Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT MÚA CỦA NGƯỜI TÀ ÔI<br />
? TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG *<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Di sản múa dân gian là tài sản vô giá của người<br />
Tà Ôi, là sợi dây gắn kết cộng đồng là cốt lõi của bản<br />
sắc văn hóa dân tộc. Chính trong lao động sáng tạo<br />
cùng với lối ứng xử đẹp của con người với con người,<br />
của con người với môi trường tự nhiên đã tạo nên<br />
loại hình nghệ thuật diễn xướng độc đáo, chứa đựng<br />
những nét đặc trưng riêng có của người Tà Ôi.<br />
Người Tà Ôi cho rằng múa là một bộ phận thiết<br />
yếu trong đời sống văn hóa tinh thần của họ, nó<br />
không chỉ mang chức năng giải trí đơn thuần mà gắn<br />
điệu múa.1 Những điệu múa đều mang tính phổ biến.<br />
liền với tín ngưỡng, đời sống tâm linh, là phương tiện<br />
Chúng tôi đã sưu tầm và ghi chép được thêm 7 điệu<br />
để tiếp xúc với thế giới siêu nhiên.<br />
múa cổ mà chỉ có những người già Tà Ôi còn nhớ.<br />
Trong nhạc lễ múa, khi vị chủ lễ làm phép xin thần<br />
- Điệu Azưng Radoóc: Xuất hiện trong các đám<br />
linh, ma quỷ về dự lễ, chứng giám cho lòng thành của<br />
tiệc như đâm trâu, đám cưới... phụ họa phần diễn<br />
dân làng thì hòa chung với tiếng trống, tiếng cồng<br />
tả cho các điệu hò, điệu hát. Trong lễ đâm trâu, khi<br />
chiêng là sự cổ vũ của dân làng, những chàng trai,<br />
con trâu được cột vào cây nêu, trai gái, già trẻ đi xung<br />
cô gái nhảy múa xung quanh sân nhà Rông tạo nên<br />
quanh con trâu vừa múa, vừa hát, vừa đánh trống,<br />
không khí đầy nhiệt huyết, đầy sức sống. Tất cả hòa<br />
thanh la, cồng chiêng. Khi biểu diễn con gái đi trước<br />
vào nhau tạo thành một bản nhạc rộn ràng, đầy lạc<br />
hát và múa, con trai đi sau vừa đệm nhạc, vừa hát. Ở<br />
quan, báo hiệu những điều tốt đẹp bắt đầu. Thông<br />
sân khấu hiện đại thì điệu múa này lại mang ý nghĩa<br />
qua múa truyền thống mà tinh thần dân tộc được<br />
khác đó là phản ánh sự đúng sai trong mối quan hệ<br />
nâng cao, ý thức đoàn kết như được tiếp nối tạo nên<br />
của hai làng kết nghĩa.<br />
sức mạnh toàn diện của dân tộc Tà Ôi. Chính vì những<br />
lẽ đó mà nghệ thuật múa của người Tà Ôi có những - Điệu Azưng zêl: Trong đám cưới, mọi người tập<br />
đặc điểm sâu sắc và riêng biệt so với các dân tộc thiểu trung thành vòng tròn hát múa những bài vui tươi<br />
số khác ở nước ta. cầu chúc cho đôi vợ chồng mới cưới được hạnh phúc<br />
dài lâu. Điệu này vừa nhún nhảy vừa vỗ tay theo nhịp<br />
2. Đặc điểm nghệ thuật múa của người Tà Ôi<br />
người hát.<br />
2.1. Các điệu múa truyền thống<br />
- Điệu Xía Cu múi: Dùng trong đám ma, người ta đi<br />
Trước đây, trong công trình nghiên cứu, chúng chung quanh nhà để quan tài, vừa đi, vừa đánh trống,<br />
tôi đã thống kê ra được 21 điệu múa với 3 nội dung: thanh la vừa hát điệu dân ca Ra rọi và múa. Điệu múa<br />
múa trong lao động có 13 điệu múa, múa trong sinh này thường không sôi nổi, người múa đi chậm chạp,<br />
