Chuyển đổi số trong giảng dạy kiểm toán theo hướng tiếp cận năng lực tại Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh
lượt xem 1
download
Bài viết "Chuyển đổi số trong giảng dạy kiểm toán theo hướng tiếp cận năng lực tại Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh" đã dựa trên kết quả phỏng vấn người dạy, người học để mô tả thực trạng chuyển đổi số trong giảng dạy kiểm toán theo hướng tiếp cận năng lực tại Trường. Từ đó, nhóm tác giả đã đề xuất một số giải pháp liên quan đến phương pháp giảng dạy, phương tiện giảng dạy và cách thức tổ chức lớp học. Mục đích cuối cùng là nhằm thúc đẩy chuyển đổi số và hình thành năng lực nghề nghiệp cho sinh viên ngành kiểm toán. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chuyển đổi số trong giảng dạy kiểm toán theo hướng tiếp cận năng lực tại Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh
- CHUYỂN ĐỔI SỐ TRONG GIẢNG DẠY KIỂM TOÁN THEO HƯỚNG TIẾP CẬN NĂNG LỰC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - QUẢN TRỊ KINH DOANH ThS. Đặng Thị Mai1 TS. Nguyễn Thị Cẩm Thúy2 ThS. Nguyễn Thanh Bình3 ThS. Vũ Thị Liên4 Tóm tắt Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ và lan tỏa sâu rộng trong mọi lĩnh vực của đời sống. Giáo dục cũng không ngoại lệ. Cùng với đó, ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid 19 là cú hích thúc đẩy chuyển đổi số, ứng dụng thành tựu của khoa học công nghệ trong giảng dạy nói chung và giảng dạy kiểm toán nói riêng tại các cơ sở giáo dục. Nhận thức được xu hướng đó, Trường Đại học Tài chính - Quản trị kinh doanh đã chủ động nắm bắt và triển khai hình thức đào tạo trực tuyến kết hợp trực tiếp ngay từ tháng 4/2020. Trước bối cảnh kinh tế hội nhập dẫn đến sự giao lưu và dịch chuyển lao động giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này tạo ra sức ép cạnh tranh không chỉ trong thị trường lao động kiểm toán mà cả giữa các cơ sở giáo dục đại học khi tuyển sinh đầu vào. Muốn tuyển sinh đạt chỉ tiêu mong đợi, chất lượng đầu ra thể hiện qua năng lực của sinh viên là minh chứng tin cậy nhất. Bài viết dưới đây đã dựa trên kết quả phỏng vấn người dạy, người học để mô tả thực trạng chuyển đổi số trong giảng dạy kiểm toán theo hướng tiếp cận năng lực tại Trường. Từ đó, nhóm tác giả đã đề xuất một số giải pháp liên quan đến phương pháp giảng dạy, phương tiện giảng dạy và cách thức tổ chức lớp học. Mục đích cuối cùng là nhằm thúc đẩy chuyển đổi số và hình thành năng lực nghề nghiệp cho sinh viên ngành kiểm toán. Từ khóa: chuyển đổi số, phương pháp giảng dạy, tiếp cận năng lực. 1. Đặt vấn đề Những năm gần đây, cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tác động mạnh mẽ, làm thay đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nắm bắt được xu hướng đó, Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 749/QĐ-TTg đã đề ra mục tiêu kép là: “vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi 1 Trường Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh, số điện thoại: 034 960 2762, email: dtmhvtc@gmail.com 2 Trường Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh, số điện thoại: 097 541 8877, email: camthuy.cpa@gmail.com 3 Trường Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh 4 Trường Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh 425
- ra toàn cầu”. Trong đó, giáo dục được coi là một trong 8 lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu triển khai thực hiện Chuyển đổi số. Mục tiêu cụ thể là “Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa. 100% các cơ sở giáo dục triển khai công tác dạy và học từ xa, trong đó thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép học sinh, sinh viên học trực tuyến tối thiểu 20% nội dung chương trình. Ứng dụng công nghệ số để giao bài tập về nhà và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh trước khi đến lớp học” Tuy nhiên, thực trạng ngành giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng hiện nay chủ yếu vẫn tổ chức theo hình thức truyền thống tại các lớp học trực tiếp. Đồng thời, tiếp cận nội dung vẫn là phương pháp điển hình trong truyền thụ kiến thức cho người học. Đặc trưng của phương pháp này là ít chú ý đến khả năng ứng dụng, tạo ra những con người ít năng động, sáng tạo. Thế nhưng, Cách mạng công nghiệp 4.0 cùng với ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid -19 đòi hỏi người dạy cũng như người học cần có thay đổi cả về tư duy và cách làm để sớm thích nghi; khắc phục khó khăn và lĩnh hội được thành quả của sự tiến bộ khoa học công nghệ. Cho nên, phương pháp tiếp cận nội dung ngày càng tỏ ra lỗi thời. Thay vào đó, đào tạo ra những con người có khả năng ứng dụng kiến thức, kỹ năng vào giải quyết các tình huống thực tiễn mới