intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc điểm của khái niệm trong tư duy chính xác và tư duy biện chứng

Chia sẻ: Thị Huyền | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

105
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khái niệm trong tư duy chính xác và trong tư duy biện chứng có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau. Đặc điểm quan trọng nhất của khái niệm trong tư duy biện chứng là sự vận động, biến đổi và nội hàm ngày càng đầy đủ, hoàn thiện hơn. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này mời các bạn tham khảo bài viết "Đặc điểm của khái niệm trong tư duy chính xác và tư duy biện chứng".

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc điểm của khái niệm trong tư duy chính xác và tư duy biện chứng

TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> ĐẶC ĐIỂM CỦA KHÁI NIỆM TRONG<br /> TƯ DUY CHÍNH XÁC VÀ TƯ DUY BIỆN CHỨNG<br /> NGUYỄN MẠNH CƯƠNG<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Có thể nói rằng khái niệm giống như những viên gạch để xây dựng nên tòa lâu đài tri thức của con<br /> người về thế giới. Nhận thức của con người là nắm bắt được quy luật vận động, phát triển của thế giới<br /> khách quan và vận dụng vào thực tiễn (trên cơ sở tuân theo quy luật) để cải tạo, biến đổi thế giới theo<br /> mục đích của mình. Khái niệm trong tư duy chính xác và trong tư duy biện chứng có mối quan hệ chặt<br /> chẽ, hữu cơ với nhau. Đặc điểm quan trọng nhất của khái niệm trong tư duy biện chứng là sự vận động,<br /> biến đổi và nội hàm ngày càng đầy đủ, hoàn thiện hơn. Bài viết sẽ nêu lên một số ý kiến về vấn đề này.<br /> Từ khóa: Tư duy chính xác, tư duy biện chứng.<br /> <br /> Abstract<br /> It can be said that concepts are similar to bricks used to build a palace of knowledge of humans<br /> about the world. Humans’ cognition is to grasp the movement and development rules of the objective<br /> world and apply that they have grasped into practices (on the basis of complying with the rules) to<br /> improve and change the world by their purposes. The concepts in accurate thinking and dialectic<br /> thinking have their close, organic relationships. The most important characteristics of the concepts in<br /> the dialectic thinking is the movement, change and more and more sufficient and perfect connotation.<br /> This article will give some ideas about this issue.<br /> Keyword: Accurate thinking, dialectic thinking.<br /> <br /> <br /> <br /> Tư duy chính xác là đối tượng của logic học chính xác có tính chất bền vững, tách rời sự<br /> hình thức; tư duy biện chứng là đối tượng của phát triển và biến hóa của sự vật. Trong quá<br /> logic học biện chứng; Khái niệm là một hình trình phản ánh của tư duy chính xác sự vật gạt<br /> thức cơ bản của tư duy. Vậy khái niệm trong bỏ một cách trừu tượng ra khỏi quá trình vận<br /> tư duy chính xác (tương ứng trong logic hình động, phát triển của bản thân nó và được nhận<br /> thức) với khái niệm trong tư duy biện chứng thức trong trạng thái “nó là nó”, nghĩa là không<br /> (tương ứng trong logic biện chứng) có quan có sự vận động, biến đổi, phát triển. Về vấn đề<br /> này F.Enghen đã nhận xét: “Khi chúng ta nói<br /> hệ với nhau như thế nào ?<br /> về những phạm vi nhỏ bé hay quãng thời gian<br /> 1. Khái niệm trong tư duy chính xác không ngắn, giới hạn tác dụng của nó cũng khác nhau<br /> vạch ra được mâu thuẫn nội tại của sự vật, hiện đối với từng trường hợp và tùy theo bản chất của<br /> tượng. Nó xem xét sự vật hiện tượng trong tính đối tượng” (5, tr.46). Ở đây xuất hiện một trong<br /> “đồng nhất trừu tượng”. Trái lại, trong tư duy những vấn đề quan trọng nhất, đó là vấn đề về<br /> biện chứng, khái niệm vạch ra sự thống nhất mối tương quan giữa cái phố biển và cái đơn<br /> của những mặt đối lập. Khái niệm trong tư duy nhất trong khái niệm.<br /> <br /> Số 5 - Tháng 9 - 2013 VĂN HÓA<br /> NGHIÊN CỨU<br /> 83<br /> VĂN HÓA<br /> NGHIÊN CỨU<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Bản chất của sự vật và cả sự phản ánh bản không phải là sự trừu tượng trống rỗng, không<br /> chất ấy trong tư tưởng là lĩnh vực của những phải là cái phổ biến không có nội dung mà là<br /> mâu thuẫn biện chứng. Diễn tả được bản chất cái phổ biến đầy nội dung. Trong khi phê phán<br /> của sự vật có nghĩa là đã nhận thức được mâu việc tuyệt đối hóa một cách siêu hình sự khác<br /> thuẫn nội tại của sự vật, vì mâu thuẫn là nguồn nhau giữa cái phổ biến và cái đơn nhất của<br /> gốc của phát triển. Những đặc điểm phổ biến Căng, Hêghen cũng bác bỏ nhân tố duy vật<br /> là những đặc điểm giống nhau giữa các sự vật. trong quan điểm của Căng và cho rằng những<br /> Muốn tạo ra khái niệm phổ biến thì phải tước khái niệm không có nội dung trực quan cụ thể<br /> bỏ, tách rời những đặc điểm nào mà chỉ hiện là những khái niệm trống rỗng. Ông cũng cho<br /> tượng đơn nhất mới có và giữ lại những đặc rằng khái niệm không phải là một cái gì đó<br /> điểm chung cho tất cả hiện tượng cùng loại. tuyệt đối, như vậy nó chứa đựng ở bên trong<br /> Theo phương thức khái quát đó, cái phổ biến nó cái đơn nhất, nghĩa là trong quá trình vận<br /> mâu thuẫn với cái đơn nhất. Những hiện tượng động của mình, khái niệm sinh ra cái đơn nhất.<br /> đơn nhất thì muôn vẻ. Tư duy chính xác sử Hêghen đã có mặt tích cực trong việc<br /> dụng khái niệm như là sự tổng hợp từ những nghiên cứu khái niệm nhưng lại trên lập<br /> đặc điểm, thuộc tính, còn về mối quan hệ lẫn trường duy tâm. Trong “Bút ký triết học”<br /> nhau giữa cái phổ biến và cái đơn nhất thì lại V.I.Lênin khi dẫn ra quan niệm của Hê ghen<br /> không quan tâm. Tư duy chính xác chỉ thấy rằng: “Cái phổ biến bao hàm cả sự phong phú<br /> những đặc điểm và thuộc tính nào thì thuộc của cái đặc thù“ (1, tr.108) và đã nhận xét là<br /> khái niệm này, còn những đặc điểm và thuộc quan điểm đó rất hay. Người viết: “Không phải<br /> tính nào thì thuộc khái niệm khác. Do đó đối chỉ là cái phổ biến trừu tượng, mà là cái phổ biến<br /> với tư duy chính xác, điều quan trọng không bao hàm cả sự phong phú của cái đặc thù, cái<br /> phải là phép biện chứng của cái phổ biến và cá thể, cái cá biệt” (tất cả sự phong phú của cái<br /> cái đơn nhất mà là sự khác nhau giữa các khái đặc thù và cái cá biệt)! rất hay!” (1, tr.108). Ở chỗ<br /> niệm. Heghen gọi những khái niệm kiểu đó là khác Lê nin đã nhấn mạnh về sự gia nhập lẫn<br /> “những phổ biến trừu tượng” vì cái phổ biến và nhau có tính chất biện chứng của cái chung và<br /> cái đơn nhất không liên hệ gì với nhau, không cái riêng. Lê nin viết: “Bất cứ cái riêng nào cũng<br /> phải là sự thống nhất của các mặt đối lập. Cái là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là (một<br /> phổ biến đối lập với thế giới muôn vẻ của bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất) của<br /> những hiện tượng đơn nhất, chứ không bao cái riêng” (1, tr.381).<br /> gồm thế giới đó vào bên trong mình một cách<br /> Như vậy, khái niệm trong tư duy biện<br /> biện chứng. Heghen chỉ ra rằng trong trường<br /> chứng không phải là “tổng cộng những đặc<br /> hợp đó tất cả tính muôn vẻ đứng ngoài khái<br /> điểm giống nhau” mà cần phải hiểu nó là sự<br /> niệm và chỉ có hình thức phổ biến trừu tượng<br /> thống nhất cụ thể của cái chung và cái riêng.<br /> là nằm trong khái niệm.<br /> Sự thống nhất của cái chung với cái riêng<br /> Trong tư duy biện chứng, theo quan niệm trong các khái niệm giải thích ý nghĩa của các<br /> của Hêghen, cái phổ biến và cái đơn nhất đối khái niệm với tính cách là những điểm nút để<br /> lập nhau không phải như những cái tuyệt đối. tái sản sinh trong tư duy những mối quan hệ<br /> Ông cho rằng cái phổ biến nào mà “không có và quan hệ căn bản của các hiện tượng.<br /> cái đơn nhất ở bên trong lòng mình” thì xa lạ<br /> Tuy nhiên, sự thống nhất ấy không loại trừ<br /> đối với khái niệm. Khái niệm là cái phổ biến<br /> sự khác nhau, mâu thuẫn nhau giữa cái đơn<br /> cụ thể, tức là cái phổ biến thể hiện bản chất<br /> nhất và cái phổ biến. Chính điều đó quy định<br /> của hiện tượng, chứa đựng bên trong mình<br /> cái phổ biến không thể sát nhập trực tiếp hết<br /> tính phong phú của cái đơn nhất, do đó nó có<br /> vào cái đơn nhất, cũng như cái đơn nhất, cái<br /> tính chất cụ thể. Sự trừu tượng của khái niệm<br /> <br /> <br /> 84 Số 5 - Tháng 9 - 2013<br /> TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> riêng lẻ không thể là biểu hiện đơn giản trực ngoại diên của khái niệm... Nếu các khái niệm<br /> tiếp của từng cái phổ biến. Điều đó không không có một nội dung xác định, chính xác thì<br /> mâu thuẫn với việc cho rằng cái phổ biến thể không thể phân chia, sắp xếp khái niệm, giải<br /> hiện tính chất phong phú của cái riêng lẻ, tính thích mối quan hệ giữa chúng với nhau... và<br /> muôn vẻ của cái đơn nhất không tồn tại ở do đó không thể sử dụng một cách dễ dàng<br /> ngoài cái phổ biến. các khái niệm. Mặt khác các thao tác logic xử<br /> Nói cái phổ biến và cái đơn nhất là những lý khái niệm có một ý nghĩa quan trọng với<br /> mặt đối lập thống nhất với nhau trong khái ngành khoa học nào có nhiệm vụ sắp xếp các<br /> niệm nhưng không thể không nhắc tới mâu hiện tượng khác nhau, ví dụ như thực vật học,<br /> thuẫn của chúng. Việc thừa nhận điều đó có ý động vật học v.v... Bất cứ một khoa học nào, dù<br /> nghĩa rất quan trọng đối với nhận thức. Khái có sử dụng những khái niệm phức tạp đến đâu<br /> niệm là biểu hiện tập trung của bản chất của cũng không thể bỏ qua được những khái niệm<br /> cái đơn nhất trong tư duy. Vì cái phổ biến là cơ bản nhưng rất cần thiết cho việc nhận thức.<br /> khái quát cái đơn nhất, cho nên cần phải chú Theo Lênin, trong quá trình nhận thức thế giới<br /> ý đến nhân tố mâu thuẫn giữa cái phổ biến và khách quan, các phạm trù là những bậc thang<br /> cái đơn nhất. của quá trình nhận thức. Người viết: “Trước con<br /> người có màng lưới những hiện tượng tự nhiên.<br /> Như vậy, khái niệm được sử dụng trong tư<br /> Người có ý thức tự tách khỏi giới tự nhiên, những<br /> duy biện chứng là sự thống nhất của những<br /> phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó,<br /> mặt đối lập, giữa cái phổ biến với cái đơn nhất<br /> tức là của sự nhận thức thế giới, chúng là những<br /> và cũng bao hàm mâu thuẫn giữa chúng. Nếu<br /> điểm nút của màng lưới giúp ta nhận thức và<br /> là cái phổ biến thì khái niệm biểu hiện bản chất<br /> nắm vững được màng lưới” (1, tr.102). Là kết quả<br /> của cái đơn nhất, cái riêng lẻ và theo ý nghĩa đó<br /> của hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo<br /> cái chung là biểu hiện bản chất của cái riêng.<br /> thực tiễn, các phạm trù phản ánh những thuộc<br /> Nếu khái niệm thể hiện tính chất phong phú<br /> tính, những mối liên hệ tương ứng vốn có sẵn<br /> của cái đơn nhất, đi từ đơn nhất đến phổ biến<br /> trong bản thân hiện thực. Do đó, nội dung của<br /> thì khái niệm không phải chỉ biểu hiện những<br /> chúng mang tính khách quan, bị thế giới khách<br /> đặc điểm chung của cái đơn nhất mà còn biểu<br /> quan quy định, nhưng hình thức tồn tại của<br /> hiện cái bản chất, quy luật của cái đơn nhất và<br /> chúng là chủ quan. Vì vậy có thể nói, các phạm<br /> theo ý nghĩa đó, cái đơn nhất thống nhất với<br /> trù chính là những hình ảnh chủ quan của thế<br /> cái phổ biến.<br /> giới khách quan. Các phạm trù như là những<br /> 2. Chúng ta thấy rằng tư duy chính xác sử<br /> điểm nút của màng lưới những hiện tượng<br /> dụng khái niệm một cách cố định, còn tư duy<br /> tự nhiên. Con người, để nhận thức được giới<br /> biện chứng sử dụng khái niệm một cách mềm<br /> tự nhiên, phải nhận thức và “nắm vững” được<br /> dẻo. Tư duy chính xác sử dụng những khái<br /> “những điểm nút của mắt lưới đó”. Mặt khác,<br /> niệm có nội dung xác định, chặt chẽ, đặt khái<br /> chúng ta biết rằng phạm trù là khái niệm rộng<br /> niệm này bên cạnh khái niệm kia và không chú<br /> nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính,<br /> ý đến các vấn đề về nguồn gốc và sự phát triển<br /> những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các<br /> của các khái niệm, về sự chuyển hóa từ khái<br /> sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất<br /> niệm này sang khái niệm khác. Tư duy chính<br /> định. Như vậy, để có thể nhận thức được giới<br /> xác là đối tượng nghiên cứu của logic học<br /> tự nhiên, con người cần phải nhận thức và<br /> hình thức, do đó trong logic hình thức, đã hình<br /> nắm vững được những khái niệm chung nhất<br /> thành một số nguyên tắc về định nghĩa khái<br /> ấy, nắm vững được những khái niệm tham gia<br /> niệm, phân chia khái niệm, thu hẹp, mở rộng<br /> vào việc tạo nên những điểm nút của “mạng<br /> khái niệm, về mối quan hệ giữa nội hàm và<br /> lưới những hiện tượng tự nhiên”. Các khái niệm<br /> <br /> <br /> Số 5 - Tháng 9 - 2013 VĂN HÓA<br /> NGHIÊN CỨU<br /> 85<br /> VĂN HÓA<br /> NGHIÊN CỨU<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> tạo nên những điểm nút đó có nội dung xác này liên quan đến tính lịch sử cụ thể của đối<br /> định, đồng thời nối liền tất cả những phán tượng. Tư duy biện chứng sử dụng khái niệm<br /> đoán và kết luận khoa học thành một khối, làm không phải theo cách siêu hình. Nó không coi<br /> cho bản thân khoa học có khả năng tồn tại và khái niệm là cái gì chết cứng, không biến đổi.<br /> giúp cho con người có thể nhận thức được thế Lê nin đã vạch ra rằng khái niệm cần phải linh<br /> giới khách quan. Vật lý học hiện đại sẽ ra sao hoạt, mềm dẻo, tương đối, thống nhất trong<br /> nếu không có những khái niệm cơ bản như các mặt đối lập, bởi vì có như vậy, nó mới có<br /> vật chất, khối lượng, năng lượng, nguyên tử, thể bao quát được thế giới, phản ánh đúng<br /> hạt, nguyên tố và nhiều khái niệm khác nữa. đắn thế giới. Người viết: “Những khái niệm này<br /> Do những khái niệm được tư duy chính xác cũng phải được mài sắc, gọt giũa, mềm dẻo,<br /> sử dụng có một nội dung xác định nên tư duy năng động, tương đối, liên hệ với nhau, thống<br /> chính xác chỉ chú trọng đến số lượng dấu hiệu nhất trong những mặt đối lập để có thể bao<br /> bao gồm trong khái niệm, ngoại diên của khái quát vũ trụ” (1, tr.267). Các khái niệm khoa học<br /> niệm (rộng hay hẹp), mối tương quan giữa là sự phản ánh (đúng đắn ít nhiều) bản chất<br /> những khái niệm (thuộc giống hay loài) về mặt của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật<br /> số lượng đặc điểm mà chúng phản ánh. Mỗi chất. Do bản chất của nó, những khái niệm ấy<br /> một khái niệm đúng đắn trong tư duy chính có tính chất mâu thuẫn biện chứng bao hàm<br /> xác bao gồm có hai mặt: nội hàm và ngoại trong nó sự thống nhất của những mặt đối lập.<br /> diên. Mối tương quan giữa hai mặt đó là mối Những sự vật và hiện tượng của thế giới vật<br /> tương quan nghịch biến. Khi nội hàm của khái chất luôn trong quá trình vận động, phát triển<br /> niệm càng sâu, những dấu hiệu hiểu biết chứa không ngừng. Trong quá trình đấu tranh giữa<br /> trong khái niệm đó càng nhiều thì ngoại diên các mặt đối lập ở bên trong, cuối cùng chúng<br /> của khái niệm càng hẹp, những đối tượng có có thể biến đổi, trở thành mặt đối lập với chính<br /> chứa dấu hiệu đó càng ít đi và ngược lại. Mối mình, các mặt đối lập mới có thể xuất hiện<br /> quan hệ nghịch biến giữa nội hàm và ngoại thay thế cho các mặt đối lập đã lỗi thời. Tính<br /> diên của một khái niệm chỉ có trong các khái mềm dẻo của khái niệm còn được quy định<br /> niệm mà tư duy chính xác sử dụng, khái niệm ở chỗ, trong khi không ngừng làm cho nhận<br /> trong tư duy biện chứng không tuân theo quy thức của mình thêm sâu sắc và hoàn thiện,<br /> luật nghịch biến này. con người hoàn thiện cả những khái niệm<br /> Tư duy biện chứng vận dụng những khái khoa học, làm cho nó phù hợp với những hiểu<br /> niệm trong quá trình vận động, phát triển biết mới về sự vật, hiện tượng hoặc làm cho nó<br /> của chúng. Dựa vào một số khái niệm đã có, phù hợp với những biến đổi xảy ra đối với các<br /> tư duy nhờ những phán đoán, suy lý và những sự vật trong quá trình phát triển hơn nữa của<br /> phương tiện khác, có thể tạo ra những khái nó. Khi áp dụng tính mềm dẻo biện chứng của<br /> niệm và quy luật mới, vạch ra những mặt và khái niệm, phải xem xét đến nội dung khách<br /> những thuộc tính mới của sự vật, hiện tượng. quan của nó. Nếu áp dụng một cách chủ quan<br /> Tính mềm dẻo của khái niệm trong tư duy biện tùy tiện sẽ rơi vào ngụy biện, chiết trung. V.I.Lê<br /> chứng thể hiện ở sự liên hệ, quy định lẫn nhau nin viết: “Những khái niệm của con người là chủ<br /> giữa các khái niệm. Nội dung của các khái quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự<br /> niệm có thể thay đổi, nó có thể bị gạt bỏ đi tách rời của chúng, nhưng là khách quan trong<br /> những phần không còn phù hợp, không còn chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong<br /> phản ánh đúng thế giới khách quan, đồng khuynh hướng, trong nguồn gốc” (1, tr.223).<br /> thời nó có thể được bổ sung những nội dung 3. Khái niệm trong tư duy chính xác được<br /> mới đáp ứng yêu cần phản ánh đúng đắn hơn, xem như có sẵn, không biến đổi. Khái niệm<br /> đầy đủ hơn về thế giới. Sự gạt bỏ và bổ sung trong tư duy biện chứng có sự biến hóa, phát<br /> <br /> <br /> 86 Số 5 - Tháng 9 - 2013<br /> TRAO ĐỔI<br /> <br /> <br /> triển để phản ánh sự vận động, phát triển của định “cứng nhắc”, thuộc về cái đơn nhất. Đồng<br /> thế giới khách quan. thời khái niệm lại chứa đựng nhân tố biến hóa<br /> Khái niệm trong tư duy chính xác được xem vì cái đơn nhất, không phải là cái phổ biến trực<br /> như là tổng số các đặc điểm (dấu hiệu) của sự tiếp và cũng vì cái phổ biến tồn tại dưới hình<br /> vật hiện tượng. Vì vậy tư duy chính xác sử dụng thức phát triển, dưới hình thức thay đổi của<br /> các khái niệm có tính chất ổn định, bền vững. những hiện tượng riêng lẻ, đa dạng.<br /> Tư duy chính xác sử dụng các khái niệm có nội - Việc coi khái niệm là sự thống nhất của<br /> dung xác định, nghĩa là các khái niệm đó phản những mặt đối lập, có tính ổn định và tính biến<br /> ánh sự vật trong trạng thái đứng im tương đối, hóa còn có ý nghĩa khác sâu sắc hơn.<br /> khi sự vật vẫn còn là nó mà chưa chuyển thành Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng đều<br /> cái khác. có hai mặt nội dung và hình thức thống nhất<br /> Trái lại, tư duy biện chứng sử dụng các khái biện chứng với nhau. Tư duy là hiện tượng đặc<br /> niệm trong mối liên hệ mật thiết giữa tính ổn biệt cũng phải tuân theo quy luật của phép<br /> định và tính biến đổi. Khái niệm trong tư duy biện chứng. Một mặt không thể có tư tưởng tri<br /> biện chứng có tính chất động vì nó là hình thức nếu nó không được diễn tả một cách xác<br /> ảnh, là sự phản ánh thế giới khách quan. Mà định (có tính ổn định) trong khái niệm, phán<br /> thế giới khách quan nằm trong quá trình vận đoán hay trong một hình thức tư duy khác.<br /> động, biến đổi không ngừng, do đó khái niệm Mặt khác, những hình thức của tư duy không<br /> cũng phải có sự vận động, phát triển để có thể thể không có nội dung. “Những hình thức logic<br /> phản ánh đúng đắn thế giới khách quan. Khi và những quy luật logic không phải là cái vỏ<br /> nghiên cứu “khoa học logic” của Hêghen, Lênin trống rỗng mà là phản ánh của thế giới khách<br /> đã đặt nó trên quan điểm của chủ nghĩa duy quan” (1, tr.191). Sự thống nhất giữa nội dung<br /> vật. Người viết: “Trong sự thay thế phụ thuộc và hình thức của tư duy, có tính mâu thuẫn. Khi<br /> lẫn nhau của tất cả các khái niệm, trong tính nội dung thay đổi đòi hỏi hình thức cũng phải<br /> đồng nhất của các mặt đối lập của chúng, trong thay đổi cho phù hợp với nội dung mới. Nhận<br /> những chuyển hóa của một khái niệm này sang thức là quá trình biểu hiện nội dung khách<br /> khái niệm khác trong sự thay thế, sự vận động quan của các sự vật hiện tượng. Nội dung<br /> vĩnh viễn của những khái niệm, Hê ghen đã đoán tri thức của chúng ta về thế giới khách quan<br /> được một cách tài tình chính mối quan hệ như không ngừng thay đổi và hoàn thiện thêm.<br /> vậy của sự vật, của giới tự nhiên” (1, tr.210). Để Trong quá trình của sự phát triển đó, một số<br /> thấy được khái niệm trong tư duy biện chứng khái niệm mâu thuẫn với nội dung mới của tri<br /> có mối liên hệ giữa tính ổn định và tính biến thức. Để giải quyết những mâu thuẫn này, khái<br /> hóa cần phải chú ý những điểm sau đây: niệm cũng phải phát triển để phù hợp với nội<br /> - Các sự vật, hiện tượng của thế giới khách dung mới đó.<br /> quan vừa có tính biến hóa, vừa có tính ổn định, 4. Khái niệm trong tư duy chính xác mang<br /> nằm trong sự thống nhất giữa tính ổn định và tính phi lịch sử. Khái niệm trong tư duy biện<br /> tính biến hóa. Vì vậy khái niệm, để phản ánh chứng mang tính lịch sử-cụ thể.<br /> được hiện thực, cũng phải vừa có tính ổn định Các khái niệm được tư duy chính xác sử<br /> vừa có tính biến hóa. dụng mang tính phi lịch sử bởi vì các khái<br /> - Tính ổn định và tính biến hóa là những niệm đó có nội dung xác định, nó là những cái<br /> mặt đối lập của sự vật hiện tượng, có sự đấu có sẵn, nó không tính đến sự thay đổi của đối<br /> tranh với nhau. Mâu thuẫn được giải quyết, tượng mà nó phản ánh. Nói chính xác hơn, nó<br /> chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Các khái niệm phản ánh đối tượng theo một hệ quy chiếu<br /> cũng phải phản ánh được tính mâu thuẫn đó. cố định. Mặt khác, tư duy chính xác sử dụng<br /> - Khái niệm là cái phổ biến, là biểu hiện bản những khái niệm có nội dung không phụ<br /> chất của các sự vật riêng lẻ, nên nó có sự ổn thuộc vào những mối liên hệ và điều kiện cụ<br /> <br /> <br /> Số 5 - Tháng 9 - 2013 VĂN HÓA<br /> NGHIÊN CỨU<br /> 87<br /> VĂN HÓA<br /> NGHIÊN CỨU<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> thể của sự vật mà nó phản ánh. Ví dụ, tư duy Tư duy biện chứng sử dụng các khái niệm<br /> chính xác sử dụng khái niệm “ khối lượng” cùng phản ánh một sự vật, hiện tượng song<br /> thì khối lượng của một vật không bị thay đổi có thể có nội dung khác nhau tùy vào hoàn<br /> trong mọi trường hợp, nhưng thực chất là nói ảnh lịch sử-cụ thể mà sự vật hiện tượng được<br /> khối lượng của vật đó trong trạng thái đứng im nghiên cứu, tùy vào sự thay đổi của những mối<br /> tương đối hoặc chuyển động với vận tốc nhỏ, quan hệ của sự vật, hiện tượng đương nghiên<br /> không đáng kể so với vận tốc của ánh sáng cứu với những sự vật, hiện tượng khác. Với ý<br /> (tức trong hệ quy chiếu cơ học cổ điển). Thực nghĩa đó, khái niệm có tính chất lịch sử- cụ<br /> ra khi chuyển động với vận tốc nhỏ không thể là do nó chứa đựng những nội dụng khác<br /> đáng kể so với vận tốc ánh sáng, khối lượng nhau của sự phản ánh sự vật, hiện tượng trong<br /> của vật thay đổi nhưng rất nhỏ nên có thể bỏ những hoàn cảnh khác nhau.<br /> qua. Khi vật chuyển động với vận tốc lớn thì Mỗi sự vật nằm trong mối liên hệ với những<br /> lúc đó khối lượng của vật sẽ lớn hơn rất nhiều sự vật khác. Trong những mối liên hệ và quan<br /> so với khối lượng ban đầu của nó. Khối lượng hệ đó, sự vật được thể hiện ở từng hoàn cảnh<br /> của vật tăng tỷ lệ thuận với vận tốc chuyển khác nhau. Các khái niệm phản ánh sự vật<br /> động của vật đó. Nếu vẫn quan niệm rằng khối cũng phải có nội dung thay đổi tùy theo sự<br /> lượng của vật không thay đổi, tư duy phản ánh thay đổi của những mối liên hệ và quan hệ<br /> sự vật không còn đúng nữa. giữa sự vật đó với những sự vật khác để có thể<br /> Tư duy biện chứng sử dụng khái niệm phản ánh đúng đắn nó. Nhờ có những khái<br /> mang tính lịch sử- cụ thể. Chúng ta biết rằng, niệm mang tính lịch sử- cụ thể như vậy, tư duy<br /> để phản ánh được đúng đắn đối tượng, cần mới có khả năng phản ánh những thuộc tính<br /> phải nhận thức nó trong điều kiện lịch sử- cụ phức tạp và vô tận của các hiện tượng và quá<br /> thể. Chính vì vậy, khái niệm cũng có tính lịch trình nhận thức.<br /> sử- cụ thể. Ta hãy lấy một ví dụ: khái niệm “nhà N.M.C<br /> nước”. Có thể nêu hàng loạt các đặc điểm mà (ThS, Khoa LLCT & KHCB)<br /> vẫn không thể giải thích được bản chất của Tài liệu tham khảo<br /> hiện tượng đó. Những đặc điểm như giữ gìn<br /> 1. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29. Nxb Tiến<br /> trật tự, đảm bảo an toàn cho công dân... qui<br /> bộ Mátxcơva.<br /> định nhà nước là một cơ quan giữ gìn trật tự và<br /> đảm bảo an toàn cho công dân. Mặc dù những 2. V.I.Lênin, Bàn về sự nhất trí giữa phép biện<br /> đặc điểm ấy là đặc trưng cho nhà nước nhưng chứng, logic và lý luận nhận thức trong chủ nghĩa<br /> không giải thích đúng đắn bản chất nhà nước. duy vật biện chứng, Tài liệu dịch, Phòng Thông tin<br /> Nhà nước là một bộ máy quyền dùng để trấn – tư liệu – thư viện Viện Triết học, 888 TL.<br /> áp của một giai cấp này đối với một giai cấp 3. Hồng Long (1983), Logic biện chứng, Nxb<br /> khác, nhà nước là biểu hiện của mâu thuẫn Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.<br /> giai cấp không thể điều hòa được... Muốn hiểu 4. Lê Hữu Nghĩa (1987), Lịch sử và logic, Nxb<br /> được những đặc điểm nói trên của khái niệm sách giáo khoa Mác – Lênin, Hà Nội.<br /> nhà nước, xem cái nào là căn bản, cái nào là 5. G.I.Rudavin (1983), Các phương pháp nghiên<br /> không căn bản thì cần phải xem xét nhà nước cứu khoa học. Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.<br /> theo quan điểm lịch sử: Nghiên cứu xem nó 6. Sự đồng nhất của phép biện chứng, logic học<br /> xuất hiện từ bao giờ? Khi nào chúng ta thấy rõ và lý luận nhận thức, Tài liệu dịch, Phòng Thông<br /> nhà nước không bao giờ cũng tồn tại? Trong tin – tư liệu – thư viện Viện Triết học, 425 TL<br /> xã hội nguyên thủy không có nhà nước, nhà<br /> nước chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Ngày nhận bài: 12- 4- 2013<br /> giai cấp. Khi sự phân chia giai cấp trong xã hội Ngày phản biện, đánh giá: 7 - 8- 2013<br /> không còn nữa thì nhà nước cũng mất đi. Ngày chấp nhận đăng: 12 - 8 - 2013<br /> <br /> <br /> <br /> 88 Số 5 - Tháng 9 - 2013<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2