hoạt có 4 điệu múa và múa trong tín ngưỡng có 4 nhích từng bước nhẹ nhàng tay buông xuôi, hai bàn<br />
<br />
*<br />
Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Thừa Thiên Huế.<br />
<br />
30 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
tay xòe ra hai bên. Cùng lúc đó bà mẹ của Căn Đôi Ra Dư xuất hiện<br />
và ném chiếc vòng trên tay của con gái đi. Anh chàng<br />
- Điệu Azưng Curu: Điệu múa đồng bóng xuất<br />
nghèo đôi mắt ngạc nhiên và lo lắng. Đúng lúc đó<br />
hiện trong lúc cầu bóng hộ về nhập. Khi bóng hộ về<br />
anh chàng nhà giàu tên là A Rơn vừa tới vừa múa<br />
nhập vào người nào đó, người đó đứng dậy vung tay,<br />
khoe khoang, trao vòng bạc cho bà mẹ cô gái, mặt bà<br />
vung chân quay qua, quay về, quay lui, quay lại người<br />
mẹ phấn khởi đưa vòng bạc cho con gái, cô gái không<br />
bóng đứng ở giữa múa, xung quanh có vài người hầu<br />
nhận, bất chợt cô gái chạy tới ôm anh chàng nghèo,<br />
bóng vừa đi theo nhịp trống và tiếng thanh la, khèn<br />
bà mẹ lôi cô gái ra.<br />
bè hòa vào. Điệu này người múa không có hát hò mà<br />
chỉ có người đứng phía sau tường hoặc vách nhà hát, Nhạc cồng chiêng nổi lên với điệu nhạc Rarưp, hai<br />
họ hát theo điệu Câmprưng (âm ngang). chàng trai giao chiến bằng kiếm và khiêng, bà mẹ can<br />
- Múa hội mùa: Được biên đạo múa theo 5 giai đoạn: không được.<br />
<br />
+ Giai đoạn 1: Người múa tay cầm rựa, lưng đeo Cồng chiêng chuyển nhịp Rarưp sang điệu Palư,<br />
gùi, nam đi trước, nữ đi sau họ múa theo động tác ông Vỗ Kuun đi tới vừa đi vừa hát điệu Tăngi, mọi<br />
phát rẫy. người đều đứng im, bà mẹ chắp tay lên ngực, cô gái<br />
cúi mặt ngồi xuống, đúng một ngân Tăngi vừa xong,<br />
+ Giai đoạn 2: Cảnh đốt rẫy, nam tay cầm rìu, rựa, Vỗ Kuun liền hát điệu Cà lơi và cầm tay cô gái kéo lên<br />
bên hông đeo gùi nhỏ để bỏ các dụng cụ lao động, và đưa tới cho anh chàng nhà nghèo, ông Vỗ Kuun<br />
còn nữ múa động tác xúc cá dưới suối để lên nấu ăn đứng giữa mẹ cô gái và anh chàng giàu có bắt đầu<br />
cho chồng. múa Palư điệu Curu 2 vòng, tất cả các loại nhạc nổi<br />
+ Giai đoạn 3: Thao tác trỉa lúa, động tác này cả lên, mọi người xếp hình chữ U, cô gái đứng ngoài<br />
nam và nữ đều múa, con trai cầm gậy chọc lỗ, nữ cầm nghiêng đầu vào trong ôm lấy anh chàng nhà nghèo,<br />
lúa trỉa thành hàng đi sau. Vỗ Kuun cầm tay mụ già và anh chàng nhà giàu giơ<br />
lên cao chào khán giả.<br />
+ Giai đoạn 4: Thao tác làm cỏ lúa, người múa chủ<br />
yếu là nữ, cầm cuốc nhỏ làm cỏ còn nam giới lại đóng Về nguồn gốc của điệu múa này và nhân vật Vỗ<br />
vai đi săn thú quanh rẫy. Kuun thì họ có truyện kể như sau: “Ngày xưa khi người<br />
Tà Ôi mới hình thành và đi tìm ra được nhiều vùng đất<br />
+ Giai đoạn 5: Thao tác tuốt lúa, chỉ có nữ tham gia<br />
mới để ở thì họ chia ra làm thành nhiều làng với các tên<br />
múa, hông đeo giỏ để đựng hạt lúa, mọi người dàn<br />
gọi như A Vao, A Vương, Phuang... tất cả các làng này<br />