là đòi hỏi tất yếu của xã hội hiện đại. Để đáp ứng yêu cầu này, phương pháp tiếp cận theo năng lực được cho là rất khả quan và cần thiết phải đưa vào thực tiễn. Hiện nay, giảng dạy theo hướng tiếp cận nội dung được tổ chức với hình thức đào tạo truyền thống là thực trạng nổi bật tại Trường Đại học Tài chính – Quản trị Kinh doanh. Việc đào tạo ngành kiểm toán cũng không là ngoại lệ. Kể từ khi được nâng cấp lên Đại học (tháng 9/2012) đến nay, Nhà trường đã hoàn thành đào tạo 6 khóa kiểm toán ra trường, nội dung và chương trình đào tạo mới đưa vào giảng dạy không lâu nên tồn tại một số khiếm khuyết. Quá trình giảng dạy được thực hiện bởi đội ngũ giảng viên tuổi đời còn trẻ, chất lượng sinh viên đầu vào thấp hơn các trường lớn như Học viện Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân… Với những đặc điểm trên, để có thể cạnh tranh trong tuyển sinh đầu vào, Ban giám hiệu Nhà trường chủ trương minh chứng bằng chất lượng đầu ra. Trong đó, phương pháp dạy học là yếu tố then chốt góp phần tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Nhằm nghiên cứu thực trạng để chỉ ra những hạn chế trong phương pháp giảng dạy ngành kiểm toán, từ đó đề xuất các giải pháp mang tính ứng dụng; nhóm tác giả đã lựa chọn chủ đề“Chuyển đổi số trong giảng dạy kiểm toán theo hướng tiếp cận năng tại Trường Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh” để nghiên cứu. 426
- 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo Có nhiều định nghĩa khác nhau về chuyển đổi số (Digital transformation) nhưng có thể nói chung đó là chuyển các hoạt động của chúng ta từ thế giới thực sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng. Theo đó, mọi người tiếp cận thông tin nhiều hơn, rút ngắn về khoảng cách, thu hẹp về không gian, tiết kiệm về thời gian. Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, diễn ra rất nhanh đặc biệt trong bối cảnh của cuộc Cách mạng Công nghệ 4.0 (CMCN 4.0) hiện nay. Trên thế giới nhiều quốc gia đã và đang triển khai các chiến lược quốc gia về chuyển đổi số như tại Anh, Úc, Đan Mạch, Estonia… Nội dung chuyển đổi số rất rộng và đa dạng nhưng có chung một số nội dung chính gồm chính phủ số (như dịch vụ công trực tuyến, dữ liệu mở), kinh tế số (như tài chính số, thương mại điện tử), xã hội số (như giáo dục, y tế, văn hóa) và chuyển đổi số trong các ngành trọng điểm (như nông nghiệp, du lịch, điện lực, giao thông). Ở Việt Nam, đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong GDĐT giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25/1/2022 [1], xác định mục tiêu đến năm 2025 là: Đổi mới mạnh mẽ phương thức tổ chức giáo dục, đưa dạy và học trên môi trường số trở thành hoạt động giáo dục thiết yếu, hàng ngày đối với mỗi nhà giáo, mỗi người học. Phấn đấu 50% học sinh, mỗi sinh viên và mỗi nhà giáo có đủ điều kiện (về phương tiện, đường truyền, phần mềm) tham gia có hiệu quả các hoạt động dạy và học trực tuyến. Đề án cũng xác định mục tiêu đến năm 2025 là: 100% cơ sở giáo dục áp dụng hệ thống quản trị nhà trường dựa trên dữ liệu và công nghệ số; trong đó: 100% người học, 100% nhà giáo được quản lý bằng hồ sơ số với định danh thống nhất toàn quốc; 80% cơ sở vật chất, thiết bị và các nguồn lực khác phục vụ giáo dục, đào tạo và nghiên cứu được quản lý bằng hồ sơ số. 2.2. Phương pháp tiếp cận năng lực trong dạy học Dạy học theo phương pháp tiếp cận năng lực là một chủ đề rất nóng trong giáo dục ngày nay. Hầu hết các trường học đều tuyên bố là họ đang dạy học theo định hướng phát triển năng lực. Tuy nhiên khi được hỏi thế nào là dạy học dựa trên tiếp cận năng lực thì không thể định nghĩa được một cách chính xác. Do đó, việc xác định đúng đắn khái niệm dạy học theo phương pháp tiếp cận năng lực cũng như lợi ích của phương pháp này đối với mỗi trường học nói riêng và đối với hệ thống giáo dục nói chung là cần thiết. Có nhiều quan niệm khác nhau về dạy học theo hướng tiếp cận năng lực. Theo tác giả Norton [9], các dấu hiệu để nhận biết dạy học theo tiếp cận năng lực là: 427
