gia sản xuất (cả hộ  kiêm), thu hút hơn 11 triệu lao động. Nhiều tỉnh có số lượng các làng nghề lớn như  Hà Tây (cũ) với 280 làng nghề, Bắc Ninh (187), Hải Dương (65), Hưng Yên (48)…  với hàng trăm ngành nghề khác nhau, phương thức sản xuất đa dạng. Tuy nhiên, sự  phân bố  và phát triển các làng nghề  lại không đồng đều trong cả  nước. Các làng  nghề   ở  miền Bắc phát triển hơn  ở  miền Trung và miền Nam, chiếm gần 70% số  lượng các làng nghề trong cả nước (1594 làng nghề), trong đó tập trung nhiều nhất  và mạnh nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng. Miền Trung có khoảng 111 làng nghề,  còn lại ở miền Nam hơn 300 làng nghề [Hiệp Hội làng nghề Việt Nam, 2009]. Biểu đồ 1.2.2 : phân bố các làng nghề theo vùng miền 1.2.3. Đặc điểm của làng nghề làm gia tăng ô nhiễm môi trường - Quy mô sản xuất nhỏ, phần lớn ở quy mô hộ gia đình (chiếm 72% cơ sở sản   xuất) SV: trần thu thủy                                                     9
  10. - Nếp sống tiểu nông của người chủ sản xuất nhỏ có nguồn gốc nông dân đã   ảnh hưởng mạnh đến sản xuất tại làng nghề, làm tăng mức độ ô nhiễm môi  trường. - Quan hệ sản xuất mang đặc thù của quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xã. - Công nghệ sản xuất và thiết bị phần lớn ở trình độ lạc hậu, chắp vá. - Vốn đầu tư của các cơ sở sản xuất tại các làng nghề thấp, khó có điều kiện   phát triển và đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường. - Trình độ lao động chủ yếu là lao động thủ công, học nghề, văn hoá thấp nên  hạn chế nhận thức đối với công tác bảo vệ môi trường.  Phần lớn kỹ thuật ­  công nghệ của làng nghề còn lạc hậu, chủ yếu vẫn sử dụng các thiết bị thủ  công, bán cơ  khí hoặc đã đã được cải tiến một phần   không đảm bảo tiêu   chuẩn kỹ  thuật và điều kiện làm việc cho người lao động. Công nghệ  sản   xuất đơn giản (đôi khi còn lạc hậu) - Nhiều làng nghề chưa quan tâm đến xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho bảo vệ  môi trường. Bảng 1.2.3: Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề ĐVT: % Thủ  công mỹ  Chế  biến nông,  Các   ngành  Các ngành  Trình độ kỹ thuật nghệ   và   vật  lâm, thuỷ sản dịch vụ khác liệu xây dựng Thủ   công,   bán   cơ  61.51 70.69 43.90 59.44 khí Cơ khí 38.49 29.31 56.10 40.56 Tự động hoá 0 0 0 0                                                        (Nguồn: Đề tài KC 08 – 09, 2005) SV: trần thu thủy                                                     10
  11.          Thấy trình độ  kĩ thuât làng nghề  chủ  yếu là thủ  công, học nghề  chiếm 60­   70%, không có làng nghề  nào áp dụng tự  động hóa, dây truyền hiện đại, cơ  khí  chiếm khoảng 30­40% nhưng chủ  yếu kĩ thuật lạc hậu. Đây là một trong những   yếu tố gây nhiễm môi trường làng nghề.  1.3. Đặc điểm ô nhiễm môi trường trong các làng nghề. 1.3.1. Ô nhiễm môi trường làng nghề nói chung                  Các chất thải phát sinh từ  nhiều làng nghề  đã và đang làm suy thoá i  môi  trường nghiêm trọng, tác động trực tiếp đến sức khoẻ  người dân và ngày càng trở  thành vấn đền bức xúc. Ô nhiễm môi trường làng nghề có một số đặc điểm sau: Ô nhiễm môi trường làng nghề là dạng ô nhiễm phân tán trong phạm vi một khu   vực (nông thôn, làng, xã…). Do quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, đan xen với khu sinh  hoạt nên đây là loại hình ô nhiễm khó quy hoạch và kiểm soát. Ô nhiễm môi trường tại làng nghề  mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản  xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm và tác động trực tiếp đến môi trường  nước, đất, khí trong khu vực. Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề  thường khá cao tại khu vực sản xuất và   ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người lao động. 1.3.2. Ô nhiễm môi trường nước               Khối lượng và đặc trưng nước thải sản xuất ở  các làng nghề  phụ  thuộc   chủ  yếu vào công nghệ  và nguyên liệu dùng trong sản xuất. Chê biến lương thực,  thực phẩm, chăn nuôi, giết mổ  gia súc, gia cầm,  ươm tơ, dệt nhuộm… là những  ngành sản xuất có nhu cầu nước rất lớn và cũng xả  thải ra khối lượng lớn nước   thải với mức độ ô nhiễm hữu cơ cao đến rất cao. Ngược lại, một số ngành như  tái  chế, chế tác kim loại, đúc đồng, nhôm… nhu cầu nước không lớn nhưng nước thải  SV: trần thu thủy                                                     11
  12. bị ô nhiễm các chất rất độc hại như các hoá chất axit, muối kim loại, xyanua và các  kim loại nặng như Hd, Pb, Cr, Zn, Cu… - Các làng nghề  chế  biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ: khối   lượng nước thải sản xuất rất lớn với thải lượng các chất ô nhiễm hữu cơ cao - Các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: nước thải sản xuất có độ màu cao,  chứa nhiều hoá chất, độ muối cao. - Các làng nghề tái chế phế liệu: nước thải sản xuất chứa nhiều hoá chất độc hại - Các làng nghề thủ công mỹ nghệ: nước thải sản xuất của một số làng nghề sơn  mài và mây tre đan chứa nhiều loại hoá chất độc. - Các làng nghề thủ công mỹ nghệ: nước thải sản xuất của một số làng nghề sơn  mài và mây tre đan chứa nhiều loại hoá chất độc. Bảng 1.3: các dạng chất thải trong nước theo loại hình sản xuất Loại hình sản xuất Các dạng chất thải trong môi trường nước 1.   Chế   biến   lương   thực,  BOD,   COD,   chất   rắn   lơ   lửng,   tổng   N,   Tổng   P,   thực phẩm, chăn nuôi, giết  Coliform mổ 2.   Dệt   nhuộm,   ươm   tơ,  BOD, COD, độ  màu, Tổng N, hoá chất, thuốc tẩy,  thuộc da Cr6+ (thuộc da) 3. Thủ công mỹ nghệ, thêu  BOD,   COD,   chất   rắn   lơ   lửng,   độ   màu,   dẫu   mỡ  ren công nghiệp ­ Gốm sứ SV: trần thu thủy                                                     12
  13. ­   Sơn   mài,   gỗ   mỹ   nghệ,  chế tác đá. 4. Tái chế ­ Tái chế giấy ­ pH, BOD5, COD, tổng N, tổng P, độ màu ­ Tái chế kim loại ­ COD, dầu mỡ, CN­, kim loại ­  Tái chế nhựa ­ BOD, COD, tổng N, tổng P, dẫu mỡ, độ màu 5. Vật liệu xây dựng, khai  Chất rắn lơ lửng, Si, Cr thác đá                                      (trích nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008) 1.4. Ô nhiễm môi trường làng nghề tác động đến sức khoẻ cộng đồng      Ô nhiễm môi trường làng nghề làm gia tăng tỷ lệ người mắc bệnh đang lao  động và sinh sống tại chính làng nghề  đó. Tỷ  lệ  này đang có xu hướng tăng trong   những năm gần đây.              Theo các nghiên cứu của Viện BHLĐ, sức khỏe dân cư tại các làng nghề tái   sinh kim loại là có nhiều vấn đề  nhất. Kết quả  điều tra sức khỏe tại làng tái sinh   chì Đông Mai (Hưng Yên) cho Triệu chứng chủ quan về hô hấp (tức ngực, khó thở)   chiếm 65,6%, suy nhược thần kinh chiếm 71,8%, đa khớp mãn chiếm 46,9%, tỷ  lệ  hồng cầu giảm chiếm 19,4%, tỷ lệ HST giảm chiếm 44,8% (kết quả về tỷ lệ hồng   cầu và HST thông qua xét nghiệm máu và ALA niệu cho 32 đối tượng trong làng) và   5 trường hợp nhiễm độc chì (trong đó có 3 trẻ em). Tại làng nghề Văn Môn: Bệnh   đường hô hấp chiếm 64,4%, suy nhược thần kinh 54,5%, bệnh ngoài da 23,1%. Tại  làng nghề  Vân Mai, Bắc Ninh: Bệnh đường hô hấp chiếm 44,4%, bệnh da liễu   68,5%, bệnh đường ruột 58,8%. Trong một nghiên cứu của Viện BHLĐ năm 2005,  SV: trần thu thủy                                                     13
  14. điều tra về tình hình mắc bệnh trong vòng 2 tháng gần nhất, 17,73% đối tượng trả  lời rằng mình có bị   ốm trong thời gian đó. Trong số  mắc bệnh nhiều nhất là các   bệnh về  đường hô hấp (viêm họng: 30,56%, viêm phế  quản: 25%), sau đó là các  bệnh cơ  xương khớp (đau khớp xương: 15,28%, đau dây thần kinh: 9,72%), thấp   hơn là các bệnh về  mắt (11,11%), bệnh về  tiêu hóa, bệnh về  da, v.v. Theo những  người bị  bệnh, 50,8% cho rằng bệnh mà mình mắc có liên quan đến công việc,   33,3% khác cho là không liên quan đến công việc và 15,9% không biết là bệnh mà  mình mắc có liên quan đến công việc hay không.                         Tại các làng nghề  truyền thống, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, mặt bằng sản xuất chật chội và tổ chức  sản xuất thiếu khoa học. Điều kiện và môi trường lao động rất đáng lo ngại, NLĐ   thường xuyên phải tiếp xúc với bụi, nhiệt, hóa chất; nguy cơ  tai nạn lao động cao  và thiếu phương tiện bảo vệ cá nhân. Môi trường sống đang có nguy cơ bị ô nhiễm   do chất thải sản xuất không được xử  lý mà thải trực tiếp vào môi trường xung  quanh, gây ô nhiễm không khí, nước và đất. Sức khỏe NLĐ và dân cư  đang bị  đe  dọa do ô nhiễm môi trường[4]. Chương 3 HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC MẶT DO  NƯỚC THẢI TẠI LÀNG NGHỀ VIỆT NAM SV: trần thu thủy                                                     14
  15.             Hiện nay, tình trạng phổ biến của các hộ, cơ sở sản xuất nghề ở nông thôn   là sử dụng ngay diện tích ở làm nơi sản xuất. Khi quy mô sản xuất tăng lên hoặc sử  dụng thiết bị, hóa chất đã làm cho môi trường sống bị  ô nhiễm nặng nề, nhất là ở  các làng nghề tái chế phế liệu và chế biến thực phẩm. Cho đến nay, phần lớn nước   thải tại các làng nghề đều thải thẳng ra ngoài không qua bất kỳ khâu xử lý nào. Đây   chính là nguyên nhân khiến cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước tại các làng nghề  ngày càng tồi tệ hơn. 3.1. Ô nhiễm nguồn nước mặt tại làng nghề  chế  biến nông sản thực  phẩm          Vấn đề  ô nhiễm nước tại các làng nghề  chế  biến nông sản thực phẩm ngày   càng trầm trọng. Chế  biến nông sản thực phẩm là loại hình sản xuất có nhu cầu   lớn về sử dụng nước và đồng thời cũng thải ra một lượng nước không nhỏ. Nước   thải của các làng nghề này có đặc tính chung là rất giàu chất hữu cơ, dễ phân huỷ  sinh học. Tùy theo quy trình chế biến, nước thải chế biến nông sản thực phẩm có  BOD5 lên tới 2500 ­ 5000mg/l, COD 13300 ­ 20000mg/l (nước tách bột đen trong sản  xuất tinh bột sắn). Nước thải cống chung của các làng nghề  này đều vượt quy   chuẩn cho phép từ 5 ­ 32 lần[2]. Theo khảo sát thực trạng môi trường sản xuất thạch  dừa khô tại phường 7, tx Bến Tre, tỉnh Bến Tre của     . kêt qua phân tich cac thông ́ ̉ ́ ́   sô ô nhi ́ ễm đặc trưng nhất bao gồm pH, DO, COD, BOD 5, SS, NTông ̉ , PTông ̉ , Coliform  trong nươc thai cua cac c ́ ̉ ̉ ́ ơ sở san xuât thach d ̉ ́ ̣ ưa tai ph ̀ ̣ ương 7 so sánh v ̀ ới cột B của  QCVN 24:2009/BTNMT đều vượt qua tiêu chuẩn cho phép như chỉ số COD gấp 40­ 160 lần tiêu chuẩn, BOD gấp 40 lần, chỉ số SS, Nitơ, photpho, coliform gấp gần 10   lần tiêu chuẩn cho phép[6].          Theo “Đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường phục vụ phát triển bền vững   làng nghề chế biến thực phẩm Dương Liễu, huyện Hoài Đức, thành phố  Hà Nội ”  sản xuất tinh bột là nghề tạo ra một khối lượng thải rất lớn. Để tạo ra một tấn tinh   bột sắn thành phẩm cần 2 tấn sắn củ, đồng thời tạo ra 0,9 tấn bã, rác thải và 13 m3  nước thải. Tương tự  như  vậy với một tấn tinh bột dong thành phẩm cũng cần tới   SV: trần thu thủy                                                     15
  16. 3,3 tấn dong củ, đồng thời thải ra 2 tấn bã, rác thải và 41 m 3 nước. Lượng thải này  chiếm tới 88% rác thải và 96% tổng lượng nước thải trong sản xuất của toàn xã[5] Bảng 3.1.2. Tổng lượng nước thải và bã thải từ sản xuất tinh bột làng  nghề Dương Liễu. Tinh bột  Tinh bột dong sắn Năm Sản  Rác thải  Nước  Sản  Rác thải  Nước thải lượng rắn thải lượng rắn (m3) (tấn) (tấn) (m ) 3 (tấn) (tấn) 2005 60.000 54.000 780.000 17.000 34.000 697.000 2008 70.000 63.000 910.000 20.000 41.300 820.000 Toàn   b ộ   n ướ c   th ả i   t ừ   s ả n   xu ấ t   đượ c   th ả i   tr ự c   ti ế p   vào   hệ   thố ng  mươ ng n ướ c c ủ a xã   r ồ i ch ả y vào sông Nhu ệ , sông Đáy ,  hai nhánh sông lớn  nhất của toàn khu vực Hoài Đức hàng năm phải hứng chịu hàng triệu m 3  nước  thải với màu đen sẫm, mùi hôi chua nồng nặc, kèm theo đó hàm lượ ng huyền phù   vượt quá TCCP hàng chục lần, BOD, COD v ượt quá TCCP hàng chục, hàng trăm  lần. Nhất là hàm lượng vi khuẩn rất lớn, là nguyên nhân ủ  mầm bệnh cho chính  làng nghề và các vùng lân cận. Kết quả phân tích một số mẫu nước tại làng nghề  năm 2009 cho thấy tất cả các chỉ tiêu đều vượt quá TCCP, hàm lượng BOD, COD,  SS và coliform đều rất cao. Hàm lượng BOD và COD trong nước thải trước các hộ  sản xuất tinh bột sắn, dong, lọc tinh bột vượt quá TCCP từ  60 đến 113 lần; hàm   lượng SS gấp từ  2 đến 4 lần; N tổng, P tổng gấp từ  2 đến 5 lần; đặc biệt lượng   coliform vượt quá TCCP từ 50 đến 100, đến 180 lần.  Trong cuốn làng nghề Việt Nam và môi trường, GS.TS. Đặng Kim Chi cũng  đã cảnh báo: Các làng nghề chê biến nông sản thực phẩm, nhất là các làng nghê sản   SV: trần thu thủy                                                     16
  17. xuất tinh bột, nấu rượu, nuôi và giết mổ gia súc có độ  ô nhiễm rất cao. Định mức   nước thài cho 1 tấn sản phẩm là 60 ­ 100 m3, với tải trọng BOD5 ­ 380­400 kg/tấn  sản phẩm, COD = 600 ­ 650 kg/tấn sản phẩm. Kêt quả  khảo sát cũng cho thấy   100% làng nghề sản xuất chế biến nông sản thực phẩm thuộc loại ô nhiễm nặng.   