intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc trưng cơ bản về điều kiện tự nhiên vùng chiến trường Bạch Đằng năm 1288

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:16

88
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chiến trường Bạch Đằng năm 1288 nằm ở khu trung tâm của vùng cửa sông (VCS) Bạch Đằng, tại vùng chuyển tiếp giữa tỉnh Quảng Ninh và Thành phố Hải Phòng. Bài viết sau đi nghiên cứu hoàn cảnh tự nhiên của chiến trận Bạch Đằng trên cơ sở hoàn cảnh hiện tại và khả năng thay đổi qua thời gian hơn bảy thế kỷ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc trưng cơ bản về điều kiện tự nhiên vùng chiến trường Bạch Đằng năm 1288

  1. Trần Đức Thạnh, 2013. Đặc trưng cơ bản về điều kiện tự nhiên vùng chiến trường Bạch Đằng năm 1288.  Kỷ yếu Hội thảo khoa học 725 năm Chiến thắng Bạch Đằng. Quảng Yên  ngày 27/3/2013. Tr.14 – 31.  ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG CHIẾN  TRƯỜNG BẠCH ĐẰNG NĂM 1288 Trần Đức Thạnh Viện Tài nguyên và Môi trường biển – Viện Hàn Lâm KH&CN Việt Nam MỞ ĐẦU Chiến trường Bạch Đằng năm 1288 nằm ở khu trung tâm của vùng cửa sông   (VCS) Bạch Đằng, tại vùng chuyển tiếp giữa tỉnh Quảng  Ninh và Thành  phố Hải   Phòng. Khu vực tả ngạn chủ yếu thuộc địa phận Thị xã Quảng Yên, một  phần liên   quan đến thành phố  Uông Bí và Huyện Hoành Bồ  (Quảng Ninh); khu vực hữu   ngạn chủ  yếu thuộc về huyện Thuỷ Nguyên, Cát  Hải và các quận nội  thành của  Thành phố Hải Phòng. Để làm nên chiến thắng lẫy lừng, chắc chắn cha ông ta phải   tìm hiểu và đã nắm rõ đặc điểm tự nhiên vùng chiến trường này. Để hiểu rõ về quy   mô và diễn biến trận đánh, chúng ta cũng cần nghiên cứu hoàn cảnh tự  nhiên của   chiến trận trên cơ  sở  hoàn cảnh hiện tại và khả  năng thay đổi qua thời gian hơn  bảy thế kỷ. I. BẢN CHẤT CẤU TRÚC VÀ TIẾN HÓA VÙNG CỬA SÔNG BẠCH ĐẰNG 1. Vị trí  VCS Bạch Đằng có toạ  độ  địa lý: 106°37'­107°00' E và 20°37'­21°00'N và  diện tích trong ô toạ độ 1650km2, có đỉnh ở Bến Triều, đường bờ cơ bản chạy ven   Phù Long ­ Cát Hải ­ Đồ  Sơn và rìa ngoài đới bờ  ngầm cửa sông đi theo đường   đẳng sâu 6m từ mũi Đồ Sơn đến tây nam đảo Cát Bà [9].  VCS nằm trên dải ven bờ tây Vịnh Bắc Bộ, có ranh giới tự  nhiên ở bán  đảo   Hải Vân (Thừa Thiên Huế) và ranh giới  pháp lý ở Mũi Lạy (cực nam  Quảng Bình).  Dải ven bờ tây vịnh Bắc Bộ được chia  thành 4 vùng: Móng  Cái ­ Đồ Sơn; Đồ  Sơn   ­ Lạch  Trường; Lạch Trường ­ mũi  Ròn; Mũi Ròn – Hải Vân [8]. VCS Bạch Đằng  thuộc vùng ven bờ Móng Cái  ­ Đồ Sơn, tiếp giáp vùng ven  bờ châu thổ sông Hồng hiện đại (Đồ  Sơn – Lạch Trường) qua dải phân cách Kiến  An ­ Đồ  Sơn. Trong  phạm vi hẹp hơn, VCS nằm giữa  khu vực vịnh đảo  ở  phía   Đông Bắc được bắt đầu từ  quần thể đảo – vịnh là Cát  Bà ­  Hạ Long – Lan Hạ và  khu vực ven bờ châu thổ phía tây nam bán đảo Đồ Sơn. Trên 250km bờ biển kể từ  biên giới Việt – Trung, đây VCS đầu tiên có đường thủy đạo thông nối với kinh  thành Thăng Long. Với vị  trí và tính chất chuyển tiếp của VCS trong hai vùng tự   nhiên lớn  ở  dải ven bờ biển phía bắc Việt Nam và hình thể, cấu trúc đặc biệt VCS Bạch Đằng  có vị thế đặc biệt về địa chính trị và địa quân sự. 2. Cấu trúc 1
  2. VCS Bạch Đằng có bản chất cấu trúc là một Estuary [7, 9] – vùng cửa sông   hình phễu [6, 15]. Nó được hình thành trên cơ sở tương tác giữa quá trình phát triển   của một graben đang sụt chìm với sự  nâng cao của mực nước chân tĩnh, sự  thiếu   hụt bồi tích và thuỷ triều có biên độ lớn. Nó được định vị ở vị trí rìa đông bắc châu   thổ  sông Hồng, nơi dòng bồi tích tổng hợp dọc bờ  hướng về  phía tây nam. VCS  Bạch Đằng là một vực có cấu trúc nửa kín, nơi thuỷ triều là yếu tố động lực ngoại  sinh  ưu thế, quy định các đặc trưng về  địa hình và trầm tích. Đó là một vực nước   lợ­mặn, hoà trộn nước sông­biển khá tốt, phân tầng yếu. Mặc dù lượng bồi tích  sông tham gia đáng kể  nhưng dòng bồi tích di chuyển nội tại là chủ  đạo. Với cấu   trúc phân tầng yếu, cân bằng bồi xói VCS nghiêng về  xói lở, xâm thực. Đây là  trường hợp điển hình trên thế  giới về  một cửa sông hình phễu nhiệt đới [4] phát   triển trong điều kiện nhật triều biên độ lớn [9]. Cấu trúc nửa kín của VCS và sự phân cách tương đối của nó với biển là nhờ  quần đảo Cát Bà che chắn ở phía đông, đông nam, bán đảo Đồ Sơn ở phía tây. VCS  thông với biển ở phía nam và phần ngầm tới độ sâu 6m. Với cấu trúc như vậy, chỉ  có sóng hướng nam và đông nam mới có khả năng lan truyền từ biển vào với độ cao  không quá 3m, kể cả khi có bão.     Cấu trúc nửa kín của Estuary Bạch Đằng hiện nay do các kiến trúc tân kiến  tạo và kiến tạo hiện đại (TKT và KTHĐ) quy định. Phần trung tâm của VCS nằm  trên đới võng hạ  tương đối với KTHĐ và đới võng hạ  khá mạnh trong Holocen có   dạng graben. Vai trò vô cùng quan trọng của chuyển động KTHĐ đối với sự  hình  thành Estuary Bạch Đằng không chỉ là vận động  hạ  thẳng đứng trong Holocen, mà  còn tạo ra tiền đề  một vùng  võng hạ  tương đối có cấu trúc nửa kín khi biển tiến   chân tĩnh tràn ngập.  Hình 1. Vùng cửa sông Bạch Đằng (ảnh vệ tinh Spot ngày 01/3/2008) 2
  3. Địa hình VCS hết sức phức tạp và đa dạng, gồm nhiều kiểu, dạng có nguồn   gốc khác nhau và được chia thành bốn  nhóm: Địa  hình đồi và núi thấp, đồng bằng   không  ngập triều, đồng bằng ngập triều tự nhiên và địa hình bờ ngầm­ luồng  lạch   ngập nước thường xuyên. Một phần lớn diện tích đồng bằng ngập triều tự  nhiên  hiện nằm trong đê biển hoặc bị san lấp, hiện  không còn chịu ảnh  hưởng trực tiếp  của biển. Diện tích trong ô toạ  độ  của VCS là 1650km2 [9], trong đó: Đồi và  núi  thấp: 12,38%; Đồng bằng: 13,89%; Đê cát và thềm cát: 0,72%; Vùng đầm lầy biển:  32,62%; Bãi (bồi) triều thấp: 9,30%; Sông và lạch triều: 7,25%; Vùng bờ  ngầm:  15,70%; Vùng biển nông ven bờ: 8,09%. Về  phương diện địa hình và cảnh quan với các bãi triều lầy rậm rạp thực   vật ngập mặn tự nhiên, hệ lạch triều, kênh triều dày đặc, các doi cát triều nằm dọc   ven bờ  luồng, các thềm mài mòn phát triển  ở  đới triều thấp trên nền trầm tích bở  rời...VCS Bạch Đằng cũng khác hẳn triều ven bờ châu thổ sông Hồng.  3. Tiến hóa Quá trình hình  thành và  tiến hoá của VCS Bạch Đằng trong Holocen trải qua   3 thời  kỳ  và 7 giai đoạn như  sau [9]: Thời kỳ  thứ  nhất: Holocen sớm ­ giữa (11 – 3 nghìn năm  trước). Biên tiến  chân tĩnh giữ vai trò chủ đạo gây  ngập  chìm, nhanh chóng làm thay đổi môi trường  từ  lục địa sang ven bờ, đường  bờ  bị đẩy lùi xa nhất. Vào cuối  thời kỳ, mực nước   chân tĩnh dâng chậm   hẳn, vai   trò của kiến tạo và trầm tích được tăng cường,   đường mở mở lấn  về  phía  biển,  biển  lùi. Giai  đoạn 1: Môi trường lục địa Holocen sớm ­ đầu Holocen  giữa. Giai đoạn 2: Môi trường vũng ­  vịnh Holocen giữa. Giai đoạn 3:  Môi trường đầm lầy rìa châu thổ cuối Holocen  giữa. Thời kỳ  thứ  hai: Holocen muộn (3 đến 0,5 – 0,7 nghìn năm trước). Vai trò  chuyển động kiến tạo, đặc biệt ở các đới  kiến trúc nâng, tham gia quyết  định vào  các quá trình ngập chìm, nổi cao. Quá trình trầm tích tích cực có ảnh  hưởng đến di  chuyển đường bờ. Vào cuối thời kỳ, do bồi tụ mạnh, đường bờ  di chuyển ra phía  biển, qua cả trung tâm sụt  hạ khá mạnh. Giai đoạn 4:  Môi  trường  vịnh ­  vụng đầu Holocen muộn. Giai đoạn 5: Môi trường vụng biển giữa Holocen muộn. Giai đoạn 6: Môi trường cửa sông châu thổ cuối Holocen muộn. Thời  kỳ  thứ ba: Cuối Holocen muộn (khoảng 0,5 – 0,7 nghìn năm qua), chỉ  gồm một giai đoạn đang tiếp tục với một đợt biển lấn mới, đường bờ di chuyển về  phía lục địa, ngập chìm không đền bù trầm tích và thuỷ triều có vai trò quan trọng. Trong   5­7   trăm   năm   qua,   mực   nướcchân   tĩnh   tiếp   tục   nâng   cao   xấp   xỉ  1mm/năm và đạt 1­1,5mm/năm trrong thế kỷ qua. Do phù sa sông ít, xâm thực của   thuỷ triều mạnh, nhiều nơi đã không lắng đọng trầm tích. Ngập chìm không đền bù  do thiếu hụt bồi tích xẩy ra đã  hình thành VCS  hình  phễu như hiện nay.  Nguyên nhân gây ra sự thiếu hụt bồi tích bao gồm: 1­ Khoảng 5­7 trăm năm  trước bán đảo Đồ Sơn nối liền với đồng bằng  vừa bồi lấn mở rộng ở rìa tây nam   3
  4. VCS đã ngăn không cho bồi tích dọc bờ tây nam đi lên. 2­  Trong quá trình phát triển,  nhiều nhánh nối ngang sông Hồng với hệ  thông sông Cầu ­Bạch Đằng bị  tàn làm  giảm nguồn bồi tích bổ  sung từ    sông Hồng. 3­ Thuỷ  triều lớn, dòng triều mạnh   dần lên đã tăng cường phân tán bồi tích lơ  lửng ra khỏi VCS. 4­ Dòng chảy tổng  hợp ven bờ hướng thống trị TB­ĐN có xu hướng đưa bồi tích xuống phía tây nam. Biển lấn hiện đại là đặc điểm cơ  bản nhất của VCS Bạch Đằng hiện nay,   thể  hiện sự  thắng thế  của biển trong quan hệ  tương tác sông­biển. Các hậu quả  của biển lấn là xói lở ưu thế so với bồi tụ, đường bờ bị đẩy lùi về phía lục địa và  bị chia cắt phức tạp; mực nước trung bình thực tế  đang dâng cao, hiện tượng đầm   lầy hoá, nhiễm mặn và truyền triều sâu vào lục địa v.v. và cả khu hệ động thực vật  thích nghi điều kiện tự nhiên lợ mặn. Tốc độ dâng cao mực biển 2,24mm/năm trong  khoảng thời gian 1957 – 1989 đã được ghi nhận tại trạm Hòn Dấu. II. NHỮNG   NÉT   CƠ   BẢN   VỀ  ĐIỀU   KIỆN   TỰ   NHIÊN   VÙNG   CHIẾN  TRƯỜNG BẠCH ĐẰNG NĂM 1288. 1. Hình thái địa hình Đồi núi. Địa hình đồi và núi  thấp phân bố  chủ  yếu  ở  Hoành Bồ, Quảng Yên, Uông  Bí, Thuỷ  Nguyên, Kiến An và Đồ  Sơn, được cấu tạo chủ  yếu từ  đá trầm tích lục  nguyên và đá vôi  tuổi Cổ sinh và Trung sinh, năm ở vùng rìa hoặc xen kẽ dạng đồi  đảo trên nền đồng bằng hoặc đầm lầy  trong vùng cửa sông. Độ  cao đồi núi  phổ  biến   40­100m,   cao   nhất   200m.   Các   điểm   cao   như   Núi   Đèo   (146m),   Ngọc   Sơn   (125m), Mã Tràng (114m), Doãn Lại (109m) có ý nghĩa lớn về quân sự khi có chiến   tranh. Địa hình đồi núi hiện nay cơ  bản được tạo nên nhờ  các chuyển động nâng  kiến tạo từ cuối Đệ tam kéo dài tới Pleistocen. Trong Pleistocen, môi trường lục địa   kéo dài và có những lần biển lấn, rõ nhất là vào nửa sau Pleistocen muộn, khoảng 3­ 5 vạn năm trước. Vào tận cuối Pleistocen muộn, do băng hà lần cuối cùng, mực   biển hạ thấp hơn hiện nay 100­120m. Biển tiến Holocen mở rộng c ực đại ứng với  mực biển cổ +4­6m vào 5­6 nghìn năm trước, sau đó nâng hạ tương đối một số lần  và dâng cao dần từ khoảng 1 nghìn năm trước cho đến nay. Đồng bằng Đồng bằng chủ yếu có nguồn gốc bồi tụ châu thổ có độ cao bề mặt 0,5­4m.   Đồng bằng bị chia cắt bởi  hệ thống sông, lạch, ao, hồ khá dày đặc và các hệ thống   đê cát cổ  cao 2­2,5m đến 5­6m tạo thành các dải song song với bờ  biển hiện nay.   Đồng bằng có hầu hết diện tích được đê  bao ngăn lũ và mặn. Đồng bằng không  đồng nhất về  hình thái, nguồn gốc, tuổi và có thể  phân biệt thành các bậc: tích tụ  sông ­ biển tuổi Pleistocen muộn,  tạo thành dải hẹp cao 8­12m; tích tụ sông ­ biển   Holocen sớm­giữa, bề  mặt cao 2­4m, phân bố  thành các mảng lớn; tích tụ  sông ­  biển, đầm lầy ­ biển Holocen muộn khá rộng và thoải, cao 0,5­1,5m, không bị ngập  triều là nhờ có đê bao.  Tại  rìa đồng bằng giáp đồi  núi có mặt các thềm  tích tụ  biển gồm ba bậc.   Thềm bậc III, cao 10­15m, tuổi Pleistocen muộn. Thềm bậc II, cao 4 ­ 6m, tuổi   Holocen giữa. Thềm tích bậc I, cao 3­3,5m, tuổi Holocen muộn. Trên bề mặt đồng  4
  5. bằn có mặt 5  hệ thống đê cát biển cổ và hiện đại cấu tạo bằng cát, sạn.  Hệ 1 cao   4­6m; Hệ 2 cao 3­3,5m; Hệ 3 cao 2­2,5m;  Hệ 4 cao 2,5­3m; Hệ đê 5 cao 3­3,5m. Hệ  1 tuổi Holocen giữa và các hệ còn lại tuổi Holocen muộn, trẻ dần ra phia biển (hình   2). Chúng ít bị  ngập lụt và có chứa nước ngầm nhạt tầng nông nên thường là nơi  tập trung dân cư.  Hệ thống sông lạch Ba cửa sông chính đổ  ra biển là Lạch Huyện, Nam Triệu,  Cấm ­Lạch Tray   (hình 3). Sông Bạch Đằng là phần hạ lưu của hệ thống sông Thái Bình bắt nguồn từ  vùng núi Đông Bắc. Các sông Lục Nam, Thương, Cầu và Đuống sau khi hợp lưu  ở  gần Phả  Lại, cách biển 90km đã phân thành hai nhánh chính là sông Kinh Thầy và  Thái Bình. Sông Thái Bình tiếp tục phân thành hai nhánh là Thái Bình và   Văn úc   trước khi  đổ  ra vùng biển tây nam Đồ  Sơn. Đến khoảng Bến Triều, cách biển   chừng 48km, sông Kinh Thầy cũng phân thành hai nhánh chính là sông Đá Bạch và   sông Kinh Thầy. Gần sát biển, hai nhánh này hợp lưu và rồi lại phân lưu thành sông  Chanh đổ ra cửa Lạch Huyện, sông Bạch Đằng đổ ra cửa Nam Triệu, sông Cấm và   sông Lạch Tray đổ ra cửa Ba Lạch.  Hình 2. Hệ thống đê cát cổ và đường bờ cổ ven bờ Bắc Bộ  [10] 5
  6.  Hình 3. Quan hệ  giữa sông Bạch Đằng với thành Thăng Long  trong hệ thống thuỷ đạo đồng bằng sông Hồng và lân cận [1] Vùng Sông Bạch Đằng dài 42km, trung bình rộng 1km, sâu 8m; sông Cấm dài  37km, trung bình   rộng 400m, sâu 7m; sông Lạch Tray dài 43km, trung bình rộng  120m, sâu 4m. Trong hệ thống sông Bạch Đằng, còn có một số nhánh nối ngang như  sông Tam Bạc nối Cấm và Lạch Tray, sông Ruột Lợn nối sông Cấm với sông Bạch  Đằng. Ngoài ra, còn có sông Yên Lập bắt nguồn từ  vùng núi Quảng Ninh, ra đến   biển phân thành nhánh sông Bình Hương  đổ ra vịnh Hạ Long và Gành Sy đổ ra cửa   Lạch Huyện. Lòng các sông Gành Sy, Bình Hương, Chanh và Bạch Đằng được mở  rất rộng trước khi đổ  ra biển, thường 500­800m, có nơi trên 1km như  ở  sông Bạch  Đằng.   Vùng Vùng triều  cửa sông VCS có cấu trúc nửa kín, thuỷ triều là động lực ưu thế, là một vực nước lợ­ mặn,   hoà   trộn   nước   sông­biển   khá   tốt,   phân  tầng  nước   yếu,   cân  bằng  bồi   xói  nghiêng về xói lở, xâm thực. Các bãi triều lầy rậm rạp thực vật ngập mặn tự nhiên,  hệ  lạch triều, kênh triều dày đặc (hình 4), các doi cát triều nằm dọc ven bờ    các   luồng sâu rộng là những dạng địa hình nguồn gốc triều đặc trưng. Các tích tụ đầm   lầy biển tuổi Hollocen giữa ­  muộn, cao 0,5 – 1,5m và tuổi Holocen muộn cao 0­ 1,0m. Nhiều nơi, dưới bề mặt các đầm lầy sú vẹt gặp rất nhiều di tích mảnh gốm   sứ thời phong kiến. Đó là bằng chứng biển lấn vào các khu dân cư xưa.   6
  7. Hình 4. Hệ thống lạch triều ở VCS Bạch Đằng Phía ngoài vùng cửa sông là vùng biển nông ven bờ, có độ sâu khoảng 5 ­ 6m   đến 25 ­ 30m nằm trong phạm vi tác động rõ của sóng đến đáy biển và là vùng  đồng bằng đáy biển tích tụ ­ bào mòn dưới tác dụng của dòng hải lưu ven bờ [11].  2. Khí hậu VCS nằm  ở khu vực nhiệt đới gió mùa. Mùa hè  nóng ấm trùng vào mùa gió  tây nam với các hướng thịnh hành đông và đông nam, thường có bão và áp thấp   nhiệt đới với tốc độ gió cực đại đạt 35 ­ 50m/s. Mùa đông  trùng vào mùa gió đông  bắc với các hướng thịnh hành là bắc, đông bắc. Gió hướng đông  ưu thế trong  các   tháng 12­4, tốc độ  trung bình 5,4 ­ 5,9m/s; gió đông nam và nam  ưu thế  vào các   tháng 5 ­ 8, trung bình 5,5 ­ 6m/s và gió bắc và đông bắc  ưu thế  vào tháng 9 ­ 11,  trung bình  5,6 ­ 6,3m/s. Mỗi tháng mùa đông có 3 ­ 4 đợt, có khi 5 ­ 6 đợt gió mùa đông bắc, mỗi đợt   kéo dài 3 ­ 5 ngày, sức gió rất mạnh, nhiều khi đạt đến cấp 7, 8. Gió mùa đông bắc  kèm theo giá lạnh, mưa phùn. Hàng năm có 24 ngày mưa phùn và 15 ­ 20 ngày sương  mù. Mưa phùn vào tháng 12 ­ 4, nhiều nhất vào các tháng 2, 3, gây ẩm ướt, nhiều khi   kèm theo lạnh buốt. Sương mù chủ  yếu vào mùa đông, khoảng tháng 11­4, có khi   kéo dài đến tháng 6, mật độ cao từ 5­8 giờ sáng và càng ra khơi, số ngày sương mù   càng tăng, làm tầm nhìn rất thấp, có khi chỉ  vài mét, gây nhiều trở  ngại cho giao   thông.   Chế độ gió ảnh hưởng rất lớn đến các vật thể trôi. Tại VCS, quanh năm gió   hướng Đ và ĐĐN chiếm ưu thế (hình 5 và 6). Đặc biệt  trong mùa khô (mùa Đông),   các hướng này càng chiếm  ưu thế (tổng tần xuất chiếm 42,35%) và phân bố  ở  các  7
  8. khoảng tốc độ  gió cao. Trong khi đó, các hướng gió liên quan đến hướng Tây (T,  TTB và  TB) chiếm tần xuất rất nhỏ, chỉ 3,26% và thường phân bố ở khoảng tốc độ  gió nhỏ  (bảng 1). Như  vậy, về  mùa đông, các vật thể  trôi chủ  yếu trôi từ  phía bờ  Đông sang phía bờ tây sông Bạch Đằng.  Bảng   1.  Tần suất vận tốc gió và các hướng trong mùa khô (tháng 12­3) tại Hòn  Dáu (1960­2011) [13] Khoảng vận tốc (m/s) Tổng  Hướng 3.0   ­  4.0   ­  5.0   ­  6.0   ­  số (%) 1.0 ­  2.0 2.0 ­  3.0 4.0 5.0 6.0 7.0 >=  7.0 N 3.34 4.56 1.20 3.13 0.98 1.33 2.08 16.62 NNE 0.41 0.93 0.31 0.91 0.24 0.61 0.79 4.19 NE 1.61 2.80 0.86 2.41 0.68 1.12 1.63 11.11 ENE 0.67 1.28 0.38 1.38 0.35 0.96 2.14 7.16 E 2.98 5.70 2.53 6.68 2.74 4.74 9.81 35.19 ESE 0.48 1.30 0.85 1.77 0.55 1.19 0.94 7.08 SE 0.80 1.52 0.48 1.35 0.27 0.54 0.32 5.27 SSE 0.17 0.34 0.09 0.23 0.04 0.04 0.07 0.97 S 0.33 0.53 0.12 0.28 0.06 0.07 0.17 1.56 SSW 0.08 0.17 0.01 0.07 0.00 0.01 0.04 0.39 SW 0.10 0.11 0.04 0.06 0.01 0.02 0.02 0.34 WSW 0.03 0.05 0.01 0.01 0.00 0.00 0.00 0.10 W 0.17 0.11 0.00 0.02 0.00 0.00 0.00 0.31 WNW 0.11 0.10 0.00 0.02 0.00 0.00 0.00 0.23 NW 1.08 1.08 0.18 0.26 0.05 0.04 0.02 2.72 NNW 0.83 1.00 0.21 0.44 0.02 0.16 0.13 2.80 Tổng   số  (%) 13.19 21.58 7.28 19.03 5.99 10.82 18.15 96.04 Tần suất lặng gió (%) 3.96 Lượng mưa khoảng 1500 ­ 1800mm/năm, với 120 ngày có mưa trong năm.  Mùa mưa trùng mùa hè nóng, tháng 5­10, chiếm 80 ­ 90% lượng mưa cả  năm và  nhiều nhất vào các tháng 7, 8 và 9. Mùa khô từ tháng 9  đến tháng 4 năm sau, cơ bản   trùng mùa lạnh. Tháng 12 và tháng 1 mưa ít nhất, chủ yếu là mưa phùn.  8
  9. Hình 5. Hoa gió trong nhiều năm (1960­ Hình   6.  Hoa   gió   trung bình  nhiều  năm  2011) tại Hòn Dấu [13].  vào mùa khô (1960­2011) tại Hòn Dấu [13].  3. Thủy văn a. Thủy văn sông Vùng có ba cửa sông chính đổ ra biển là Lạch Huyện, Nam Triệu, Lạch Tray   và có bốn sông chính là Sông Yên Lập (nay thành hồ  chứa), sông Bạch Đằng (dài  42km, trung bình rộng 1km, sâu 8m); Sông Cấm (dài 37km, trung bình rộng 400m,   sâu 7m) và Sông Lạch Tray (dài 43km, trung bình rộng 120m, sâu 4m). Hàng năm các sông đổ ra biển khoảng 14 km3 nước và 5 triệu tấn bùn cát chủ  yếu qua cửa Nam Triệu. Trong đó, sông Cấm có lưu lượng lớn nhất trong vùng,  mỗi năm đổ ra biển 10 – 11 km 3 và gần 4 triệu tấn bùn cát, sông Lạch Tray 1,5 km 3  nước và khoảng 1 triệu tấn bùn cát, sông Đá Bạch khoảng 1 km3 nước mỗi năm.  Trong mùa mưa lũ (tháng 6 ­ 10), tải lượng nước chiếm 75 ­ 85% và tải lượng bùn   cát chiếm 90 ­ 95%  tổng lượng cả năm.  VCS Bạch Đằng  là một vực nước lợ mặn có độ mặn thay đổi trong khoảng  0,5­32%0  (0,5­25%0  về  mùa mưa, 0,5­32%0  về  mùa khô). Độ  mặn 0,5­20%0  đặc  trưng cho khu cửa Cấm ­ Nam Triệu. Độ  mặn 10­23%0  đặc trưng cho khu Lạch  Huyện­Yên Lập.  b. Sóng biển Do cấu trúc nửa kín, sóng biển nói chung không lớn, trừ  những dịp bão, tần  xuất lặng sóng đạt 20 ­ 21%. Độ cao sóng lớn nhất 2 ­ 3m, sóng bão đạt 4 ­ 5m, cực  đại 5,6m. Vào mùa đông, khoảng tháng 9 – tháng sóng có độ  cao trung bình 0,5 ­   0,75m, thịnh hành hướng đông với tần xuất 34% và đông bắc với tần xuất 14%. Vào   mùa hè, từ  tháng 3 đến tháng 8, sóng có độ  cao trung bình 0,7 ­ 0,9m, thịnh hành   hướng đông nam với tần xuất 27% và hướng nam với tần xuất 22%. Vào các tháng  chuyển tiếp   4 và 10, sóng hướng đông và đông nam  ưu thế, độ  cao trung bình  0,75m.  c. Thủy triều và mực nước Thuỷ triều kiểu nhật triều đều điển hình (hình 7) với hầu hết số ngày trong  tháng là nhật triều. Trong một pha triều   25 giờ  có một lần nước lớn và một lần   nước ròng. Trong một tháng mặt trăng có hai kỳ nước cường, mỗi kỳ 11 ­ 13 ngày,  9
  10. độ lớn triều dao động 2,6 ­ 3,6m và hai kỳ nước kém, xen kẽ, mỗi kỳ 3 ­ 4 ngày có  độ lớn triều 0,5 ­ 1,0m. Mùa hè, triều mạnh vào các tháng 5, 6, 7, yếu vào các tháng   8, 9 và thường dâng cao vào buổi chiều. Mùa đông, triều mạnh vào các tháng 10, 11,  12, yếu vào các tháng 3, 4 và thường dâng cao vào buổi sáng. Độ  lớn thuỷ  triều  thuộc loại lớn ở nước ta, trung bình 3,0m, cực đại 4,18m, cực tiểu 1,75m.  4.5 4 3.5 Mực nước (m) 3 2.5 2 1.5 1 0.5 0 0h5/1 8h6/1 0h1/1 8h2/1 16h3/1 0h9/1 8h10/1 16h11/1 0h13/1 16h15/1 0h17/1 8h18/1 16h19/1 0h21/1 8h22/1 16h23/1 8h26/1 16h27/1 0h29/1 16h31/1 16h7/1 8h14/1 0h25/1 8h30/1 Thời gian Hình 7. Dao động mực nước tại Hòn Dâu tháng 1/2007 [3] Tại Hòn Dấu:  Mực triều cực đại 4,0m Mực triều thấp nước kém 1,1m Mực triều cao nước cường 3,6m Mực triều thấp nước cường 0,4m Mực triều cao nước kém 2,4m Mực triều thấp nhất 0,0m Mực triều trung bình 1,86m Mực nước trung bình trên các sông so với mực biển thấp nhất tại Hòn Dáu  khoảng 210­256 cm, có thể vượt 4,5m khi có lũ. Ảnh hưởng thuỷ triều trên các sông  rất lớn, chi phối mực nước­dòng chảy và truyền mặn sâu vào lục địa. Sóng triều  truyền sâu  đến  tận Phả  Lại,  cách  biển  90km  và  biểu  hiện  đến  tận  Phủ   Lạng   Thương, cách biển 140km. Tuy nhiên, giới hạn truyền mặn 1 0/00 chỉ đến Bến Triều,  cách biển 48km. Tương quan thời gian chảy lên và xuống trên sông Đá Bạch­ Bạch  Đằng là 9­10 giờ/16 ­ 15giờ vào mùa hè; 11 ­ 12/13­14 giờ vào mùa đông; trên sông  Cấm là 12/13 giờ   ở  cả  hai mùa. Tốc độ  dòng  ở  cửa sông mùa khô trung bình 10­ 15cm/s, hiếm khi vượt 50cm/s và bị dòng triều lấn át. Vào ngày lũ, dòng chảy sông   lớn, thường trên 100cm/s, đạt tới 1,8­2,5m/s, lấn át dòng triều và chảy xuống chiếm   hầu hết thời gian trong ngày. d. Dòng chảy Dòng chảy có thành phần dòng   nhật triều quyết định, nên có tính thuận   nghịch trong ngày, phụ  thuộc vào địa hình bờ, hướng bờ, luồng lạch và cửa sông   [2].  Dòng chảy mạnh vào các tháng 6, 7, 12, 1, yếu vào các tháng 3, 4, 8, 9 và mạnh  nhất khi mực nước dao động lên ­ xuống ngang qua mực triều trung bình. Tốc độ  dòng   trong   khoảng   rất   rộng   từ   0,1­1,8m/s,   trung   bình   10­30cm/s.   Tại   cửa   Nam  Triệu, tốc độ  dòng chảy xuống cực đại 90cm/s và chảy lên cực đại 60cm/s. Phía  ngoài VCS, dòng chảy triều yếu đi và vai trò dòng chảy mùa thể hiện rõ ràng. Mùa  hè, dòng chảy hướng đông bắc tốc độ  10 ­15cm/s, mùa đông dòng chảy hướng tây   nam, tốc độ  20 ­ 30cm/s. 10
  11. Hình 8. Mô hình dòng chảy (Delf ­3D) sông Bạch Đằng tại tầng mặt giữa  pha triều xuống mùa Đông (kỳ nước cường 7h, 20/3/2009) [14]. Hình 9. Hoa dòng chảy thực đo tầng giữa trạm BR1(Bến Rừng) vào mùa Đông (tháng 01/ 2007) [5] Chế  độ  dòng chảy nước mặt khu vực Bến Rừng  được tính  cho mùa khô  (01/2007 và  3/2009) và mùa mựa (6/2007 và 8/2009): tốc độ  dòng chảy trong mùa  mưa có xu thế chung lớn gấp 2­3 lần mùa khô, thậm chí đến 5 lần tại khu vực sông   Ruột Lợn khi triều xuống [5, 14]. Mùa khô, tốc độ dòng chảy có giá trị trung bình 20  ­ 35 cm/s, giá trị  cực đại có thể  đạt 80 cm/s, hướng dòng chảy theo trục lòng dẫn.   Thời gian chảy xuống chiếm 60 ­ 70%, tốc độ  dòng chảy xuống cũng giảm hẳn.  Tốc độ dòng chảy hầu hết tại các khu vực hơn nhau không đáng kể, phía khu vực  thượng lưu của sông Bạch Bằng có giá trị lớn nhất. Khu vực phía hạ lưu dòng chảy  11
  12. xuống có hướng NTN và dòng chảy lên có hướng ngược lại. Vào mùa khô, tại khu  vực phân lưu cửa sông Chanh, do dòng chảy đổi hướng nên tốc độ dòng chảy ở đây   nhỏ hơn so với khu vực lòng dẫn chính của sông Bạch Đằng (hình 8).   Mùa mưa tốc độ  dòng chảy trung bình toàn bộ  khu vực tính toán có giá trị  đạt 30 ­ 35 cm/s khi chảy lên và 40 ­ 50 cm/s khi chảy xuống. Khi chảy xuống, dòng   chảy hạ lưu sông Bạch Đằng có sự hợp lưu của các sông Đá Bạc, Giá, Ruột Lợn và   dòng triều nên giá trị  cực đại có thể  đạt 100 ­ 120cm/s. Khu vực phân lưu tại cửa   sông Chanh và hợp lưu cửa sông Ruột Lợn giá trị vận tốc đáng kể trong cả khi chảy   lên và chảy xuống. Tốc độ  dòng chảy thường lớn nhất khi triều đang xuống qua  mực triều trung bình. Hàm lượng trầm tích lơ lửng trong nước VCS biến thiên trong khoảng rộng   10­1000g/m3. Vào mùa mưa, trầm tích lơ  lửng khoảng 53­215g/m3 lúc triều xuống,  và  khoảng 20­50g/m3 lúc triều lên. Về mùa khô, trầm tích lơ  lửng khi triều xuống   đạt 42­92g/m3  và đạt 56­148g/m3 khi triều lên.  4. Hệ sinh thái So với   HST VCS châu thổ, HST VCS hình phễu có những đặc điểm khác  biệt như hoà  trộn  nước  sông ­  biển  tốt hơn  nên  nước  phân  tầng  yếu, độ  mặn   thường  cao hơn (ở  mức  lợ  mặn), các  đới  sinh  thái  diễn thế  về  phía  lục địa   (châu thổ điển  hình diễn thế về phía biển); cấu  trúc quần xã sinh vật ổn định  hơn  và đa dạng sinh học (đa dạng các hệ sinh thái và đa dạng loài) cao  hơn. Các hệ sinh  thái cơ bản trong VCS Bạch Đằng bao gồm [12]: 1­ nhóm các HST lục địa: HST đồi   núi; HST đồng bằng; HST các thuỷ  vực nước ngọt (ao hồ, sông lạch v.v.) và HST   đảo; 2­ nhóm các HST vùng triều  cửa sông bao gồm: HST rừng ngập mặn; HST bãi  triều; HST bãi cát biển; HST bãi  triều  rạn đá; HST đáy mềm. Hình 10. Rừng ngập mặn (đước và vẹt dù) Hình 11 . Rừng ngập mặn (bần chua) HST rừng ngập mặn là một trong những HST cơ  bản của   HST VCS hình  phễu Bạch Đằng, chiếm phần diện  tích lớn. Đây là một HST tiêu biểu cho vùng  cửa sông  nhiệt đới, ưu thế là các loài mắm quăn, vẹt dù, đước vòi, bần chua, trang   và  sú. Rừng  ngập mặn thường chỉ cao 2 ­ 4m,  nhưng  mọc rất  dày, có ý  nghĩa  lớn   về  đa dạng sinh  học, sinh thái, tăng cường bồi  tụ  và phòng chống thiên  tai. HST   rừng ngập mặn VCS Bạch Đằng có hai quần thể  thực vật đặc trưng: quần thể  đước và vẹt dù phân bố ở vùng nước mặn lợ và quần thể bần chua ở vùng nước lợ  nhạt (hình 10 và 11). 12
  13. 5. Nhận xét về hoàn cảnh tự nhiên khi xảy ra chiến trận 1288 Như  vậy, về phân vùng tự nhiên, VCS Bạch Đằng thuộc vùng ven bờ Đông   bắc, nằm ở cạnh rìa đông bắc châu  thổ sông Hồng hiện đại.  Nhìn nhận  ở góc độ lịch sử tự  nhiên, hiện nay VCS Bạch Đằng có cấu trúc   VCS hình phễu điển hình và độc lập tương đối với vùng cửa sông châu thổ  sông  Hồng hiện đại. Nhưng khoảng khoảng  5­ 7 trăm năm trước, nó là một bộ phận của   châu thổ sông  Hồng, có bờ biển bồi tụ lấn xa ra biển hơn hiện nay. Quá trình hình  phễu hóa VCS Bạch Đằng bắt đầu khoảng 5 – 7 trăm năm qua. Mối quan hệ  của   Kinh đô Thăng Long với hệ thống sông Hồng­ Thái Bình đã thay đổi theo thời gian,  phụ thuộc vào sự biến đổi của bản thân hệ thống sông này. Dường như có một xu   thế khá rõ ràng là từ  đầu Công nguyên đến nay hệ thống sông Hồng­ Thái Bình đã  chuyển nguồn phù sa của mình dần từ  phía ĐB về  phía TN để  bồi đắp nên những  đồng bằng mầu mỡ và lịch sử khai phá các vùng đất mới ven biển cũng chuyển dần  từ vùng bờ ĐB về TN [1]. Như vậy, trận thủy chiến Bạch Đằng năm 1288 xảy ra trên đoạn Phà Rừng­  sông Chanh là trong môi trường VCS châu thổ, mà sông ngày đó có lẽ  nông hơn và  hẹp hơn ngày nay. Chính mô tả  của Nguyễn Trãi trong cuốn dư  địa chí cũng cho  thấy sông Bạch Đằng thời Nhà Lê hẹp và nông hơn bây giờ  nhiều. Trong bài “Phú   Bạch Đằng Giang” của Trương Hán Siêu cũng có câu: “Bờ lau san sát; Bến lách đìu  hiu...”.   Nhóm cây lau lách, trong đó có cây sậy (Phragmites)  thường  mọc  ở  đầm  lầy, bãi bồi ven sông nước ngọt hoặc lợ  nhạt, khá phổ  biến  ở  ven bờ  châu thổ,  thuộc nhóm hòa thảo, không thuộc nhóm sú vẹt (Mangroves). Nếu mô tả ở bài “Phú  Bạch Đằng Giang” là chuẩn xác thì VCS Bạch Đằng thời chiến trận 1288 quả thật   là VCS châu thổ nước lợ và lợ nhạt, không phải là VCS hình phễu nước mặn và lợ  mặn như ngày nay.  Về  các HST, HST rừng ngập mặn khi  ấy  ưu thế là cây bần chua (hình 11)  xen lau sậy, không phổ biến đước vẹt, lẫn bần chua như ngày nay. Tuy nhiên, rừng   sú vẹt dày đặc (hình 10) gần như  không thể  lội bộ  xuyên qua. Vì vậy, rừng bần  chua và lau sậy dễ giấu quân và thuyền mảng chuẩn bị cho trận đánh chính. Những  HST gò đồi bây giờ khi ấy có thể là phổ biến HST rừng mưa nhiệt đới nguyên sinh,   rất nhiều cây gỗ lim, cho phép khai thác nhanh một khối lượng đáng kể để dựng lên   trận địa cọc. Nhờ có quá trình ngập chìm và hình phễu hóa mà mạng lưới sông VCS Bạch   Đằng ít bị  thay đổi, khác với dòng sông lớn châu thổ  lớn như  sông Hồng (Việt  Nam), hay Hoàng Hà (Trung Quốc) liên tục chuyển dòng theo các chu kỳ có độ  dài   thời gian khác nhau. Tuy nhiên, trục dòng sông Bạch Đằng có thể đã di chuyển hàng  trăm mét và thời chiến trận Ghềnh Cốc có thể không phải là nơi trục dòng sông đi  qua. Bằng chứng là trục lòng sông Chanh, chỉ  là một nhánh nhỏ  của sông Bạch   Đằng mà cũng đã dịch chuyển lòng một vài trăm mét về phía nam. 13
  14. Về  mực nước biển, nhiều tài liệu nghiên cứu của chúng tôi đã chứng minh   mực nước biển chân tĩnh khoảng nghìn năm trước thấp hơn hiện nay trên dưới một   mét và vào thời chiến trận 1288 có thể thấp hơn hiện nay trên dưới nửa mét. Về thủy triều, đã có những tư liệu thể hiện khả năng biên độ dao động triều  hiện tại lớn hơn quá khứ  5 – 6 nghìn năm trước (độ  cao các vết lõm ăn mòn trên   vách đá vôi Hạ  Long có kèm theo tuổi tuyệt đối C14 phân tích từ  vỏ  hầu hà). Dự  đoán rằng, chế  độ  nhật triều đều và quy luật dao động thủy triều theo lịch mặt   trăng không thay đổi so với ngày nay, nhưng độ  lớn triều thời chiến trận 1288 có  thể  nhỏ  hơn hiện nay khoảng 0,2 – 0,5m. Tuy nhiên, tất cả  những điều này hoàn   toàn không mâu thuẫn gì với khung cảnh triều lên hùng vĩ ở VCS khi ấy: “Bát ngát  sóng kình muôn dặm; Thướt tha đuôi trĩ một màu”. Đã nhiều ý kiến nói đến vai trò của thủy triều trong trận đánh, nhưng hầu   như   chưa thấy nói đến vai trò của các yếu tố  khác, đặc biệt là vai trò quan trọng   của dòng chảy và gió. Mô hình dòng chảy trên hình 8 và sơ đồ hoa dòng các giá trị thực đo trên hình  10 thể hiện hướng và tốc độ  dòng chảy trên đoạn chính sông Bạch Đằng, nơi trục  lòng có hướng chủ đạo Bắc – Nam vào ngày triều cường khi triều xuống. Ta thấy,   dòng có hướng chảy chủ đạo Bắc Nam trên sông Bạch Đằng có tốc độ lớn hơn hẳn  dòng chuyển hướng vào sông Chanh. Nếu có các bè lửa thả  trôi trên sông Bạch  Đằng, tỷ lệ trôi vào cửa sông Chanh rất thấp. Các bè lửa chỉ  có thể  trôi vào cửa sông Chanh khi “mượn” được gió hướng   Tây, tương tự  như  Gia Cát Lượng “mượn” gió hướng Đông trong trận Xích Bích.  Nhưng điều này gần như  không thể  xảy ra trong trận chiến 1288. Thông tin trên   bảng 1 và hình 6 cho thấy, vào mùa đông nhóm gió hướng đông  ở đây chiếm ưu thế  tuyệt đối về tần xuất và tốc độ so với gió nhóm hướng tây. Vì vậy, các bè lửa trên  sông Bạch Đằng nếu thả  trôi tự  do thì gần như  toàn bộ  trôi xuôi ra phía cửa Nam   Triệu và trôi lệch về Thủy Nguyên thuộc phía bờ tây sông Bạch Đằng. Trận đánh xảy ra vào mùa Đông, khả  năng có nhiều sương mù trên sông  thuận lợi cho bí mật chuẩn bị và tác chiến, quan hệ giữa giờ mặt trời (ngày đêm) và  giờ thủy triều (nước cường – nước ròng) được bố  trí hợp lý tối đa. Bối cảnh thời   tiết mùa đông có thể  có có mưa phùn, nhưng rất hiếm khi có mưa lớn, nên các bè  hỏa công phát huy tác dụng và đảm bảo tính chắc chắn cho thành công của trận   đánh rất cao.  Qua nhiều bước chuẩn bị kỹ lưỡng mà quan trọng nhất là xây dựng trận địa  cọc, thì đánh hỏa công bằng thả bè lửa là bước cuối cùng quyết định thắng lợi của   trận đánh. Có thể, khác với trận địa cọc của chiến trường năm 938 có chức năng   chính là “phá” – tức là đâm thủng thuyền giặc Nam Hán khi chúng rút chạy về phía   hạ lưu khi triều rút, trận địa cọc năm 1288 chủ yếu có chức năng “cản” thuyền giặc  và biện pháp quyết định là thiêu cháy các chiến thuyền địch khi chúng bị dồn tụ lại  trước vùng bãi cọc. Với chức năng cản, có thể  có những đoạn cọc đóng nổi trên   mặt nước và đã được phủ cỏ ngụy trang. Ngay cả bãi cọc sông Chanh đã được phát  hiện, qua phân tích thấy rằng đây cũng chỉ  là bãi cọc cắm trên vùng bãi bồi thấp,  chưa phải là chỗ trên lòng chính của sông  này. 14
  15. Vậy đâu là bãi cọc chính của chiến trường 1288?. Theo phân tích như trên thì   ít khả  năng là sông Chanh, mà bãi cọc tìm thấy cạnh sông Chanh cùng với các bãi   sông nhánh khác có thể  chỉ  là các bãi phụ  nhằm chặn đường rút của thuyền giặc   sang Vịnh Hạ Long. Trận đánh chính trên sông Bạch Đằng và bãi cọc chính rất có   khả  năng cắm qua dòng chính của sông Bạch Đằng khi  ấy có cấu trúc VCS châu   thổ, nông và hẹp hơn hiện nay. Nếu quả  vậy, quy mô, tính chất ác liệt và ý nghĩa  của trận đánh còn lớn hơn nữa. KẾT LUẬN        Chiến trường 1288 nằm tại khu trung tâm của VCS Bạch Đằng. Hiện nay,   VCS này có cấu trúc vùng cửa sông hình phễu (estuary) – một vùng cửa sông hình  phễu nhiệt đới gió mùa có thủy triều nhật triều biên độ lớn điển hình của thế giới.  Nhưng khi xảy ra chiến trận, VCS này có cấu trúc châu thổ  (delta) và bắt đầu  chuyển dịch sang quá trình hình phễu hóa. So với ngày nay, đặc điểm điều kiện tự  nhiên VCS khi  ấy có nhiều yếu tố  bảo tồn  ­ tương tự mang tính kế  thừa, nhưng   cũng có những đặc điểm đã thay đổi nhiều. Trong ba nhóm yếu tố cơ bản nhất có  liên quan là địa hình, khí hậu và thủy văn thì các yếu tố khí hậu ít thay đổi nhất và   yếu tố  địa hình thay đổi nhiều nhất. Ngoài ra, tính chất hoang sơ của các hệ  sinh   thái rừng mưa nhiệt đới và rừng ngập mặn cũng có nhiều thay đổi.      Các yếu tố tự nhiên của vùng chiến trường 1288 đã được sử dụng triệt để và  đã góp phần tạo nên thắng lợi hoàn mỹ của trận đánh. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự  và tương quan lực lượng vượt qua các yếu tố  ngẫu nhiên và bất thường của điều  kiện tự nhiên mới là yếu tố quyết định thắng lợi của chiến trận. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Đức An, Trần Đức Thạnh, 2010. Về  vị  trí địa lý và vị  thế  thành Thăng Long. Kỷ  yếu Hội nghị Quốc tế: Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hoà   bình. Hà Nội 7­9/10/2010. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Tr.969 – 980. 2. Đỗ Trọng Bình, Trần Anh Tú, Vũ Duy Vĩnh, 2010. Nghiên cứu đánh giá lan truyền các   chất gây ô nhiễm khu vực cửa sông ven biển Hải Phòng bằng mô hình toán học. Báo  cáo ĐT cấp thành phố Hải Phòng. Lưu trữ tại Viện TN&MTB. 3. Nguyễn Minh Hải, 2010. Nghiên cứu hiện tượng nước dâng  ở  vùng ven biển Hải   Phòng. Lưu trữ tại Viện TN&MTB. 4.  Lafond, R., 1967. Etudes littorales et estuariennes en zone intertropicale humide. Thesè  de docteur des sciences naturalles. Univ. de Paris Tom I (416p), II (400p), III(42p). 5.   Trần Đình Lân, Lê Xuân Sinh, 2007. Dự  báo nguy cơ  ô nhiễm và đề  xuất giải pháp  bảo vệ môi trường khu công nghiệp Bến Rừng, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Báo   cáo tổng kết ĐT cấp thành phố Hải Phòng. Lưu trữ tại Viện TN&MTB. 6. Pritchard, D.W., 1967. What is an Estuary? Estuaries Pub. n 0  83. AAAS. Washington D.  C, p. 149­157. 7.  Trần Đức Thạnh và nnk, 1983. Hệ  thống vùng cửa sông ở  ven bờ  Hải Phòng­Quảng  Yên. Hội nghị " Sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường" Hà Nội 11/1983.  8.  Trần Đức Thạnh, 1987. Vùng cửa sông Bạch Đằng. Nghiên cứu lịch sử  Hải Phòng.  N02 trang 33­41. 9.  Trần Đức Thạnh, 1993. Tiến hoá địa chất vùng cửa sông Bạch Đằng trong Holocen.  Tóm tắt luận án PTS. ĐHTH Hà Nội, trang1­24. 15
  16. 10. Thanh, T.D., Saito, Y., Dinh, V.H., Nguyen, H.C., Do, D.C. 2005. Coastal erosion in Red  River Delta: current status and response. In Z.Y. Chen, Y. Saito, S.L. Goodbred, Jr. eds.,  Mega­Deltas   of   Asia:   Geological   evolution   and   human   impact,   China   Ocean   Press,  Beijing, pp. 98­106. 11. Trần Đức Thạnh và Đinh Văn Huy, 2010. Đặc trưng cơ  bản về  điều kiện tự  nhiên  vùng cửa sông Bạch Đằng.  12. Đỗ  Công Thung và Trần Đức Thạnh, 2002. Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học   Hải Phòng. Báo cáo koa học, lưu trữ tại Sở KHCN & MT Hải Phòng. 13. Trần Anh Tú, 2012. Đánh giá đặc trưng trầm tích lơ  lửng khu vực cửa sông ven biển   Hải Phòng. Luận văn Thạc sỹ. Lưu trữ tại Viện TN&MTB. 14. Vũ Duy Vĩnh, 2012. Nghiên cứu đặc điểm vận chuyển trầm tích lơ lửng vùng ven biển   Hải Phòng bằng mô hình Delft3d. Luận văn Thạc sỹ khoa học, trường ĐHKHTN. 15.  Xamoilov, I. B., 1952. Các vùng cửa sông. Nxb. "Geographyz", Mascơva, trang 1­526. (tiếng Nga). 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2