- - Các năng lực người học cần đạt được sau khi kết thúc chương trình học được xác định rõ ràng, thẩm định và công bố cho người học từ khi bắt đầu. - Các tiêu chuẩn, điều kiện đánh giá thành tích học tập được quy định cụ thể và cũng được công bố cho người học từ khi bắt đầu. Đánh giá dựa vào căn cứ kết quả thực hiện công việc thực tế và có đủ bằng chứng để khẳng định mức độ đạt được. - Chương trình dạy học linh hoạt, được thiết kế dựa trên sự phát triển của cá nhân. Theo quan điểm tác giả Slam [10], dạy học theo phương pháp tiếp cận năng lực có các đặc điểm sau: - Dạy học đáp ứng nhu cầu cá nhân và dựa trên sự thực hiện; - Sử dụng các tiêu chuẩn năng lực để tham chiếu cho việc đánh giá kết quả thực hiện. - Quy định thông tin phải đến người học ngay lập tức; - Chương trình chứa đựng các mục tiêu có thể đo lường được; - Các năng lực được xác định dựa trên phân tích công việc; Như vậy, đặc điểm quan trọng nhất của dạy học theo phát triển năng lực làm cho nó khác biệt là đo được “năng lực” của người học hơn là thời gian học tập. Người học thể hiện sự tiến bộ bằng cách chứng minh năng lực của mình ở mức độ làm chủ, nắm vững kiến thức, kỹ năng trong một môn học cụ thể. Các mô hình học theo phương pháp truyền thống vẫn có thể đo lường được năng lực nhưng phải dựa vào thời gian, do đó các môn học được sắp xếp theo cấp lớp theo từng kỳ học, năm học. Nếu như các trường học truyền thống đều cố định thời gian học tập (theo năm học) thì dạy học tiếp cận năng lực lại cho phép chúng ta có thể giữ nguyên việc học và để thời gian học thay đổi, linh hoạt. Như vậy, phương pháp dạy học này cho phép mọi sinh viên học tập, nghiên cứu theo tốc độ của riêng của chúng. Điều này phù hợp với thực tế là mỗi sinh viên là một cá thể độc lập, có năng lực, trình độ, nhu cầu, sở thích, và nền tảng xuất thân khác nhau. Một số người học có thể tiếp thu chậm hơn, cần nhiều thời gian hơn nhưng đối với một số SV, phương pháp dạy học tiếp cận năng lực cho phép đẩy nhanh tốc độ hoàn thành chương trình học, do đó tiết kiệm thời gian, công sức học tập. Từ những quan điểm khác nhau về dạy học theo phương pháp tiếp cận năng lực, nhóm tác giả nghiên cứu đề tài rút ra được những điểm chung thống nhất giữa các quan điểm như sau: - Dạy học theo phương pháp tiếp cận năng lực dựa trên các tiêu chuẩn được quy định cho từng nghề cụ thể. - Quá trình dạy học được thực hiện dựa trên nhịp độ học tập cá nhân. -Các năng lực mà người học cần có được sau khi kết thúc quá trình dạy học được công bố cho người học trước khi học và được xác định dựa trên yêu cầu làm việc. 428
- - Luôn có sự kết hợp hài hòa giữa lý thuyết và thực hành, kiến thức và kĩ năng thực hiện được dạy và học tích hợp trong một bài học. - Việc đánh giá kết quả học tập dựa trên tiêu chí, tiêu chuẩn nghề nghiệp. - Người học được cung cấp thông tin phản hồi kịp thời về sự phát triển của cá nhân thông qua việc đánh giá thường xuyên, liên tục, trong suốt quá trình học. Như vậy, dạy học theo phương pháp tiếp cận năng lực là quan điểm dạy học dựa trên những năng lực được quy định bởi một nghề cụ thể, từ đó đưa ra hướng dẫn về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm mục đích đảm bảo cho người học đạt được các năng lực đó. 3. Thực trạng chuyển đổi số trong giảng dạy kiểm toán theo hướng tiếp cận năng lực tại Trường Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh Trường Đại học Tài chính – Quản trị kinh doanh được thành lập vào ngày 18/9/2012 trên cơ sở hợp nhất các trường Trung cấp và Cao đẳng tiền thân hình thành từ năm 1965. Trường có bề dày lịch sử trong đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao về lĩnh vực kế toán, tài chính cho xã hội. Hiện nay, kiểm toán là ngành đào tạo có cơ hội việc làm và tỷ lệ sinh viên làm đúng chuyên ngành cao (chiếm khoảng 90%). Tuy nhiên, đây cũng là ngành đào tạo mới mẻ tại trường (đào tạo được 6 khóa sinh viên ra trường). Cho nên, phương pháp giảng dạy vẫn còn tồn tại nhiều khiếm khuyết cần khắc phục. Phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện để đạt tới mục đích nhất định. Do đó, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát về phương pháp dạy của giảng viên, phương tiện giảng dạy, cách thức tổ chức lớp học và hình thức kiểm tra đánh giá các môn học ngành kiểm toán. Qua kết quả khảo sát, nhóm nghiên cứu tổng hợp được các luận điểm sau: Một là: phương pháp giảng dạy Hiện nay, việc giảng dạy các học phần kiểm toán được thực hiện chủ yếu theo phương pháp truyền thống. Qua kỹ thuật phỏng vấn và dự giờ tiết giảng hàng năm cho thấy, giảng viên áp dụng đa dạng các phương pháp trong quá trình giảng dạy, như: thuyết trình, diễn giải, phát vấn, thảo luận nhóm (tỷ lệ 93,7%). Tuy nhiên, phương pháp chủ yếu vẫn là thuyết trình, diễn giải, mặc dù có giao nhiệm vụ cho sinh viên thảo luận nhóm nhưng chưa nhiều. Tỷ lệ thảo luận nhóm của sinh viên rất ít, có nghĩa giảng viên là người truyền thụ tri thức, là trung tâm của quá trình dạy học. Chương trình đạo tạo ngành kiểm toán bao gồm các học phần trang bị kiến thức khối ngành (kiểm toán căn bản) và kiến thức chuyên ngành (chuẩn mực kiểm toán Việt Nam; kiểm toán tài chính học phần 1, học phần 2; Kiểm toán hoạt động; kiểm soát quản lý; tổ chức quá trình kiểm toán BCTC và thực hành kiểm toán). Trong đó, các giảng viên sử dụng phương pháp chủ đạo là tiếp cận nội dung – dạy cho người học cách ghi nhớ và tái hiện kiến thức. Kể cả học phần thực 429
