Chuyên đề thực tập: Thực trạng hoạt động đầu tư và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần Thiết bị Thực phẩm
lượt xem 90
download
Vận động theo cơ chế thị trường nghĩa là hoạt động của doanh nghiệp phải gắn liền với cơ chế thị trường, tuân thủ theo các quy luật kinh tế trong đó có quy luật cạnh tranh, mỗi doanh nghiệp phải thích nghi với thị trường, cạnh tranh gay gắt với nhau để tồn tại và phát triển, trong những cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào biết thích nghi với thị trường, tận dụng được mọi cơ hội, phát huy được khả năng của mình sẽ giành thắng lợi. Mời các bạn cùng tham khảo chuyên đề thực tập: Thực trạng hoạt động đầu tư và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần Thiết bị Thực phẩm để hiểu hơn về vấn đề này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chuyên đề thực tập: Thực trạng hoạt động đầu tư và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ phần Thiết bị Thực phẩm
- LỜI MỞ ĐẦU Nước ta đang trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Việc tham gia nền kinh tế thị trường đã đem lại nhiều cơ hội cũng như những thách thức lớn lao cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tại Việt Nam. Vận động theo cơ chế thị trường nghĩa là hoạt động của doanh nghiệp phảo gắn liền với cơ chế thị trường, tuân thủ theo các quy luật kinh tế trong đó có quy luật cạnh tranh. Mỗi doanh nghiệp phải thích nghi với thị trường, cạnh tranh gay gắt với nhau để tồn tại và phát triển. Trong những cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào biết thích nghi với thị trường, tận dụng được mọi cơ hội, phát huy được khả năng của mình sẽ giành thắng lợi. Ngược lại, những doanh nghiệp yếu thế không thích nghi được sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Bắt đầu từ ý tưởng này, sau một thời gian tìm hiểu và thực tập tại công ty Cổ Phần Thiết Bị Thực Phẩm, em quyết định chọn đề tài: “Thực trạng hoạt động đầu tư và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ Phần Thiết Bị Thực Phẩm.” cho đề tài chuyên đề tốt nghiệp. Công ty Cổ Phần Thiết Bị Thực Phẩm là một doanh nghiệp chuyên sản xuất bình chứa khí gas hóa lỏng, thiết bị phòng cháy chữa cháy, bình chứa bia inox. Qua gần 15 năm hoạt động và phát triển (từ năm 1995), công ty đã tìm cho mình một vị trí khá ổn định trên thị trường với các chi nhánh đặt tại cả 3 miền Bắc, Trung, Nam. Tuy nhiên, hiện nay công ty đang phải đương đầu với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ nhiều phía trên thị trường sản xuất vỏ bình chứa khí gas hóa lỏng. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp mới thành lập và các đối thủ cũ cùng sản xuất mặt hàng này đã làm cho hoạt động kinh doanh của công ty gặp nhiều khó khăn và quyết liệt. Để tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường công ty cần phải nghiên cứu tìm ra những biện pháp phù hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Có nâng cao khả năng 1
- cạnh tranh, công ty mới có thể chiến thắng được các đối thủ cạnh tranh, đứng vững trên thị trường cạnh tranh khốc liệt này. Do thời gian nghiên cứu và khả năng có hạn nên chuyên đề của tôi không tránh khỏi có những sai sót nhất định, rất mong sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn cô giáo Đinh Đào Ánh Thủy đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình lựa chọn và hoàn thiện đề tại này. Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể cán bộ trong công ty Cổ Phần Thiết Bị Thực Phẩm nói chung và các cô chú, anh chị trong phòng kế toán và phòng kinh doanh nói riêng đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại đơn vị. Kết cấu chuyên đề thực tập gồm 2 chương: Chương I: Thực trạng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ Phần Thiết Bị Thực Phẩm. Chương II: Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động đầu tư tại công ty Cổ Phần Thiết Bị Thực Phẩm. 2
- CHƯƠNG I THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ THỰC PHẨM 1. Khái quát về khả năng cạnh tranh của công ty Cổ Phần Thiết Bị Thực Phẩm. 1.1 Giới thiệu tổng quan về công ty trong lĩnh vực sản xuất thiết bị thực phẩm. Công ty được thành lập năm 1975. Tiền thân Công ty là Nhà máy Cơ khí đường được tách ra từ một bộ phận của Nhà máy đường Vạn Điểm. Ban đầu khi được tách khỏi Nhà máy đường Vạn Điểm, Công ty được giao nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa các thiết bị phục vụ cho ngành công nghiệp mía đường. Năm 1995, Công ty xây dựng dự án đầu tư một dây chuyền thiết bị đồng bộ để sản xuất bình chứa khí gas hoá lỏng (Bình Gas) với công suất thiết kế 150.000 sản phẩm/năm. Năm 2000, dự án đầu tư hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng. Sản phẩm bình gas đầu tiên đưa ra thị trường cuối năm 2000. Năm 2002, Công ty xây dựng dự án đầu tư bổ sung nâng công suất sản xuất lên 350.000 bình gas/năm. Dự án đầu tư kết thúc trong năm. Tính đến hết năm 2008, Công ty đã đưa vào thị trường trên 2 triệu vỏ bình gas các loại. Năm 2007, Công ty đưa dây truyền sản xuất thiết bị chữa cháy bao gồm bình chứa cháy xách tay các loại, bình chữa cháy xe đầy, bình chứa khí không hàn vào hoạt động và đã bước đầu đưa sản phẩm ra thị trường, được khách hàng chấp nhận. Tính đến thời điểm cuối năm 2008, ngành nghề sản xuất kinh doanh của công ty đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực. Các sản phẩm chính của công ty gồm có 3 nhóm sản phẩm chính: bình chứa khí gas hoá lỏng; thiết bị phòng cháy chữa cháy; bình 3