Mức độ ô nhiễm nguồn nước thải CBNS được thể hiện qua bảng 3.1.1 Bảng 3.1.1: Đặc trưng nước thải tại các làng nghề CBNSTP Chỉ  Đơn vị Phú  Vũ  Quang  Thôn  Tân  Phong  Quang  TCVN tiêu Đô­ Hà  hội,  Minh,  Đoài, Độ,  Lộc  Bình,  5945­ Nội Thái  Kiến  Bắc  Hà  Nam  Kiến  1995 Bình Xươn Ninh Tây Định Xương (cột B) g,  T.Bình Nhiệt  ºC 27,7 26,3 27,5 26,5 ­ 25 27,5 40 độ PH ­ 6,1 7,09 5,3 3,7 ­ 4,7 5,1 5,5­9 SS mg/l 414 198 1434 2671 266 1206 1764 100 COD mg/l 2967 1880 1421 2993 3868 976 1080 100 BOD mg/l 1850 1040 1008 2003 1700 642 1271 50 N mg/l 20,9 27,5 27 121 1002 32 67 60 P mg/l 2,79 0,78 14 39 44,2 4,2 23 6 Coli MPN/100 ­ ­ 26.104 37.104 ­ 13. 104 21. 104 104 form ml                                     (Theo cuốn làng nghề Việt Nam và môi trường­ Đặng Kim   Chi) 3.2. Ô nhiễm nguồn nước mặt tại làng nghề tái chế  SV: trần thu thủy                                                     17
  18. Làng nghề  tái chế  phế  thải gồm: tái chế  giấy,  tái chế  kim loại,  tái chế  nhựa ..., là một ngành mới được hình thành tuy nhiên trong những năm qua đã phát   triển khá nhanh. Ở các làng này ô nhiễm môi trường nước diễn ra khá nghiêm trọng   do đặc điểm sử  dụng nhiều nước. Trong quá trình rửa sạch chất thải, nước thải   mang theo khá nhiều các tạp chất làm ô nhiễm môi trường.   Làng nghề làm giấy: Đối với các làng nghề làm giấy, ô nhiễm nguồn nước là  vấn đề cơ bản do nước thải từ các phân xưởng xeo giấy, nấu bột giấy không qua  xử lý mang theo một hàm lượng lớn các chất hữu cơ phân hủy từ nguyên liệu, các  hóa chất sử dụng như xút, lignin, nước javen, phèn kép, phẩm màu, nhựa thông...  Các kết quả khảo sát tại hai làng nghề Phong Khê và Phú Lâm (Bắc Ninh) cho thấy,  hàm lượng cặn lơ lửng vượt TCVN 5942­1995 từ 5­10 lần và BOD vượt 6­ 12 lần,  NH3 vượt 3­7 lần, ngoài ra các chỉ tiêu khác như pH, DO và coliform cũng vượt  TCCP [4] Kết quả nghiên cứu của TS.Đặng Kim Chi tại làng nghề tái chế giấy Dương  Ổ (Bắc Ninh) nước có hàm lượng COD là 630 ­ 1260 mg/l vượt quá tiêu chuẩn cho   phép từ 2 ­ 12 lần, ngoài ra hàm lượng Phenol rất cao (0.2 mg/l) vượt tiêu chuẩn cho   phép 10 lần.  Ở  làng nghề  tái chế  kim loại nước thải của quá trình tẩy rửa và mạ  kim loại chứa bụi kim loại, bụi silicat, rỉ  sắt, dầu mỡ, hoá chất axit, xút, các kim   loại như: Cr2+, Pb2+..., gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước.   Nước thải của các cơ  sở  mạ   ở  các làng nghề  hầu hết không được xử  lý và   thải thẳng ra mương thoát nước của làng gây ô nhiễm nặng nề  môi trường nước,   đất. Ví dụ   ở  làng nghề  Phùng Xá (Hà Tây), nồng độ  Crom, Fe, Mn, xyanua trong  nước thải cao hơn TCVN 5945­1995 từ 1,1 ­ 700 lần, nồng độ CN­ ở trong hai mẫu  nước giếng khơi của làng và nhà dân vượt TCVN 5944 ­1995 từ  3 ­ 6 lần. Nước  thải của quá trình tẩy dũa ở xã Quang Trung (Nam Định) hiện nay không được kiểm   soát chặt chẽ, các hộ thải bỏ không an toàn xuống mương làng gây chết hoa màu và   động vật dưới nước. Nồng độ  dầu mỡ, khoáng, sắt, Clo dư  trong nước thải cao   hơn TCVN 5945­1995. SV: trần thu thủy                                                     18
  19.  Làng nghề  tái chế  kim loại (nhôm, chì, đồng, kẽm):  Đây là loại hình làng  nghề  gây ô nhiễm môi trường và  ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng nhiều nhất  do công nghệ  lạc hậu và không có các giải pháp kiểm soát ô nhiễm Nước mặt và  đất tại các làng nghề  này cũng bị  ô nhiễm nặng, hàm lượng kim loại nặng (ví dụ  như chì) vượt TCCP nhiều lần, thậm chí còn xuất hiện hàm lượng xianua đáng kể,   làm cho các loài thủy sinh không thể  tồn tại trong nước ao hồ  tại làng Đồng Mai  (Hà Tây) và Văn Môn (Hưng Yên)[4]. Trên báo Thương mại số 35, 2003 có bài viết  “Xám xịt làng chì”   đã viết: Làng nghề  tái chế  Đông Mai có 200 hộ  tham gia sản  xuất, 25 lò nấu chì, tiêu thụ  16­18 tấn  ắcquy hỏng/ngày, thu 8­10 tấn chì, thải ra  500kg bụi chì và từ  7­8 vỏ  bình  ắcquy và axít H2SO4..Ao và nước giếng có hàm  lượng chì trung bình 0,77mg/l, vượt tiêu chuẩn cho phép 15 lần, đặc biệt ao đãi chì  và đổ  xỉ  hàm lượng 3,278mg/l, vượt tiêu chuẩn cho phép 65 lần. Trong bèo chứa  430,3mg chì/kg, rau muống 168,15mg chì/kg tại ao chứa nước thải pha  ắcquy. Gây  ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người dân: 100% người lao động nhiễm bụi chì, hàm  lượng chì trong nước  tiểu là 0,25­0,56mg/l (đối với người bình thường khoảng  0,06mg/l), hàm lượng chì trong máu người lao động là 135mg/l, 48 trẻ  em bị dị tật,  97 trẻ em bị  viêm phổi, thiếu máu, xanh xao, tỷ lệ người mắc bệnh thần kinh, bại   liệt não, lao phổi cao hơn các nơi khác từ 2­3 lần          Tái chế kim loại Đa Hội, Bắc Ninh tái chế nhôm chì Văn Môn sử dụng nhiều  than, củi, dầu FO DO làm lượng chất thải theo nguồn nước có nhiều tạp chất và  ion kim loại, riêng thép vượt TCCP tới 93 lần, Zn 4,7 lần, dầu mỡ 2,77 lần, Pb vượt   24 lần… Nước thải chảy vào mương đổ vào làm cho dòng sông trở nên đen kịt, đặc  quánh  [4]. Tại làng tái chế kim loại Đa Hội khi tái chế thép hoạt động ngày và đêm,  thải ra môi trường gần 3,5 tấn rác thải công nghiệp, chủ yếu là phế liệu loại, vẩy   sắt, vụn sắt, đất cát, bao bì, xỉ than… đổ  ra các ao hồ, bờ đê và mặt sông. Do công   việc tôi thép đòi hỏi nhiệt độ  cao, nên toàn bộ  lượng nước thải của Đa Hội  ước  tính bằng hàng ngàn m3/ngày đêm, có nhiệt độ  từ  40 – 500C, mang theo nhiều cặn  sắt,   thép   đồng,   man­gan   và   váng   dầu   mỡ   cũng   được   xả   trực   tiếp   ra   các   kênh  mương, cánh đồng, càng làm cho nhiều diện tích canh tác bị ô nhiễm nặng[3]. SV: trần thu thủy                                                     19
  20.  Dưới đây là kết quả phân tích môi trường nước mặt tại một số làng nghề tái   chế kim loại trong cuốn Làng nghề Việt Nam và môi trường (bảng 3.2) Bảng 3.2. phân tích môi trường nước mặt tại các làng nghề tái chế kim loại                          (Theo cuốn Làng nghề Việt Nam và môi trường­Đặng Kim   Chi) Từ bảng nhận thấy nguồn nước mặt tại các làng nghề tái chế kim loại đang  có dấu hiệu ô nhiễm, đặc biệt các kim loại nặng như  chì, kẽm là các kim loại có  tác hại lớn đến sức khỏe, từ  nguồn nước mặt các kim loại nặng sẽ  nhiễm vào   nước sinh hoạt và rau quả, cây trồng được tưới nguồn nước này.   Nước mặt tại  làng nghề  Xuân Tiến ­ Nam Định có hàm lượng Pb2+  lán gấp 2 lần TCCP, hàm  lượng Zn vượt TCCP 0,6 mg/l. 3.3. Ô nhiễm nguồn nước mặt tại làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ Ổ  nhiễm do nưốc thải là vấn đề  môi trường lớn nhất  đối với các làng nghề  dệt  nhuộm. Đây là ngành sử dụng nhiều nước, nhiêu hóa chất thuốc nhuộm, bên cạnh   đó các cơ sở thường nhỏ lẻ, sản xuất đan xen với nơi ở, nhận thức về bảo vệ môi  SV: trần thu thủy                                                     20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0