Đặc điểm của lời đố trong câu đố người Việt
lượt xem 41
download
Đặc điểm của lời đố trong câu đố người Việt TRIỀU NGUYÊN I. Câu đố gồm hai bộ phận: vật đố và lời đố. Mỗi bộ phận có các đặc điểm riêng. Bài viết này xem xét đặc điểm của lời đố, trên cơ sở 2000 câu đố người Việt được khảo sát . Lời đố là một văn bản bằng văn vần, nhằm thể hiện vật đố theo bốn phương thức: tả thực, chuyển trường, chơi chữ và tá ý. II. Lời đố xét về nội dung và đặt trong quan hệ với vật đố, có hai đặc điểm nổi bật,...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đặc điểm của lời đố trong câu đố người Việt
- Đặc điểm của lời đố trong câu đố người Việt TRIỀU NGUYÊN I. Câu đố gồm hai bộ phận: vật đố và lời đố. Mỗi bộ phận có các đặc điểm riêng. Bài viết này xem xét đặc điểm của lời đố, trên cơ sở 2000 câu đố người Việt được khảo sát . Lời đố là một văn bản bằng văn vần, nhằm thể hiện vật đố theo bốn phương thức: tả thực, chuyển trường, chơi chữ và tá ý. II. Lời đố xét về nội dung và đặt trong quan hệ với vật đố, có hai đặc điểm nổi bật, đó là tính xác thực và tính lạ hoá. 1. Tính xác thực của lời đố A. Lời đố, trong quan hệ với vật đố, phải xác thực, hợp lẽ. Những chi tiết được nêu trong lời đố là những cơ sở để suy ra vật đố. Không phải các đặc điểm của vật đố (hình dáng, cách tác động, công dụng,...) đều được lời đố nêu hết, mà chỉ một vài chi tiết trong số chúng được lựa chọn. Nhưng khi đã nêu, thì các chi tiết ấy phải tương ứng một cách xác thực với vật đố (tức thông tin chứa đựng trong lời đố, so với vật đố, có thể thiếu chứ không được thừa, và chúng đều hợp lẽ). B. Tính xác thực của lời đố được thể hiện qua các yếu tố hướng đến vật đố: 1) Yếu tố chỉ định tổng loại, đó là cái (hay con, cây,...) gì; 2) Yếu tố chỉ nơi chốn sinh thành, hay phát huy tác dụng; 3) Yếu tố chỉ thời gian phát sinh, phát triển; 4) Yếu tố chỉ công dụng, chức năng; 5) Yếu tố miêu tả vóc dáng, tính chất, hoạt động. a. Yếu tố chỉ định tổng loại, đó là cái (hay con, cây,... ) gì Yếu tố chỉ định tổng loại thường đặt ở đầu (có khi nằm cuối) lời đố, khiến lời đố trở thành một câu hỏi. Thí dụ: - “Cái gì dạo phố dưới xuân, Đi đầu xuống đất, chọc chân lên trời ?” (cái đinh giày); - “Con gì vỗ cánh bay nhanh, Không đẻ trứng lại đẻ thành con ngay?” (con dơi); - “Cây gì đông héo, hè tươi, Hoa làm chong chóng giữa trời đuổi nhau; Mối mọt quen thói đục vào, Gặp ngay chất đắng, buồn rầu nhả ra ?” (cây xoan); - “Hòn gì bằng đất nặn ra, Xếp vào lò lửa nung ba bốn ngày; Khi ra má đỏ hây hây, Mình vuông chăn chắn, đem xây cửa nhà?” (hòn gạch); - “Hoa gì quả quyện với trầu, Để cho câu chuyện mở đầu nên duyên?” (hoa cau); - “Quả gì ăn chẳng được nhiều, Nhưng mà nhìn thấy, bao nhiêu người thèm?” (quả chanh); - “Thân dài lưỡi cứng là ta, Hữu thủ vô túc, đố là cái chi?” (cái cuốc);... Quan hệ giữa lời đố và vật đố kiểu hỏi - đáp, rất chặt chẽ (Cái gì? - Cái đinh giày. Quả gì? - Quả chanh...). Ngoại lệ được tìm thấy ở một vài trường hợp, tuy lời đố hỏi “con chi”, “chim chi” nhưng