- chứa bia inox. Ngoài ra công ty cũng tham gia với tư cách nhà thầu cung cấp máy móc, thiết bị cho một số dự án, công trình trong nước. Các hoạt động chính của công ty bao gồm: Sản xuất các sản phẩm từ gỗ, composit. sản xuất thùng, bể chứa và dụng cụ chứa bằng kim loại (sản xuất, kinh doanh và tái kiểm định bình, bồn chứa chịu áp lực, chứa các loại ga hóa lỏng, bình cứu hỏa, bình ôxi dùng cho dân dụng và công nghiệp). Sản xuất sắt, thép định hình (sản xuất khuôn mẫu kim loại và các chi tiết máy có độ chính xác cao dùng cho ngành). Chuẩn bị mặt bằng, san lấp mặt bằng. Xây dựng công trình, hạng mục công trình dân dụng, công nghiệp giao thông, thủy lợi. Lắp đặt trang thiết bị cho các công trình xât dựng. Hoàn thiện các công trình xây dựng. Buôn bán phụ tùng và các bộ phận phụ trợ của xe có động cơ. Buôn bán sắt, thép, ống thép, thép hình kim loại màu (kết cấu thép, sắt thép xây dựng, ống kim loại, tôn và thép lá, dây kim loại). Xuất nhập khẩu các mặt hàng công ty kinh doanh. Vận tải hàng hóa bằng đường bộ. Dịch vụ khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ. Đại lý du lịch (du lịch trong nước). Dịch vụ hỗ trợ liên quan đến quảng bá và tổ chức tour du lịch. Cho thuê nhà phục vụ mục đích kinh doanh. 1.2 Sự cần thiết phải đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty Qua hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang hoạt động theo cơ chế thị trường đã mở ra một thời kỳ mới đầy những cơ hội và thách thức lớn lao cho các thành phần kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Vận động theo cơ chế thị trường có nghĩa là các doanh nghiệp phải hoạt động gắn liền với thị trường, tuân thủ các qui luật kinh tế trong đó qui luật cạnh tranh. Mỗi doanh nghiệp phải biết thích nghi với thị trường, cạnh tranh nhau để tồn tại và phát triển. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào biết thích nghi với thị trường, tận dụng mọi cơ hội, phát huy được khả năng sẽ giành thắng lợi, ngược lại những doanh nghiệp yếu thế không tận dụng cơ hội, không thích nghi với môi trường sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Giành thắng lợi trong cạnh tranh tức là doanh nghiệp sẽ thu dược nhiều lợi nhuận muốn thế phải thu hút được nhiều khách hàng về phía mình bằng mọi cách vượt trội hơn các đối 4
- thủ khác. Trong hoạt động kinh doanh không phải doanh nghiệp nào cũng thành công, có những doanh nghiệp tồn tại phát triển phát triển song có những doanh nghiệp làm ăn sa sút và dẫn tới phá sản. Bởi vậy, mỗi doanh nghiệp phải vạch ra cho mình những chiến lược khác nhau để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và dễ thấy rằng các chiến lược này đều có một điểm chung nhằm vào việc tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Có thể nói rằng không còn con đường nào khác buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Do tầm quan trọng của yếu tố cạnh tranh trên thị trường công ty cần xác định rõ sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh như sau: Thứ nhất: vì mục tiêu lợi nhuận. Là một chủ thể tham gia nền kinh tế, cũng như các doanh nghiệp khác thì lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của mọi doanh nghiệp, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Thu được lợi nhuận cao đồng nghĩa với việc công ty làm ăn có hiệu quả, công ty sẽ có thêm vốn để thực hiện tái đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất của mình. Với những điều kiện cụ thể khác nhau, cơ chế vận hành hoạt động kinh doanh khác nhau, thì kết quả lợi nhuận cũng khác nhau. Mà muốn thu lợi nhuận cao thì công ty phải nâng cao được lợi thế cạnh tranh của mình trên thị trường để chiếm lĩnh được càng nhiều thị phần càng tốt. Với việc thị trường sản xuất vỏ bình gas đang ngày càng cạnh tranh gay gắt, công ty phải đưa ra các chiến lược, các biện pháp để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng với chi phí cạnh tranh nhất. Công ty cũng phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, không ngừng tìm kiếm và nắm bắt lấy những thị trường tiềm năng mới. Và cùng với việc mở rộng thị phần tiêu thụ là lợi nhuận thu được của công ty sẽ ngày càng cao. Do đó để thu được lợi nhuận cao thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty là hết sức cần thiết. Thứ hai: vì sự cạnh tranh với các đối thủ cũ và đối thủ mới xuất hiện trên thị trường. 5
- Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì môi trường cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt. Cùng với nhu cầu sử dụng các sản phẩm gas của người dân ngày càng tăng là sự xuất hiện của các doanh nghiệp mới sản xuất mặt hàng này. Khu vực phía Bắc đã và đang xuất hiện thêm nhiều nhà máy sản xuất vỏ bình gas như Bình An, Vạn Lộc, Hồng Hà, Tấn Phát. Các doanh nghiệp trẻ mới thành lập này tuy chưa có nhiều uy tín nhưng có tham vọng chiếm lĩnh thị trường rất lớn với những chiến lược rõ ràng. Những doanh nghiệp mới thành lập đã và đang nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các doanh nghiệp đi trước, bên cạnh đó đẩy mạnh thu thập thông tin, tìm cách nắm bắt và mở rộng thị trường. Dựa vào những điều học hỏi được họ liên tục cải tiến mẫu mã, chất lượng để thu hút khách hàng. Sự tham gia của các doanh nghiệp mới này đang trở thành mối đe dọa chia sẻ thị phần tiêu thụ đối với công ty. Ngoài những doanh nghiệp mới hoạt động thì những đối thủ cạnh tranh lâu năm cũng luôn là mối lo thường trực của công ty. Khác với những doanh nghiệp mới xuất hiện, những đối thủ cạnh tranh lâu năm này có lợi thế về thương hiệu và uy tín trên thị trường. Trên thực tế, các đối thủ cạnh tranh