- hành kiểm toán, cách thức hướng dẫn của giảng viên chủ yếu dừng lại ở mục tiêu giúp học sinh ghi nhớ và thực hiện lại những thao tác đã được làm mẫu về các hàm excel trong thực hiện các thủ tục kiểm toán (tỷ lệ đồng ý 61,7%). Khi gặp các tình huống mới, chưa được thầy cô hướng dẫn, sinh viên tỏ ra lúng túng và không biết cách làm. Trong khi đó, kiểm toán là một nghề có đặc trưng cần sử dụng rất nhiều đến khả năng phân tích báo cáo tài chính; nhận diện, đánh giá rủi ro về khả năng xảy ra sai phạm trọng yếu dựa trên những xét đoán chuyên môn của các kiểm toán viên. Điều này đặt ra yêu cầu mỗi sinh viên cần có năng lực vận dụng kết hợp các kiến thức, kỹ năng và thái độ trong việc xử lý các tình huống mang tính chất mới mẻ và đa dạng khi hành nghề thực tế. Đồng thời, hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ trong Quyết định số 545/QĐ-ĐHTCQTKD ngày 18/8/2019 quy định: “Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, để tiếp thu được 1 tín chỉ (15 tiết) sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân”. Như vậy, để học được 1 tiết lý thuyết/thực hành, mỗi sinh viên phải dành ít nhất 2 giờ tự học và tìm kiếm tài liệu. Muốn vậy, bản thân sinh viên cần có khả năng tự nghiên cứu, làm việc nhóm; khả năng diễn đạt có tính thuyết phục cao. Giảng viên cần lấy người học làm trung tâm, giao nhiệm vụ, đặt vấn đề và định hướng giúp người học tự nghiên cứu. Do đó, phương pháp dạy học truyền thống với cách thức tương tác chủ yếu một chiều (giáo viên – sinh viên) chưa phát triển được năng lực cho người học một cách triệt để; tạo ra những con người không có tính tư duy, sáng tạo và linh hoạt trong hành nghề kiểm toán sau khi ra trường. Hai là: phương tiện giảng dạy Phương tiện dạy học là tập hợp những đối tượng vật chất được người dạy sử dụng với tư cách là những phương tiện tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của người học, thông qua đó mà thực hiện những nhiệm vụ dạy học. Phương tiện giảng dạy hết sức đa dạng và phụ thuộc vào sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Phương tiện giảng dạy bao gồm các thiết bị kỹ thuật (cơ sở vật chất) và các học liệu trí tuệ (đề cương bài giảng, câu hỏi bài tập) Về cơ sở vật chất: Nhà trường đã quan tâm đầu tư trang thiết bị phục vụ hoạt động giảng dạy khá đầy đủ. Lớp học đảm bảo công cụ hỗ trợ (micro, máy chiếu, bảng Flip Board, phấn). Ngoài giờ lên lớp, sinh viên có thể tự học ở nhà hoặc cùng nhau trao đổi về những bài tập lớn tại thư viện của trường ở cả hai cơ sở, với sự trang bị 65 chiếc máy tính để bàn được kết nối mạng internet. Hiện tại nhà trường có 10 phòng máy, được trang bị tổng số 338 máy tính để bàn nhằm phục vụ việc thực hành các môn về tin học, kế toán máy và thực hành kiểm toán. Đầu năm 2022, Nhà trường đã trang bị thí điểm màn hình tương tác điện tử thông minh INFOCUS INF7500 với nhiều tính năng hiện đại. Màn hình này với ưu điểm nổi bật là tích hợp được chức năng của bảng trắng và màn chiếu. Nếu như bảng tương tác truyền thống phải cần tới máy chiếu thì màn hình tương tác thông 430
- minh có tất cả trong một (Màn hình cảm ứng tương tác, máy vi tính - Mini PC, không cần máy chiếu) tương tác đơn điểm, đa điểm với độ phân giải cao, chống lóa cho người học. Đồng thời, màn hình INF7500 thu hẹp khoảng cách giao tiếp, tăng cường hiệu quả làm việc nhóm, lưu và chia sẻ thông tin, tiết kiệm thời gian và tiền bạc. Màn hình này có thể tăng động lực của những người tham gia cuộc họp / bài học, kết nối người tham gia với màn hình bằng thiết bị di động của riêng họ và trải nghiệm niềm vui khi làm việc nhóm. Điều này thể hiện sự tiến bộ trong tư duy và tầm nhìn của Ban Giám hiệu trong việc thực hiện chuyển đổi số nhằm thay đổi phương pháp giảng dạy. Về học liệu trí tuệ: Thư viện của trường thường xuyên cập nhật các đầu sách giáo trình, luận văn, tạp chí và các tài liệu tham khảo khác để phục vụ việc học tập của sinh viên và nghiên cứu của giảng viên. Tuy vậy, trong quá trình học, có tới 74,19% sinh viên cho rằng khó khăn của họ gặp phải khi học các môn ngành kiểm toán nói riêng và các môn học khác nói chung là do giáo trình được phát quá muộn, thậm chí học quá nửa học kỳ rồi sinh viên mới nhận được sách. Trong năm học 2020 -2021, do tác động của đại dịch covid 19, trung tâm thông tin và thư viện đã triển khai đăng ký tài liệu tới các lớp sinh viên qua nền tảng số của các ứng dụng trên google. Toàn bộ tài liệu cung cấp cho sinh viên đều là các cuốn sách bản cứng và thực hiện qua kênh chuyển phát nhanh đến địa chỉ đã đăng ký. Do vậy, mặc dù không đến trường học trực tiếp nhưng sinh viên vẫn có đầy đủ tài liệu cho học tập. Tuy nhiên, độ trễ trong thời