thành hàng ngang, tay để ngang hông, tuốt nhẹ lúa<br />
đều ở hai bên bờ của con suối Târ Renh.<br />
rồi bỏ vào giỏ.<br />
Ở dòng suối Târ Renh đó, ai ai cũng biết ông Vỗ<br />
- Điệu múa Tong: Hay còn gọi là múa giữ rẫy, nam<br />
Kuun, ông thật đáng trân trọng bởi tài trí của mình, ông<br />
giới dang tay rộng chạy tới, chạy lui nhiều lần và sẽ<br />
không ích kỷ mà luôn luôn đem tài trí của mình ra để<br />
tưởng tượng công việc đang đuổi thú dữ, bảo vệ<br />
giúp đỡ gia đình và làng bản. Ông hát alý rất giỏi, nhờ<br />
nương rẫy. Khi múa phải cầm theo giáo, atút, crờlông<br />
đó mà cuộc sống làng bản quanh suối Târ Renh có cuộc<br />
tirỉa và kèm theo những tiếng hú thất thanh. Còn nữ<br />
sống yên bình.<br />
giới thì nhún nhảy theo nhịp điệu đuổi thú rồi hòa<br />
chung vào cùng với tốp nam để thể hiện một ý chí Lúc đầu, người Tà Ôi có rất nhiều phong tục lạc hậu,<br />
tập thể được bền chặt, tức là cầu mong có một mùa ông Vỗ Kuun là người cứng rắn dám chống lại các ý<br />
màng bội thu. kiến của Yàng Co (thần Núi), Yàng Đăq (thần Nước)<br />
khiến cho các Yàng này không còn đòi ăn trâu, ăn bò<br />
- Điệu Vỗ Kuun giải chiến: Điệu múa này bắt đầu<br />
hằng năm nữa, trong lao động ông là người chắc chắn,<br />
là một cô gái tên Căn Đôi Ra Dư xuất hiện trước sân<br />
những cây cao to chỉ một mình ông đốt sạch, đào sạch<br />
với điệu bộ xúc cá, 5 động tác, 3 nhịp/động tác. Có<br />
gốc, dân làng thấy vậy mà bắt chước nên rẫy của họ<br />
anh chàng nhà nghèo tên là Cu Pỏa vừa đi vừa múa,<br />
nhà nào cũng được mùa.<br />
đôi mắt quan sát xung quanh với điệu bộ săn thú. Hai<br />
người quấn quýt điệu múa nhẹ nhàng với nhạc khèn Có những lần giữa các làng bên kia núi Ka Lưi sang<br />
bè. Múa trao vòng cầu hôn cho cô gái. Cô gái cầm cướp bóc hoặc chặn đoàn người đi trao đổi hàng hóa,<br />
chiếc vòng được trao rồi mừng rỡ múa. ông Vỗ Kuun biết chuyện liền đi đến đánh nhau với<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
31<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
chúng làm cho bọn chúng trở thành người lương thiện.<br />
Một lần nọ, giữa hai làng A Ka và Ka Lưi có chuyện<br />
xích mích lớn lắm không làng nào chịu thua, việc diễn<br />
ra chỉ vì các trai làng của làng A Ka đi chơi về ngang qua<br />
rẫy của làng Ka Lưi thấy mía lên cao, dài đốt ngon lắm,<br />
họ liền bẻ vài cây để ăn, trong lúc đang ăn thì bị người<br />
của làng Ka Lưi bắt được, họ bỏ chạy cũng không được,<br />
nói láo cũng không xong nên trai làng A Ka bị phạt vạ<br />
nặng lắm.<br />
Già làng Ka Lưi tính ra sự mất mát nhiều mía thì phải<br />
nhịp 2/4, tiết tấu bình thường, chân qua phải hoặc<br />
đền gấp nhiều lần, cả trăm rẫy bắp cũng không đủ, phải<br />
qua trái, di chuyển ngang.<br />
đền thêm cả trâu, bò nữa để họ cúng Yàng kẻo không sợ<br />
Yàng bắt vạ. Sự việc đó đã làm cho trai làng A Ka khiếp + Động tác tay phần hạ đóng mở: Một bàn tay úp,<br />