này và công ty đã hình thành nên những thị trường tiêu thụ, những khách truyền thống của mình và có những biện pháp nhằm duy trì mối quan hệ truyền thống đó. Nhưng trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, các đối thủ cạnh tranh đó luôn để ý và chờ đợi thời cơ để chiếm lấy nguồn khách hàng truyền thống của công ty. Mà các khách hàng truyền thống là nguồn tiêu thụ sản phẩm chính của công ty, do đó công ty phải luôn đề phòng và cảnh giác với các đối thủ này. Nếu công ty không đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng thì họ sẵn sàng xen vào và nhận lấy nguồn cung ứng này. Bên cạnh đó họ cũng không ngừng nâng cao và hoàn thiện dây chuyền sản xuất của mình để mở rộng và chiếm lĩnh thị trường. Đã và đang có thêm những đơn vị đầu tư dây chuyền để phục hồi vỏ bình gas như: TQT, công ty TNHH Đông Nam Á tại Phủ Lý, Nam Hà. Với những tính chất như vậy, sự canh tranh với các đối thủ này có phần gay gắt hơn so với các đối thủ mới. Bên cạnh những đối thủ cạnh tranh trong nước, công ty còn phải cạnh tranh với cả công ty sản xuất nước ngoài. Cụ thể ở đây là trên thị trường thiết bị phòng 6
- cháy chữa cháy nói chung và thị trường bình chữa cháy nói riêng đang được thống trị bởi hàng Trung Quốc. Các mặt hàng phòng cháy chữa cháy của Trung Quốc với ưu thế là giá rẻ hơn so với hàng trong nước từ lâu đã chiếm lĩnh được một thị trường tiêu thụ lớn. Thêm vào đó là tâm lý và thói quen của người tiêu dùng đối với sản phẩm thiết bị phòng cháy chữa cháy từ Trung Quốc chưa thể thay đổi ngay được, kết hợp với một số vụ việc phát sinh gây hình ảnh xấu đối với sản phẩm sản xuất trong nước làm cho việc mở rộng và phát triển thị trường thiết bị phòng cháy chữa cháy của công ty là rất khó khăn trong thời gian tới. Việc xác định rõ các đối thủ cạnh tranh cũng như thế mạnh và điểm yếu của họ là vô cùng quan trọng đối với công ty. Dựa vào đó công ty phải có những chiến lược đúng đắn để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Thứ ba: đáp ứng yêu cầu ngày càng cao từ phía khách hàng. Kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì đời sống của con người ngày càng được cải thiện và nâng cao. Kéo theo đó là những yêu cầu của khách hàng đối với các sản phẩm tiêu dùng hàng ngày nói chung và sản phẩm bình gas nói riêng ngày càng cao. Họ có những yêu cầu khắt khe về chất lượng, về mức độ an toàn, các chứng chỉ chứng nhận của các cơ quan kiểm tra có uy tín, thời gian hoàn thành hợp đồng nhanh, các điều khoản ưu đãi kèm theo...Có đáp ứng được những yêu cầu này của khách hàng hay không chính là vấn đề sống còn của công ty. Đối với những khách hàng truyền thống, những khách hàng lớn có tiềm năng phát triển và có năng lực tài chính thì cần phải cố gắng củng cố và duy trì mối quan hệ tốt đẹp đó. Làm được điểu đó cũng chính là đảm bảo cho quá trình tiêu thụ được diễn ra ổn định, liên tục. Đối với những khách hàng mới, công ty cũng cần chú trọng thực hiện tốt hợp đồng về thời gian giao hàng và chất lượng sản phẩm. Cần gây ấn tượng tốt đẹp ngay từ đầu với các khách hàng mới, không ngừng củng cố uy tín và thương hiệu của mình với khách hàng. Thậm chí còn đưa ra một số những ưu đãi đối với những khách hàng mới đặt hàng với công ty. Tạo được lòng tin và uy tín đối với những khách hành mới, giữ chân được các khách hàng tiềm năng sẽ hết sức có lợi cho sự phát triển lâu dài, bền vững của công ty trong tương lai. Nhưng nếu công ty không đáp ứng được những yêu cầu đó thì khách hàng sẽ rời bỏ công ty và tìm đến 7
- những công ty khác đáp ứng được yêu cầu đó. Vì thế, để tồn tại lâu dài và đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của khách hàng công ty phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Thứ tư: duy trì thương hiệu và uy tín của công ty Công ty cổ phần thiết bị thực phẩm đã có một thời gian hoạt động kể từ lúc thành lập đến giờ có thể nói cũng là một khoảng thời gian khá dài. Và để tạo được thương hiệu và uy tín trên thị trường như bây giờ công ty cũng phải trải qua sự nỗ lực và phát triển không ngừng. Đối với một doanh nghiệp thì để tạo ra uy tín và thương hiệu đối với khách hàng trong một môi trường cạnh tranh như hiện nay là rất khó khăn và là cả một quá trình lâu dài. Do đó việc duy trì thương hiệu và uy tín trên thị trường là rất quan trọng. Ngay từ khi mới thành lập, công ty đã hoạt động theo phương châm “ chất lượng khởi đầu từ khách hàng và kết thúc vì khách hàng”, cùng với đó là triết lý hoạt động của công ty “ Cổ Phần Thiết Bị Thực Phẩm – Uy Tín Tin Cậy – Cùng Phát Triển”. Công ty luôn cam kết: thường xuyên cải tiến, duy trì, áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9001: 2000 xuyên suốt trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty; luôn nâng cao uy tín và thương hiệu, đảm bảo là nhà sản xuất, thương mại, dịch vụ, cung cấp cho khách hàng những sản phẩm có chất lượng tốt nhất, ổn định nhất, với khả năng đáp ứng cao nhất..; luôn luôn coi chất lượng hoạt động kinh doanh có tầm quan trọng bậc nhất, đảm bảo sự thỏa mãn cao nhất cho khách hàng và sự tồn tại phát triển của công ty. Bên cạnh việc hoàn thiện hợp đồng đúng thời hạn, đủ số lượng và chất lượng để tạo uy tín đối với khách hàng, công ty cũng phải không ngừng quảng bá hình ảnh và thương hiệu của mình để cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Nền kinh tế ngày càng phát triển, mở ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội nhưng cũng làm tăng thêm nhiều đối thủ cạnh tranh. Trước những cơ hội và thách thức như vậy mỗi doanh nghiệp phải tìm cách vượt qua nếu không nguy cơ phá sản là rất lớn. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan. Các doanh nghiệp tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh, chấp nhận cạnh tranh và cạnh tranh bằng tất cả khả năng của mình mới có thể giúp 8
- doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Chính vì vậy. tăng khả năng cạnh tranh là một điều tất yếu đối với công ty trong cơ chế thị trường. 1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty. 1.3.1 Những nhân tố khách quan. Nhân tố kinh tế Đây là những nhân tố quan trọng nhất của môi trường hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao dẽ kéo theo sự tăng thu nhập cũng như tăng khả năng thanh toán của người dân, do vậy nhu cầu hay sức mua của người dân cũng tăng lên. Mặt khác nền kinh tế phát triển mạnh có nghĩa là khả năng tích tụ và tập trung tư bản lớn, như vậy tốc độ đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Đây chính là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp phát triển. Ngược lại, khi nền kinh tế gặp khủng hoảng, tình hình lạm phát tăng cao, giá cả mặt bằng chung tăng khiến cho chi phí đầu vào tăng thì doanh nghiệp phải có những ứng biến thích hợp để đối phó. Doanh nghiệp phải đưa ra những chiến lược phù hợp để tiết kiệm, giảm chi phí, giảm lượng hàng tồn đọng, tăng khả năng huy động vốn…những giải pháp tình thế khéo léo sẽ giúp doanh nghiệp vượt qua được thời kì khó khăn và trụ lại thị trường lâu dài. Doanh nghiệp nào có khả năng thích ứng cao hơn với nền kinh tế, nắm bắt được nhiều cơ hội hơn thì doanh nghiệp đó chắc chắn sẽ thành công. Trong quá trình hoạt động, công ty cũng phải trải qua các biến động cùng với tình hình kinh tế chung cả nước. Đối với những năm tình hình kinh tế ổn định thì công ty vẫn có thể tiến hành duy trì sản xuất và mở rộng phát triển một cách bình thường. Nhưng khi tình hình nền kinh tế trở nên bất ổn, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, lạm phát gia tăng, thì công ty cần phải có những biện pháp ứng phó phù hợp. Điển hình như năm 2008, lạm phát khiến cho nền kinh tế suy thoái trên diện rộng, làm sức mua trên thị trường giảm sút nghiêm trọng. Giá vật tư, nguyên liệu, hàng hóa trên thị trường giảm đột biến, trong khi lượng hàng tồn kho vật tư, nguyên liệu dự trữ cho sản xuất ở mức cao và giá hàng tồn kho chủ yếu trước khi xảy lạm phát đã làm cho giá thành sản xuất vượt giá bán. Thêm vào đó, do ảnh hưởng trực tiếp từ 9
- chính sách thắt chặt tài chính của Chính Phủ, các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất sản phẩm gas nói riêng và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung không thể tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng để đầu tư phát triển thị trường, làm cho thị trường tiêu thụ bình gas vốn phải chịu nhiều sự cạnh tranh không lành mạnh nay lại càng thêm khó khăn, bế tắc. Đứng trước tình hình đó, công ty đã phải đưa ra những chiến lược tình thế. Về thị trường: công ty duy trì sản lượng sản xuất bình gas mới ở mức hợp lí, sàng lọc đối tượng khách hàng, chỉ duy trì quan hệ với những khách hàng lớn, có uy tín hoặc chỉ bán hàng khi khả năng thanh toán được đảm bảo. Tăng cường sản lượng bình gas phục hồi nhằm giảm áp lực về nguồn vốn. Tập trung phát triển thị trường bình chữa cháy, các thiết bị phòng cháy chữa cháy… Về tài chính: công ty mở rộng và hợp tác theo chiều sâu với các tổ chức tín dụng, tài chính, phát hành cổ phiếu trên kênh thị trường chứng khoán để khai thác, đa dạng nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và phát triển đầu tư. Thắt chặt công tác tài chính, quản lý chặt chẽ các khoản phải thu, đảm bảo không có các khoản phải thu khó đòi, giảm thiểu lượng hàng tồn kho; giảm thiểu nguồn vốn sản xuất kinh doanh, giảm chi phí tài chính… Nhờ những chiến lược được ra kịp thời mà công ty đã vượt qua được tình hình khó khăn, tuy không đạt được các chỉ tiêu kết quả như kế hoạch đề ra đầu năm 2008 nhưng vẫn đảm bảo có doanh thu vượt qua năm trước. Cụ thể: tổng doanh thu năm 2008 đạt 235.732 triệu đồng, tăng 19.667 triệu đồng, tương đương 9% so với năm trước (năm 2007 đạt 216.065 triệu đồng) nhưng chỉ bằng 74% so với kế hoạch năm 2008 (317 tỉ đồng). Khi tình hình kinh tế trở nên khó khăn thì những chiến lược đưa ra lúc đó là kịp thời và phù hợp, nhưng khi nền kinh tế đã khởi sắc và đang trên đã phát triển thì những giải pháp tình thế đó đã không còn phù hợp, công ty lại cần có những chiến lược mới để tận dụng được xu thế phát triển chung của nền kinh tế. Điển hình là năm 2009, nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi và vượt qua khủng hoảng, giá nguyên vật liệu đầu vào đã giảm đáng kể so với năm 2008 và dần đi vào ổn định. Khi đó, nhu cầu tiêu dùng, sử dụng vỏ bình gas đột ngột tăng mạnh. Nắm bắt thời cơ này, công ty đã có những thay đổi hợp lý về các nguồn lực trong công ty để tranh 10
- thủ cơ hội thị trường. Công ty đã chủ động giảm sản lượng phục hồi bình gas, giảm sản lượng thiết bị phòng cháy chữa cháy và dừng hẳn việc sản xuất bình chứa bia để chuyển hướng, tập trung cao độ máy móc thiết bị, nhân lực và nguồn lực tài chính cho sản xuất bình gas. Có thời điểm công ty phải bố trí sản xuất 3 ca/ngày, liên tục trong 7 ngày/tuần mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nhờ tận dụng được thời cơ này mà trong năm 2009 công ty đã đạt được sản lượng và doanh thu lớn nhất từ trước đến nay. Sản lượng bình gas sản xuất mới năm 2009 đạt 514.168 CG12 kg qui đổi. Sản lượng bình gas sản xuất mới năm 2009 bằng sản lượng cả hai năm 2007 và 2008 cộng lại. Sản lượng bình gas năm 2009 đạt mức kỉ lục từ trước đến nay, sản lượng bình quân theo tháng đạt mức 42.847 bình, sản lượng tháng cao nhất đã lên tới xấp xỉ 80.000 bình. Tổng doanh thu năm 2009 đạt mức kỉ lục từ trước tới nay là 320.417 triệu đồng, tăng 82.658 triệu đồng, bằng 135% so với năm 2008 ( năm 2008 đạt 237.732 triệu đồng). Tổng doanh thu năm 2009 vượt 35.138 triệu đồng và bằng 115% so với kế hoạch năm 2009 đề ra ( 285.000 triệu đồng). Như vậy, nhờ nắm bắt được diễn biến và các thay đổi của nền kinh tế, công ty đã có những chiến lược điều chỉnh kịp thời, đưa công ty vượt qua khó khăn và tận dụng cơ hội phát triển, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Nhân tố chính trị và pháp luật Trong kinh doanh, lợi nhuận là yếu tố hàng đầu nhưng muốn có lợi nhuận một cách an toàn, hiệu quả mà không rủi ro thì phải bảo đảm an toàn pháp lý. Chính trị và pháp luật chính là nền tảng cho phát triển kinh tế cũng như là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường. Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi trường cạnh tranh thuận lợi đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Mặt khác, chúng có thể đem lại những trở ngại, khó khăn thậm chí là rủi ro cho các doanh nghiệp. Ta có thể lấy ví dụ như các chính sách về xuất nhập khẩu, chính sách thuế, các khoản thu ngân sách…là những yếu tố tác động trực tiếp kìm hãm hay tạo điều kiện để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. 11
- Năm 2008, khi nền kinh tế diễn ra khủng hoảng, Chính Phủ đã thực hiện chính sách thắt chắt tài chính – tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Lãi suất vốn vay cùng tỷ giá ngoại tệ liên tục tăng cao từ những tháng đầu năm 2008 đến cuối năm. Do ảnh hưởng trực tiếp từ chính sách tài chính mà doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay. Kéo theo đó là sự làm tăng đột biến chí phí tài chính của công ty trong năm. Năm 2008, chi phí hoạt động tài chính lên đến trên 16,5 tỷ chiếm 7,08% doanh thu (233 tỷ). Nhưng sang năm 2009, khi nền kinh tế dần trở nên sáng sủa hơn, có một số thay đổi về pháp luật và chính sách của Nhà Nước đã giúp công ty đạt được những thành tích tăng vọt. Năm 2009, Nhà Nước đưa ra chính sách hỗ trợ lãi suất để giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn, vực dậy sản xuất sau khủng hoảng. Cùng với đó, năm 2009 hiệp hội gas được thành lập và có những tác động làm cho thị trường kinh doanh LPG dần trở nên lành mạnh. Chính Phủ cũng công bố nghị định số 107/2009/NĐCP về việc kinh doanh khí dầu mỏ hóa lỏng đi vào hiệu lực làm tăng nhu cầu vỏ bình gas trên thị trường. Nhận định được những thuận lợi về môi trường pháp luật cùng với những chính sách ưu đãi của Nhà Nước, công ty đã tranh thủ thời cơ khi cầu về mặt hàng vỏ bình gas lên cao để tạo ra mức doanh thu kỉ lục năm 2009. Các doanh nghiệp cạnh tranh trong ngành Số lượng các doanh nghiệp cạnh tranh và các đối thủ tiềm ẩn cũng là một nhân tố tác động đến khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp. Khi xem xét nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp phải đánh giá nghiên cứu kỹ lưỡng các đối thủ của mình về: qui mô, khả năng tài chính, trình độ công nghệ, đặc điểm sản phẩm… để từ đó định ra mức độ cạnh tranh trên thị trường và đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Bên cạnh việc sản xuất kinh doanh, công ty cũng cần phải luôn quan tâm và theo dõi các động tĩnh của đối thủ cạnh tranh để đưa ra các phương án thích hợp. Công ty cần biết được điểm mạnh, điểm yếu của mình so với đối thủ, và những lợi thế của đối thủ cạnh tranh mà công ty chưa có. Trên cơ sở đó, công ty cần 12
- xem xét và đưa ra các phương án để phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, nâng cao sức cạnh tranh của công ty trên thị trường. 1.3.2 Những nhân tố chủ quan. Cơ sở vật chất kĩ thuật của doanh nghiệp. Bất cứ một doanh nghiệp nào muốn quá trình sản xuất và kinh doanh diễn ra thuận lợi, phát triển đều phải trang bị cho mình một hệ thống cơ sở hạ tầng nhất định. Một hệ thống cơ sở vật chất khang trang với một môi trường làm việc an toàn, phù hợp với qui mô của doanh nghiệp chắc chắn sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của công ty lên rất nhiều. Với một cơ sở vật chất tốt thì chất lượng dịch vụ được đảm bảo. Chất lượng dịch vụ hợp lý sẽ giúp cho các nhân viên có một môi trường làm việc ổn định, thoái mái và phát huy được khả năng của mỗi cá nhân, doanh nghiệp tận dụng được tối đa công suất, qua đó hạ giá thành sản phẩm, tiết kiệm chi phí và tăng khả năng chiến thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Thêm vào đó, một môi trường làm việc đảm bảo an toàn sẽ giảm thiểu tai nạn lao động, tai nạn nghề nghiệp giúp các công nhân yên tâm sản xuất. Ngược lại, nếu một doanh nghiệp không trang bị đủ cơ sở vật chất cho quá trình sản xuất, môi trường làm việc không đầy đủ thì sẽ làm cản trở, trì hoãn quá trình sản xuất, giảm sức cạnh tranh trên thị trường. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của sản xuất kinh doanh, công ty đã liên tục nâng cấp và đổi mới trang thiết bị làm việc. Với tính chất công việc là sản xuất vỏ bình gas, một mặt hàng nhạy cảm về cháy nổ, công ty luôn có những trang thiết bị phòng cháy để đảm bảo an toàn cho công nhân. Bên cạnh đó, những người trực tiếp tham gia sản xuất sẽ được phát miễn phí hàng năm các phương tiện bảo hộ lao động như: quần, áo, găng tay, kính hàn, mũ bảo hộ…Công ty cũng đổi mới một số dây chuyền làm việc để đảm bảo cho quá trình làm việc được diễn ra an toàn hơn, với các tiêu chuẩn chất lượng nâng cao hơn. Ngoài ra công ty còn nâng cấp một số máy móc thiết bị để kiểm tra độ bền và độ an toàn của sản phẩm như: máy kiểm tra áp suất, máy kiểm tra rò rỉ, kiểm tra van…Với những cơ sở vật chất được trang bị đó, công ty đã và đang sản xuất ra những vỏ bình gas 13
- đạt tiêu chuẩn chất lượng và có uy tín trên thị trường, có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Nguồn nhân lực. Trong thời đại ngày nay thời đại mà khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học và công nghệ hiện đại, với hàm lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong mỗi sản phẩm làm ra, con người càng tỏ rõ vai trò quyết định của mình trong quá trình sản xuất và phát triển. Bên cạnh các yếu tố khác trong sản xuất kinh doanh như vốn, khoa học công nghệ, nguyên vật liệu…thì yếu tố quan trọng và quyết định nhất là con người. Chúng ta cần hiểu rõ rằng nguồn nhân lực phát huy được vai trò của nó không phải ở ưu thế về số lượng mà là ở chất lượng. Khi nguồn nhân lực có quy mô lớn nhưng chất lượng thấp, năng suất lao động thấp thì lại trở thành nhân tố hạn chế sự phát triển. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là phải thường xuyên nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu phát triển của công ty. Do đó mà nhiều doanh nghiệp đặt yếu tố này lên hàng đầu và luôn luôn chú trọng để đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong quá trình hoạt động, từ việc lên ý tưởng, kế hoạch trên giấy tờ đến việc trực tiếp ra sản phẩm đều do yếu tố con người tác động. Các thành viên của công ty là người sẽ quyết định doanh nghiệp có phát triển được hay không? có những chiến lược như thế nào? có đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác không?… Quan tâm tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng chính là đảm bảo cho việc giành thắng lợi trong công cuộc cạnh tranh và đảm bảo cho sự phát triển bền vững lâu dài của công ty.. Nhận biết được tầm quan trọng của yếu tố này, nên trong thời gian qua công ty luôn chú trọng tới việc nâng cao và phát triển nguồn nhân lực. Chất lượng đội ngũ cán bộ của công ty ngày càng được nâng cao với những nhân viên mới có trình độ đại học và trên đại học. Công ty luôn quan tâm và mở những lớp nâng cao tay nghề cho công nhân, nhất là các lớp hướng dẫn sử dụng các máy móc tiên tiến trong sản xuất để đảm bảo mức độ hỏng hóc là ít nhất. Việc đào tạo cho nhân viên những kỹ năng hoặc kiến thức mới không chỉ giúp họ hoàn thành công việc nhanh chóng và 14
- hiệu quả hơn mà còn nâng cao mức độ thỏa mãn của họ trong công việc và có động lực để tự gia tăng hiệu suất làm việc. Các nhân viên được đào tạo để làm tốt công việc, họ sẽ có thái độ tự tin, làm việc một cách độc lập và chủ động hơn. Kết hợp với việc đào tạo, chế độ khen thưởng hợp lý cũng giúp công nhân thêm hứng thú làm việc, cố gắng hoàn thiện kỹ năng sản xuất và số lao động lành nghề trong công ty ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, công ty cũng luôn quan tâm đúng lúc đến mọi thành viên, luôn động viên kịp thời những lúc họ ốm đau, bệnh tật, sinh nở…Nhờ những sự quan tâm tới nguồn nhân lực mà công ty tăng thêm khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường. Khả năng tài chính của doanh nghiệp. Tình hình tài chính doanh nghiệp ổn định là một trong những điều kiện tiên quyết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách nhịp nhàng, đồng bộ, đạt hiệu quả cao. Khả năng tài chính là yếu tố quan trọng quyết định khả năng kinh doanh cũng như là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá qui mô của doanh nghiệp. Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị hay phân phối, quảng cáo… đều phải được tính toán dựa trên năng lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh sẽ có khả năng trang bị các dịch vụ tốt, đảm bảo chất lượng, hạ giá thành, tổ chức các chiến lược marketing qui mô, nâng cao sức cạnh tranh. Là một công ty cổ phần, nguồn vốn của công ty Cổ Phần Thiết Bị Thực Phẩm được huy động từ các cổ đông, vốn từ lợi nhuận chưa chia cổ tức và vốn vay ngân hàng. Từ khi công ty phát hành cổ phiếu lần đầu thì vốn điều lệ của công ty chỉ là 12 tỷ đồng. Sau đó, để đáp ứng với sự phát triển về qui mô và tiềm năng của công ty, trong các năm 2008 và 2009, công ty đã làm các thủ tục cấp thiết để xin phép ủy ban Chứng Khoán Nhà Nước chấp thuận cho phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ từ 12 tỉ đồng lên 48 tỉ đồng. Tuy nhiên, trong năm 2009, ủy ban Chứng Khoán Nhà Nước mới chỉ 2 lần cho phép và ngay sau đó công ty đã thực hiện phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ lên 23.004.550.000 đồng. Lần thứ nhất, phát hành cổ phiếu để trả cổ tức năm 2005 và 2006 cho các cổ đông, tăng vốn điều lệ lên 15
- 17.777.860.000 đồng. Lần thứ hai, phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông, tăng vốn điều lệ từ 17.777.860.000 lên 23.004.550.000 đồng. Dự kiến trong năm 2010 công ty sẽ tiếp tục làm các thủ tục cần thiết để tăng vốn điều lệ lên 48 tỉ đồng theo nghị quyết của Đại hội cổ đông thường niên năm 2008 và 2009 thông qua. Khả năng tổ chức quản lý. Điều này được thể hiện thông qua cở cấu tổ chức, tác phong làm việc của các thành viên, mối quan hệ của các bộ phận…Một bộ máy được vận hành một cách nhịp nhàng, thông suốt chắc chắn sẽ góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh và ngược lại. Để có được sự tổ chức quản lý tốt doanh nghiệp cần phải tạo ra được quy chế làm việc. Các quy định về trách nhiệm và quyền lợi cho các cá nhân, mối quan hệ giữa các bộ phận trong doanh nghiệp một cách rõ ràng và được sự nhất trí của các thành viên trong doanh nghiệp. Khả năng tổ chức quản lý còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng của người quản lý trong doanh nghiệp. Do đó, đội ngũ quản trị viên phải được đào tạo một cách có hệ thống, phù hợp với các đặc điểm của doanh nghiệp. Hiện tại, công ty đang có một bộ máy tổ chức quản lý vẫn hoạt động nhịp nhàng, năng động, kịp thời ứng phó với các tình hình, diễn biến của nền kinh tế. Đứng đầu bộ máy quản lý này là Ban lãnh đạo, tiếp đến là bốn khối trực thuộc: khối nghiệp vụ, khối kỹ thuật, khối sản xuất, khối trực thuộc đảm nhiệm các văn phòng đại diện tại Bắc, Trung, Nam. Tất cả các khối, các phòng, ban, lãnh đạo đều có một chức năng và nhiệm vụ cụ thể, có sự điều hành từ trên xuống dưới. Các hoạt động trong công ty luôn diễn ra khá nhịp nhàng, ăn khớp, không có sự chồng chéo về quản lý. Khi ban lãnh đạo vạch ra các định hướng phát triển và chiến lược ngắn hạn, trung hạn, dài hạn cũng như tầm nhìn cho sự phát triển của công ty; các phương án sản xuất, kinh doanh…thì các phương án này sẽ được công bố và chỉ đạo đến các khối trực thuộc. Các khối trực thuộc có nhiệm vụ phổ biến đến các phòng ban và tiến hành thực hiện các chiến lược đề ra. Các định hướng chiến lược và mục tiêu sản xuất kinh doanh đề ra đều được công bố cho các thành viên trong công ty nắm rõ và cố gắng thực hiện. Nhờ đó, công ty luôn có sự thống nhất từ trên 16
- xuống dưới, cùng hướng tới mục tiêu đề ra. Trong quá trình thực hiện các phương án sản xuất, các phòng ban luôn có sự chỉ đạo sát sao và kịp thời của ban lãnh đạo. Bên cạnh việc đôn đốc, nhắc nhở, công ty cũng luôn có chế độ khen thưởng và đãi ngộ hợp lý với các thành viên tích cực, hăng hái sản xuất. Nhờ có sự hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp của bộ máy tổ chức quản lý mà công ty đã nhiều lần vượt qua được những khó khăn trong quá khứ và đang hướng tới một mục tiêu phát triển bền vững trong tương lai. Marketing và hệ thống phân phối sản phẩm. Là một công ty vừa hoạt động sản xuất vừa hoạt động kinh doanh, do đó việc tạo lập hệ thống marketing và phân phối là hết sức cần thiết. Chính hệ thông này sẽ giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp có sức cạnh tranh hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Điều này giúp doanh nghiệp giải phóng được lượng hàng tồn đọng và giải quyết nhanh chu kỳ quay vòng vốn. Để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm, công ty đã tạo lập hệ thống phân phối rộng khắp thông qua các đại lý, các văn phòng đại diện trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, trong đó có một số khu vực tiêu thụ chính ở miền Bắc và miền Trung. Các văn phòng đại diện này có nhiệm vụ hỗ trợ các phòng chức năng quan hệ, giao dịch với một số đối tượng khách hàng, bạn hàng, các nhà cung cấp, cũng như các cơ quan, ban ngành có liên quan đến hoạt động của công ty. Hỗ trợ phòng kinh doanh, phòng tài chính công ty thu hồi công nợ, thanh quyết toán, thanh lý một số hợp đồng bán sản phẩm, dịch vụ, mua vật tư, hàng hóa. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản, trang thiết bị của văn phòng, lưu giữ hồ sơ, tài liệu, chứng từ có liên quan đến các hoạt động của văn phòng đại diện và của công ty. Hỗ trợ phát triển thương hiệu FSEC, giao dịch quan hệ khách hàng tiêm năng để cung cấp thông tin cho công ty. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo yêu cầu, đề nghị từ các cá nhân, đơn vị tại công ty, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ qui định tại qui chế này và nhu cầu sản xuất của công ty. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển và lớn mạnh theo từng giai đoạn của mình mà công ty cần mở rộng hơn nữa các chi nhánh của mình tới các tỉnh, thành phố trên cả nước, chú ý tới các thành phố đang có tốc độ phát triển nhanh. 17
- 2. Thực trạng hoạt động đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Cổ Phần Thiết Bị Thực Phẩm. 2.1 Vốn và cơ cấu nguồn vốn của công ty. Công ty Công ty Cổ Phần và Thiết Bị Thực Phẩm là một công ty cổ phần, nên nguồn vốn của công ty chủ yếu là vốn góp của các cổ đông và vốn đi vay. Xác định được tầm quan trọng của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh và cả vốn cho hoạt động đầu tư phát triển nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty, công ty luôn có kế hoạch huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, hạn chế mức tối đa sự lãng phí, thất thoát vốn.. Tổng tài sản của công ty tính đến thời điểm 31/12/2009 là 253.381 triệu đồng, trong đó vốn chủ sở hữu của công ty là 27.258 triệu đồng, vốn đầu tư của chủ sở hữu là 23.004 triệu đồng, chiếm khoảng 10% trong tổng nguồn vốn của công ty. 90% nguồn vốn còn lại là từ nguồn vốn vay của các ngân hàng và chiếm dụng của các đối tác. Trong các năm 2008 và 2009, công ty đã có kế hoạch tăng vốn điều lệ bổ sung nguồn vốn kinh doanh, nhưng chỉ mới tăng lên được 23.004 triệu đồng. Nguồn vốn để tăng thêm thực chất chỉ là nợ phải trả các cổ đông chuyển sang thành vốn góp. Để thấy rõ hơn về tình hình nguồn vốn cũng như tài sản của công ty, ta theo dõi qua bảng sau: Bảng 1: Cơ cấu tài sản của công ty Cổ Phần Thiết Bị Thực Phẩm Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Tổng cộng tài sản/nguồn vốn 187.781 204.748 253.382 A. Tài sản ngắn hạn 129.506 148.619 201.082 I. Tiền và các khoản tương đương tiền 477 565 5.883 18
- II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn III. Các khoản phải thu ngắn hạn 36.875 37.348 39.631 1. Phải thu khách hàng 35.058 36.896 35.795 2. Trả trước cho người bán 1.260 258 4.524 3. Phải thu nội bộ 4. Phải thu theo tiến độ xây dựng 5. Các khoản phải thu khác 6. Dự phòng các khoản phải thu khó đòi (698) (1.165) IV. Hàng tồn kho 88.737 109.766 153.231 V. Tài sản ngắn hạn khác 3.417 939 2.337 B. Tài sản dài hạn I. các khoản phải thu dài hạn II. Tài sản cố định 50.508 45.953 43.352 1. TSCĐ hữu hình 50.802 45.953 43.352 Nguyên giá 94.647 95.570 97.658 Giá trị hao mòn lũy kế (44.027) (52.293) (61.391) 2. Chi phí xây dựng dở dang 181 2.675 7.175 III. Bất động sản đầu tư IV. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 7.270 7.270 7.270 Công ty TNHH Bạch Đằng 1.200 1.200 1.200 Công ty Cổ Phần Thực Phẩm Vạn Điểm 6.070 6.070 6.070 V. Tài sản dài hạn khác 203 2.907 1.677 2.2 Nội dung đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty, công ty luôn chú trọng đầu tư có trọng điểm các vấn đến mang tính cốt lõi nhất. Những yếu tố đó là những yếu tố quyết định tới sự phát triển và thành bại của một công ty. Trong những năm qua, công ty luôn nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư phát triển, nó không chỉ đem lại cho công ty năng lực sản xuất mới, làm cho doanh thu và lợi 19
- nhuận của công ty không ngừng tăng lên, mà còn làm tăng khả năng cạnh tranh của công ty so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Do đó công ty đã coi việc đầu tư phát triển doanh nghiệp là hoạt động đầu tư nhằm làm tăng khả năng cạnh tranh của công ty. Dưới đây là một số lĩnh vực chủ yếu công ty chú trọng đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. 2.2.1 Đầu tư tài sản cố định. Nội dung đầu tư vào tài sản cố định của công ty là tiếp tục công tác đầu tư để hoàn thiện và đồng bộ hệ thống máy móc thiết bị sản xuất các sản phẩm (thiết bị nghiền và trộn bột chữa cháy, thiết bị nạp khí CO 2), tiến hành sửa chữa lớn các máy móc thiết bị hiện tại (hệ thống máy CNC), tiến hành công tác bảo dưỡng định kỳ máy móc thiết bị, bổ sung một số máy móc thiết bị có nguy cơ hỏng hóc (máy phun bi, máy hàn) để đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục và đảm bảo an toàn lao động. Chi cho hoạt động này của công ty trong 3 năm từ năm 2007 đến 2009 như sau: Bảng 2: Chi tài sản cố định của công ty cổ phần thiết bị thực phẩm Đơn vị: triệu đồng So sánh 2009 Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 với 2008 Đầu tư xây dựng cơ bản 13.046 2.676 1.997 74,6% Chi phí xây dựng dở dang 181 2.675 7.175 268,2% Khấu hao tài sản cố định 7.349 9.422 9.089 96,45% Bảo dưỡng và 152 167,5 184,6 110,2% sửa chữa tài sản Nguồn: báo cáo của hội đồng quản trị 2.2.2 Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ. Đối với bất kì một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào việc đầu tư vào sản phẩm và việc bổ sung hàng tồn trữ liên quan rất nhiều tới quá trình sản xuất 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chuyên đề thực tập: Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp của Công ty cổ phần thương mại vận tải Hoàng Hà
29 p | 1050 | 473
-
Chuyên đề thực tập: Một số giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước đối với thương mại dịch vụ trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay
88 p | 570 | 277
-
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp phát triển sản xuất rau an toàn ở Việt Nam
75 p | 834 | 248
-
Đề cương chuyên đề thực tập: Đánh giá thực trạng công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên địa bàn huyện Văn Yên - Tỉnh Yên Bái
11 p | 1064 | 205
-
Chuyên đề thực tập: "Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại NHNN&PTNT chi nhánh huyện Tân Uyên – Lai Châu"
74 p | 353 | 192
-
Chuyên đề thực tập : thực trạng đánh bạc và tội phạm học
18 p | 686 | 123
-
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp: Hoàn thiện công tác kế toán tài sản cố định tại công ty cổ phần Sông Đà 11
92 p | 350 | 93
-
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp: Thực trạng lập kế hoạch sản xuất kinh doanh tại Công ty Cổ phần May Thăng Long
72 p | 460 | 93
-
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp: Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội
52 p | 357 | 82
-
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp: Tổ chức kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty TNHH Tiếp Vận Sắc Việt
72 p | 238 | 65
-
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp công tác thu phí nước thải trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trên địa bàn Hà Nội
49 p | 265 | 51
-
Chuyên đề thực tập: Thực trạng tăng trưởng và phân phối thu nhập ở Việt Nam
61 p | 263 | 50
-
Chuyên đề thực tập: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần An Bình
56 p | 178 | 34
-
Đề tài: Điều tra, đánh giá hiện trạng thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn các tỉnh Tây Nguyên và đề xuất phương án quy hoạch, xử lý và quản lý chất thải rắn phù hợp đến năm 2020
39 p | 213 | 32
-
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp: Giải pháp nâng cao chất lượng mủ cao su ở Công ty cao su Hà Tĩnh
97 p | 189 | 23
-
Chuyên đề thực tập: Thúc đẩy xuất khẩu hàng lâm sản chế biến của Công ty TNHH Xuất nhập khẩu chế biến lâm hải sản Sơn Hải sang thị trường Nhật Bản
33 p | 127 | 19
-
Chuyên đề thực tập: Thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty TNHH Luks - Trường Sơn
59 p | 78 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn