intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA_6

Chia sẻ: Trần Lê Kim Yến | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

100
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (1858 – 1888) Mặc dù triều Huế đã đầu hàng nhưng phái chủ chiến và nhân dân ta vẫn quyết tâm chống giặc đên cùng. Bên cạnh công tác tổ chức chuẩn bị chiến đấu lâu dài với kẻ thù, Tôn Thất Thuyết đã cho điều quân từ các nơi về đóng chặt kinh thành Huế, kể cả trong nội thành. Ông cho đặt 45 khẩu thần...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA_6

  1. CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (1858 – 1888) Mặc dù triều Huế đã đầu hàng nhưng phái chủ chiến và nhân dân ta vẫn quyết tâm chống giặc đên cùng. Bên cạnh công tác tổ chức chuẩn bị chiến đấu lâu dài với kẻ thù, Tôn Thất Thuyết đã cho điều quân từ các nơi về đóng chặt kinh thành Huế, kể cả trong nội thành. Ông cho đặt 45 khẩu thần công ở trên mặt thành và ở đài Nam hướng về phía Toà sứ Pháp và đồn Mang Cá. Thấy thế thực dân Pháp lo ngại yêu cầu triều Huế phải loại bỏ ngay các khẩu pháo này. Mâu thuẫn giữa phái chủ chiến và thực dân Pháp ngày càng sâu sắc. Lực lượng Pháp coi Tôn Thất Thuyết là người cần loại bỏ để tránh hậu hoạ về sau. Quân Pháp muốn buộc Hội đồng phụ chính do Tôn Thất Thuyết đứng đầu phải từ chức để phái chủ chiến mất hỗ dựa trong triều đình. Được lệnh của Pari, Đờcuốcxy kéo theo lực lượng từ Hải Phòng vào thẳng Huế. Ý đồ của Đờcuốcxy là dùng áp lực quân sự loại trừ phái chủ
  2. chiến, giải tán quân đội và bắt cóc người cầm đầu phái chủ chiến Tôn Thất Thuyết. Đến Huế, Đờcuốcxy nhiều lần mời gặp Tôn Thất Thuyết nhưng đều bị từ chối. Trước thái độ bức bách của thực dân Pháp, Tôn Thất Thuyết chủ động tiến công Pháp. Ông ra lệnh gấp rút đào hào đắp lũy ngay trong thành Huế, chuyển gấp tài sản từ các kho ra Quảng Trị. Ông trực tiếp cùng Tôn Thất Lệ và Hồ Văn Hiển chỉ huy hai đạo quân Phấn Nghĩa, Đoàn Kiệt bố trí phòng thủ Hoàng thành. Nhằm giành thế chủ động, ngày 5/7/1885 Tôn Thất Thuyết quyết định tiến hành cuộc phản công quân Pháp ở Huế. Do bị bất ngờ, quân Pháp hoảng hốt bỏ chạy và co cụm trong doanh trại. Qua những giờ phút kinh hoàng quân Pháp ở đồn Mang Cá dưới sự chỉ huy của Pécnô bắt đầu tổ chức phản công quân ta. Cuối cùng Pháp chiếm được thành ngay ngày hôm đó. Lực lượng Tôn Thất Thuyết đã kịp thời rút ra ngoại thành. Trưa ngày 6/7/1885, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi tới Quảng Trị. Sau sự kiện này trong nội bộ phái chủ chiến đã diễn ra cuộc phân hoá mới. Cuộc phân hoá cuối cùng, để rồi chỉ còn lại những phần tử trung kiên nhất cùng vua Hàm Nghi tiếp tục di chuyển ra Bắc tổ chức phong trào Cần Vương. Ngày 10/7/1885, vua đến Tân Sở. Đến ngày 17/7/1885 lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết phát dụ Cần Vương lần thứ nhất nhằm
  3. kêu gọi các văn thân, sĩ phu đứng lên cùng phe chủ chiến đánh đuổi giặc Pháp. Chiếu Cần Vương ban ra được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. ở Tân Sở một thời gian khoảng 4 - 5 tháng nghĩa quân quyết định chuyển căn cứ ra Quảng Bình rồi chủ trương tiến lên Thanh Hoá. Bởi căn cứ Tân Sở nhỏ hẹp dân nghèo lại bị cô lập nên khó có đường rút lui khi giặc Pháp tấn công. Thanh Hoá đất rộng người đông lại dễ dàng thông sang Trung Quốc khi có tình hình bất trắc xảy ra. Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết ra đến Hướng Hoá thì quân Pháp đã đổ bộ lên Đồng Hới. Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết lai phải lộn về Tân Sở lần thứ 2. Năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc, vua Hàm Nghi bị thực dân Pháp bắt. Đến đây phái chủ chiến trong triều đình coi như bị tan vỡ. Chỗ dựa của những người cầm đầu phái Cần Vương đã không còn những trọng quan trong triều đình nữa mà là quảng đại quần chúng yêu nước. Ngày 20/9/1885 tại sơn phòng ấu Sơn nhân danh vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết xuất chiếu Cần Vương lần thứ 2. Chiếu Cần Vương đã phản ánh tương đối đầy đủ và sâu sắc mâu thuẫn dân tộc. Nó có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước của nhân dân, kịp thời vạch ra con đường chính nghĩa chống giặc đến cùng, đồng thời cũng nêu bật được ý
  4. thức tự chủ, kịp thời cô lập chính quyền bù nhìn mà Pháp thành lập ra ở Huế và ở các tỉnh. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra suốt từ Bình Định ra Bắc. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, Ba Đình, Hũng Lĩnh và nhất cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng… Mặc dù thất bại nhưng phong trào đã nêu cao tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc. Nó chứng tỏ phe chủ chiến không hề bị cô lập khi đối đầu với thực dân Pháp. Cuộc phản công của nhóm chủ chiến vào năm 1885 là sự vùng dậy cuối cùng của vương triều Nguyễn. Biến cố thất thủ kinh thành Huế (5/7/1885) đã mở đầu cho giai đoạn mới của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc: phong trào Cần Vương, đồng thời ưu thế lúc này đang thuộc về phái chủ hòa. Sau khi loại trừ được phái chủ chiến ra khỏi triều đình, thực dân Pháp dựng lên ông vua bù nhìn Đồng Khánh. Về phía Nguyễn Văn Tường ở lại triều đình sau vụ biến kinh thành Huế với một trách nhiệm nặng nề. Ông kiên trì thương thuyết nhưng do lực lượng yếu và phái chủ hòa chiếm ưu thế đã bắt tay chặt chẽ với Pháp nên Nguyễn Văn Tường đành bất lực, cuối cùng ông đã thất bại.
  5. 3. Một vài nhận định về kết quả và ý nghĩa Thất bại của phái chủ chiến đã kết thúc quá trình xâm lược của thực dân Pháp. Sau khi loại trừ được phái chủ chiến Pháp bắt đầu bước vào thời kì bình định Việt Nam. Từ đây, phái chủ hòa đã thắng thế và bắt tay với thực dân Pháp. Với chế độ phong kiến Việt Nam, kết quả của sự phân hóa này đã đưa chế độ phong kiến Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn lệ thuộc và trở thành tay sai cho chính quyền thực dân cai trị nước ta. Đồng thời với thất bại phái chủ chiến đã chấm dứt thời kì chia rẽ trong nội các triều đình. Từ đây, triều đình Huế đi vào thống nhất nhưng đặt dưới sự chỉ đạo của thực dân Pháp. Sự thất bại của phái chủ chiến lúc bấy giờ là một tất yếu của lịch sử do con đường đấu tranh của lực lượng phong kiến không đủ sức giành thắng lợi trước âm mưu thâm độc và sức mạnh của chủ nghĩa thực dân phương Tây, thành trì phong kiến không chống nổi sức mạnh của đại bác tư bản. và bởi ngọn cờ đấu tranh phong kiến lúc này đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp với xu thế phát triển của dân tộc. Phái chủ chiến với sự hậu thuẫn của Pháp nên thắng thế.
  6. Mặc dù thất bại nhưng phong trào đã mang ý nghĩa to lớn và để lại nhiều bài học to lớn. Trước hết nó thể hiện tinh thần quyết tâm chống giặc của phái chủ chiến, họ đã nêu cao tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc ta. Quyết tâm này đã làm thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp, gây ra cho chúng nhiều tổn thất nặng nề. Trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, phái chủ chiến đã được hình thành và nhanh chóng trở thành chỗ dựa của quần chúng nhân dân. Đường lối chống giặc của phe chủ chiến đã vạch ra con đường chính nghĩa giải phóng dân tộc, phù hợp với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta. Ngược lại, phái chủ hòa đã bộc lộ rõ bản chất phản động nên ngày càng đối lấp với nhân dân dẫn đến mâu thuẫn giữa nhân dân ta và thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai phong kiến trở nên sâu sắc. Từ việc phân tích trên có thể rút ra kết luận về nguyên nhân dẫn đến sự hình thành luồng tư tưởng này: Thứ nhất, xuất phát từ nhận thức khác nhau của vua quan nhà Nguyễn phần lớn quan lại nhà Nguyễn đều nhận định sai lầm âm mưu thực dân
  7. Pháp xâm lược Việt Nam chỉ là muốn thông thương và truyền đạo. Chính sự ngây thơ mơ hồ này cũng là một nguyên nhân thúc đẩy triều đình Huế sớm có tư tưởng nghị hoà. Nhưng bên cạnh đó cũng có người nhận rõ dã tâm của thực dân Pháp nên kiên quyết chống giặc đến cùng Hai là, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam đúng vào lúc chế độ phong kiến đã đi vào giai đoạn suy tàn. Nước Việt Nam đã suy yếu về mọi mặt nên không còn khả năng chống đỡ trước sức tấn công của tư bản Phương Tây. Vì vậy mà nhà Nguyễn sớm có tư tưởng chủ hoà hoang mang sợ giặc. Cuối cùng dẫn tới thiếu quyết đoán, chỉ đạo đường lối sai lầm. Ba là, dân tộc ta sớm có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm nên sự xâm lược của thực dân Pháp và sự phản bội của triều Nguyễn đã vấp phải phản ứng quyết liệt của nhân dân. Phe chủ chiến đã tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân mà gây áp lực với Pháp, cản trở phe chủ hoà câu kết với thực dân Pháp. Bốn là, trước sức tấn công của tư bản Pháp với tiềm lực hiện đại mạnh hơn ta nhiều lần thì sự phân hoá thành phe chủ chiến và chủ hoà dưới triều Nguyễn là một tất yếu của lịch sử. Đó là sự phân hoá của hai luồng tư tưởng: sợ giặc và kiên quyết chống Pháp đến cùng. Kẻ sợ giặc thì
  8. nhanh chóng đầu hàng còn người yêu nước thì chống Pháp đến cùng. Thực trạng phân hoá đó phản ánh đúng lịch sử cách mạng Việt Nam lúc đó. Khi đối mặt với cuộc chiến tranh của kẻ thù, triều đình luôn chậm trễ do dự và không có đường lối kháng chiến rõ ràng nên cuối cùng đầu hàng giặc từng bước. Nhà Nguyễn đã không thể phát động được một cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội đánh thắng kẻ thù. III. KẾT LUẬN Qua sự phân hoá của hai luồng tư tưởng chủ chiến và chủ hoà đã cho thấy bức tranh phong kiến triều Nguyễn lúc giao thời. Đó là lúc triều đình rối ren lắm mối nhiều tơ còn người đứng đầu thì do dự bị động thiếu tính quyết đoán. Cuối cùng triều đình đã thất bại, chấp nhận chia sẻ quyền lợi với thực dân Pháp. Trong lịch sử Việt Nam không ít dẫn chứng về sách lược hoà trong chiến tranh mà không thiếu tính khôn khéo, sáng suốt, được sĩ dân cả nước đồng tình. Còn “hoà” của triều Tự Đức thực chất là thiên về đầu hàng, là từng bước nhượng bộ.
  9. Sự thất bại của triều Nguyễn đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá mà trước hết về phân hoá và nhận định đúng kẻ thù. Bài học này đã được chứng minh trong thực tế kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta sau này mà hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và tạm ước (14/9/1946) là minh chứng cho thắng lợi đó. Bài học kinh nghiệm đắt giá hơn là bài học về đoàn kết và đại đoàn kết đã được lịch sử đúc rút qua nhiều biến cố trọng đại của dân tộc nhất là trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Tư tưởng đại đoàn kết đó đã được Hồ Chí Minh nối tiếp, vận dụng sáng tạo, linh hoạt và phát triển trên tầm cao mới, Người từng viết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công. Đó là những di sản quý giá đối với công cuộc xây dựng và phát triển nhà nước ta hiện nay.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2