sợ, họ về báo với già làng của mình thì chẳng giải quyết một bàn tay mở, chuyển luân phiên theo nhịp 2/4, tiết<br />
được việc gì mà lại thêm bị la mắng. Cả đoàn trai làng A tấu bình thường chân qua phải hoặc qua trái. Khuỷu<br />
Ka liền tìm đến ông Vỗ Kuun để nhờ vả. tay tròn, di chuyển ngang.<br />
Khi gặp được ông Vỗ Kuun rồi cả bọn mừng lắm, + Động tác tay phần hạ trước và sau: Chuyển ra<br />
chúng kể lại sự việc và cầu xin ông Vỗ Kuun cứu giúp. Vỗ trước, vuốt về sau. Chân tiến lên 2 bước, lui 2 bước.<br />
Kuun không nói gì cả, im lặng đi về hướng làng Ka Lưi, Cuộn cổ tay ra sau rồi đưa ra trước.<br />
Vỗ Kuun cầm chiếc khèn bè lên thổi, ông thổi lúc đầu thì<br />
+ Động tác tay phần thượng: Hai tay trên cao, lòng<br />
chẳng ai để ý, họ vẫn cãi cọ nhau rồi đòi đền, đòi phạt rồi<br />
bàn tay hướng lên trời, các ngón tay kẹp chặt, khuỷu<br />
dần dần tiếng khèn inh ỏi len lỏi vào tai từng người. Họ<br />
tay hướng ra phía trước, tròn khuỷu tay. Di chuyển<br />
như có bùa mê làm mê hoặc, cả làng Ka Lưi dừng việc,<br />
theo tiết tấu 2/4 vừa, mắt nhìn thẳng, qua phải hoặc<br />
dừng tay để nghe tiếng khèn. Điệu khèn bè của ông Vỗ<br />
qua trái, tiết tấu 2/4.<br />
Kuun rất thông thạo lòng người, biết ai buồn, biết ai vui<br />
mà thổi vào lòng mọi người và được nhiều người yêu + Động tác tay thượng: Dựng thẳng bàn tay lên<br />
thích điệu khèn này, họ như lương thiện hẳn lên quên đi cao, hướng ra phía trước, rung bàn tay kéo xuống<br />
việc bắt người làng A Ka nộp phạt. Nhờ có tiếng khèn đó theo nhịp chân - ngang ngực. Động tác lặp lại theo<br />
mà hầu khắp các bản làng Tà Ôi đều biết đến Vỗ Kuun. chu kỳ tròn. Di chuyển ngang hoặc tiến lên phía<br />
trước. Nhịp tiết tấu 2/4.<br />
Ngày nay, cứ mỗi lần có lễ hội, tiếng khèn lại cất lên<br />
để tưởng nhớ Vỗ Kuun người đã bày cho dân làng biết + Động tác tay hạ: Hai bàn tay ở chiều chúc xuống<br />
làm khèn và các điệu khèn để thổi và họ hay nói: đất, cuộn bàn tay nghiêng qua phải, chân trái bước,<br />
nghiêng qua trái thì chân phải bước. Di chuyển hướng<br />
Vỗ Kuun đi đâu người dân theo đó.<br />
thẳng, tiết tấu 2/4.<br />
Vỗ Kuun khéo nói, giỏi làm”.2<br />
+ Động tác tay trung 1: Hai tay chắp bên hông,<br />
Bên cạnh đó trong kho tàng văn hóa dân gian Tà cánh tay khuỷu sang hai bên. Di chuyển ngang, tiết<br />
Ôi nhóm người Pacô đang lưu giữ trong mình các tấu 2/4.<br />
điệu múa: Pâr chiềng kòong, Pa dưưn kuru, Pa dưưn<br />
+ Động tác tay trung 2: Một tay chống cằm, một<br />
Tâng kin, Choan đung, Xịa tì rỉa. Các điệu múa này có<br />
tay đỡ cùi chỏ - thể hiện sự buồn khổ. Di chuyển<br />
phần giống với các điệu múa trong lễ đâm trâu, lễ cầu<br />
ngang, qua phải hoặc qua trái, tiết tấu 2/4.<br />
mùa của người Tà Ôi mà thôi.<br />
+ Động tác tay trung 3: Hai tay chắp vào bên má<br />
2.2. Các động tác khi múa của người Tà Ôi<br />
phải hoặc má trái - thể hiện sự buồn khổ. Di chuyển<br />
Khi khảo sát các điệu múa cơ bản của người Tà Ôi, ngang qua phải hoặc qua trái, tiết tấu 2/4.<br />
chúngtôithốngkêcócảthảy22độngtáckhácnhaugồm:<br />
+ Động tác tay trung 4: Hai tay bắt chéo nhau<br />
+ Động tác tay nữ phần hạ cùng chiều: Hai bàn tay chắp trước ngực, tâm trạng buồn, di chuyển theo tiết<br />
cùng úp phần hạ khuỷu tay tròn. Đóng và mở theo tấu 2/4.<br />
<br />
32 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
+ Động tác tay thượng: Hai tay ôm đầu - thể hiện + Động tác đánh trống của nam: Người đổ về phía<br />
sự buồn khổ. Di chuyển ngang qua phải hoặc qua trái, trước, chân khuỵu, di chuyển thấp trung bình, vừa đi<br />
tiết tấu 2/4. vừa đánh trống theo dàn cồng chiêng. Nhạc khèn, tù<br />
và, hò hú diễn tấu từ 1 người đến 2 người.<br />
+ Động tác tay hạ: Hai tay chắp sau lưng. Hai bàn<br />
tay hướng lên trên, mu bàn tay này đặt lên lòng bàn + Động tác đánh cồng nam: Người đổ về phía<br />
tay kia hướng lên trên. Dáng người chúc về phía trước, trước, vai đeo cồng đánh bằng tay (nắm đấm, cũng<br />
mặt nhìn ngang phải hoặc trái, tiết tấu 2/4. có lúc bằng dùi) vừa đánh vừa di chuyển thấp cùng<br />
dàn nhạc.<br />
+ Động tác tay có cầm đạo cụ đối với nữ:<br />
+ Động tác đánh chiêng nam: Người đổ về phía<br />
* Cầm quạt.<br />
trước, vai trái đeo chiêng, đánh bằng dùi, vừa đánh<br />
* Cầm lá. vừa di chuyển thấp, tay phải đánh, tay trái điều chỉnh<br />
* Cầm lá đựng thức ăn. âm thanh trên mặt chiêng, âm thanh lúc vang, lúc<br />
dừng theo trống với tiếng bùng, bục bục bục, bùng,<br />
* Cầm Xaar (xập xõa). bục bục bục, bục bục bục, bùng.<br />
+ Động tác chân đi kiễng gót: Di chuyển ngang + Động tác múa giáo nam khi đâm trâu: Trước khi<br />
tiết tấu 2/4 phải hoặc trái, di chuyển tiến tiết tấu 2/4. đâm trâu, người cầm giáo múa theo dàn nhạc cồng<br />
+ Động tác pool thấp đối với nam: Động tác di chiêng, tù và, trống, khèn, xập xõa, tingat. Nhún nhảy<br />
chuyển thẳng hoặc trước mặt. Chân phải thì tay phải, theo tiết tấu nhanh nhẹn, dồn dập. Giáo vác trên vai,<br />
động tác sát đất. Vòng chấp càng hẹp khi sát đất thì lưỡi giáo hướng lên trời di chuyển theo hình vòng<br />
chuyển động tác. Nhanh nhẹn, vui tươi rộn rã (cách tròn. Khi bắt đầu đâm trâu, người đâm cầm giáo, mũi<br />
mặt đất 30 cm). giáo hướng thẳng vào trâu, vòng tròn quanh con<br />
trâu, lựa chọn hướng thích hợp để đâm trâu và đâm<br />
+ Động tác pool nam cao: Động tác di chuyển<br />
trúng chỗ hiểm.<br />
thẳng hướng trước mặt, chân trái thì tay phải và ngược<br />
lại. Động tác ở phần trung (cách mặt đất khoảng 50 2.3. Âm nhạc trong nghệ thuật múa của người<br />
cm). Động tác nhanh nhẹn, vui tươi rộn rã. Tà Ôi<br />
<br />
+ Động tác ẻo nam: Di chuyển hướng thẳng trước Từ thời tiền sử âm nhạc và múa có mối quan hệ<br />
mặt. Động tác vui tươi, tinh nghịch, mềm mại uyển hữu cơ, không thể chia cắt, chúng hỗ trợ nhau cùng<br />
chuyển, tiết tấu 2/4. phát triển. Bản thân nội tại của mọi hoạt động múa<br />
đã hàm chứa yếu tố tiết tấu nhịp điệu của âm nhạc<br />
+ Động tác chân của nam: Di chuyển ngang tiết<br />
(múa theo nhịp, phách, tiết tấu) đến khi phát triển,<br />
tấu 2/4 nhanh nhẹn, dứt khoát. Di chuyển về phía<br />
định hình hóa nghệ thuật múa thì vai trò của âm nhạc<br />
trước động tác đi dứt khoát tiết tấu 2/4. Di chuyển<br />
trở nên thiết yếu. Nếu múa mà không có âm nhạc thì<br />
phần thấp hơi cúi gập đầu gối, di chuyển phần trung<br />
vô hồn, vô cảm. Điều này càng thấy rõ vai trò của âm<br />
hơi khom mình, di chuyển phần cao chân hơi đá về<br />
nhạc trong múa dân gian. Trong tất cả các nội dung<br />
phía trước.<br />
múa của người Tà Ôi đều có âm nhạc, ngoài các loại<br />
nhạc cụ như đã trình bày ở trên thì trong quá trình<br />
diễn tấu nhạc người diễn tấu cũng hòa đồng vào<br />
không gian múa và động tác múa uyển chuyển, nhịp<br />
nhàng, sinh động.<br />
Đối với người Tà Ôi, âm nhạc dân gian là nhịp cầu<br />
nối những cá thể lại với cộng đồng, nối cộng đồng<br />
này với cộng đồng khác, nối con người với tất cả thần<br />
linh trong trời đất.<br />
Trong các tiến trình của lễ xin đất chôn nọc buộc<br />
trâu, lễ khấn cầu mùa (Tà nêm azakonh) và đặc biệt<br />
là lễ đâm trâu... vào đầu năm 1999, âm nhạc thường<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
33<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
được tấu lên theo thứ tự gồm các khúc sau: đội hình di chuyển ngược kim đồng hồ với các điệu<br />
múa cố định như za zả, pa dứt tiría, răm.<br />
- Roong hêl tâm moi (mừng khách): tiết tấu nhanh,<br />
vui tươi rộn ràng. Các thành viên sử dụng nhạc cụ đều Biên chế đội nhạc gồm: 1 khèn, 2 trống, 2 cồng, 1<br />
nằm trong đội hình múa đi vòng tròn theo nhịp trống. tù và, chuông, lục lạc để cho ai chơi thì tùy thích.<br />
- Palư tâm moi (vui cùng khách): tiết tấu khoan Nhìn chung, âm nhạc của người Tà Ôi, nhạc hát<br />
thai hơn, như lời mời trân trọng cùng khách vui chơi, cũng như nhạc đàn mang đậm dấu ấn thiên nhiên và<br />
ăn uống. cuộc sống bộ tộc: hoang sơ, đơn giản, mộc mạc, trữ<br />
tình và trầm hùng. Tiết tấu không nhanh lắm nhưng<br />
- Tặc ân toch tôr (thi đấu): dành cho người già đấu<br />
rộn ràng, ưa sử dụng loại nhịp chẵn có trọng âm rõ<br />
lý với nhau bằng lời lẽ, người trẻ đấu với nhau bằng<br />
ràng, ít biến hóa, chỉ thỉnh thoảng có đảo phách.<br />
tài năng, sức mạnh và sự khéo léo. <br />
Có thể ngày xưa, trong không gian nguyên sơ với<br />
- Đăng tâm moi vel cho ăt se (tiễn khách): vui vẻ,<br />
nhà sàn và bếp lửa hay bên bờ suối róc rách, trong<br />
mãn nguyện, lưu luyến, hẹn hò.<br />
sự âm u hùng vĩ của núi rừng Trường Sơn, lời hát của<br />
Cả 4 khúc nhạc trên được gộp lại đánh trong khi họ cất lên nghe rất huyền bí, đầy ma lực nhưng lại rất<br />
tế lễ, khi vào hội và luôn được kết hợp với nhảy múa thân thiết gần gũi. Họ hát mà như nói với nhau, như<br />
như một thể thống nhất. Mỗi cuộc lễ đều được tấu đi nắm tay nhau kéo lại, như kể cho nhau chuyện ban<br />
tấu lại nhiều lần. Giai điệu mộc mạc, đơn sơ nhưng sáng, ban trưa, như nói về nhau chuyện ngày mai, nói<br />
tiết tấu chắc, ít biến hóa, tạo nên sự khỏe mạnh hùng về niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc, khổ đau của cuộc<br />
tráng, mặc dù tính chất hòa tấu mang nhiều nét sống... từ đó âm nhạc của họ sinh thành nên cho đến<br />
ngẫu hứng của từng cá nhân, giai điệu thô sơ, dễ nhớ ngày hôm nay.3<br />
được phụ họa khèn, tù và một cách tùy hứng, nghịch<br />
Ngoài các loại nhạc cụ truyền thống được sử dụng<br />
ngợm cũng như tiếng hú hét của nhạc công và đội<br />
trong khi múa thì người Tà Ôi còn sử dụng các đạo<br />
múa. Đặc biệt trong lúc đâm trâu, khi ngọn lao của<br />
cụ khác như quạt, kiếm, khiên, cung tên, cây mía, rìu,<br />
già làng đâm trúng điểm quy định, có nghĩa là con<br />
rựa… để phụ họa cho các động tác, các điệu múa<br />
trâu sẽ phải gục chết thì tiết tấu được tăng lên, dồn<br />
được thêm sinh động.<br />
dập hơn, cường độ mạnh hơn, tiếng hú hét cũng nhặt<br />
hơn theo nhịp chân nhảy múa khẩn trương dần theo Nghệ thuật múa của người Tà Ôi từ ngoài đời đã<br />
<br />
34 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Miền Trung - Tây Nguyên<br />
<br />
<br />
được đưa vào trong lĩnh vực nghệ thuật tạo hình qua tiếp gặp các nghệ nhân để tiến hành khảo sát, thu<br />
những tác phẩm điêu khắc tượng nhà mồ, các hình thập tư liệu và nghiên cứu các điệu múa truyền thống<br />
vẽ trên nhà Rông, cột lễ đâm trâu. Đặc biệt trang trí của dân tộc Tà Ôi. Đây được coi là một trong những<br />
hoa văn trên vải dzèng người Tà Ôi đã thể hiện 2 hình biện pháp quan trọng góp phần bảo tồn nghệ thuật<br />
người đàn ông múa và người đàn bà múa với tên gọi múa cũng như các loại nhạc cụ, các thể loại dân ca.<br />
Răm/Ngai răm/Ngai za zả.4<br />
Với nỗ lực bảo tồn và phát huy di sản múa truyền<br />
3. Kết luận thống của người Tà Ôi, Sở Văn hóa, Thể thao và Du<br />
lịch đã phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến<br />
Điệu múa của người Tà Ôi mang nhiều yếu tố<br />
hành nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn, xuất bản các<br />
hoang dã, không bị pha tạp các yếu tố văn hóa<br />
cuốn sách có liên quan đến múa truyền thống của<br />
ngoại lai. Các điệu múa được truyền từ đời này sang<br />
người Tà Ôi; mời các nghệ nhân đến truyền dạy các<br />
đời khác thông qua phương pháp truyền dạy trong<br />
điệu múa truyền thống cho học sinh Trường Trung<br />
những lễ hội truyền thống. Mỗi thế hệ tiếp nhận đều<br />
học Văn hóa nghệ thuật Thừa Thiên Huế; phối hợp<br />
trân trọng, giữ gìn nghiêm túc phong cách thể hiện.<br />
với các xã có phong trào thực hành điệu múa truyền<br />
Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian mang<br />
thống, có nghệ nhân tâm huyết để đào tạo bài bản<br />
tính cộng đồng cao, nhiều màu sắc. Mỗi động tác<br />
cho thế hệ trẻ. Trong đó có hình thức lồng ghép<br />
múa đều có những chủ đề nhất định, có thể diễn tả<br />
chương trình nghệ thuật trình diễn dân gian vào các<br />
hết được những công việc lao động sản xuất, được<br />
chương trình ngoại khóa ở các trường phổ thông trên<br />
chắt lọc từ chính cuộc sống lao động, sinh hoạt của<br />
địa bàn người Tà Ôi.5<br />
người Tà Ôi. Chính vì lẽ đó mà múa của người Tà Ôi<br />
ngày càng có sức sống, tồn tại mãi mãi. Đây là nguồn T.N.K.P.<br />
tư liệu quan trọng giúp cho việc nghiên cứu truyền<br />
thống văn hóa, lịch sử, phong tục tập quán của người<br />
Tà Ôi.<br />
Múa của người Tà Ôi được hình thành trên cơ sở<br />
xã hội với nhiều yếu tố tâm linh, lao động, sản xuất,<br />
sinh hoạt gia đình, dòng họ. Múa là sự kết hợp và kế<br />
thừa của các loại hình nghệ thuật khác đó là âm nhạc, CHÚ THÍCH<br />
dân ca, văn học dân gian, văn hóa dân gian, dân tộc 1<br />
Trần Nguyễn Khánh Phong, “Về việc phát huy các điệu<br />
học, xã hội học, ngôn ngữ tạo hình... do vậy việc gìn múa dân gian của người Tà Ôi”, Kỷ yếu Thông báo Văn hóa<br />
giữ và phát huy bảo tồn các điệu múa truyền thống 2009, (Hà Nội: Từ điển Bách khoa, 2010), 602-621. Có 21<br />
điệu múa đó là múa đeo gùi, múa nhổ sắn, múa làm cỏ,<br />
của người Tà Ôi là việc làm cần thiết không chỉ làm<br />
múa xúc cá, múa phát rẫy, múa bắn nỏ, múa giáo, múa đi<br />
phong phú thêm đời sống tinh thần của người Tà Ôi săn, múa chặt củi, múa trỉa lúa, múa dệt vải, múa giã gạo,<br />
nói riêng mà còn của đồng bào các dân tộc thiểu số múa đẽo cột nhà, múa quạt cho khách, múa bưng nước<br />
trên đất nước Việt Nam nói chung. mời khách, múa mời rượu, múa múc nước suối, múa Ariêu<br />
ada za zả, múa Sasai veel, múa adưn choán paching dung,<br />
Hàng năm mỗi khi cộng đồng Tà Ôi có lễ hội quan<br />
múa ada koonh.<br />
trọng thì những điệu múa dân gian lại được phát huy.<br />
Các cấp, các ban ngành đã và đang quan tâm bảo vệ,<br />
2<br />
Trần Nguyễn Khánh Phong, Truyện cổ của người Pa Cô<br />
ở Thừa Thiên Huế, (Hà Nội, Khoa học Xã hội, 2015), 129, 130,<br />
tiếp tục duy trì các điệu múa truyền thống. Cụ thể là<br />
131.<br />
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế<br />
đã phối hợp với Phòng Văn hóa Thông tin huyện A<br />
3<br />
Dương Bích Hà, “Âm nhạc trong lễ cầu mùa của người<br />
Tà Ôi ở Thừa Thiên Huế”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 8/2000.<br />
Lưới đã tiến hành sưu tầm, nghiên cứu múa truyền<br />
thống trong các lễ hội trên địa bàn người Tà Ôi cư trú<br />
4<br />
Trần Nguyễn Khánh Phong, “Phức hệ hoa văn trang trí<br />
nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trên trang phục của người Tà Ôi”, Văn hóa Nghệ thuật, Số 12<br />
(258)/2005, 64.<br />
truyền thống.<br />
5<br />
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế, Cao<br />
Ngành văn hóa đã cử các cán bộ đến từng thôn, xã Chí Hải, Lý lịch di sản văn hóa phi vật thể múa truyền thống<br />
nơi tập trung nhiều đồng bào Tà Ôi sinh sống tại các trong lễ hội Aza Kooh của dân tộc Tà Ôi, huyện A Lưới, tỉnh<br />
xã như A Ngo, Nhâm, Hồng Thái, A Đớt, A Roàng, trực Thừa Thiên Huế. Huế, 10.2014. 50 trang.<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
35<br />