- lời giải lại là cái (một công cụ, dụng cụ); như: - “Con chi đầu khỉ đuôi lươn, Ăn no tắm mát, lại trườn lên cây?” (cái gáo bằng sọ dừa); - “Chim chi sắc mỏ, cao mồng, Chim chi không cánh không lông mình trần?” (cái rìu) . b. Yếu tố chỉ nơi chốn sinh thành, hay phát huy tác dụng Yếu tố chỉ nơi chốn sinh thành hay phát huy tác dụng của vật đố, được nêu một cách rõ ràng ở lời đố, thường gặp là: trong nhà, gần nhà, đường cái, trong bụi (thuộc vườn nhà hay cạnh lối đi), dưới hồ ao, ngoài đồng, trên núi, bên Tàu,... Thí dụ: - “Trong nhà có bà ăn cơm trắng?” (bình vôi); - “Cây gì không lá, không chân, Mình vàng, không rễ, ở gần nhà ta?” (cây rơm); - “Bằng trự tiền, Nằm nghiêng trong bụi” (rau má); - “Quê em ở chốn ao tù, Vượt qua mặt nước, võng dù thấp cao; Đến ngày mở mắt ra chào, Soi gương mới biết tự hào tốt tươi” (cây sen); - “Bằng con bò, nằm co giữa ruộng” (cái mả); - “Cây bên đông có bông không trái, Cây giữa đường cái, có trái không hoa, Cây ở trong nhà, có hoa không quả” (cây lau, cây đa, cây đèn). Yếu tố nơi chốn có thể được dùng kết hợp để cùng xác định vật đố; chẳng hạn: - “Mình tròn trùn trụn, Răng nhọn như chông. Trong nhà ngồi không, Ra ngoài đồng nhảy chôm chổm” (cái nơm); - “Vốn nó thì ở rừng xanh, Đem về hạ bạn kết thành một đôi; Ra đường kẻ trước người sau, Về nhà thì ấp lấy nhau mà nằm” (đôi quang); - “Mình như quả cà sứt tai, Đàng Trong thì có, Đàng Ngoài thì không” (bánh trôi); - “Cái trống mà thủng hai đầu, Bên ta thì có, bên Tàu thì không” (cái váy). c. Yếu tố chỉ thời gian phát sinh, phát triển Thời gian phát sinh, phát triển của vật đố được lời đố thể hiện theo trình tự, xác thực. Thí dụ: - “Khi nhỏ, em mặc áo xanh, Khi lớn bằng anh, em thay áo đỏ” (quả ớt) (quả ớt khi non có màu xanh, khi chín có màu đỏ); - “Con gì, Mới sinh ra thì là con sên, Sau hoá ra con bướm,
- Lại hoá thành con công, Công lại thành lừa, Lừa hoá ra cáo, Cáo biến thành con khỉ?” (con người ta) (sự chuyển biến về hình vóc và tính khí con người từ lúc mới sinh đến lúc về già); - “Khi xưa em đỏ hồng hồng, Em đi lấy chồng, em bỏ quê cha. Ngày sau tuổi hạc về già, Quê chồng em bỏ, quê cha lại về” (cái nồi) (con đường sinh thành - huỷ diệt của cái nồi);... d. Yếu tố chỉ công dụng, chức năng Có một số lời đố có yếu tố chỉ công dụng, chức năng của vật đố. Đây là công dụng, chức năng xác định, đúng như vật đố vốn có. Thí dụ: - “Cái gì bao phủ khắp nơi, Không mùi không sắc mà ai cũng cần?” (không khí); - “Cây to lá nhỏ chiền chiền, Non ăn, già bán lấy tiền mà tiêu” (cây tre); - “Con gì có đuôi, có lông, Trẻ già trai gái đều cùng mang theo” (con mắt); - “Một chắc mà giữ hai nhà, Chị em không có, ruột rà cũng không” (máng xối); - “Đầu là sắt, đuôi là gỗ, Không có nó, củi không thành” (cái búa bổ củi); - “Xương sườn, xương sống, Không có thịt, có da; Chim đậu ở trên lưng, Guốc đi ở dưới bụng. Giúp ích cho người ta, Khỏi trần truồng như nhộng” (khung cửi); - “Có chân mà chẳng biết đi, Có mặt phẳng lì cho kẻ ngồi trên” (cái ghế); - “Mặt như cái thớt, mình như cái mai; Cái răng khấp khiểng, cái tai thẳng