gian tiếp nhận tài liệu của sinh viên là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, việc biên soạn hệ thống câu hỏi và bài tập Môn kiểm toán căn bản, kiểm toán tài chính học phần 1 triển khai và hoàn thành trong năm 2018 đã góp một phần vào cung cấp học liệu có tính thực tiễn cho sinh viên. Các học liệu này giúp người học có nguồn tham khảo để tự học và nghiên cứu ở nhà, qua đó nâng cao chất lượng buổi học trực tiếp trên lớp. Tuy nhiên, một số môn học như: Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, thực hành kiểm toán,… hiện nay chưa có hệ thống đề cương bài giảng; câu hỏi và bài tập chính thống để sử dụng một cách nhất quán trong bộ môn. Do đó, việc cung cấp tài liệu cho sinh viên tự nghiên cứu, phục vụ hoạt động teamwork bị hạn chế. Điều này đặt ra yêu cầu cần hướng đến biên soạn hệ thống đề cương bài giảng; câu hỏi bài tập cũng như bộ dữ liệu doanh nghiệp kiểm toán ảo trong tương lai gần. Ba là: cách thức tổ chức lớp học Trước năm 2020, các lớp học nói chung và ngành kiểm toán nói riêng được tổ chức 100% theo mô hình truyền thống. Quá trình dạy và học của thầy và trò được thực hiện trực tiếp tại giảng đường, chưa có sự chuyển đổi số trong dạy học. Tuy nhiên, từ khi đại dịch Covid – 19 xuất hiện và nhanh chóng lây lan trên diện rộng, kéo theo mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội phải thay đổi sang phương thức làm việc từ xa. Ban giám hiệu đã chủ động nắm bắt tình hình, ban hành và triển khai áp dụng hình thức 431
- đào tạo trực tuyến kết hợp với trực tiếp. Qua đó, hoạt động giảng dạy và học tập của thầy và trò vẫn đảm bảo tiến độ thời gian và duy trì chất lượng tương đối ổn định. Về đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực: nhằm khắc phục những hạn chế về kinh nghiệm, tạo điều kiện cho giảng viên tích lũy thêm kiến thức thực tế và chuyển giao phương pháp giảng dạy, Ban giám hiệu Nhà trường đã liên kết với các doanh nghiệp kiểm toán. Điển hình là năm học 2016 – 2017, lớp học thực hành kiểm toán lần đầu tiên được tổ chức bởi sự liên kết giảng dạy giữa các giáo viên bộ môn kiểm toán và các kiểm toán viên Công ty TNHH Kiểm toán HDT Việt Nam. Kết thúc lớp học có sự kiểm tra, đánh giá và cho điểm khách quan từ phía các KTV và trợ lý kiểm toán của HDT Việt Nam. Trong 60 tiết của môn “Thực hành kiểm toán”, nhà trường đã phân bổ 10 tiết cho việc đi tham quan trải nghiệm để sinh viên được tiếp cận hồ sơ kiểm toán, làm quen với môi trường làm việc và văn hóa doanh nghiệp tại một số công ty như: Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ASCO, Công ty TNHH Grant Thornton, Công ty TNHH Kiểm toán và Dịch vụ Tư vấn Hà Nội… Từ khóa 3 trở đi, việc giảng dạy môn “Thực hành kiểm toán” tại trường được chuyển giao cho giảng viên bộ môn kiểm toán nhưng vẫn có đi thực tế các công ty dựa trên quan hệ từ trước. Nếu như sinh viên khóa 1 khi thực tập cuối khóa chỉ cần viết Báo cáo thực tập để thầy cô chấm điểm, thì từ khóa 2 đến nay đã khác. Sinh viên phải viết khóa luận tốt nghiệp và bảo vệ trước hội đồng để chứng minh năng lực của mình, tránh hiện tượng sao chép tràn lan. Trong đó, điểm khác biệt với nhiều trường Đại học là việc Nhà trường đã mời các Kiểm toán viên về làm thành viên hội đồng chấm khóa luận. Qua mỗi kỳ thực tập, Nhà trường sẽ nhận được ý kiến đánh giá của nhà tuyển dụng về chất lượng sinh viên do mình đào tạo; tiếp thu những nhận xét và góp ý để điều chỉnh chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy theo hướng đáp ứng với nhu cầu của thị trường lao động. Đồng thời, hành động này của Nhà trường cũng góp phần làm cầu nối giữa sinh viên với các công ty kiểm toán, vừa giúp sinh viên có cơ hội được tuyển dụng ngay nếu như bảo vệ tốt khóa luận, vừa giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí tuyển dụng mà vẫn tìm được ứng viên thích hợp cho công việc. Trong thời gian dạy và học trực tuyến do ảnh hưởng của dịch Covid, việc đi thực tế tại các doanh nghiệp kiểm toán không thực hiện được. Điều này đòi hỏi, trong thời gian tới cần có biện pháp ứng phó linh hoạt trước những điều kiện khách quan nhằm đảm bảo sinh viên vẫn hình thành được năng lực hành nghề thực tiễn thông qua mô hình doanh nghiệp kiểm toán ảo. 4. Đánh giá thực trạng chuyển đổi số trong giảng dạy kiểm toán theo hướng tiếp cận năng lực tại Trường Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh 4.1. Ưu điểm Từ thực trạng trên cho thấy, việc áp dụng chuyển đổi số trong giảng dạy kiểm toán theo hướng tiếp cận năng lực tại Trường có nhiều ưu điểm. Nhà trường đã sớm nhận 432
- thức, nắm bắt và có động thái ứng dụng chuyển đổi số trong bối cảnh dịch bệnh. Minh chứng từ việc trang bị nền tảng công nghệ số của phần mềm Zoom Meeting, đến việc tích cực triển khai liên kết với các doanh nghiệp để đưa chuẩn đầu ra danh nghĩa (do nhà trường xây dựng) tiệm cận với chuẩn đầu ra thực tế (đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng). Đặc biệt hơn, tháng 3/2022, Trường đã nhận được quyết định công nhận đạt chuẩn chất lượng giáo dục đại học. Đây chính là “mốc son” đánh dấu và khẳng định thương hiệu “Đại học Tài chính – Quản trị Kinh doanh”. Đồng thời, đó cũng là động lực để thúc đẩy quá trình đào tạo ngành kiểm toán phấn đấu đạt chất lượng như đã khẳng định. 4.2. Hạn chế Bên cạnh những ưu điểm, thực trạng việc chuyển đổi số trong giảng dạy ngành kiểm toán theo hướng tiếp cận năng lực vẫn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục: Một là: Về phương pháp giảng dạy Với tuổi đời và tuổi nghề còn trẻ nên giảng viên chủ yếu giảng dạy theo hướng truyền đạt kiến thức hàn lâm, ít có tình huống thực tiễn. Phương pháp giảng dạy chủ yếu là tiếp cận theo nội dung, chưa chú trọng hướng đến phát triển năng lực người học thông qua việc chia nhóm thảo luận. Mặc dù đã ứng dụng phần mềm Zoom trong đào tạo trực tuyến, nhưng phương pháp giảng dạy vẫn duy trì lối tư duy cũ, chỉ là hình thức thể hiện khác. Thay bảng đen phấn trắng, màn chiếu, máy chiếu bằng “màn hình phần mềm zoom” để truyền tải kiến thức. Thậm chí, việc giảng dạy trực tuyến không kiểm soát được tình trạng tham gia học của sinh viên. Nếu giảng viên không có phương pháp giảng dạy tích cực, sáng tạo, phát huy tính tự học và khơi dậy niềm đam mê học tập thì khó có thể thu hút được sự chủ động của sinh viên. Hai là: Về phương tiện giảng dạy Phương tiện giảng dạy bao gồm cơ sở vật chất là học liệu trí tuệ. Trong đó, cơ sở vật chất những năm gần đây liên tục được Nhà trường đầu tư kinh phí để cải tạo: từ khu giảng đường, trung tâm thông tin thư viện, phòng đọc sách khang trang đến cả khuôn viên tổng quan và trang thiết bị hỗ trợ giảng dạy đều được quan tâm đồng bộ. Kết quả là tạo ra diện mạo mới cho Trường và tâm lý hứng khởi cho giảng viên cũng như sinh viên trong giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, đó là chỉ là những yếu tố tích cực đối với dạy học trực tiếp. Trong bối cảnh đào tạo từ xa, trung tâm thông tin và thư viện trường vẫn tổ chức theo mô hình truyền thống, phát sách chậm trễ ảnh hưởng đến quá trình học. Mặc dù Trường đã triển khai xây dựng hệ thống thư viện điện tử nhưng chỉ dừng lại ở việc thống kê các đầu sách hiện có và số lượng cụ thể. Chưa có các tài liệu học tập và tham khảo được số hóa để có thể tra cứu và đọc trực tiếp bằng file mềm. Giáo trình dùng trong giảng dạy đa phần đều sử dụng của các trường lớn, năm xuất bản đã cũ (những năm 433
- 2011, 2013, 2014), chưa kịp cập nhật theo định hướng áp dụng IFRS. Bên cạnh đó, một số môn học ngành kiểm toán chưa có Đề cương bài giảng, hệ thống câu hỏi và bài tập cũng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giảng dạy và học tập như đã nêu ở phần thực trạng. Ba là: Về cách thức tổ chức lớp học Tuy đã có các hoạt động liên kết đào tạo nhưng do thời gian có hạn và tính bảo mật trong yêu cầu về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán nên chất lượng các buổi tham quan thực tế tại doanh nghiệp chưa cao. Chưa có các văn bản ràng buộc rõ ràng về điều kiện hợp tác, cơ chế, quyền lợi và trách nhiệm giữa Nhà trường với doanh nghiệp. Đặc biệt, trong bối cảnh đào tạo từ xa do ảnh hưởng của dịch Covid 19, việc đi trải nghiệm thực tế tại các công ty kiểm toán đã không được thực hiện. Điều này đã gây khó khăn trong việc hình thành thế giới quan cho sinh viên về văn hóa doanh nghiệp, năng lực nhận diện và xét đoán các tình huống thực tiễn trong kiểm toán. Bên cạnh đó, đào tạo trực tuyến chưa được coi là một hình thức đào tạo chính thức, mà chỉ là giải pháp tình thế để khắc phục ảnh hưởng của dịch bệnh. Ngoài ra, nhà trường cũng chưa liên kết với các Hiệp hội nghề nghiệp trong công tác đào tạo. 5. Giải pháp chuyển đổi số trong giảng dạy kiểm toán theo hướng tiếp cận năng lực tại Trường Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh Để khắc phục những hạn chế đã nêu, nhóm tác giả xin đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo ngành kiểm toán tại Trường Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh như sau: Một là: Thay đổi phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận năng lực Đội ngũ cán bộ giảng dạy quyết định sự tồn tại và phát triển của trường. Do đó, Nhà trường nên tạo điều kiện về thời gian và hỗ trợ kinh phí để giảng viên tham gia các lớp Thực hành kiểm toán và tập huấn do Hiệp hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam tổ chức. Bên cạnh đó, nhà trường cũng nên cân nhắc chế độ đãi ngộ để thu hút các trợ lý kiểm toán, KTV về thỉnh giảng hoặc trợ giảng. Cho dù là giảng viên là ai thì cũng cần chú trọng đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát triển năng lực người học; gia tăng hoạt động nhóm thông qua việc xây dựng ngân hàng tình huống thực hành. Khi sinh viên được giao nhiệm vụ thảo luận nhóm và có hình thức động viên xứng đáng sẽ thay đổi được tâm thế bị động nghe giảng bằng trạng thái chủ động và hăng hái trong học tập. Điều này giúp sinh viên vừa có thể đào sâu tìm hiểu kiến thức chuyên môn vừa nâng cao kỹ năng thuyết trình trước đám đông, bảo vệ quan điểm của nhóm mình và thuyết phục được người nghe. Hai là: Phương tiện giảng dạy Đại dịch Covid -19 có tính hai mặt. Một mặt tạo ra khó khăn khi các chỉ thị của Chính phủ yêu cầu giãn cách xã hội, mọi lĩnh vực hoạt động đều phải chuyển sang 434
- phương thức làm việc từ xa. Mặt khác, nó lại là cú hích, thúc đẩy các nhà quản lý nói chung và quản lý giáo dục nói riêng thay đổi tư duy – làm việc từ xa không còn là giải pháp tình thế mà sẽ là xu thế tất yếu của thời đại. Sau này, ngay cả khi đại dịch có dấu hiệu lắng xuống, với sự phát triển bùng nổ của cách mạng công nghiệp 4.0, phương thức đào tạo từ xa cần được đưa vào áp dụng như một kênh đào tạo chính thống của Trường. Muốn vậy, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cần được đầu tư cả thiết bị phần cứng lẫn nền tảng phần mềm để có thể số hóa các tài liệu học tập (giáo trình, đề cương bài giảng, câu hỏi và bài tập,…); đảm bảo đường truyền mạng internet có tốc độ ổn định, không bị gián đoạn. Ngoài ra, cần triển khai áp dụng và nâng cấp tính năng của thư viện điện tử để việc tra cứu và khai thác tài liệu được tiện lợi, nhanh chóng. Các tài liệu học tập có thể truy cập bằng file mềm và thu phí theo lượt truy cập. Đồng thời, bộ môn kiểm toán cần có kế hoạch và khẩn trương thực hiện biên soạn bộ dữ liệu về doanh nghiệp kiểm toán ảo để sử dụng rộng rãi trong các môn học do bộ môn đảm nhiệm. Qua đó góp phần cung cấp tài liệu cho sinh viên có cơ hội được va chạm với các tình huống thực tế, nâng cao khả năng xét đoán, phát hiện và giải quyết vấn đề. “Kiểm toán số” cũng có thể là môn học nên được xem xét bổ sung trong chương trình đào tạo, để có thể tạo ra những trợ lý kiểm toán tương lai có năng lực tự học, tự nghiên cứu, sáng tạo và có khả năng ứng dụng công nghệ số vào hành nghề. Đây chính là mục tiêu của phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận năng lực Ba là: Cách thức tổ chức lớp học Thời gian tới, dựa trên quan hệ truyền thống từ trước, Nhà trường có thể đàm phán để đi đến ký kết các hợp đồng đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp. Điều này có thể giúp giáo viên nắm được yêu cầu của người sử dụng lao động, từ đó điều chỉnh giáo án và phương pháp giảng dạy theo hướng “nhắm trúng đích”. Các hợp đồng liên kết này có thể thực hiện đối với cả giáo viên và sinh viên. Vào những mùa kiểm toán hằng năm, nhà trường nên cử giáo viên đi kiểm toán thực tế cùng với công ty kiểm toán để có thể cập nhật kiến thức chuyên môn, rèn luyện kỹ năng tin học và tiếng anh. Đồng thời, mỗi khóa học, Nhà trường căn cứ vào tình hình thực tế để ký kết các hợp đồng đào tạo theo phân khúc cung cấp lao động kiểm toán cho các công ty kiểm toán vừa và nhỏ. Bởi nguồn sinh viên đầu vào của Nhà trường có xuất phát điểm trình độ thấp hơn các trường lớn, nên phân khúc các công ty kiểm toán vừa và nhỏ được coi là phù hợp. Mặt khác, Nhà trường cũng nên có lộ trình để liên kết đào tạo với các tổ chức nhằm cấp chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế cho sinh viên như Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh Quốc (ACCA) qua hình thức mời giảng viên về giảng hoặc gửi sinh viên đi học. Việc đưa đào tạo trực tuyến là một hình thức đào tạo chính thống của trường cũng nên xem xét để kết hợp với đào tạo trực tiếp. Với hình thức này, Nhà trường có thể mở các lớp hệ đào tạo từ xa, thích 435
- hợp cho các đối tượng đã đi làm hoặc vì nhu cầu cá nhân muốn có bằng đại học nhưng không có điều kiện đi học trực tiếp. 6. Kết luận Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, sức ép cạnh tranh trở nên gay gắt và áp lực không chỉ giữa các công ty kiểm toán mà còn cả các cơ sở đào tạo kiểm toán. Trường Đại học – Tài chính Quản trị Kinh doanh là ngôi trường non trẻ trong lĩnh vực đào tạo kiểm toán. Điều này càng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức đối với công tác giảng dạy. Câu hỏi “làm sao để nâng cao chất lượng giảng dạy ngành kiểm toán” luôn thường trực trong Ban giám hiệu nói chung, Khoa, bộ môn nói riêng. Bởi cơ chế tự chủ ngày càng được áp dụng tại các cơ sở đào tạo công lập, trong đó có Trường Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh. Như vậy, vấn đề tuyển sinh đầu vào muốn đạt được chỉ tiêu mong muốn cần có minh chứng bằng sản phẩm đầu ra. Không có một hình thức tuyên truyền, quảng bá tuyển sinh nào có hiệu quả bằng tỷ lệ sinh viên sau khi ra trường có việc làm. Với kết quả nghiên cứu trên đây, nhóm tác giả đã đóng góp một số giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong giảng dạy kiểm toán theo hướng tiếp cận năng lực tại Trường Đại học Tài chính – Quản trị Kinh doanh. Từ đó góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của nhà trường. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chính phủ (2022), Quyết định số 131/QĐ-TTg của Thủ tướng: Phê duyệt Đề án "Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 - 2025, định hướng đến năm 2030" 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Tự đánh giá trong kiểm định chất lượng GDĐH, Tài liệu tập huấn Bộ Giáo dục và Đào tạo. 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT, “Ban hành quy định về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học”. 4. Đường Thị Quỳnh Liên (2021), “Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần Kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn”, Trang tin điện tử Hiệp hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam ngày 21/05/2021 5. Nguyễn Thị Nga (2019), “Dạy học theo phương pháp tiếp cận năng lực người học tại trường ĐH – vai trò và giải pháp”, Trường ĐH Khánh Hòa tháng 05/2019. 6. Trần Phước (2017), “Đổi mới và tiếp cận phương pháp giảng dạy các môn Kế toán theo IFRS dựa vào các nguyên tắc Kế toán chung được thừa nhận (GAAP) hay khuôn mẫu Kế toán” – http://ifrsvietnam.vn ngày 29/07/2017 7. Vũ Thị Anh Phương (2020), “Giới thiệu, so sánh các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại”, Các phương pháp dạy học truyền thống – tháng 09/2020. 436
- 8. Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh (2019), Quyết định số 545/QĐ-ĐHTCQTKD ngày 18 tháng 8 năm 2019 của Hiệu trưởng Trường Đại học Tài chính - Quản trị Kinh doanh về chương trình đào tạo 9. Norton RE (1987) Competency – Based Education and Training: A Humanistic and Realistic Approach to technical and Vocational Instruction. Paper presented at the Regional Workshop on Technical/Vocational Teacher Training in Chiba City, Japan 10. Slam, (1971), Perpormance, Based Teacher Education: What is the state of the Art? American Association of Colleges of Teacher Education, Washington, DC. 437
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sở hữu toàn dân về đất đai, một góc nhìn khác
3 p | 116 | 25
-
Kiểm soát ngân hàng: Lòng tham vô hiệu quy định
4 p | 89 | 15
-
Bài giảng Tài chính phát triển: Bài 7 - Chuyển đổi số và hệ thống tài chính
11 p | 12 | 7
-
Các văn bản hướng dẫn và kỹ năng quản lý tài chính kế toán dành cho chủ tài khoản và kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp: Phần 2
108 p | 13 | 7
-
Bài giảng Tổ chức công tác kế toán: Phần 1 - Trường ĐH Lâm nghiệp
83 p | 51 | 7
-
Bài giảng Tài chính phát triển: Bài 9 - Fintech và huy động vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
40 p | 16 | 6
-
Đổi mới phương pháp giảng dạy kế toán trong bối cảnh chuyển đổi số tại trường Đại học Hải Phòng
12 p | 11 | 6
-
Ưu điểm của thuế GTGT: - So với thuế doanh thu thì không trùng lắp - Chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm, không tính vào giá vốn - Khuyến khích xuất khẩu hàng hóa - Hạn chế thất thu thuế - Hạn chế sai sót, gian lận trong việc ghi chép hóa đơn - Góp phần giúp Việt Nam hội nhập với thế giới
54 p | 157 | 6
-
Đào tạo nhân lực kế toán, kiểm toán trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
4 p | 10 | 4
-
Nghiên cứu và giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành kế toán trước xu thế hội tụ kế toán quốc tế trong kỉ nguyên số
11 p | 27 | 3
-
Tích hợp số hoá trong kiểm toán vào chương trình giảng dạy ở các trường đại học tại Việt Nam
3 p | 6 | 3
-
Đổi mới đào tạo kế toán tại các trường đại học Việt Nam nhằm đáp ứng tiêu chuẩn của kế toán viên chuyên nghiệp
9 p | 3 | 2
-
Ảnh hưởng của quá trình chuyển đổi số đối với nghề kế toán và giảng dạy kế toán
7 p | 5 | 2
-
Nâng cao hiệu quả giảng dạy học phần nguyên lý kế toán cho sinh viên ngành kế toán tại trường Đại học Kinh tế Nghệ An
6 p | 67 | 2
-
Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần Kế toán thuế theo hướng tiếp cận thực tiễn
8 p | 21 | 2
-
Học viện Ngân hàng tiếp tục giai đoạn đổi mới nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
6 p | 59 | 1
-
Trao đổi về ứng dụng Microsoft Excel trong giảng dạy chuyên ngành kế toán
12 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn