Nguyễn Thị Thảo<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
188(12/3): 187 - 192<br />
<br />
CÔNG TÁC GIÁO DỤC HỌC SINH CHẬM TIẾN CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM<br />
Nguyễn Thị Thảo*<br />
Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Giáo dục học sinh chậm tiến là một nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm (GVCN). Tuy nhiên,<br />
đây là công việc rất khó khăn và phức tạp. Tiếp cận với học sinh và đưa ra những biện pháp giáo<br />
dục là một việc quan trọng giúp các em có đầy đủ năng lực và phẩm chất, có khả năng hoà nhập và<br />
thích ứng năng động, sáng tạo với cuộc sống mới. Muốn giáo dục tốt cho học sinh trong lớp chủ<br />
nhiệm nói chung và học sinh chậm tiến bộ nói riêng, người GVCN khi nhận lớp đều phải kiểm tra<br />
cơ bản học sinh. Sau đó, GVCN xem trong lớp có học sinh chậm tiến bộ không, chậm tiến bộ ở<br />
mặt nào và hoàn cảnh nào, từ đó đề ra các biện pháp giáo dục tích cực và xây dựng kế hoạch công<br />
tác chủ nhiệm cho phù hợp.<br />
Từ khóa: Giáo dục, học sinh, học sinh chậm tiến, giáo viên chủ nhiệm, lớp chủ nhiệm<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ*<br />
<br />
Kết quả nghiên cứu lý thuyết<br />
<br />
Việc giáo dục thế hệ trẻ trở thành những<br />
người công dân, người lao động có đủ phẩm<br />
chất và năng lực, có khả năng hoà nhập và<br />
thích ứng năng động và sáng tạo với cuộc<br />
sống đang thay đổi nhanh chóng là vấn đề đặt<br />
ra đối với toàn xã hội, đặc biệt là trong nhà<br />
trường. Giáo dục học sinh không chỉ quan<br />
tâm về mặt trí thức, kỹ năng cho thế hệ trẻ mà<br />
cần phải giáo dục cho các em về mặt tình cảm<br />
đạo đức để các em trở thành các học trò chăm<br />
ngoan, có nhân cách phát triển toàn diện. Để<br />
hoàn thành nhiệm vụ này, trong những năm<br />
gần đây các nhà trường trong cả nước nói<br />
chung và trường THPT nói riêng đã không<br />
ngừng củng cố, nâng cao chất lượng dạy và<br />
học, nâng cao đội ngũ giáo viên, tuyển chọn<br />
đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất và năng<br />
lực, nhất là GVCN. Đặc biệt khi trong lớp có<br />
học sinh chậm tiến bộ thì nhiệm vụ của người<br />
GVCN lại càng quan trọng hơn rất nhiều.<br />
Người GVCN phải có trách nhiệm giáo dục<br />
các học sinh đó trở thành những học trò<br />
ngoan, học giỏi, có tri thức, phẩm chất đạo<br />
đức tốt, để sau này các em trở thành những<br />
công dân có ích, có thể cống hiến một phần<br />
sức lực của mình vào công cuộc xây dựng và<br />
bảo vệ tổ quốc.<br />
<br />
Học sinh chậm tiến là những học sinh có biểu<br />
hiện về thái độ và hành vi không đúng với<br />
những quy định của nhà trường, những chuẩn<br />
mực của xã hội. Thực tế chó thấy có những<br />
học sinh điều kiện gia đình đầy đủ của cải, vật<br />
chất, cha mẹ họ muốn con em mình học hành<br />
đến nơi đến chốn, nhưng học sinh đó lại<br />
muốn ăn chơi đua đòi, lười học, kiến thức bị<br />
rơi dụng dần, chán học rồi có những hành vi<br />
ngang ngược, nối dối thầy cô, cha mẹ, bạn bè,<br />
thậm chí có những học sinh hỗn láo, vô lễ đối<br />
với thầy cô, cha mẹ.[2]<br />
<br />
NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
*<br />
<br />