đờ. Khi bài phú, khi ngâm thơ, Khi cúng ông nọ, khi thờ bà kia” (cây đàn nguyệt);... e. Yếu tố miêu tả vóc dáng, tính chất, hoạt động Miêu tả vóc dáng, tính chất, hoạt động của vật đố có thể xem là yêu cầu cơ bản của lời đố. Các chi tiết được miêu tả tương ứng với các chi tiết của vật đố. Thí dụ: - “Bằng trái cau, Lau chau đi trước” (ngón chân cái); - “Cây lum tum, lá loe toe, Mùa đông úp lại, mùa hè nở ra” (cây sen); - “Lá xanh, cành đỏ, hoa vàng, Hạt đen, rễ trắng; đố chàng cây chi?” (rau sam); - “Con gì cánh mỏng, đuôi dài, Lúc bay lúc đậu cánh thời đều giương?” (con chuồn chuồn);
- - “Không ăn mà mổ cuống cuồng, Mệt nhoài đứng chống, ra tuồng dửng dưng” (cái chày đạp giã gạo); - “Cây khô mà nở được hoa, Đậu được một quả, khi già khi non” (cái cân xách); - “Chặt không đứt, Bứt không rời, Phơi không khô, Chụm không đỏ” (nước);... C. Tính xác thực của lời đố cũng được thể hiện qua một số câu đố có lời giải là sự vật sóng đôi, sóng ba. Ở trường hợp này, lời đố vừa thể hiện sự chung cùng giữa chúng trong tổng thể, đồng thời cũng có những phân định trong việc miêu tả sao cho tương ứng với từng sự vật riêng lẻ. Thí dụ: - “Tám xóm nhóm lại hai phe, Chặt phần cây tre, bắc cầu một cột” (đôi quang và chiếc đòn gánh) (Dòng đầu tả “đôi quang” - hai chiếc, mỗi chiếc bốn tao; dòng sau tả “chiếc đòn gánh” - bằng tre, nằm trên vai người); - “Bốn bên thành hiểm luỹ cao, Có một thằng trọc nhảy vào nhảy ra” (cái thùng và cái gáo múc nước) (Dòng đầu tả “cái thùng” đựng nước, dòng sau tả cái gáo múc nước); - �Hai anh cùng giống cùng nòi, Anh thích ngồi trốc, anh đòi cõng chơi. Gió sương, mưa nắng mặc trời, Từ xưa vốn bạn không rời nhà nông” (cái nón và cái tơi) (Nửa đầu dòng hai chỉ “cái nón”, nửa cuối dòng hai chỉ “cái tơi”; ba dòng còn lại nêu đặc điểm chung của tơi và nón); - “Ba bà đi chợ Cầu Nôm: Bà đi sau rốt luôn mồm “Nhanh lên!”, Bà đi trước thì thiếu hàm trên, Bà đi giữa thì thiếu hàm dưới, Chỉ bà đi cuối là đủ hai hàm!” (người đi bừa, con trâu và cái bừa); (Dòng hai và dòng cuối chỉ “người (đi bừa)”, dòng ba chỉ “con trâu”, dòng bốn chỉ “cái bừa”; riêng dòng đầu chỉ sự phối hợp của ba đối tượng trên); D. Tính xác thực của lời đố còn được tìm thấy trong việc xử lí một hình ảnh có khả năng biểu thị nhiều đối tượng. Trường hợp này, lời đố dùng cách phủ định một (hoặc một vài) đối tượng có thể được liên tưởng đến, để chỉ còn để lại một đối tượng duy nhất làm lời giải. Thí dụ: - “Hai chân đứng, Hai chân quỳ, Cái bụng chì ì; Cấm nói con cóc?” (con ếch); - “Đi nhăn răng, về nhăn răng; Ai bảo cái bừa, Xin thưa đúng mà chưa đúng!” (cái cào cỏ); -“Xung quanh là nước mênh mông, Tự nhiên ở giữa nhô lên một hòn;
- Dạng hình giống núi giống non, Không gọi non, núi, đố hòn gì đây?” (hòn đảo); - “Đá bên đá, nước chảy ra, Rì rào róc rách khúc ca nhạc rừng; Gọi sông, gọi suối: xin đừng! Đố các bạn, đố em cưng, gọi gì?” (con khe);... 2. Tính lạ hoá của lời đố Tính lạ hoá được thể hiện ở sự phong phú, đa dạng của các lời đố khác nhau về cùng một vật đố, và sự khác thường của hình ảnh, của cấu tạo ngữ pháp ở một lời đố. A. Có nhiều sự vật trở thành vật đố của một loạt các lời đố khác nhau. Chẳng hạn, có 16 câu đố về cua, ghẹ, 15 câu đố về cái cối xay lúa, 14 câu đố về quả ngô, 13 câu đố về mặt trăng, 12 câu đố về con trâu, 11 câu đố về cái ống điếu,... Sự vật trong trường hợp này được biểu hiện bằng nhiều góc nhìn khác nhau, nên đường nét về vóc dáng và cả sự bình giá cũng khác biệt. Dưới đây là một số trích dẫn: + Một số lời đố về con cua, ghẹ: - “Tám sào chống cạn, Hai nạng chống xiên, Con mắt láo liên; Cái đầu không có!”; - “Tám thằng dân vần cục đá tảng, Hai ông xã xách nạng chạy theo”; - “Lạ lùng là lạ lùng thay, Nằm ngủ ban ngày để lạ lùng ra. Lạ lùng có mỏ đề ra, Câu lơn câu tiện có nhà ngói xanh. Lạ lùng có bức mành mành, Câu lơn câu tiện có anh lái thuyền”;.. + Một số lời đố về cái cối xay lúa: - “Lù lù mà đứng góc nhà, Hễ ai đụng đến thì oà khóc lên”; - “Ông nằm dưới trỏ ngóc lên, Bà nằm trên rên hừ hừ”; -“Cô kia con cái nhà ai, Mình to, họng nhỏ, lỗ tai đeo trằm; Đứng bên nghe tiếng ầm ầm, Vừa múa vừa hát, rầm rầm mưa rơi”;... + Một số lời đố về cái đèn dầu: - “Mình bằng con sâu, Nhà ba căn hai chái, thò đầu thò đuôi”; - “Nước vào sông Đáy, Lửa cháy non cao; Đêm dài hiu hắt gió xao, Sông sâu nước cạn, non cao lửa tàn”; - “Đồng bạc, nước vàng,
- Con rắn nằm ngang, Lấy sào mà chọc, Nó ngóc đầu lên”;... + Một vài lời đố về con gà trống: - “Chân đạp miền thanh địa, Đầu đội mũ bình thiên; Mình thì bận áo mã tiên, Ban ngày đôi ba vợ, tối nằm riêng kêu trời”; - “Trên đầu đội sắc vua ban, Dưới thời yếm thắm, dây vàng xum xoe. Thần linh đã gọi thì về, Ngồi trên mâm ngọc, gươm kề sau lưng”;... + Một vài lời đố về chiếc nón: - “Nắng lửa mưa dầu ta không bỏ bạn, Tối lửa tắt đèn bạn lại bỏ ta”; - “Không phải gàu mà dùng để tát, Không phải quạt cũng để giải nồng, Không phải nong mà dùng để đựng, Không phải mũ cũng để đội đầu”;... + Một vài lời đố về cây hương: - “Chân đỏ mình đen, Đầu đội hoa sen, Lên chầu Thượng đế”; - “Hai người xưa ở hai non, Bây giờ họp lại như con một nhà, Kẻ làm xương, người làm da, Phép linh biến hoá còn là một chân”;... B. Ở trên là sự lạ hoá xét từ mối quan hệ giữa các lời đố với cùng một vật đố. Tất nhiên, không phải bất kì một sự vật, hiện tượng nào khi trở thành vật đố đều có nhiều lời đố, do vậy mà đặc điểm lạ hoá cần được xét từ cấu tạo của lời đố. Ở đó, tính lạ hoá được thể hiện bằng những miêu tả khác thường, chúng tạo nên những hình ảnh kì dị so với thế giới hiện thực; đồng thời, cũng được thể hiện bởi những kết hợp không bình thường về mặt ngữ pháp. a. Tính lạ hoá được thể hiện bằng những miêu tả khác thường, tạo nên những hình ảnh kì dị: - “Vừa bằng thằng bé lên ba, Thắt lưng con cón chạy ra ngoài đồng” (bó mạ); - “Yếm nàng nịt, áo nàng gài, Nàng yêu ai, nàng quẹo đít?” (con ốc); - “Cây boè xoè, Lá boè xoè, Có thằng què, Nằm ở giữa” (cây dứa);
- - “Có cây mà chẳng có cành, Có hai ông cụ dập dềnh hai bên” (cây ngô); - “Mình thì một tấc, Da trắng như ngà, Đội mũ hồng hoa, Chân đi có một” (giá đậu đỏ); - “Hai cô ra tắm một dòng, Cởi áo tắm trần để lộ màu da: Một cô da trắng như ngà, Một cô lại có màu da đỏ hồng. Giữa cơn nắng hạ oi nồng, Quần rơi trễ xuống, lộ mông dậy thì. Cùng là hai bạn nữ nhi, Cớ sao lại thấy rậm rì râu ria?” (hoa sen và hoa súng); - “Con trâu chết rục, Nằm giữa đất đai; Một đường xương sống dài, Hai đống xương sườn nát” (tàu dừa mục); - “Thân hình thì chết đã lâu, Mà hai con mắt, bộ râu hãy còn” (gốc tre khô); - “Mắt gì cách gối hai gang, Đem ra trình làng, chẳng biết chuyện chi; Sinh ra cái giống dị kì, Lưng nằm đằng trước, bụng thì phía sau?” (cẳng và mắt cá chân); - “Con chi: Đánh thắng ông vua, Đánh thua thầy chùa?” (con chấy) (Đầu vua có tóc như người bình thường, nên chấy bám được; đầu thầy chùa nhẵn bóng, chấy phải “thua”); - �Con đánh mẹ, Mẹ van làng; Đến khi làng ra, Con chui bụng mẹ!” (cái dùi và cái mõ) (Loại mõ để rao làng, bằng gốc hay gióng tre, dùi có thể bỏ được vào bên trong); - “Trâu ăn trên đỉnh, trâu no, Bò ăn dưới đỉnh, bò đói, Nước chảy quanh suối, Trâu đói bò no” (cối xay bột) (Dòng 1 chỉ thớt trên, dòng 2 chỉ thớt dưới. Thoạt đầu, thớt trên đầy vật đem xay: “trâu no”, thớt dưới không có gì: “bò đói”; xay một hồi, thớt trên hết vật đem xay: “trâu đói”, trong lúc thớt dưới lại tràn đầy: “bò no”); . b. Tính lạ hoá còn được thể hiện hiện bởi những kết hợp không bình thường về mặt ngữ pháp, thường gặp là sự đánh lẫn đối tượng ở vai chủ thể của một hành động. Thí dụ: - “Đi thì nằm, nằm thì đứng” (bàn chân) (Đã đi thì không thể nằm, cũng như đã nằm thì không thể đứng. Nhưng ở đây, chủ thể của “đi” và “nằm2” là người, chủ thể của “nằm1” và “đứng” là bàn chân (và “nằm1” là
- có bề mặt tiếp xúc lớn nhất theo phương song song với mặt đất – “đứng” thì ngược lại, có bề mặt tiếp xúc bé theo phương thẳng góc với mặt đất - khác với “nằm2” là ngả thân mình trên một vật nào đó, thường để nghỉ), nên lại có thể. Điều tạo nên sự không thể lẫn có thể bất thường này, chính là kiểu câu: X thì Y, X thì Y - với chủ thể của X, X khác với chủ thể của Y, Y , và X trái nghĩa với X , Y trái nghĩa với Y ). - “Mặc áo xanh, đội nón xanh; Đi quanh một vòng, Mặc áo trắng, đội nón trắng!” (quả cau khi róc vỏ) (Chủ thể của “đi quanh một vòng” là kẻ “mặc áo xanh, đội nón xanh”, nhưng chủ yếu là người dùng dao để róc vỏ cau; vì bấy giờ, hành động của người là chủ động tạo kết quả còn sự vận động của kẻ “mặc áo xanh, đội nón xanh” chỉ là hình thức bị động nhận chịu. Chủ thể người (róc cau) bị ẩn đi, khiến lời đố trở nên kì lạ);... III. Tóm lại, nếu yêu cầu xác thực là những nấc thang dùng cho việc thu hái vật đố, thì yêu cầu lạ hoá lại làm cho những nấc thang ấy trở nên kì dị, huyền ảo (người trèo có thể bị chệch lối hoặc vấp ngã). Hai đặc điểm xác thực và lạ hoá có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau. Chúng phần nào cho thấy đặc trưng của thể loại câu đố. T.N (nguồn: TCSH số 219 - 05 - 2007) ----------------------------- Về đặc điểm của vật đố, xem: Triều Nguyên; “Đặc điểm của vật đố trong câu đố người