Tel: 0918 306582, Email: thaont@tnu.edu.vn<br />
<br />
Việc giáo dục học sinh chậm tiến là một công<br />
việc rất khó khăn và phức tạp. Muốn giáo dục<br />
được học sinh đó, người GVCN phải hiểu<br />
được nguyên nhân dẫn đến những biểu hiện<br />
chậm tiến của học sinh. Lứa tuổi học sinh phổ<br />
thông là lứa tuổi thanh niên mới lớn, các em<br />
đang và mới bắt đầu cảm nhận thế giới xung<br />
quanh bằng những vốn tri thức của mình. Các<br />
em luôn tự khẳng định mình trong cuộc sống,<br />
những suy nghĩ của các em vẫn còn nông nổi.<br />
Vì vậy, việc làm của các em nhiều khi không<br />
phù hợp với những yêu cầu của thực tế, của<br />
tập thể, của xã hội. Đồng thời, ở lứa tuổi này,<br />
khi không đạt được kết quả như mình mong<br />
muốn các em thường có biểu hiện chán nản,<br />
tự ti. Cũng từ đó mà các em bị tách rời khỏi<br />
tập thể. Ngoài ra, các em còn nhiều mối quan<br />
hệ khác ngoài xã hội, trong gia đình mà<br />
187<br />
<br />
Nguyễn Thị Thảo<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
những mối quan hệ đó ảnh hưởng rất lớn đến<br />
việc hình thành nhân cách của các em. Vì<br />
vậy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến những<br />
biểu hiện chậm tiến ở học sinh, người GVCN<br />
phải đi sâu tìm hiểu những nguyên nhân đó để<br />
có những biện pháp giáo dục kịp thời và có lộ<br />
trình triển khai phù hợp, mang lại kết quả cao<br />
nhất. [1] [2] [3]<br />
Việc giáo dục học sinh chậm tiến đòi hỏi<br />
GVCN phải nắm vững những thông tin về<br />
biểu hiện của học sinh để phân loại học sinh<br />
chậm tiến. Trên cơ sở phân loại đó, giáo viên<br />
phải cần có biện pháp giáo dục kịp thời, giúp<br />
các em tìm ra được nhược điểm của mình và<br />
khắc phục những mặt nhược điểm, hạn chế đó<br />
một cách dần dần. Từ đó, các em có thể trở<br />
thành những học sinh tốt, biết thực hiện đúng<br />
chức năng, nhiệm vụ của mình theo yêu cầu<br />
của tập thể.<br />
Việc giáo dục học sinh, đặc biệt là học sinh<br />
chậm tiến đòi hỏi người GVCN phải kiên trì,<br />
* Bảng hệ thống học sinh chậm tiến<br />
TT<br />
1<br />
2<br />
3<br />
4<br />
5<br />
<br />
Họ và tên<br />
Nguyễn Xuân A<br />
Phạm Thái B<br />
Trần Bá C<br />
Cao Thanh D<br />
Nguyễn Văn E<br />
<br />
Tuổi<br />
16-17<br />
16-17<br />
16-17<br />
16-17<br />
16-17<br />
<br />
188(12/3): 187 - 192<br />
<br />
bền bỉ, thận trọng, có phương pháp, lòng yêu<br />
nghề và yêu thương học sinh.<br />
Kết quả nghiên cứu thực tiễn. [3]<br />
Tình hình học sinh chậm tiến trong lớp.<br />
Nhìn chung học sinh trong các tập thể lớp ở<br />
trường Trung học phổ thông đa phần đều là<br />
những học sinh ngoan. Các em đoàn kết,<br />
giúp đỡ nhau về mọi mặt. Tập thể lớp có<br />
phong trào học tập cũng như rèn luyện khá<br />
tốt. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những<br />
học sinh chậm tiến với những biểu hiện<br />
chưa tốt và thường xuyên vi phạm nội qui<br />
của nhà trường.<br />
Kết quả nghiên cứu, điều tra<br />
Kết quả điều tra về học sinh chậm tiến tại một<br />
tập thể lớp qua 2 năm làm chủ nhiệm của<br />
GVCN tại Trường THPT trên địa bàn tỉnh<br />
Thái Nguyên, cho thấy học sinh chậm tiến bộ<br />
có những biểu hiện: chậm tiến về học tập;<br />
chậm tiến về đạo đức.<br />
Giới tính<br />
Nam<br />
Nam<br />
Nam<br />
Nam<br />
Nam<br />
<br />
Nghề của cha<br />
Công nhân<br />
Bộ đội<br />
Công nhân<br />
Công nhân<br />
Nông dân<br />
<br />
Nghề của mẹ<br />
Nội trợ<br />
Bộ đội<br />
Buôn bán<br />
Buôn bán<br />
Nông dân<br />
<br />
* Hành vi vi phạm của học sinh về mặt đạo đức<br />
TT<br />
1<br />
2<br />
3<br />
4<br />
<br />
Họ và tên<br />
Nguyễn Xuân A<br />
Phạm Thái B<br />
Trần Bá C<br />
Cao Thanh E<br />
<br />
Nói dối<br />
Có<br />
Có<br />
Có<br />
Có<br />
<br />
Đánh nhau<br />
01<br />
0<br />
01<br />
0<br />
<br />
Vô lễ với GV<br />
Không<br />
Không<br />
Không<br />
Không<br />
<br />
Nói tục<br />
Thường xuyên<br />
Đôi khi<br />
Đôi khi<br />
Đôi khi<br />
<br />
Đi học muộn<br />
Có<br />
Có<br />
Có<br />
Có<br />
<br />
* Hành vi vi ph¹m của học sinh về mặt học tập<br />
TT<br />
1<br />
2<br />
3<br />
4<br />
5<br />
<br />
Họ và tên<br />
Nguyễn Xuân A<br />
Phạm Thái B<br />
Trần Bá C<br />
Cao Thanh D<br />
Nguyễn Văn E<br />
<br />
Số tiết<br />
bỏ giờ<br />
3<br />
4<br />
2<br />
3<br />
0<br />
<br />
Mất trật tự<br />
Nhiều lần<br />
Thường xuyên<br />
Nhiều lần<br />
Nhiều lần<br />
Không<br />
<br />
Không học bài và làm bài<br />
ở nhà<br />
Thường xuyên<br />
Thường xuyên<br />
Thường xuyên<br />
Thường xuyên<br />
Đôi khi<br />
<br />
Quay bài<br />
Đôi khi<br />
Đôi khi<br />
Đôi khi<br />
Đôi khi<br />
Đôi khi<br />
<br />
Những biểu hiện chậm tiến của những học sinh trên<br />
Qua tìm hiểu giáo viên bộ môn, tìm hiểu gia đình và điều tra quan sát trong lớp, các em học sinh<br />
chậm tiến có những biểu hiện sau:<br />
3.1- Em Nguyễn Xuân A<br />
188<br />
<br />
Nguyễn Thị Thảo<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
A là một học sinh chậm tiến cả về mặt học tập<br />
lẫn đạo đức, em luôn có những biểu hiện<br />
ngang bướng, lười học, trong lớp không chú ý<br />
nghe giảng mà thường xuyên làm việc riêng,<br />
mất trật tự, hay nói tự do, vô tổ chức, không<br />
trung thực. A cũng thường xuyên vi phạm nội<br />
quy của nhà trường như đi muộn, nghỉ học<br />
không lý do, nói tục, chửi bậy, ham chơi điện<br />
tử, đua đòi không phù hợp với điều kiện gia<br />
đình, đã có lần bị đối tượng bên ngoài gây gổ<br />
đánh nhau. Kết quả học tập cũng như hạnh<br />
kiểm của em thường ở mức trung bình- yếu.<br />
Qua tìm hiểu GVCN thấy học sinh A có hoàn<br />
cảnh như sau: Gia đình có bố làm công nhân<br />
may đi làm cách nhà 10km, mẹ đi lao động<br />
nước ngoài nên việc dạy bảo con cái là do<br />
một mình bố A quán xuyến, bố A cũng không<br />
có thời gian vì ông thường đi làm từ sáng sớm<br />
đến tối mới về. Vì vậy, việc sử dụng thời gian<br />
trong một ngày là do A tự quyết định. Qua<br />
tìm hiểu được biết ngày học tiểu học đến đầu<br />
THCS A là học sinh ngoan và học giỏi, nhưng<br />
từ cuối những năm học THCS A bắt đầu sa<br />
sút về học tập và đạo đức. Mặc dù rất nghiêm<br />
khắc với con nhưng vì mải làm ăn nên bố A<br />
không có thời gian chú ý đến việc học hành<br />
của con cái, không thường xuyên kiểm tra<br />
hướng dẫn và khuyên bảo con cái học tập. A<br />
được giám sát bởi một người bác họ ở cạnh<br />
nhà về việc đi về học đúng giờ hay không,<br />
nhưng gia đình không biết rằng ngoài thời<br />
gian lên lớp ra thì con cái họ còn tham gia vào<br />
các hoạt động khác của nhà trường và rất<br />
nhiều hoạt động của xã hội vì vậy việc quản lí<br />
chúng ra sao thì cha mẹ học sinh có vai trò<br />
quan trọng. Cha mẹ A đã vô tình quên mất vai<br />
trò giáo dục của gia đình trong quá trình hình<br />
thành và phát triển nhân cách của em. Dần<br />
dần A đã trở thành người hay nói dối, đua đòi<br />
hay đi chơi cùng các đối tượng xấu ngoài xã<br />
hội, học tập ngày một sa sút.<br />
3.2- Em Phạm Thái B<br />
B là học sinh trường khác chuyển đến, em<br />
có thể hình cao lớn khoẻ mạnh, học lực khá<br />
nên dễ gây thiện cảm với mọi người. Thời<br />
gian đầu, B chưa có biểu hiện gì về mặt đạo<br />
đức nhưng bắt đầu lười học, cẩu thả, trong lớp<br />
rất hay mất trật tự. GVCN tìm cách liên lạc<br />
với gia đình nhưng không được, viết giấy báo<br />
<br />
188(12/3): 187 - 192<br />
<br />
cáo về gia đình thì vẫn nhận được thông tin<br />
phản hồi ngược lại. Sau một học kỳ kết quả<br />
học tập bị sa sút, em bị thi lại môn Toán môn học sở trường của em.<br />
Qua tìm hiểu và đến thăm gia đình GVCN<br />
được biết cha mẹ B là bộ đội, thời gian đi làm<br />
ở đơn vị nhiều, phần vì chủ quan con học khá<br />
nên chỉ đầu tư tài chính cho em học mà không<br />
chú ý giám sát em, lợi dụng sự chủ quan của<br />
cha mẹ B dần sinh ra lười học và hay nói dối.<br />
Những thông tin của GVCN không đến được<br />
với gia đình vì B đã nhờ người khác xác nhận<br />
vào báo cáo rồi gửi lại cho GVCN, phần<br />
GVCN thì yên tâm vì gia đình B đã biết về<br />
tình hình của học sinh. Gần đây, B hay nói<br />
chuyện riêng trong lớp và rất lười học bài,<br />
hay nói dối và đặc biệt rất cẩu thả. Nếu không<br />
có những biện pháp giáo dục thích hợp giúp<br />
em thì em sẽ nhanh chóng trở nên hư hỏng.<br />
3.3- Em Trần Bá C<br />
Ở lớp em C là một học sinh nhìn bề ngoài có<br />
thể thấy em ngoan, thông minh nhưng tìm<br />
hiểu mới thấy em là một học sinh lười học và<br />
cẩu thả, không học bài nên thường bị điểm<br />
kém khi kiểm tra, làm mất điểm thi đua của<br />
lớp. Bên cạnh đó em còn đi học muộn, trong<br />
lớp hay mất trật tự cô giáo Chủ nhiệm cũng<br />
như các thầy cô giáo bộ môn nhắc nhở nhiều<br />
lần nhưng em chỉ vâng dạ rất ngoan nhưng rồi<br />
vẫn chứng nào tật ấy. Có đôi lần GVCN gặp<br />
C ngồi quán ở vỉa hè và có dấu hiệu hút thuốc<br />
lá, uống rượu, GVCN nhắc nhở thì C cho<br />
rằng ngồi quán uống nước không có gì là xấu<br />
và không thừa nhận việc có sử dụng thuốc lá<br />
và rượu.<br />
Qua tìm hiểu thấy gia đình em là một gia đình<br />
cơ bản. Bố mẹ em cũng khá quan tâm đến<br />
việc học của con cái. Bố mẹ C tâm sự "Tôi<br />
quan tâm đến việc học tập của con cái nhưng<br />
chỉ biết tạo điều kiện về thời gian cùng vật<br />
chất và quản lý việc học ở nhà buổi tối, còn<br />
hướng dẫn nó học thế nào, làm bài thế nào thì<br />
tôi chịu vì trình độ của chúng tôi không thể<br />
dạy và kiểm tra được nó ”.<br />
Như vậy em C về nhà không có sự chỉ bảo<br />
học tập, đến lớp bị điểm kém nên dần dần em<br />
chán học sinh ra mất trật tự trong lớp làm ảnh<br />
hưởng đến các bạn xung quanh, lại hay ngồi<br />
189<br />
<br />
Nguyễn Thị Thảo<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
quán nước có dấu hiệu không lành mạnh để<br />
lâu tình trạng này rất nguy hiểm.<br />
3.4- Em Cao Thanh D<br />
Ở lớp em D thường xuyên mất trật tự, không<br />
học bài hay nói dối GVCN, đôi lần nghỉ học<br />
không phép và bỏ giờ. Gia đình em ở huyện<br />
Phú Lương, là gia đình nề nếp, cha mẹ rất<br />
quan tâm đến việc học hành của com, muốn<br />
tạo điều kiện tốt cho D học tập nên bố mẹ<br />
đành gửi con về ở với ông bà nội dưới thành<br />
phố. D vốn là học sinh ngoan nhưng từ khi về<br />
ở với ông bà vì biết ông bà già yếu không<br />
giám sát được nên sinh ra lười học, hay ăn<br />
quà và hay nói dối ông bà để đi chơi. Đến lớp,<br />
em không học bài hay mất trật tự, lười lao<br />
động và cẩu thả trong nhiều hoạt động.<br />
3.5- Em Nguyễn Văn E<br />
E là học sinh ở trường khác chuyển về, em<br />
vốn là người hiền lành, lầm lì ít nói và đặc<br />
biệt không hoà nhập, hoà đồng với tập thể<br />
lớp. GVCN quan sát thấy em không có gì<br />
chuyển biến và đặc biệt hơn nữa là có vẻ em<br />
rất thích học nhưng lại học rất yếu, qua tìm<br />
hiểu GVCN thấy hoàn cảnh gia đình em rất<br />
vất vả, nhà ở huyện Phú Bình có hai anh em,<br />
cha mẹ không có việc làm ổn định và đặc<br />
biệt là không có đất đai để canh tác, sản xuất<br />
nông nghiệp. Bố em lại bị vấn đề về thần<br />
kinh nên sáng đi học chiều về E phải đi làm<br />
thuê bất cứ việc gì cùng mẹ, cả nhà chỉ trông<br />
vào những đồng tiền ít ỏi từ việc làm thuê<br />
của mẹ và E. Chính vì thế mặc dù rất thích<br />
học nhưng E không có thời gian để học nên<br />
kiến thức rơi dụng dần, học yếu; phần vì mặc<br />
cảm về hoàn cảnh gia đình nên em không<br />
hoà nhập với bạn bè.<br />
Một số biện pháp giáo dục học sinh chậm<br />
tiến của GVCN<br />
Với lòng nhiệt tình của một GVCN lớp, với<br />
kinh nghiệm tĩnh lũy được trong quá trình<br />
công tác GVCN sẽ có những biện pháp giáo<br />
dục thích hợp với từng học sinh, cụ thể là:<br />
Đối với em A, GVCN chủ động thường xuyên<br />
liên lạc với gia đình, gặp gỡ trao đổi với cha<br />
A để đề ra biện pháp giáo dục về đạo đức và<br />
học tập của em. GVCN đề nghị gia đình bố trí<br />
thời gian học ở nhà, có nơi học tập cho em,<br />
190<br />
<br />
188(12/3): 187 - 192<br />
<br />
đặc biệt là những thời gian em tham gia các<br />
hoạt động ngoại khoá, thời gian rỗi. Gia đình<br />
cần dành nhiều thời gian hơn cho con, quan<br />
tâm nhiều hơn đến A, uốn nắn cho con cách<br />
nói năng với người lớn tuổi, thậm chí cả cách<br />
ăn mặc khi tới trường. Ở lớp, GVCN để A<br />
ngồi cạnh những học sinh ngoan và GVCN<br />
nhờ một số học sinh bí mật quan sát A và báo<br />
cáo cho GVCN ngay những biểu hiện bất<br />
thường của A. GVCN luôn gần gũi nói<br />
chuyện, khuyên bảo và yêu cầu mỗi tuần A<br />
nộp cho GVCN một bản kiểm điểm. Nếu như<br />
trước đây tuần nào A cũng bị phê bình thì một<br />
thời gian sau đó, A tự hào khoe với GVCN<br />
“tuần này em không có lỗi gì cô ạ”. Như vậy,<br />
A bắt đầu có những tiến bộ đáng kể. [2] [3]<br />
Đối với em B, cha mẹ B thật sự bất ngờ về<br />
những thông báo của GVCN. Sống và làm<br />
việc trong môi trường quân đội cha mẹ B rất<br />
nghiêm khắc trong việc giáo dục con và ở nhà<br />
B không có biểu hiện gì bất thường có lẽ<br />
chính vì thế mà khi đi ra lớp gặp bạn bè B<br />
mới có dịp nói nhiều và lười học. GVCN chủ<br />
động thu thập thông tin từ các giáo viên bộ<br />
môn, hàng tuần GVCN và gia đình chủ động<br />
liên lạc qua lại để nhằm thông tin kịp thời mọi<br />
hoạt động của B. Nhờ sự quan tâm hơn của<br />
gia đình và những thông tin kịp thời của<br />
GVCN, B đã cố gắng và đã có những tiến bộ<br />
rõ rệt. [2] [3]<br />
Đối với em C, GVCN chủ động đến thăm gia<br />
đình em. GVCN đề nghị gia đình phải tìm<br />
cách kiểm tra để đánh giá đúng kiến thức của<br />
C đang ở mức nào để kịp thời bổ sung những<br />
thiếu hụt về kiến thức cho em, bố C đồng ý và<br />
nhờ một người chị họ giúp C học tập. GVCN<br />
thông báo việc C hay la cà vào quán và có<br />
thể cũng hút thuốc lá thì bố C thừa nhận vì<br />
nhà C ở gần trường đại học và C còn hay chơi<br />
với các anh sinh viên nên ít nhiều bị ảnh<br />
hưởng. GVCN giải thích việc em hay bất kỳ<br />
ai ngồi quán không phải là xấu, nhưng ở tuổi<br />
em không nên mất thời gian cho thói quen<br />
không cấn thiết như vậy. Có thể, việc ngồi<br />
quán là khởi đầu cho những chuyện rắc rối<br />
sau này,... dường như C cũng thấy những lời<br />
phân tích của GVCN có lý. GVCN đề nghị<br />
gia đình quan tâm, theo dõi em nhiều hơn,<br />
phần GVCN cũng để ý, quan sát và chủ động<br />
<br />
Nguyễn Thị Thảo<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
nói chuyện với em nhiều hơn. Hai bên gia<br />
đình và GVCN thường xuyên liên lạc để ngăn<br />
chăn những vi phạm tương tự. [2] [3]<br />
Đối với em D, giáo viên trực tiếp gặp gia đình<br />
để trao đổi tình hình về học sinh ở trên lớp và<br />
thông báo thời gian biểu của D khi tham gia<br />
các hoạt động của nhà trường. Bố mẹ D cũng<br />
chú ý thăm con, kiểm tra con thường xuyên<br />
hơn không nên phó thác mọi chuyện cho ông<br />
bà, ông bà cũng chú ý thời gian học tập và vui<br />
chơi của cháu hơn. Mọi sự bất thường của em<br />
đều được GVCN và gia đình thông tin kịp<br />
thời để cùng có hướng giải quyết. Nhờ sự<br />
quan tâm của gia đình và sự giáo dục chân<br />
thành của GVCN D đã có cố gắng và thay đổi<br />
thực sự.[3]<br />
Cả B, C và D đều rất cẩu thả và lười lao động,<br />
GVCN chủ động phối hợp cùng các giáo viên<br />
bộ môn kiểm tra các em thường xuyên. Riêng<br />
giờ học của GVCN, GVCN thường xuyên<br />
kiểm tra và yêu cầu các em viết đi viết lại<br />
những nội dung bài học cho đến khi sạch đẹp.<br />
Giờ lao động GVCN giao cho mỗi em một<br />
khu vực riêng, ai làm đạt yêu cầu thì được về.<br />
Vì vậy, các em đã bớt cẩu thả hơn trong học<br />
tập và tích cực hơn trong các buổi lao động.<br />
Đối với em E, khó khăn lắm GVCN mới đến<br />
thăm được gia đình em vì em luôn từ chối lời<br />
đề nghị đến thăm nhà, GVCN phải đến khi E<br />
không có mặt ở nhà để tìm hiểu về hoàn cảnh<br />
gia đình em. Quả thực nhà E nghèo, cha bị<br />
thần kinh hay bỏ nhà đi, ngoài giờ đi học E<br />
còn đi lao động giúp mẹ nuôi bố và em, chiều<br />
tối về E lại đi tìm bố về để tắm, cho ăn và cho<br />
đi ngủ. Ở lớp GVCN luôn động viên an ủi<br />
em, cùng các bạn gần gũi, cởi mở để giúp E<br />
hoà nhập hơn với các hoạt động. Vào dịp lễ,<br />
tết GVCN và hội phụ huynh chủ động tặng<br />
quà cho em và gia đình, cùng quyên góp hoặc<br />
lấy quĩ lớp ứng ra, nộp trước những khoản<br />
tiền học cho em. Nhờ sự gần gũi và động viên<br />
của GVCN và các bạn trong lớp E đã dần tiến<br />
bộ cởi mở và hoà đồng hơn với các hoạt động<br />
của tập thể. [1] [3]<br />
Trong quá trình giáo dục học sinh chậm tiến<br />
GVCN đã hình thành phương pháp giáo dục<br />
cụ thể như sau:<br />
* GVCN dùng tập thể - một tập thể có tinh<br />
thần đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau<br />
<br />
188(12/3): 187 - 192<br />
<br />
có nhiều điển hình tốt làm môi trường lành<br />
mạnh để các em giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.<br />
Đây là biện pháp có tầm quan trọng đặc biệt<br />
bởi một tập thể lớp vững mạnh, đoàn kết là<br />
môi trường giáo dục tốt nhất cho bạn bè giúp<br />
các em học sinh cá biệt cùng nhau tự học tập<br />
rèn luyện và tu dưỡng về mọi mặt. Do đó,<br />
những ưu điểm sẽ được phát huy, những nhược<br />
điểm được hạn chế. Để làm được điều này<br />
người GVCN cần giáo dục các em về tình yêu<br />
thương, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. Tổ chức cho<br />
các em tham gia các phong trào của trường, của<br />
lớp sôi nổi và nhiệt tình. [1] [2] [3].<br />
* Nêu gương một số cá nhân (học sinh) có<br />
đạo đức và học lực tốt, phương pháp tổ chức<br />
hoạt động và hình thành kinh nghiệm ứng xử<br />
xã hội như: giao việc, luyện tập, rèn luyện,<br />
phương pháp kích thích hoạt động, điều chỉnh<br />
hành vi ứng xử của người được giáo dục như<br />
khen thưởng, trách phạt để các em có động<br />
lực thúc đẩy vươn lên hoàn thiện bản thân.<br />
* Hướng dẫn các em tự tu dưỡng, tự rèn luyện<br />
bản thân. Sự tự tu dưỡng theo GVCN cũng là<br />
yếu tố quyết định phẩm chất đạo đức của học<br />
sinh. Thực tế cũng đã chứng minh rằng dù<br />
giáo dục có ưu việt mấy, có đầy đủ đến đâu đi<br />
chăng nữa cũng không thể thay thế sự tự giáo<br />
dục của mỗi cá nhân. Chỉ có sự tự giáo dục mới<br />
có sự lĩnh hội và thực hiện tự giác các chuẩn<br />
mực đạo đức. Tính vững vàng của hành động và<br />
ý nghĩa bản chất của hành động được coi là tốt<br />
đẹp khi cá nhân giác ngộ được đạo đức.<br />
* Phối hợp với các lực lượng trong và ngoài<br />
nhà trường cùng tham gia giáo dục đạo đức<br />
cho học sinh.<br />
Đối với lực lượng trong nhà trường: Phát huy<br />
tới mức tối đa tính chủ động trực tiếp cho tất<br />
cả các lượng giáo dục trong nhà trường, trao<br />
đổi kết hợp với cán bộ quản lý và gặp gỡ trao<br />
đổi với các giáo viên bộ môn giảng dạy ở lớp<br />
chủ nhiệm để tham gia hoạt động quản lý, xây<br />
dựng lớp, nâng cao chất lượng các môn.<br />
Đối với lực lượng giáo dục ngoài nhà trường<br />
như cha mẹ học sinh. GVCN đã xây dựng<br />
mối quan hệ chặt chẽ giữa gia đình và nhà<br />
trường. Bởi gia đình là môi trường giáo dục<br />
có ảnh hưởng lớn đến phẩm chất đạo đức của<br />
mỗi học sinh. Do vậy GVCN thường xuyên<br />
191<br />
<br />