Việt”; Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 10 (132) - 2006; tr 7-10. Bốn cách này được trình bày trong bốn bài viết. Có ba trong số bốn bài ấy đã công bố: 1) Triều Nguyên; “Các hình thức chơi chữ trong câu đố”; trong: Thông báo Văn hoá dân gian 2002 (Kỉ yếu Hội nghị Thông báo Văn hoá dân gian năm 2002, do Viện Nghiên cứu Văn hoá tổ chức), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003, tr 738-751; 2) Triều Nguyên; “Câu đố dùng cách tá ý”; Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3-2006; tr 55- 62; 3) Triều Nguyên; “Câu đố dùng cách tả thực”; Tập san Nghiên cứu Văn hoá dân gian Thừa Thiên Huế (Hội Văn nghệ dân gian Thừa Thiên Huế), số 12-2006; tr 54-65. Cái gáo khi múc nước xong thường mắc vào một cái cọc bên cạnh lu, vại. Phân biệt ngoại lệ này với trường hợp các từ chỉ tổng loại, chỉ họ thường gặp trong thế giới sinh vật cũng được dùng với đồ vật; chẳng hạn: - “Cây chi nhánh sắt, cội ngà, Đố chàng nho sĩ biết là cây chi?” (cây ô); - “Con chi không ăn, không nói, không cười, Nghiêng lưng mà chịu với người hôm mai” (con đà lót ván, sập ngựa). Gà trống được luộc nguyên con để cúng thần linh; khi cúng, thường đặt con dao ở phía sau. Những trích dẫn câu đố ở đây nhằm trình bày các hình ảnh khác thường để minh hoạ cho đặc điểm lạ hoá được nêu. Còn cơ chế, cách thức tạo ra loại hình ảnh này, người viết sẽ trình bày trong một bài viết khác. Trong trường hợp này, là trái nghĩa ngữ cảnh.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ưu thế và các đặc điểm của đối tượng vi sinh vật
5 p | 292 | 67
-
Bài giảng Địa lý 8 bài 33: Đặc điểm sông ngòi Việt Nam
27 p | 498 | 62
-
Bài giảng Địa lý 8 bài 15: Đặc điểm dân cư, xã hội Đông Nam Á
37 p | 615 | 51
-
Giáo án Địa lý 8 bài 39: Đặc điểm chung của tự nhiên Việt Nam
6 p | 470 | 29
-
Giáo án bài Luyện từ và câu: Từ chỉ đặc điểm. Ai thế nào? - Tiếng việt 2 - GV. T.Tú Linh
3 p | 658 | 20
-
Sinh học 7 - SỰ ĐA DẠNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA BÒ SÁT
8 p | 511 | 16
-
Hướng dẫn giải bài 1,2,3 trang 145 SGK Toán 1
3 p | 76 | 9
-
Bài 8: Chữa lỗi về quan hệ từ - Giáo án Ngữ văn 7 - GV: Lê Thị Hạnh
9 p | 292 | 7
-
Vẻ đẹp bi tráng của ngươi lính trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng
5 p | 123 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học trực tuyến tại lớp chủ nhiệm ở trường THPT Đô Lương 4
55 p | 9 | 5
-
Giáo án bài 6: Đặc điểm của văn bản biểu cảm - Ngữ văn 7 - GV.T.T.Chi
8 p | 156 | 4
-
Đề thi học kì 1 môn Sinh học lớp 8 năm 2021-2022 có đáp án - Trường TH-THCS Thắng Lợi
21 p | 7 | 3
-
Phân tích những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình
6 p | 142 | 3
-
Đề thi học kì 2 môn Sinh học lớp 10 năm 2022-2023 - Trường THPT Lê Lợi
2 p | 6 | 3
-
Đề thi giữa học kì 2 môn Địa lí lớp 10 năm 2022-2023 - Trường THPT Lê Lợi
4 p | 6 | 2
-
Giải bài tập Sự rơi tự do SGK Lý 10
6 p | 101 | 1
-
Đề thi học kì 2 môn Công nghệ lớp 7 năm 2023-2024 có đáp án - Trường THCS Lê Lợi, Tam Kỳ
21 p | 2 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn