ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TRẦN XUÂN CHIẾN
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG
TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG TỪ NĂM 1930
ĐẾN NĂM 1939.
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56
Hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Hồng Tung
Hà Nội, 2008
1
MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................... 6
1.Lý do chọn đề tài: ................................................................................................. 6
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. ......................................................... 8
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................ 11
4. Phạm vi nghiên cứu. .......................................................................................... 12
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. ...................................................... 12
5.1 Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác quần chúng, các văn kiện, nghị quyết về công
tác vận động quần chúng nói riêng và các văn kiện, nghị quyết chỉ đạo cách
mạng của Đảng nói chung trong giai đoạn từ 1930- 1939. ............................... 12
5.2 Đề tài thuộc vấn đề lịch sử nên phương pháp nghiên cứu chủ yếu là các
phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử và lôgic. Ngoài ra luận văn còn
phối hợp sử dụng các cách tiếp cận khác của khoa học chính trị, phương pháp
phân tích, đồng đại, lịch đại, tổng hợp, so sánh, khái quát, rút ra kết luận để làm
rõ hơn hai phương pháp trên. ............................................................................. 12
6. Kết cấu luận văn. ............................................................................................... 12
Chương 1: Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1930-1935. ... 13
1.1. Bối cảnh lịch sử và các vấn đề đặt ra đối với công tác quần chúng của Đảng.
............................................................................................................................... 13
1.2. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1930- 1931. .............. 13
1.3. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1932- 1935. .............. 13
2
Chương 2: Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1936-1939. .... 13
2.1. Chủ trương của Đảng về công tác vận động quần chúng trong tình hình mới.
............................................................................................................................... 13
2.2. Quá trình tổ chức thực hiện công tác quần chúng giai đọan 1936-1939. ...... 13
Chương 3: Ý nghĩa và kinh nghiệm. ..................................................................... 13
3.1 Ý nghĩa. ........................................................................................................... 13
3.2 Một số kinh nghiệm. ....................................................................................... 13
Chương 1 ............................................................................................................... 14
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG NHỮNG NĂM 1930-
1935 ....................................................................................................................... 14
1.1 Bối cảnh lịch sử và các vấn đề đặt ra đối với công tác quần chúng của Đảng.
............................................................................................................................... 14
1.1.1. Khái niệm quần chúng. ............................................................................ 14
1.1.2. Khái lược về vai trò quần chúng nhân dân trong phong trào cách mạng
dân tộc dân chủ ở nước ta từ 1858 đến trước khi thành lập Đảng (3/2/1930). .. 14
1.1.3.Những cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự hình thành đường lối vận động
quần chúng của Đảng khi mới thành lập. .......................................................... 25
1. 2. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1930- 1931............. 31
1. 2. 1. Đường lối vận động quần chúng của Đảng Cộng sản Việt Nam. ......... 31
1.2.2 Qúa trình lãnh đạo và tổ chức quần chúng đấu tranh giai đoạn cao trào
cách mạng 1930- 1931. ...................................................................................... 34
1. 2. 3 Những chủ trương vận động quần chúng của Đảng Cộng sản Đông
3
Dương từ Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930: .............................. 39
1.2. 4 Phong trào cách mạng 1930 – 1931 từ sau Hội nghị Trung ương tháng 10.
1930. ................................................................................................................... 41
1. 3. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1932- 1935. ............ 48
1.3.1Đấu tranh trong các nhà tù thực dân .......................................................... 49
1.3.2 Cuộc đấu tranh để giữ gìn cơ sở, khôi phục tổ chức và phong trào cách
mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương ............................................................. 52
Chương 2 ................................................................................................................. 58
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG .................................. 58
NHỮNG NĂM 1936-1939. ..................................................................................... 58
2.1. Chủ trương của Đảng về công tác vận động quần chúng trong tình hình mới.
............................................................................................................................... 58
2.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước. .............................................................. 58
2.1.2. Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng. ........ 62
2.1.3 Nội dung chuyển hướng chỉ đạo công tác vận động quần chúng của Đảng.
............................................................................................................................ 63
2.2 Quá trình tổ chức thực hiện công tác quần chúng giai đoạn 1936- 1939. ...... 71
Chương 3 .................................................................................................................. 97
Ý NGHĨA VÀ KINH NGHIỆM. ............................................................................. 97
3.1 Ý nghĩa ............................................................................................................ 97
3.1.1 Cao trào 1930 - 1931. ............................................................................... 97
3.1.2 Giai đoạn 1932- 1935. .............................................................................. 99
3.1.3 Giai đoạn 1936- 1939. ............................................................................ 101
4
3.2 Một số kinh nghiệm. ..................................................................................... 103
3.2.1 Từ quá trình lãnh đạo cách mạng nói chung và quá trình vận động quần
chúng nói riêng của Đảng trong giai đoạn 1930- 1931, chúng ta có thể rút ra
một số kinh nghiệm như sau: ........................................................................... 103
3.2.2. Giai đoạn Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo quần chúng đấu tranh
để phục hồi lực lượng sau khủng bố trắng của Thực dân Pháp để lại nhiều kinh
nghiệm sâu sắc trong đấu tranh cách mạng vận động quần chúng: ................. 107
3.2.3. Qua thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1936- 1939 có thể ghi nhận nhiều kinh
nghiệm về công tác vận động quần chúng. ...................................................... 108
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 115
5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 120
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử là “quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử nhân loại”. Lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta cũng chứng minh hùng hồn chân lý đó.
Việt Nam là một quốc gia có vị trí địa lý chiến lược quan trọng nên ngay từ thuở bình minh của lịch sử nhân dân ta đã liên tiếp phải đương đầu với nhiều thế lực ngoại xâm lớn mạnh hơn mình rất nhiều lần. Để giữ vững được độc lập cho đất nước và chủ quyền cho dân tộc,` cách duy nhất là phải củng cố khối đoàn kết toàn dân, huy động toàn thể nhân dân tham gia vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi việc tháng 6 năm 1300, vị tướng già Trần Quốc Tuấn ốm nặng, vua Trần ngự tới thăm, có hỏi về kế sách giữ nước nếu lại bị nước ngoài xâm lược, sau khi trình bày kinh nghiệm đánh giặc một cách rõ ràng và tỉ mỉ, Trần Quốc Tuấn đã khẳng định: khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước.
Cũng trên lập trường thân dân, Nguyễn Trãi nhận thức rất rõ về vai trò và sức mạnh của nhân dân. Thay mặt vua Lê, trong Chiếu răn dạy Thái tử, ông viết: Mến người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân; thuyền bị lật mới tin rằng dân như nước.
Những bài học kinh nghiệm của cha ông cũng như những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin đã được vận dụng hết sức sáng tạo vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin ngay từ khi bắt đầu sáng lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Hồ Chí Minh đã nêu ra một nguyên lý có tính chất dẫn đường cho toàn bộ sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, đây là nguyên nhân của mọi thắng lợi sau này của cách mạng Việt Nam, nguyên lý này là: công nông là gốc cách mạng.
6
Quả thật như vậy, nhìn lại lịch sử cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam từ khi người Pháp xâm lược cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 đặc biệt là giai đoạn 1930- 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng chúng ta đều phát hiện ra một đặc điểm nổi trội, một sự khác biệt giữa phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam với
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác trong khu vực Đông nam Á đó là sự tham gia đông đảo tích cực của quần chúng nhân dân vào sự nghiệp cứu nước chung của toàn dân tộc.
Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân vào xâm lược nước ta, chính nhờ sự tham gia của quần chúng nhân dân vào phong trào kháng chiến đã kìm chân địch và giáng cho địch những đòn nặng nề tại Đà Nẵng, 3 tỉnh miền Tây, 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ của những lãnh tụ như Trương Định, Nguyễn Trung Trực... chính là sức mạnh của quần chúng, tấm lòng cảm khái của quần chúng đã giữ Trương Định lại để nhận thanh kiếm Bình Tây đại nguyên soái chứ không phải là việc đi nhận chức lãnh binh ở An Giang, chính cảm khái những tấm gương chiến đấu anh dũng của quần chúng nhân dân mà Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những áng văn bất hủ như Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc hay Văn tế chiến sỹ trận vong lục tỉnh.
Phong trào Cần Vương, do sự tham gia của đông đảo quần chúng nên Nguyễn Thiện Thuật, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng mới có thể duy trì được sức bền của cuộc đấu tranh oanh liệt như ở Bãi Sậy, Ba Đình, Hương Sơn...Chính sự che chở, tham gia tích cực của nhân dân đã giúp cho Hùm thiêng Yên Thế Đề Thám có thể giằng co với thực dân Pháp suốt 30 năm trời.
Sang đầu thế kỷ XX, phong trào quần chúng đầu tiên đã làm nên một phong trào cách mạng có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình trong nước, đó là phong trào biểu tình chống thuế của hàng vạn nông dân ở miền Trung, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, chính phong trào cách mạng của quần chúng đã làm chấn động toàn cõi Đông Dương, đặc biệt ở Việt Nam, đó là cuộc biểu tình của quần chúng đòi xóa bản án của Phan Bội Châu, đòi để tang Phan Chu Trinh, bảo vệ nhà chí sỹ yêu nước Nguyễn An Ninh...trong những năm 1925 – 1927 và phong trào đó đã tiến lên một bước mới khi nó được tiếp nhận, được dẫn đường bởi ánh sáng của của nghĩa Mác- Lê Nin do sự truyền bá của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Từ đây, phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ với chủ nghĩa Mác- Lê Nin, thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam phát triển ngày một mạnh mẽ hơn, kết quả của nó, một mặt là sự ra đời của Đảng vào đầu năm 1930, mặt khác là cao trào cách mạng 1930-1931 đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Trải qua một thời kỳ khó khăn đến những năm 1936- 1939 một cao trào vận động với sự tham gia của đông đảo quần chúng đã tạo ra một cao trào cách mạng duy nhất có ở xứ thuộc địa Việt Nam chứ không có ở xứ thuộc địa khác, đó là cuộc vận động vì các quyền dân sinh dân chủ, đây là những cuộc tập dượt lần lượt từ thấp đến cao, tập dượt cho sự hồi sinh mạnh mẽ của toàn dân tộc khi thời cơ đến đó là Cách mạng tháng Tám năm 1945. Cách mạng tháng Tám diễn 7
ra trong một thời gian ngắn với hình thái chủ yếu là biểu tình của hàng vạn quần chúng đã làm suy sụp chính quyền địch. Một câu hỏi đặt ra: tại sao những chính đảng khác, những tổ chức yêu nước khác cũng được sự ủng không nhỏ của quần chúng mà không thể duy trì được sức bền của phong trào quần chúng, và cuối cùng phong trào yêu nước của họ đã thất bại, trong khi Hồ Chí Minh và những người cộng sản đã thành công trong việc huy động được quần chúng tham gia phong trào mà còn giác ngộ quần chúng, nhân bội sức mạnh quần chúng đi đến lật nhào ách thống trị của thực dân Pháp, của Nhật, phong kiến và tạo đà cho toàn dân tộc Việt Nam vượt qua hai cuộc trường chinh để đến thắng lợi cuối cùng. Đó chính là bí quyết của Đảng với đường lối lãnh đạo sáng suốt với phương pháp cách mạng khoa học được chỉnh sửa tùy theo từng thời kỳ của thực tiễn, học được từ chính những sai lầm của mình để cuối cùng thành công trong cuộc vận động tuyên truyền, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh. Đó chính là những lý do khoa học cũng như thực tiễn, lý do lý luận cũng như học thuật để tôi chọn đề tài này làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ đặc biệt mang tính chiến lược trong các phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo từ khi thành lập đến nay, đặc biệt trong các giai đoạn cách mạng từ khi thành lập Đảng đến khi cách mạng tháng Tám thắng lợi, vì vậy, đã có nhiều công trình khoa học và tác phẩm lý luận của nhiều tác giả, bao gồm cả các nhà khoa học và các nhà lý luận, các nhà chính trị nghiên cứu về vấn đề này như:
* Nhóm công trình của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà Nước: - Hồ Chí Minh: Về liên minh công nông, Nxb Sự thật, HN, 1977. Gồm một số bài viết của Hồ chí Minh về vấn đề Liên minh công nông từ năm 1924 đến năm 1969, chia làm hai phần: Phần thứ nhất: từ năm 1924 đến năm 1954; Phần thứ hai: từ 1954 đến năm 1969, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến những cơ sở hình thành liên minh công nông, tầm quan trọng của liên minh công nông trong sự nghiệp cách mạng dân tộc, những kinh nghiệm xây dựng liên minh công nông trong các thời kỳ lịch sử…
8
- Tôn Đức Thắng: Về Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb Sự Thật, HN, 1977. Tác phẩm trình bày những phát biểu của đồng chí Tôn Đức Thắng về đường lối, chính sách của Đảng về công tác mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó đáng chú ý là sự nhấn mạnh tầm quan trọng công tác Mặt trận đối với sự nghiệp cách mạng,
quá trình vận động sự tham gia đông đảo quần chúng trong các thời kỳ.
- Võ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003. Trong nội dung “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn kết và chính sách mặt trận dân tộc thống nhất”, tác giả đã trình bày một cách cơ bản những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, về chính sách Mặt trận dân tộc thống nhất và khẳng định đây là một chính sách rất quan trọng.
* Nhóm công trình của các tổ chức, nhà nghiên cứu khoa học: - Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam (Sơ thảo), tập 1, Nxb Sự Thật, HN.1981. Tác phẩm trình bày có cơ bản, có hệ thống sự ra đời và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam trong chặng đường lãnh đạo quần chúng đấu tranh từ năm 1920 đến năm 1954. Trong đó trình bày khái quát mục tiêu, hoạt động cụ thể của công tác vận động quần chúng của Đảng ta qua các giai đoạn cụ thể như : 1930- 1931; 1936- 1939…
- Tác giả Trần Văn Giàu trong một bộ sách viết về giai cấp công nhân Việt Nam ( Giai cấp công nhân Việt Nam, tập 1. Nxb Sử học Viện Sử Học, HN. 1962. ; Giai cấp công nhân Việt Nam, tập 2. Nxb Sử học Viện Sử Học, HN. 1962; Giai cấp công nhân Việt Nam, tập 3. Nxb Sử học Viện Sử Học, HN. 1963; Giai cấp công nhân Việt Nam - sự hình thành và sự phát triển của nó từ giai cấp” tự mình” đến giai cấp “cho mình”, Nxb Sự Thật, HN, 1958) đã cung cấp bức tranh sinh động về quá trình hình thành và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam từ lúc mới hình thành, phát triển qua các giai đoạn lịch sử, những đặc trưng chủ yếu, những cống hiến to lớn của giai cấp công nhân Việt Nam đối với sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo. Đồng thời, tổng kết kinh nghiệm vận động, lãnh đạo giai cấp công nhân không chỉ đi đầu trong quá trình đấu tranh cách mạng mà còn là trụ cột cho sự đoàn kết rộng rãi của dân tộc. Những cuốn sách này là sự mở đầu tốt đẹp cho những công trình tiếp theo của những nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu về giai cấp công nhân.
- Tác giả Nguyễn Công Bình trong cuốn Mặt trận dân tộc thống nhất (Nxb Khoa học, Hà Nội, 1963) đã nghiên cứu một cách hệ thống quá trình tập hợp lực lượng dân tộc trước khi đảng của giai cấp công nhân ra đời, các hình thức mặt trận dân tộc thống nhất qua các thời kỳ lịch sử từ khi Đảng thành lập, thời kỳ vận động cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc sau năm 1954, kháng chiến chống Mỹ.
- Uỷ Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, 2007. Gồm ba quyển, 9
Quyển 1: từ năm 1930 đến năm 1954; Quyển 2: từ năm 1954 đến năm 1975; Quyển 3: từ năm 1975 đến năm 2004. Đặc biệt, trong Quyển 1(1930-1954): trình bày lịch sử Mặt trận từ khi thành lập (1930) đến khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng với quá trình đấu tranh gian khổ trong công tác vận động quần chúng cách mạng để thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất, qua các phong trào Mặt trận, tiến tới thành lập Mặt trận Việt Minh, đoàn kết toàn dân làm Cách mạng tháng Tám thắng lợi, tiến hành 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước sau này.
- Ngoài ra còn nhiều bài viết của nhiều tác giả về công tác vận động quần chúng
của Đảng trên các báo và tạp chí như:
+ Lê Mậu Hãn: Hồ Chí Minh hoàn thiện về đường lối chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Mặt trận dân tộc thống nhất ở Việt Nam, Nghiên cứu lịch sử, số 2, 1992. Tác giả đã trình bày một cách xác đáng những đánh giá của mình về quá trình Hồ Chí Minh cũng như Đảng ta khẳng định và hoàn thiện về đường lối chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Mặt trận dân tộc thống nhất cho cách mạng Việt Nam. Tiến trình này, theo tác giả, việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất được khởi nguồn từ năm 1930 và được hoàn thiện về chính trị và tổ chức vào năm 1941. + Lê Mậu Hãn: Chủ nghĩa dân tộc truyền thống và tư tưởng độc lập tự do - động lực, mục tiêu đại đoàn kết, đại thành công của cách mạng Việt Nam, Nghiên cứu lịch sử, số 6, 1995. Tác giả khẳng định độc lập tự do là tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh có bệ đỡ của chủ nghĩa dân tộc truyền thống, phản ánh khát vọng của hiện tại và rọi sáng cả tương lai của dân tộc, chính là chìa khoá vạn năng, điểm hội tụ thắng lợi của chiến lược “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công.” Nội dung và hình thức tổ chức tập hợp lực lượng trong chiến lược đại đoàn kết của Đảng và Hồ Chí Minh được thực hiện phong phú qua các thời kỳ cách mạng của nhân dân Việt Nam.
10
+ Phạm Hồng Tung: Lịch sử cuộc vận động vì các quyền dân sinh, dân chủ ở Việt Nam(1936- 1939), Nxb. CTQG, HN, 2008. Với nguồn tư liệu phong phú từ các tài liệu trong nước và nước ngoài, tác giả đã trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ về tất cả các cuộc vận động vì các quyền dân sinh, dân chủ trong thời kỳ 1936- 1939, đặc biệt tác giả rất chú trọng trình bày về những diễn biến cách mạng tại các vùng nông thôn. Công trình mang lại cách nhìn tổng quan nhưng cũng rất rõ ràng về những thành công cũng như những hạn chế của Đảng Cộng sản Đông Dương trong công tác vận động quần chúng thời kỳ đấu tranh dân chủ công khai 1936- 1939.
+ Phạm Hồng Tung: Các cuộc vận động bầu cử và tranh cử trong cuộc đấu tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ (1936-1939), Nghiên cứu lịch sử, số 10 (366), 2006, tr. 39-46. Tác giả đã góp phần làm sáng tỏ hơn một loại hình đấu tranh cách mạng sáng tạo, linh hoạt của Đảng ta, phù hợp của với hoàn cảnh lịch sử trong thời kỳ đấu tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ ở Việt Nam từ 1936- 1939, loại hình “ đấu tranh nghị trường”. Chính thông qua các cuộc vận động bầu cử này đã vận động được sự tham gia của hàng triệu quần chúng vào phong trào do Đảng ta lãnh đạo. Uy tín chính trị của Đảng do vậy được củng cố và tăng cường thêm.
+ Phạm Hồng Tung: Về quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương trong quá trình lãnh đạo cuộc vận động dân chủ 1936-1939 ở Việt Nam, Nghiên cứu lịch sử, số 2 (358), 2006, tr. 3-14. Tác giả trình bày những điều kiện khách quan và chủ quan cũng như quá trình chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam thời kỳ 1936- 1939, từ đó làm sáng tỏ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, từ những thành công và cả những hạn chế trong quá trình lãnh đạo cuộc vận động dân chủ sôi nổi, phong phú, được coi là cuộc “Tổng diễn tập lần thứ hai” cho thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945.
Các tác giả nói trên dù là những nhà lãnh đạo hay những nhà khoa học đều đã cố gắng trình bày công trình của mình theo những cách thể hiện riêng biệt và để đạt được những hiệu quả ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, những tác phẩm của những nhà lãnh đạo thường nặng về chính trị vận động nên tính khoa học chưa thực sự nổi bật, còn những công trình của những nhà khoa học thường chi tiết hóa trong những vấn đề nghiên cứu riêng. Mặc dù đã có một số nghiên cứu đề cập ở mức độ khác nhau nhưng cho đến nay, nhìn chung, chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu toàn diện về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần chúng từ 1930 đến 1939. Trong những năm gần đây, việc công bố bộ Văn kiện Đảng Toàn tập đã cho phép nghiên cứu đầy đủ, cụ thể hơn về vấn đề này. Đây là một thuận lợi, một chỗ dựa rất căn bản của Luận văn.
Kế thừa những kết quả nghiên cứu đó, luận văn sẽ làm rõ công tác vận động quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta với những thành công và hạn chế trong giai đoạn từ 1930 – 1939. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
* Mục đích nghiên cứu:
11
Hệ thống hóa, làm sáng tỏ đường lối, chủ trương và biện pháp của Đảng
trong lĩnh vực tuyên truyền, vận động, tổ chức và hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Trên cơ sở đó rút ra những nhận xét về sự thành công và chưa thành công của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn công tác vận động quần chúng trong từng thời kỳ cách mạng cụ thể, đồng thời rút ra những bài học thiết thực cho công tác vận động quần chúng của Đảng và Nhà nước ta trong bối cảnh hiện nay của thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các vấn đề cơ bản sau: - Làm rõ quá trình hình thành quan điểm đường lối và phương pháp vận
động quần chúng của Đảng.
- Làm rõ quá trình hiện thực hóa đường lối và phương pháp đó.
- Trên cơ sở đó đánh giá khách quan những thành công và hạn chế của Đảng trong lãnh đạo công tác vận động quần chúng thời kỳ này, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm. 4. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài giới hạn nghiên cứu trong quá trình hình thành, phát triển của chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác vận động quần chúng và thực tiễn tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương đó trong giai đoạn 1930- 1939. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1 Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác quần chúng, các văn kiện, nghị quyết về công tác vận động quần chúng nói riêng và các văn kiện, nghị quyết chỉ đạo cách mạng của Đảng nói chung trong giai đoạn từ 1930- 1939.
5.2 Đề tài thuộc vấn đề lịch sử nên phương pháp nghiên cứu chủ yếu là các phư- ơng pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử và lôgic. Ngoài ra luận văn còn phối hợp sử dụng các cách tiếp cận khác của khoa học chính trị, phương pháp phân tích, đồng đại, lịch đại, tổng hợp, so sánh, khái quát, rút ra kết luận để làm rõ hơn hai phương pháp trên.
6. Kết cấu luận văn.
12
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn có 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1930-1935.
1.1. Bối cảnh lịch sử và các vấn đề đặt ra đối với công tác quần chúng của Đảng.
1.2. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1930- 1931.
1.3. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1932- 1935.
Chương 2: Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1936-1939.
2.1. Chủ trương của Đảng về công tác vận động quần chúng trong tình hình mới.
2.2. Quá trình tổ chức thực hiện công tác quần chúng giai đọan 1936-1939.
Chương 3: Ý nghĩa và kinh nghiệm.
3.1 Ý nghĩa.
13
3.2 Một số kinh nghiệm.
NỘI DUNG
Chương 1
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG NHỮNG NĂM 1930- 1935
1.1 Bối cảnh lịch sử và các vấn đề đặt ra đối với công tác quần chúng của Đảng.
1.1.1. Khái niệm quần chúng.
Từ trước đến nay, trong cuộc sống hàng ngày và trong nghiên cứu khoa học đã có những quan niệm khác nhau về “quần chúng”. Đây là khái niệm có tính lịch sử, thường được tiếp cận dưới góc độ triết học, xã hội học và khoa học chính trị. Trong Từ điển xã hội học giản yếu (bản tiếng Đức, Nxb. Kindler Muenchen, 1977, tr.423) viết: “Quần chúng là một khái niệm xã hội học- lịch sử dùng để chỉ bộ phận đông đảo nhất trong cộng đồng dân cư không bao gồm giai cấp thống trị và tầng lớp lãnh đạo. Như vậy, tại mỗi cộng đồng dân cư và ở trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, quần chúng có thể bao gồm những giai cấp và tầng lớp khác nhau, nhưng nó luôn không bao gồm tầng lớp thống trị và tầng lớp lãnh đạo”. Trong bối cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, quần chúng bao gồm giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, và tất cả những cá nhân thuộc các giai tầng không nắm quyền thống trị và lãnh đạo các tổ chức chính trị- xã hội và các phong trào tôn giáo.
1.1.2. Khái lược về vai trò quần chúng nhân dân trong phong trào cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta từ 1858 đến trước khi thành lập Đảng (3/2/1930).
Ngay từ thuở bình minh của lịch sử, sự nghiệp dựng nước và giữ nước đã gắn liền với sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân. Điều này xuất phát từ đặc trưng nói chung của các dân tộc phương Đông khi dân cư phải quần tụ, đoàn kết để đương đầu với giặc ngoại xâm và làm thủy lợi. Điều này được phản ánh vào 14
huyền thoại và truyện Thánh Gióng là một điển hình, câu chuyện phản ánh tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt chống ngoại xâm ngay từ thuở xa xưa. Hình ảnh Gióng ra trận là một chỉnh thể của sự đoàn kết của nhân dân, sự đóng góp của nhân dân nuôi Gióng khôn lớn, trang bị cho Gióng ngựa sắt, roi sắt, kể cả lũy tre, kể cả dân làng cũng xung trận...tất cả nói lên tinh thần đoàn kết đấu tranh bất khuất của dân tộc.
Nhìn lại lịch sử dựng nước chống ngoại xâm từ đầu đến giữa thế kỷ XIX chúng ta đều thấy rõ một chân lý, sáng rõ một sự thật lịch sử hiển nhiên: khi nào, triều đại nào, lãnh tụ nào huy động được sức dân đoàn kết một lòng thì triều đại đó đứng vững, lãnh tụ đó giành thắng lợi.
Triều Trần trong thế kỷ XIII sở dĩ đã thắng được quân Nguyên đông hơn mình, mạnh hơn mình nhiều lần bởi vì đã biết dùng kế ‘‘thanh dã’’, biết tranh thủ sức dân. Tâm đắc với nguyên nhân thành công của đời mình và cũng thể hiện nhãn quan chính trị sáng suốt đến cuối đời mình Trần Quốc Tuấn còn dặn lại vua Trần, nếu muốn duy trì nghiệp lớn của cha ông cần: “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước”.
Cuối triều Trần, trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, Hồ Quý Ly đã thể hiện tài năng trị nước của mình với những chính sách cải cách mang một tầm nhìn vượt thời đại, tuy nhiên những cải cách của ông chưa mang lại hiệu quả thì đã vấp phải một trở ngại khách quan – sự xâm lược của nhà Minh- mặc dù đã có những sự chuẩn bị nhất định nhưng nhà Hồ vẫn không thể vượt qua được thử thách của lịch sử. Nguyên nhân của thất bại này nằm ngay trong lời than của con trai Hồ Quý Ly – Hồ Nguyên Trừng : không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo. Nói như Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo : Vừa rồi,
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà để trong nước lòng dân oán hận!
Không được lòng dân dẫn đến việc để mất nước là một thất bại có tính chất tất yếu. Nhận thức được giá trị sâu xa của quy luật đó nên sau này Nguyễn Trãi đã tổng kết một cách sâu sắc: dân như nước, chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân. Sang thế kỷ XVIII, nhận thấy sự phức tạp của tình hình chính trị, xã hội ở cả hai Đàng, anh em Tây Sơn đã biết giương lá cờ lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo để huy động sức dân. Đi đến đâu anh em Tây Sơn cũng được ủng hộ, số người tham gia khởi nghĩa ngày một đông. Chỉ trong một thời gian ngắn nghĩa quân đã giành được nhiều thắng lợi vang dội, dẹp chúa Nguyễn, đánh tan tập đoàn Trịnh – Lê, bảo vệ thành công chủ quyền dân tộc trước sự xâm lăng của giặc Xiêm, 15
Thanh, đặt nền móng vững chắc cho sự thống nhất sau này. Nổi bật và xuyên suốt trong quá trình gian khổ và vinh quang đó chính là vai trò của Nguyễn Huệ – người đã biết tranh thủ tinh thần ủng hộ của nhân dân, sự dũng cảm của binh sỹ để mang lại thắng lợi chung của cả dân tộc.
Nhìn sang lịch sử cận đại, mùa thu năm 1858, ngay từ khi thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên xâm lược nước ta, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân chống Pháp xâm lược đã bùng lên mạnh mẽ. Nhân dân Nam Bộ luôn đi đầu trong phong trào đánh Pháp, bắt đầu từ miền Đông, phong trào lan khắp Nam Bộ và biến thành một cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp, sôi nổi, gây cho giặc Pháp nhiều khó khăn và tổn thất. Từ Nam Kỳ ra Bắc Kỳ đi đến đâu quân Pháp cũng vấp phải tinh thần chiến đấu kiên cường của quần chúng nhân dân. Nhiều tấm gương nghĩa liệt quên mình vì dân tộc, thà hy sinh chứ không chịu nhục, làm cho chính kẻ thù cũng phải khâm phục. Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa do Trương Định lãnh đạo. Từ đất Gò Công, cuộc khởi nghĩa đã thu hút được nhiều nhân tài như Đỗ Quang, Đỗ Trình Thoại, Âu Dương Lân, Nguyễn Thông, Thủ khoa Huân... với sự ủng hộ của đông đảo quần chúng, lực lượng nghĩa binh có lúc lên tới 1 vạn người. Với lá cờ Bình Tây đại nguyên soái, cảm khái trước lòng dân yêu nước, Trương Định đã kháng lệnh triều đình không đi nhận chức Lãnh binh An Giang, tình nguyện ở lại cùng nhân dân kháng chiến. Vì triều đình cố tình bỏ rơi hay tìm cách ngăn trở phá hoại, các cuộc khởi nghĩa lần lượt thất bại, nhưng phong trào yêu nước chống Pháp trong nhân dân miền Nam không bao giờ bị dập tắt bất chấp muôn vàn thủ đoạn đàn áp man rợ của quân thù, đúng như lời tuyên bố hiên ngang của Nguyễn Trung Trực trước giặc Pháp: "Bao giờ người Tây làm hết cỏ đất này thì người Nam mới hết chống Tây". Ngôi sao sáng Nguyễn Đình Chiểu với những bài thơ, văn tế, hịch tràn đầy tính nhân văn, đậm đà chính nghĩa là người tiêu biểu trong cuộc đấu tranh dùng dùng ngòi bút để đánh giặc. Trong Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định tinh thần vì nghĩa của nhân dân mà xả thân mình để chiến đấu: vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh ; chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
16
Sau sự biến ở kinh thành Huế, nhân dân cả nước đi theo hưởng ứng phong trào Cần Vương khá mạnh mẽ, đặc biệt là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, đặc biệt do lực lượng lãnh đạo đã không đưa ra được những chính sách phù hợp, không biết tổ chức phong trào đấu tranh của đông đảo quần chúng cho tập trung, thống nhất nên phong trào Cần Vương đã thất bại.
Bên cạnh phong trào Cần Vương, lúc ấy còn có hàng loạt các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân, họ vùng đậy với mọi thứ khí thô sơ giới có trong tay gậy tầy, giáo mác, đinh ba, dao quắm…tiêu biểu nhất là phong trào nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Tuy nhiên, do không thể tự mình tập hợp được lực lượng trong cả nước, thiếu cơ bản về năng lực lãnh đạo và tổ chức cũng như đường lối đúng đắn để chỉ đạo đấu tranh nên những phong trào nổi đạy tự động của nông dân cũng đi vào bế tắc và thất bại. Con đường cứu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến cũng như những nhận thức về vai trò quần chúng và cách thức tuyên truyền, vận động, tổ chức chỉ đạo quần chúng đấu trah theo thế giới quan phong kiến đã không đáp ứng được những yêu cầu của lịch sử và dãn đến thất bại. Đầu thế kỷ XX, Việt Nam có nhiều biến chuyển quan trọng về cơ cấu kinh tế, xã hội, trên cơ sở phức hợp những tác động của tư tưởng dân chủ tư sản từ Pháp, Nhật Bản và Trung Quốc dội vào Việt Nam với những biến chuyển trong nước nên phong trào cách mạng Việt Nam đã mang một khuynh hướng mới, khuynh hướng dân chủ tư sản. Những sỹ phu phong kiến lãnh đạo như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền…cùng với việc phổ biến sử dụng các khái niệm mới như: tự do, dân chủ, bình đẳng, dân sinh, dân quyền, lập hiến…những nhận thức về công tác quần chúng nói chung của văn thân, sỹ phu tiến bộ đã có những chuyển biến đáng kể, các nhà lãnh đạo đã chú ý tới đông đảo, rộng rãi các tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907- 1908) - Thực dân Pháp gọi là “cái lò phiến loạn ở Bắc Kỳ”- chú ý vận động duy tân kinh tế và cải cách xã hội, đả kích tư tưởng bảo thủ, chống lối học từ chương và thi cử cũ, chống tham nhũng trong đội ngũ quan lại, chống các hủ tục lạc hậu, hô hào cắt tóc ngắn, bài trừ nạn xôi thịt ở hương thôn…Cuộc vận động cách mạng hồi đầu thế kỷ XX đã bắt đầu có tính chất dân tộc và dân chủ, tuy vậy, tính chất tiến bộ đó, vì nhiều lý do khác nhau nên đã có nhiều hạn chế. Đã xuất hiện nhiều ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản, nhưng hầu hết những sỹ phu này “vẫn nặng về cốt cách phong kiến”, chưa thể dứt bỏ được hệ tư tưởng phong kiến, mặc dù đã mở rộng quan niệm về lực lượng quần chúng nhưng còn đặt hy vọng quá nhiều vào giai cấp phong kiến - một giai cấp đã hết vai trò lịch sử trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng dân tộc. Tuy nhiên, thành công lớn nhất và có ý nghĩa sâu sắc là việc các nhà nho tiến bộ đã phát hiện ra chữ dân. Đây là một sự thay đổi lớn lao trong nhận thức chính trị, xã hội lúc bấy giờ. Chữ dân đã được các nhà nho tiến bộ đặt ở vị trí trung tâm. Nhân dân được khai sáng là yếu tố đầu tiên, là điều kiện tiên quyết nếu muốn thực hiện nhiệm vụ cứu 17
nước, giải phóng dân tộc. Quan điểm tiến bộ của những nhà nho yêu nước đầu thế kỷ XX, tiêu biểu nhất là hai cụ Phan, đã đặt viên gạch đầu tiên cho những bước tiến tiếp theo của con đường cứu nước giải phóng dân tộc mà cụ Hồ sẽ đi tiếp.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lịch sử cách mạng Việt Nam chứng kiến những thử nghiệm mới của những con đường cách mạng khác nhau, mang nhiều sắc thái, quan điểm chính trị khác nhau, cũng chính vì vậy mà công tác vận động quần chúng những năm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng có những nét đặc trưng so với các thời kỳ trước.
Một loạt các hoạt động yêu nước sôi nổi của quần chúng đã diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú như: phong trào tẩy chay tư sản Hoa kiều, giành lại thị trường buôn bán của tư sản người Việt (1919), đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn (1923), dùng báo chí để đấu tranh, thành lập Đảng Lập hiến (1923), phong trào đòi ân xá Phan Bội Châu (1925), phong trào đấu tranh đòi để tang Phan Châu Trinh (1926), cuộc “đón tiếp” Bùi Quang Chiêu từ Pháp về, phong trào đấu tranh đòi thả nhà ái quốc Nguyễn An Ninh...
Năm 1926, một tôn giáo có tính dung hợp, tương đối mới, mang tinh thần phản kháng xã hội đã xuất hiện ở Việt Nam, đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài là tên ngắn gọn, tên đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Sự xuất hiện này là một hệ quả của một phong trào cách mạng quốc gia phát triển trong những năm 1925- 1926 của lực lượng tư sản và địa chủ bất lực và bất mãn chống lại chính quyền thực dân. Đạo Cao Đài thờ biểu tượng “một con mắt” (thiên nhỡn) và là sự pha trộn của nhiều tôn giáo, tín ngưỡng đương thời như: Thiên Chúa giáo, tục đồng bóng, đặc biệt là Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo. Tôn chỉ đầu tiên của Cao Đài ghi rõ : “tam giáo quy nguyên, ngũ chi phục nhất” tức là về giáo lý, Cao Đài là sự kết hợp của ba tôn giáo trên và có năm chi phái cấu thành (Minh đạo, Minh đường, Minh sư, Minh tân và Minh thiện). Những năm 20 của thế kỷ XX, đạo Cao Đài phát triển khá mạnh, gây một ảnh hưởng quan trọng trong đời sống chính trị - tư tưởng nhân dân Nam Bộ. Đặc biệt, trong những năm từ 1926 đến 1932, “tuy không có con số thống kê chính thức nhưng số tín đồ của nó đã vượt lên con số hàng triệu. Ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Campuchia, tuy cũng có tín đồ Cao Đài nhưng chủ yếu vẫn tập trung ở Nam Kỳ”.{58; 120}. Mặc dù vậy, những ảnh hưởng của đạo Cao Đài theo thời gian không được phát triển thêm hơn, không lôi cuốn được nhiều hơn nữa sự tham gia của quần chúng thực hiện những mục tiêu khác ngoài tôn giáo, vì nhiều lý do:
18
Trước hết, do sự phân liệt, tranh giành quyền lực khá sớm của đội ngũ đứng đầu đạo Cao Đài nên không tạo cho tôn giáo này sự lôi cuốn mạnh mẽ đối với quần chúng.
Thứ hai, phong trào đấu tranh dưới “vỏ bọc” tôn giáo hoặc mang màu sắc tôn giáo trong thế kỷ XX, đã không còn đủ sức “quyến rũ” để thu hút đông đảo quần chúng tham gia thực hiện các mục tiêu dân tộc, dân chủ như các thế kỷ trước.
Thứ ba, mặc dù “đạo Cao Đài có tính chất phản đế nhưng lại là một tôn giáo hỗn hợp gồm cả ý thức tập trung thống nhất của tư sản, hình thức địa phương của địa chủ phong kiến, hình thức tiểu sản xuất của của tiểu tư sản trên nền tảng văn hoá suy đồi, không cổ, không kim, không Âu, không Á, sự lũng đoạn của đế quốc…”{58; 121}. Bởi vậy, sự lan toả của tôn giáo này không tới được đa số tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức, một bộ phận quần chúng Nam Bộ tham gia Cao Đài theo mục đích tôn giáo thuần tuý là chủ yếu, hơn là các mục đích chính trị và giải phóng dân tộc.
Đạo Cao Đài ra đời đã đáp ứng được phần nào yêu cầu giải thoát và giải phóng tinh thần của một bộ phận nhân dân Nam Bộ lúc đó đang bị đời sống khổ đau thực tại dày vò. Đạo Cao Đài là một tôn giáo thể hiện rõ tính dung hợp, hợp nhất và được bản thân những người sáng lập gọi là “Đại Đạo”, tôn giáo của các tôn giáo. Mặc dù đạo Cao Đài phát triển khá mạnh, nhưng vẫn chỉ là một tôn giáo bản địa, có quy mô vùng, và tập trung chủ yếu ở miền Tây Nam Bộ.
Tham gia vào quá trình vận động quần chúng cách mạng thời kỳ này còn phải kể đến vai trò quan trọng của Việt Nam Quốc dân đảng. Đại diện điển hình cho lực lượng trí thức Tây học tiếp nhận một luồng tư tưởng mới du nhập vào Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX- tư tưởng dân chủ tư sản. Hạt nhân ban đầu về tổ chức của Việt Nam Quốc dân đảng là Nam Đồng Thư Xã- một nhà xuất bản do Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm lập ra. Đêm Noel 1927, tại Hà Nội, Việt Nam Quốc dân đảng tuyên bố thành lập, Chủ tịch đảng là Nguyễn Thái Học. Thành phần lực lượng tham gia tổ chức này gồm nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội lúc ấy như học sinh, sinh viên, giáo viên, công chức,… ngoài ra còn có cả tầng lớp trên ở nông thôn, binh lính, sỹ quan người Việt trong quân đội Pháp.
19
Về đường lối, ban đầu chủ trương chính trị của Việt Nam Quốc dân đảng chưa rõ ràng, phần nhiều nghiêng biện pháp bạo động làm khuynh hướng hoạt động chủ yếu. Càng về sau, ảnh hưởng của tư tưởng “Tam dân” của Tôn Trung Sơn đến Việt Nam Quốc dân đảng càng rõ nét. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi tồn tại, Việt Nam Quốc dân đảng có nhiều nỗ lực trong việc mở rộng địa bàn hoạt động, xây dựng và phát triển cơ sở đảng, tuy nhiên, ngoài một số chi bộ ở Lào, Nam kỳ, địa bàn hoạt động chính của Việt Nam Quốc dân đảng là Bắc Kỳ. “Tính đến đầu năm
1929, riêng Bắc Kỳ đã có 120 chi bộ với khoảng 1.500 đảng viên, trong đó có 120 người là cai, đội và lính khố đỏ.”{35; 277]. Trong chủ trương của mình, Việt Nam Quốc dân đảng định thành lập các tổ chức quần chúng như: Đoàn phụ nữ, Đoàn công nhân, Đoàn nông dân, học sinh, quân sự…đây là lực lượng cảm tình của Đảng, sẽ hỗ trợ hành động cho Đảng…Trong quá trình tồn tại, Việt Nam Quốc dân đảng có những cố gắng nhất định trong việc liên kết, phối hợp hành động với các tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và Tân Việt cách mạng đảng nhưng không có kết quả.
Đầu năm 1930, trong bối cảnh bị động, các yếu nhân của Việt Nam Quốc dân đảng tiến hành cuộc bạo động với chủ trương như Nguyễn Thái Học nói trước cuộc khởi nghĩa: “Âu là chết đi để thành cái gương phấn đấu cho người sau nối bước. Không thành công thì cũng thành nhân”{35; 287}. Xem xét những nguyên nhân dẫn đến thất bại của Việt Nam Quốc dân đảng có những yếu tố chủ quan và khách quan: Thực dân Pháp còn rất mạnh; tư tưởng dân chủ tư sản đã lỗi thời; cuộc bạo động diễn ra trong bối cảnh không thuận lợi; sự yếu đuối của tư sản Việt Nam cả về cơ sở kinh tế và vị thế chính trị; sự yếu kém trong công tác tổ chức đảng…nhưng trong đó nổi lên một nguyên nhân quan trọng có tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của đảng này chính là Việt Nam Quốc dân đảng không nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ và tham gia của đông đảo quần chúng, nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do những nhược điểm và hạn chế từ chủ trương đường lối của Việt Nam Quốc dân đảng công tác tổ chức và vận động quần chúng:
Thứ nhất: Trong đường lối, chủ trương cũng như trong thực tiễn hoạt động của mình Việt Nam Quốc dân đảng chưa thấy hết được vai trò to lớn của giai cấp nông dân - chiếm khoảng 90% dân số nước ta lúc ấy - đối với sự nghiệp cách mạng dân tộc, để có chủ trương, biện pháp kêu gọi, lôi kéo họ đứng về phía mình và tham gia tranh đấu, cho nên, trong suốt quá trình hoạt động của mình Việt Nam Quốc dân đảng không nhận được sự ủng hộ nhiệt tình, sự tham gia trực tiếp của đông đảo quần chúng. Hoạt động của Việt Nam Quốc dân đảng quá đơn độc giữa quần chúng.
Thứ hai, “Khác với các tổ chức HVNCMTN và TVCMĐ, VNQDĐ ít chú trọng tới công tác tuyên truyền và huấn luyện đảng viên”{35; 277}. Thực tiễn cách mạng đấu tranh luôn đòi hỏi mỗi đảng cách mạng phải không ngừng nâng cao giác ngộ nhiệm vụ chính trị cũng như đường lối, chủ trương của đảng tới từng đảng viên và tới đông đảo quần chúng. Đây là hạn chế rất cơ bản của Việt Nam Quốc dân đảng. “Đảng không có một cơ quan ngôn luận, hoặc tài liệu, văn kiện chính thức nào để giải thích tôn chỉ mục đích của đảng và để tuyên truyền huấn luyện đảng viên. Đây 20
cũng là một nguyên nhân khiến cho công tác phát triển đảng tiến hành tuỳ tiện, thiếu cơ sở và chuẩn mực, đồng thời gây nên tình trạng mơ hồ về lập trường chính trị của Đảng”.{35; 277}.
Những hạn chế về xác định lực lượng cách mạng, những thiếu sót trong công tác tuyên truyền, giáo dục, công tác tổ chức kết nạp đảng viên của Việt Nam Quốc dân đảng …là những hạn chế cơ bản và chính nó đã giải thích cho nguyên nhân thất bại về phía chủ quan của đảng này. Đây cũng là bài học lịch sử có giá trị cho những người cộng sản không chỉ ngay trong thời điểm đó, thậm chí cả hiện nay soi vào để xét mình.
Từ trong cao trào đấu tranh yêu nước sau Thế chiến thứ nhất đã dần dần xuất hiện một tổ chức tiến bộ và cách mạng- Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên- một tổ chức do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập vào năm 1925. Đây là tổ chức cách mạng mới kết hợp được chủ nghĩa Mác – Lê Nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Trăn trở với vận mệnh của dân tộc, chứng kiến những cuộc đấu tranh cứu nước ở dạng thử và sai của các bậc tiền bối. Ngày 5- 6- 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Anh đã trải qua nhiều nghề khác nhau để được đến nhiều miền khác nhau trên thế giới khảo nghiệm và học tập.
Cuối năm 1917, Anh từ nước Anh trở lại Pháp. Năm 1919, Anh gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó tại Pháp. Tháng 6 năm 1919, với tên gọi Nguyễn Ái Quốc – Anh đã gửi tới Hội nghị Véc xai Bản yêu sách của nhân dân Việt nam gồm 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Tháng 7 năm 1920, Người đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.Lê Nin đăng trên báo Nhân Đạo của Đảng Xã hội Pháp, Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Từ đây, Người hoàn toàn tin theo Lê Nin và Quốc tế thứ ba.
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua , Nguyễn Ái Quốc đã tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và gia nhập Quốc tế thứ ba. Từ chủ nghĩa yêu nước, Người đã đến với chủ nghĩa cộng sản, Người đa tìm thấy trong đó con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Sau một quá trình hoạt động, học tập, rèn luyện tại Pháp, Liên Xô, tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người đã tiếp xúc với những người Việt Nam yêu nước đang hoạt động tại đây, đặc biệt với tổ chức Tâm tâm xã. Người đã lựa chọn một số thanh niên tích cực trong tổ chức này và tháng 6 năm 1925 lập ra nhóm Cộng sản đoàn làm hạt nhân cho một tổ chức cách 21
mạng lớn hơn. Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Đây chưa phải là đảng cộng sản nhưng đường lối chính trị, chương trình hành động và điều lệ của Hội đã thể hiện rõ lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Thông qua tổ chức này Nguyễn Ái Quốc muốn xúc tiến thêm một bước việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập một đảng cộng sản ở Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên hướng hoạt động của mình vào một số nội dung chủ yếu như: trực tiếp đào tạo cán bộ cách mạng và gửi cốt cán ra nước ngoài học tập; xuất bản báo chí, sách vở, tài liệu cách mạng nhằm mục đích tuyên truyền đường lối chủ trương của Hội, cụ thể: ngay khi vừa thành lập Hội đã xuất bản tờ Thanh Niên làm công cụ tuyên truyền chủ yếu, năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc đã được tập hợp thành cuốn Đường cách mệnh, cuốn sách đã chỉ ra cho nhân dân con đường và cách thức tiến tới thắng lợi. Cuốn sách khẳng định Việt Nam trước hết phải làm “dân tộc cách mạng” sau đó mới làm “giai cấp cách mạng”. Cách mạng muốn giành thắng lợi phải coi “công nông là gốc” của cách mạng, còn học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn của cách mạng…; tiến hành xây dựng tổ chức cách mạng trong cả nước.
22
Hoạt động thành công nhất, gây được hiệu quả quan trọng nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chính là việc phát động và thực hiện thành công phong trào “vô sản hóa”. Xuất phát từ tình hình đại bộ phận hội viên Thanh niên đều có nguồn gốc từ các thành phần trí thức tiểu tư sản, từ cuối năm 1928 Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chủ trương thực hiện phong trào “vô sản hoá”, tích cực đưa các hội viên vào các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, nông thôn thông qua cùng ăn, cùng ở, cùng làm để tìm hiểu trình độ giác ngộ chính trị cũng như tâm tư nguyện vọng của quần chúng, ngôn ngữ, thói quen của quần chúng, từ đó rèn luyện, học tập, nâng cao lập trường giai cấp công nhân, đồng thời trực tiếp tuyên truyền giác ngộ lý luận cách mạng và tổ chức quần chúng đấu tranh, gây dựng thêm nhiều cơ sở trong quần chúng. Phong trào bắt đầu từ Bắc Kỳ, mạnh nhất ở các tỉnh Quảng Ninh, Bắc Ninh, Nam Định, Hà Nội…phong trào lan vào miền Nam. Từ phong trào của riêng Kỳ bộ Bắc Kỳ đã trở thành phong trào chung của toàn bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, không chỉ có vậy, phong trào còn lan sang cả Tân Việt cách mạng đảng và làm cho tổ chức này chịu ảnh hưởng đậm nét của tư tưởng cộng sản. Nhờ vậy, phong trào công nhân và phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân ngày càng phát triển rầm rộ, sôi nổi.
Sang những năm 1928, 1929, phong trào tham gia Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ngày càng mạnh mẽ, số hội viên chính thức và cảm tình đã lên đến con số hàng nghìn. Tính đến giữa năm 1929, trong cả nước đã có 1.800 hội viên, trong đó đông nhất là ở Bắc và Trung Kỳ. Thông qua việc tăng cường phát triển tổ chức, mở rộng địa bàn hoạt động, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã góp phần truyền bá tư tưởng Mác- Lê Nin, phổ biến chủ trương, đường lối của Hội trong nhân dân, tích cực thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam chuyển nhanh theo xu hướng cách mạng vô sản.
Từ thực tiễn cách mạng có những biến chuyển quan trọng, những người lãnh đạo trong Kỳ bộ Bắc kỳ đã nhận thức được đòi hỏi của thực tế cách mạng cần có một Đảng Cộng sản để thay thế cho Hội Việt Nam cách mạng thanh niên nhằm tiếp tục đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Những động thái để thành lập chính đảng Cộng sản của nhóm Thanh niên Bắc Kỳ đã không được phần còn lại trong Hội tán thành.
Ngày 17-6-1929 các đại biểu ưu tú của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã nhóm họp tại 312 Khâm Thiên (Hà Nội) tuyên bố thành lập Đông Dương cộng sản đảng. Thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, quyết định xuất bản báo Búa Liềm làm cơ quan ngôn luận. Bên cạnh công tác truyên truyền, Đảng còn tích cực xây dựng và phát triển cơ sở ở các địa phương trong cả nước. Nhờ vậy, sau một thời gian ngắn, đến tháng 8 năm 1929, nhiều thành, tỉnh bộ Đông Dương Cộng sản đảng đã lần lượt ra đời ở Hà Nội, Nam Định, Thái Bình, Bắc Ninh. Ngày 28 tháng 7 năm 1929, Đảng quyết định thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ do Nguyễn Đức Cảnh đứng đầu. Tại Nam Kỳ, Đông Dương Cộng Sản Đảng đã cử người đến các tỉnh để xây dựng và phát triển cơ sở đảng. Bởi vậy, khi đoàn đại biểu Kỳ bộ Nam Kỳ về tới Sài Gòn thì đã xuất hiện nhiều cơ sở của Đông Dương Cộng Sản Đảng.
Trước ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của Đông Dương Cộng Sản Đảng, Kỳ bộ Nam Kỳ do Châu Văn Liêm phụ trách đã quyết định giải tán Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và thành lập An Nam Cộng sản Đảng vào tháng 8 năm 1929. An Nam Cộng sản Đảng xuất bản báo “Đỏ” và tạp chí Bônsêvic ở Hương Cảng, rồi gửi về nước để tuyên truyền trong nhân dân.
23
Cùng với quá trình phân hoá trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên dẫn tới sự ra đời của hai đảng cộng sản, các đại biểu tiên tiến của Tân Việt Cách mạng
Đảng đã nhóm họp vào tháng 9 năm 1929 tại Sài Gòn và đã ra Tuyên đạt chính thức tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn .
Sự xuất hiện và tăng cường hoạt động của ba tổ chức cộng sản vào nửa sau năm 1929 đã khẳng định bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, nó chứng tỏ hệ tư tưởng cộng sản đã giành được ưu thế trong phong trào dân tộc. Sự kiện đó cũng chỉ ra rằng những điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn chín muồi trong phạm vi cả nước.
Mặc dù vậy, sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản và đều tự nhận mình là đảng cách mạng chân chính. Tuy nhiên, trong quá trình tuyên truyền, vận động quần chúng, các tổ chức cộng sản không tránh khỏi tranh giành ảnh hưởng, công kích lẫn nhau. Đông Dương Cộng sản Đảng cho An nam Cộng sản Đảng là: “hoạt đầu, giả cách mạng”; An nam Cộng sản Đảng lại cho Đông Dương Cộng sản Đảng chưa: “thật sự là cộng sản”; “chưa thật Bônsêvích”…Tình trạng tranh giành đó vừa gây tổn hại lớn cho bước phát triển của phong trào cách mạng, vừa gây nên tâm lý nghi ngờ, hoang mang trong quần chúng.
Ngày 27- 10- 1929, Quốc tế Cộng sản đã gửi cho những người cộng sản Đông Dương một bức thư, yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt sự chia rẽ, công kích lẫn nhau, đồng thời xúc tiến việc hợp nhất thành một chính đảng cộng sản duy nhất ở Đông Dương.
Đúng vào lúc khó khăn nhất, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện kịp thời. Ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc dưới danh nghĩa một thương nhân người Hoa đã từ Xiêm qua Trung Quốc và đến Hồng Công để chuẩn bị triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
24
Từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7 – 2 – 1930, tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng), Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị gồm có 6 đại biểu, hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh) và hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu) và hai đại biểu ngoài nước. Tại Hội nghị, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đó là Cương lĩnh và Điều lệ đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau Hội nghị hợp nhất đảng, ngày 24- 2- 1930, theo đề nghị của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp thuận kết nạp tổ chức cộng sản này vào Đảng. Như vậy phải tính đến ngày 24-2-1930, việc hợp nhất giữa ba tổ chức cộng sản thành một chính đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam mới được hoàn tất trên thực tế.
1.1.3. Những cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự hình thành đường lối vận động quần chúng của Đảng khi mới thành lập.
a. Bối cảnh lịch sử. * Tình hình thế giới. - Ngay khi cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất chưa kết thúc, ngay tại châu Âu đã diễn ra một phong trào đấu tranh giai cấp và cách mạng quyết liệt. Tháng 11 năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ và thắng lợi, nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới ra đời. Tiếp theo đó, phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động nhiều nước dâng lên mạnh mẽ. Được cổ vũ bởi thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, đảng cộng sản đã ra đời ở nhiều nước Tây Âu, và phong trào cộng sản ngày càng trở thành một xu hướng mạnh mẽ. Ngày 19 tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản, bộ tham mưu chiến đấu của phong trào cộng sản và công nhân toàn thế giới được thành lập ở Matxcơva. Phong trào khởi nghĩa phát triển mạnh mẽ ở châu Âu. Trong khoảng thời gian từ 1918 tới 1923, tại nhiều vùng thuộc các nước Hungary, Đức, Áo, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan v.v... giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và lập nên chính quyền cách mạng theo mô hình Xô viết ở nước Nga.
Lực lượng tư bản quốc tế đã cấu kết nhằm tiến hành đàn áp phong trào cách mạng trên diện rộng tại các nước tư bản đồng thời thực hiện cuộc bao vây, tấn công vào nước Nga Xô viết. Cho đến khoảng cuối năm 1923, tuy nước Nga Xô viết vẫn tồn tại và năm 1922 Liên bang Xô viết (Liên Xô) ra đời, nhưng phần lớn các Xô viết và các nhà nước cách mạng khác ở châu Âu đều bị các thế lực đế quốc phản động đánh bại. Từ năm 1924 đến 1929 thế giới tư bản bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển nhanh chóng.
25
- Nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi nền kinh tế, cùng với việc đàn áp phong trào cách mạng ở chính quốc, các nước đế quốc thực dân cũng ra sức khai thác và bóc lột các xứ thuộc địa. Đặc điểm chung của chính sách khai thác thuộc địa của các nước thực dân được áp dụng ở hầu hết các xứ thuộc địa tại châu
Phi và Đông Nam Á là: một mặt tăng cường đầu tư khai thác bóc lột, biến các thuộc địa từ những nơi cung cấp nguyên vật liệu và thị trường cung cấp hàng hoá trở thành thị trường xuất khẩu công nghiệp, thậm chí trở thành thị trường xuất khẩu tư bản, mặt khác về phương diện chính trị-xã hội vừa tăng cường đàn áp khốc liệt tất cả những phản kháng của dân chúng bản xứ, đồng thời ra sức thực hiện một cách hệ thống chính sách mị dân, nhằm lôi kéo sự hợp tác của tầng lớp "thượng lưu" (élite) bản địa mới hình thành. Kết quả là trong thời gian khoảng hai thập kỷ sau Thế chiến II, cơ cấu kinh tế - xã hội các xứ thuộc địa ở khu vực Đông Nam Á đã trải qua những biến chuyển hết sức sâu sắc, trong đó đặc biệt là sự ra đời và phát triển của ba giai cấp mới: giai cấp tư sản dân tộc, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp công nhân. Chính những biến chuyển kinh tế - xã hội sâu sắc này sẽ tạo ra cơ sở xã hội cho những bước phát triển nhảy vọt của phong trào chống thực dân dưới những hình thức mới, do những lực lượng xã hội mới lãnh đạo, và với cả những định hướng chính trị mới.
Châu Á đã bắt đầu thức tỉnh từ sau những ảnh hưởng của cách mạng Nga năm 1905, đặc biệt từ sau Cách mạng tháng Mười năm 1917 với sự hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ của phong trào dân tộc ngày càng đi vào quỹ đạo vô sản. Tháng 5 năm 1920, Đảng Cộng sản Indonesia và Đảng Cộng sản Ấn Độ được thành lập, là những đảng cộng sản đầu tiên ở châu Á. Tiếp đó, tháng 7 năm 1921 Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời, nhanh chóng giành được sự ủng hộ của hàng chục triệu nông dân, công nhân và trí thức. Trong các năm tiếp theo, ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga và của Quốc tế Cộng sản ngày càng tăng cường trong phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á. Bên cạnh Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập vào tháng 6 năm 1925, nhiều tổ chức cách mạng có khuynh hướng cộng sản cũng xuất hiện ở một số nước Đông Nam Á khác như Philippines, Miến Điện (Myanmar), Malaysia, chuẩn bị cho sự ra đời chính đảng vô sản ở một loạt nước thuộc khu vực này trong nửa đầu những năm 30 của thế kỷ trước.
26
Do ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga phong trào cách mạng ở Châu Á có sự phát triển mạnh mẽ. Tháng 12 năm 1926, Đảng Cộng sản Indonesia đã phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang quyết liệt ở Baten, Tây Sumatra. Ở Trung Quốc, phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo cũng phát triển mạnh mẽ ở cả khu vực thành thị và nông thôn. Dưới ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào dân tộc chủ nghĩa do Trung Hoa Quốc dân đảng
lãnh đạo cũng phát triển mạnh mẽ dưới ngọn cờ “chủ nghĩa Tam dân mới“ Liên minh Quốc - Cộng lần thứ nhất hình thành, nhận được sự ủng hộ của Liên Xô về nhiều phương diện. Lực lượng cách mạng ngày càng lớn mạnh, nhiều đoàn quân cách mạng đã hình thành đông tới hàng vạn người, tiến hành nhiều cuộc tấn công vào các tập đoàn quân phiệt, tạo đà cho phong trào khởi nghĩa của nông dân nhiều tỉnh bùng nổ ở Hoa Bắc và Hoa Nam. Tuy nhiên, sau khi Tôn Trung Sơn qua đời (1925), Tưởng Giới Thạch, một phần tử quân phiệt có xu hướng thiên hữu, trở thành thủ lĩnh của Trung Hoa Quốc dân đảng. Liên minh Quốc- Cộng tại Trung Quốc ngày càng suy yếu, và tháng 7 năm 1927 Tưởng Giới Thạch phát động cuộc phản biến, tấn công tàn sát nhiều cơ sở của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Thượng Hải, Thiên Tân và nhiều tỉnh khác. Trước tình hình đó, cán bộ cộng sản đã lãnh đạo quần chúng công nông khởi nghĩa ở nhiều nơi, nhất là ở Hồ Bắc, Hà Nam, Vũ Hán, Quảng Châu vv, lập nên chính quyền cách mạng theo mô hình Xô viết. Sự kiện Công xã Quảng Châu có tiếng vang rất lớn, đặc biệt, sự kiện này có ảnh hưởng sâu sắc tới Việt Nam.
Quốc tế thứ ba (1919) có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của phong trào cách mạng ở các nước phương Đông. Quốc tế Cộng sản thường xuyên chỉ đạo các đảng cộng sản ở các nước châu Âu, nhất là các nước có thuộc địa ở phương Đông, tăng cường kết hợp cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân các nước chính quốc, phối hợp với phong trào đấu tranh chống thực dân ở các nước thuộc địa. Tại Matxcơva, Quốc tế Cộng sản lập ra nhiều uỷ ban khác nhau có trách nhiệm theo dõi, giúp đỡ về mọi mặt, kể cả việc góp ý vào việc xây dựng đường lối chiến lược và sách lược, tổ chức và tranh đấu của các đảng cộng sản ở các thuộc địa. Thông qua những phương thức như trên, Quốc tế Cộng sản thực sự có ảnh hưởng và đóng góp to lớn vào sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các xứ thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á.
Trong khoảng thời gian cuối những năm 1927-1930, trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ phong trào cách mạng ở châu Á, sự tan vỡ của liên minh Quốc - Cộng ở Trung Quốc, Đại hội lần thứ 6 của Quốc tế Cộng sản diễn ra ở Matxcơva vào mùa hè năm 1928 là một sự kiện quan trọng. Dựa vào những dấu hiệu bất ổn và suy thoái của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới, Đại hội đã dự đoán trước một cao trào cách mạng mạnh mẽ có thể và chắc chắn sẽ bùng nổ trên toàn thế giới, nhất là ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Vì vậy, Quốc tế Cộng sản chỉ đạo các đảng cộng sản ở các thuộc địa và nước phụ thuộc chấm dứt ngay mọi liên hệ, hợp 27
tác với các đảng phái quốc gia, tư sản, đồng thời phải tằng cường "bôn-sơ-vích hoá”, tức là phải tăng cường tính chất công nhân của đảng, tẩy trừ triệt để các ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và tiểu tư sản trong đảng, thông qua đó tăng cường tính cách mạng, tính tiên phong của đảng, sẵn sàng lãnh đạo cao trào cách mạng của quần chúng.
Cuối tháng 10 năm 1929 cuộc Đại khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ tại Mỹ, nhanh chóng làm sụp đổ toàn bộ hệ thống tài chính - ngân hàng - tiền tệ của thế giới tư bản. Điều này đúng với những dự đoán của Quốc tế Cộng sản, ngay lập tức các đảng cộng sản ở các nước nhận được sự chỉ đạo và cổ vũ sát sao hơn từ Quốc tế Cộng sản về việc chuẩn bị cho một cao trào cách mạng mới sắp diễn ra.
Như vậy, bắt đầu từ Cách mạng tháng Mười đến bước phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, đặc biệt là phong trào khởi nghĩa, lập Xô viết ở Trung Quốc; chiến lược cách mạng mới của Quốc tế Cộng sản và sự bùng nổ của cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới chính là những yếu tố quốc tế tác động mạnh mẽ tới sự bùng nổ của cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh ở Việt Nam.
* Tình hình trong nước.
- Kinh tế Việt Nam vốn đã bị phụ thuộc nặng nề vào kinh tế nước Pháp, nay phải gánh chịu những hậu quả khủng hoảng ở “chính quốc” lại càng suy sụp hơn. chính quyền thực dân Đông Dương đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính. Chúng rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp ( năm 1930 rút 50 triệu phơrăng, 1931 rút hơn 100 triệu ); dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ phá sản. Chúng tăng các thứ thuế đã có và đặt thêm nhiều thứ thuế mới v.v...{35; 297}. Có thể khẳng định Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng là một trong những điển hình về chính sách “trút gánh nặng ” của các nước tư bản cho thuộc địa, điều này đã gây nên một hậu quả nặng nề :
28
+ Nông nghiệp: lúa gạo – một sản phẩm chủ yếu nhất của Việt Nam trong thời kỳ này bị sụt giá nghiêm trọng, nếu như năm 1929 giá 1 tạ gạo là 11 đồng thì sang năm 1933 giá của nó chỉ còn khoảng 3 đồng, cho nên tình trạng nông dân bỏ ruộng hoang rất nhiều, năm 1933 diện tích bị bỏ hoang lên tới 370. 000 ha. + Công nghiệp khai khoáng cũng bị đình đốn, do vậy xuất khẩu đi các nước giảm mạnh đặc biệt là than.
+ Tài chính: đồng bạc Đông Dương bị thực dân Pháp ép phá giá, ngân sách Đông Dương phải chi cho bộ máy thống trị và góp vào quỹ nước Pháp... + Xã hội: 1/3 công nhân bị thất nghiệp (Bắc Kỳ chiếm khoảng 25.000 công nhân, trong đó riêng ngành mỏ chiếm 12.000), cũng như ở “chính quốc” Pháp, số công nhân còn giữ được việc làm thì tiền lương bị cắt giảm từ 30 đến 50%. Đời sống của nông dân càng thậm tệ hơn nữa, họ phải chịu sưu cao, thuế nặng và nạn cho vay lãi nặng. Một suất sưu năm 1929 bằng khoảng 50 kg gạo, sang năm 1932 là 100kg, năm 1933 là 300kg. Nông dân ở Bắc bộ có mức thu nhập khoảng 12 xu cho 6 người trong một ngày, hậu quả tất yếu là tình trạng bán vợ, đợ con lại diễn ra như trong thời nước ta bị phong kiến Phương bắc đô hộ nghìn năm. Đời sống các giai tầng khác cũng bị điêu đứng, một số địa chủ nhỏ cũng bị sa sút, nhiều tư sản dân tộc bị phá sản, tình trạng sập tiệm, vỡ nợ cũng phổ biến ở nhiều tiểu thương, đời sống viên chức, trí thức vô cùng bấp bênh... + Chính trị: Thực dân Pháp tiến hành liên tục các vụ bắt bớ, đàn áp nhân dân đặc biệt sau sự kiện khởi nghĩa Yên Bái (2/ 1930) của Việt Nam Quốc dân Đảng bất thành, rất nhiều chiến sỹ cách mạng và quần chúng yêu nước đã bị Hội đồng đề hình thường trực của thực dân Pháp đưa lên máy chém. “Biết bao nguy hiểm, biết bao bất hạnh do nạn khủng bố, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản, thói bạo ngược của bọn thực dân, bọn quan lại, bọn cường hào các làng xã gây ra: quần chúng không thể chịu đựng lâu hơn những bất hạnh ấy nữa, không thể đứng nhìn với một con mắt thờ ơ cảnh tượng đau buồn ấy, họ đứng lên chống áp bức...”{16;60}. Lòng căm thù của nhân dân Việt Nam đối với bọn đế quốc, thực dân ngày một sâu sắc thêm, trong khi đó sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Trung Quốc, Ấn Độ, của công cuộc phát triển CNXH ở Liên Xô đã có ảnh hưởng tích cực đối với cách mạng Việt Nam. Cho đến thời điểm trước khi diễn ra các cuộc vận động quần chúng cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, lịch sử dân tộc đã ghi nhận sự xuất hiện, hoạt động, từng trải, thử nghiệm và những kết quả đạt được của những đường lối cứu nước trên những lập trường giai cấp khác nhau về việc vận động cách mạng để giải phóng dân tộc nói chung và vận động, thu hút quần chúng nói riêng trước những đòi hỏi, thách thức của lịch sử dân tộc từ khi nước nhà mất tự do độc lập vào tay thực dân Pháp. Đó là con đường giải phóng dân tộc trên lập trường phong kiến dưới lá cờ Cần Vương của những văn thân , sĩ phu yêu nước điển hình là các phong trào do các lãnh tụ phong kiến như Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân... hay dưới lá cờ yêu nước 29
vì độc lập dân tộc của các lãnh tụ phong trào nông dân tự phát, tiêu biểu nhất là phong trào do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Đó là con đường giải phóng dân tộc trên lập trường dân chủ tư sản dưới sự tham gia lãnh đạo của nhiều giai tầng trong xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến mà tiêu biểu nhất là tầng lớp sỹ phu yêu nước (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền), là tiểu tư sản (Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thái Học...). Sự thất bại của những con đường cứu nước đó không những để lại cho những những người cộng sản mảnh đất hay không gian cần thiết mà còn cả những bài học xương máu trong quá trình vận động quần chúng cách mạng của mình, những bài học đó- đối với những người cộng sản- vẫn còn nguyên những giá trị, kinh nghiệm quý báu. Đồng thời, đó còn là trách nhiệm của lịch sử phó thác, trông chờ vào những con người mới, với những đường lối cứu nước mới. b. Các vấn đề đặt ra đối với công tác vận động quần chúng của Đảng. Trước những bối cảnh lịch sử trong nước và quốc tế như vậy, có thể nói rằng trách nhiệm của những người cộng sản, của giai cấp công nhân là rất lớn, những hoạt động của họ với những kết quả đạt được không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích giai cấp mà còn tác động mạnh mẽ đến quyền lợi dân tộc. Cho nên, việc xác định mục tiêu, phương hướng, cách thức cũng như việc phân tích, mổ xẻ các tính chất cac mâu thuẫn xã hội, xác định nhiệm vụ cách mạng, nhận diện lực lượng cách mạng một cách đúng đắn, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn cho công tác vận động quần chúng lúc này là vô cùng cần thiết. Cụ thể:
Thứ nhất, cần thấy rõ tính chất xã hội Việt Nam lúc này là không còn thuần nhất như trước mà đã trở thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, “mâu thuẫn xã hội chủ yếu nhất là giữa đế quốc Pháp với dân tộc Việt Nam, nhưng mâu thuẫn sâu sắc vốn có giữa nông dân với phong kiến vẫn tồn tại.”{4; 9], từ đó để thấy được nhiệm vụ cách mạng cần giải quyết đó là: nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ dân chủ, trong đó nhiệm vụ dân tộc cần phải đặt lên hàng đầu. Thứ hai, cần nhận diện, phân tích một cách khách quan, đúng đắn thực trạng từng giai cấp cụ thể trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến cùng với những lợi ích chủ yếu của nó trong mối tương quan với lợi ích dân tộc mà xác định thái độ chính trị và khả năng cách mạng để có biện pháp, cách thức cũng như đường lối tập hợp dân tộc một cách hợp lý, hiệu quả nhất. Thứ ba, phải đặc biệt chú ý đến giai cấp nông dân- một lực lượng cơ bản của dân tộc, bạn đồng minh tất yếu của giai cấp công nhân, đây là điểm hạn chế mà các trào lưu đi trước chưa làm được, “muốn tập hợp dân tộc chống lại bọn cướp nước, giải quyết mâu thuẫn chủ yếu nhất của xã hội là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam 30
với bọn đế quốc Pháp thì không thể không đồng thời đánh vào chủ nghĩa phong kiến, không thể không chú ý giải quyết những quyền lợi bức thiết của quảng đại quần chúng nông dân.”{4;16}. Tuy nhiên, giai cấp công nhân trong quá trình vận động của mình không thể bỏ qua các lực lượng dân tộc khác cũng vô cùng cần thiết trong tiến trình giải quyết các nhiệm vụ cách mạng, đó là tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung tiểu địa chủ có tinh thần yêu nước, có ý thức liên minh với công nhân và nông dân. Thứ tư, giai cấp công nhân cần có một tổ chức tiên phong đủ mạnh, một chính Đảng tiên tiến với một Cương lĩnh cách mạng vạch ra một đường lối chiến lược đúng đắn, khách quan và khoa học về chỉ đạo cách mạng nói chung và vận động quần chúng nói riêng. Đường lối chiến lược đó phải được xây dựng trên lập trường cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lê nin nhưng phải phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong công tác vận động quần chúng cũng như thực hiện việc xây dựng lực lượng cách mạng hay việc tiến hành nhiệm vụ đại đoàn kết dân tộc, tập hợp dân tộc trong một Mặt trận dân tộc thống nhất thì đường lối đúng đắn trong Cương lĩnh sẽ không những là chỗ dựa vững chắc, là cơ sở tồn tại mà còn là kim chỉ nam cho công tác vận động quần chúng nói riêng và các hoạt động trên nói chung trong mọi thời kỳ cách mạng.
1. 2. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1930- 1931.
1. 2. 1. Đường lối vận động quần chúng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
31
Từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7 - 2 - 1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc - đại diện cho Quốc tế Cộng sản - với khả năng thuyết phục cảm hoá lòng người với uy tín lớn của Người, trên tinh thần xây dựng, đấu tranh phê, tự phê bình cao độ và thảo luận chân thành mọi bất đồng khó giải quyết lâu nay đã được hoà giải và thống nhất. Hội nghị hợp nhất đã đạt được sự nhất trí cao với 5 nội dung cơ bản do đồng chí Nguyễn Ái Quốc nêu ra, đây chính là cơ sở, là nguyên tắc để thống nhất ba tổ chức cộng sản: “ 1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương; 2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam; 3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng; 4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước; 5. Cử một ban Trung ương lâm thời gồm 9 người, trong đó có 2 đại biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương” {16; 1}.
Trong Chính cương vắn tắt của Đảng đã vạch rõ chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản... đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập, thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo.{16;2,3}, như vậy ngay từ đầu Cương lĩnh đã vạch ra con đường cách mạng xuyên suốt qua 2 giai đoạn tất yếu gắn liền với 2 nhiệm vụ cách mạng chủ yếu là đánh đổ đế quốc giành độc lập, đánh gục phong kiến mang lại ruộng đất cho dân cày, với các mục tiêu đó đã hướng vào quyền lợi cụ thể của không chỉ giai cấp đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam lúc đó (nông dân) mà còn đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo các giai tầng yêu nước khác thực sự có tinh thần dân tộc. Phương hướng này cũng đồng thời là chìa khoá cho việc giải quyết các mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam, đây cũng là điểm hạn chế của các trào lưu trước chưa nhận thức được. Trong nội dung về công tác quần chúng, Cương lĩnh chính trị đã thể hiện được tầm nhìn tiến bộ khách quan, khoa học của mình, điều này thể hiện tính sáng tạo những luận điểm về vận động quần chúng trong đấu tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lê Nin vào hoàn cảch lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, đồng thời rất phù hợp với truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt. Trong Sách lược vắn tắt, sau khi khẳng định Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng thì Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra rằng Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo để làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn bọn đại địa chủ và phong kiến{16; 4}. Luận điểm này được khẳng định dựa trên hoàn cảnh cụ thể của một nước nông nghiệp lạc hậu, với tính chất xã hội đậm nét là thuộc địa nửa phong kiến, với thực trạng của hơn 90% dân số là nông dân đang ngày càng bị đế quốc phong kiến dồn vào con đường bần cùng hoá. Cho nên, giai cấp vô sản và chính đảng của mình tất yếu phải dựa vào dân cày nghèo để thực hiện cách mạng. Đồng thời “Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia”{16; 4}. Nhiệm vụ của Đảng phải lôi kéo, giải phóng các tổ chức của cả công nhân và nông dân thoát khỏi sự dụ dỗ, lừa gạt cũng như sự hạn chế và áp bức không phải của riêng đế quốc mà Cương lĩnh đầu tiên nhấn mạnh là “tư bản quốc gia”. Đối với các giai tầng khác trong xã hội, quan điểm của Đảng rất rõ ràng: Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,...để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm 32
cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ.{16; 4}. Chỉ đạo này chẳng những phân hoá được kẻ thù, lôi kéo và tận dụng hết những lực lượng cách mạng dân tộc mà còn là một mẫu mực về lý luận tập hợp đông đảo quần chúng tham gia liên minh công nông. Đảng cũng lưu ý về quá trình đoàn kết với các giai cấp khác trên cơ sở một nguyên tắc có tính chất bất biến “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thoả hiệp ”{16; 4} và “không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác”, sự cảnh giác cần thiết mang tính nguyên tắc này là bài học quý báu đã được Nguyễn Ái Quốc tiếp thu, thấm nhuần trong quá trình học tập nghiên cứu lý luận cách mạng chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho việc thành lập Đảng. Về mặt tổ chức quần chúng, ngay từ ngày đầu thành lập, trong Báo cáo tóm tắt Hội nghị đề ngày 7- 2- 1930 Đảng có nhấn mạnh vấn đề tổ chức ra Mặt trận dân tộc thống nhất nhằm đưa đông đảo quần chúng vào cuộc đấu tranh cách mạng: Đưa vào công hội và nông hội những người không thể kết nạp vào Đảng... Đưa những người ở các tầng lớp khác, trí thức, tiểu tư sản, v.v vào tổ chức phản đế...Đối với Thanh Niên: phái đồng chí vào Nam kỳ để lãnh đạo Thanh Niên và đưa họ vào tổ chức phản đế... Đối với Tân Việt: không nên giải tán Tân Việt, đưa họ vào tổ chức phản đế, kết nạp những người ưu tú vào Đảng...đối với Quốc Dân đảng: phải tranh thủ lực lượng của họ, tổ chức các đảng viên của họ vào Hội phản đế. Đảng chỉ định một đồng chí chịu trách nhiệm họp đại biểu tất cả các đảng phái như Tân Việt, Thanh Niên, Quốc dân Đảng, Đảng Nguyễn An Ninh, v.v. để thành lập mặt trận phản đế mà về sau cá nhân hoặc tổ chức đều có thể gia nhập.{16; 12, 13.}. Đây là quan điểm chỉ đạo đầu tiên của Đảng về vấn đề xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế, nhìn tổng quát chỉ đạo này thể hiện ý thức đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nông và “bầu bạn cách mệnh” tức là các giai tầng khác có tinh thần yêu nước, có ý thức dân tộc. Có thể khẳng định rằng, những chủ trương trên được thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đã phát huy được giá trị tinh tuý những lý luận công tác quần chúng trong tác phẩm Đường kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc: “Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công nông là người chủ cách mệnh.
33
1. Là vì công nông bị áp bức nặng hơn, 2. Là vì công nông đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết, 3. Là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy, nên công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị
tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi.”{49;187 }.
1.2.2 Qúa trình lãnh đạo và tổ chức quần chúng đấu tranh giai đoạn cao trào cách mạng 1930- 1931.
Vừa mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đó tổ chức được nhiều cơ sở sõu rộng trong các nhà máy, xí nghiệp hầm mỏ và nhiều vùng nông thôn. Đúng như trong Cương lĩnh của Đảng đó khẳng định, Đảng đó tổ chức ra nhiều tổ chức như công hội, nông hội, đoàn thanh niên cộng sản, phụ nữ hội, cứu tế đỏ… làm nũng cốt cho phong trào đấu tranh của quần chúng.
Với những chỉ đạo kịp thời, thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đó thổi vào phong trào quần chỳng đang sục sôi một luồng sinh khí mới, quần chúng cách mạng cả nước mà đặc biệt là công- nông đó thấy được hướng đi mới cho dân tộc, giai cấp, đáp ứng thỏa đáng lợi ích của toàn thể dân tộc cũng như bộ phận giai cấp … phong trào cách mạng của quần chúng ngày một dâng cao như một ngọn lửa bùng cháy lan nhanh về phía kẻ thự.
Mở đầu cho phong trào cách mạng sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chính là các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền cao su Phú Riềng tháng 2 năm 1930. Cuộc bói cụng do Tỉnh ủy và Đảng bộ nhà máy sợi Nam Định tổ chức kéo dài 20 ngày ( 25/3 đến 16/4)... Công nhân đó đưa ra yêu sách: tăng lương, giảm giờ làm, bỏ các quy định vô lý, không được khủng bố công nhân bói cụng... Cuộc đấu tranh này của sợi Nam Định đó được công nhân của các xưởng khác, quần chúng nông dân ở nhiều nơi trong tỉnh, công nhân ở Hà Nội, Hải Dương, Hải Phũng viết thư, quyên tiền, hưởng ứng đấu tranh ủng hộ...Ngay cả Thực dân Pháp cũng phải lên tiếng thừa nhận tầm ảnh hưởng sâu sắc của cuộc bói cụng này đến toàn thể công nhân Việt Nam lúc bấy giờ.
Cuộc đấu tranh của 400 công nhân nhà máy Diêm Bến Thủy (Vinh) ngày 19/4/1930, đũi tăng lương, giảm giờ làm cải thiện điều kiện làm việc. Từ nhà máy diêm, cuộc đấu tranh đó lan rộng ra toàn khu cụng nghiệp Bến Thủy. Đến ngày 25/4/1930 hầu hết công nhân các nhà máy ở khu công nghiệp này đều đưa ra yêu sách lên giới chủ. Đây chính là điểm sáng của phong trào công nhân Trung Kỳ hũa vào phong trào cụng nhõn cả nước.
34
Từ 3 phong trào trên chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đó bắt đầu một thời kỳ đấu tranh mới với những sắc thái mới, mạnh mẽ, quyết liệt. Chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đó khẳng định được vai t của nh, vừa làm nũng cốt, vừa
lónh đạo chung phong trào đấu tranh trên toàn quốc.
Cỏc tầng lớp cú tinh thần dân tộc khác cũng không đứng ngoài phong trào công nông. Họ đó bị cuốn theo, đồng thời cũng tự giác ngộ được phần nào những chủ trương, đường lối của Đảng CSVN, họ thấy được cái tâm và cái tầm ảnh hưởng trong những chính sách đúng đắn mà Đảng đó đề ra. Ở nhiều nơi đó xảy ra xung đột giữa quần chúng với phong kiến, thực dân nhằm chống khủng bố và bắt bớ những người tham gia đấu tranh. Từ các cuộc đấu tranh đơn thuần vỡ mục tiờu kinh tế, nay đó nhanh chúng chuyển thành những cuộc đấu tranh có mục tiêu chính trị. Nhận thức được phong trào của quần chúng cách mạng có những chuyển biến mạnh mẽ, uy tín và vai trũ của Đảng, của những người cộng sản đó thức tỉnh được đông đảo quần chúng nhân dân, Đảng chính thức phát động cuộc biểu dương lực lượng rầm rộ nhân ngày Quốc tế Lao động 1/5/1930. Với những hoạt động cụ thể như tiếp tục đưa cán bộ của mỡnh vào cỏc xớ nghiệp, về cỏc vựng nụng thụn xõy dựng chi bộ đảng, phát triển và thành lập thêm nhiều tổ chức quần chúng. Do nhận thức đúng đắn về liên minh công nông, Đảng nhấn mạnh việc xõy dựng cơ sở cách mạng ở cả thành thị và nông thôn, bảo đảm sự phối hợp đấu tranh giữa công nhân và nông dân, Đảng rất chú trọng việc thu phục cho được, cho chắc giai cấp nông dân đi theo, làm theo đường lối của Đảng. “Để chuẩn bị cho ngày kỷ niệm, từ hạ tuần tháng 4, những biểu ngữ đũi tăng lương, bớt giờ làm, bỏ đánh đập cho công nhân, hoón thuế cho nụng dõn, kốm theo cả khẩu hiệu “vụ sản giai cấp thế giới liờn hiệp lại!” đó được rải khắp mọi nơi trong cả nước như: Hà Nội, Hải Phũng, Nam Định, Thái Bỡnh, Vinh, Huế, Bỡnh Định, Quy Nhơn, Đà Nẵng, Hội An, Bà Rịa, Biên Hũa, Cao Lónh, Nhà Bố, Dĩ An,...vv...”{41; 42}.
Cuộc đấu tranh ngày 1/5/1930 là một bước ngoặt quan trọng của cao trào cách mạng 1930- 1931. Trên cả ba miền đất nước, truyền đơn, cờ Đảng, mít tinh, biểu tỡnh, tuõ n hành biểu dương lực lượng diễn ra mạnh mẽ. Các cuộc đấu tranh không chỉ dừng lại ở việc đũi quyền lợi cho cụng nhõn, nụng dõn, cỏc tầng lớp bị ỏp bức mà cũn tiến đến, đề cập đến việc thể hiện tỡnh đoàn kết cách mạng với nhân dân lao động trờn thế giới.
Tại miền Nam, điển hỡnh là cỏc cuộc bói cụng của cụng nhõn nhà mỏy điện Chợ Quán (Sài Gũn), nhà mỏy xe lửa Dĩ An, 10.000 nụng dõn Đức Hũa (Chợ Lớn), hơn 1500 nông dân huyện Cao Lónh (Sa Đéc), 1000 nông dân Chợ Mới (Long Xuyên)...Kết quả: các cuộc đấu tranh này đều giành thắng lợi, giai cấp thống trị buộc phải chấp nhận các yêu sách của quần chúng nhân dân.
Tại miền Bắc, nụng dõn Thỏi Bỡnh, đặc biệt là hai huyện Duyên Hà và Tiên Hưng, quần chúng đó biểu tỡnh tiến vào thị xó đũi bổ sưu, giảm thuế, cứu đói cho 35
dân, trả tự do cho những người bị bắt...kẻ thù sợ hói, hốn hạ cho nổ sỳng đàn áp, bắn vào đoàn biểu tỡnh, bắt hơn 100 người.
Ở miền Trung, phong trào diễn ra đặc biệt quyết liệt nhất là ở các huyện Thanh Chương (Nghệ An), Khu Công nghiệp Vinh- Bến Thủy. Xứ ủy Trung Kỳ và Tỉnh ủy Nghệ An đó chỉ đạo công nông đáu tranh đũi thực hiện cỏc khẩu hiệu: Tăng lương, bớt giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, phản đối chính sách khủng bố của đế quốc Pháp và tay sai, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ những người bị Thực dân Pháp đàn áp trong khởi nghĩa Yên Bái, sợi Nam Định. Thực dân Pháp bất lực, hèn hạ bắn vào quần chúng làm chết 7 người, bị thương 18 người, 98 người bị bắt. Được sự chỉ đạo của các chi bộ đảng, quần chúng cách mạng tiếp tục đấu tranh dưới nhiều hỡnh thức khác nhau: Truy điệu các chiến sỹ cách mạng bị hy sinh, tố cáo tội ác của thực dân và tay sai, đũi cỏc quyền dõn sinh, dõn chủ,...cỏc cuộc mớt tinh biểu tỡnh tiếp tục dõng cao trong cả nước: riêng tháng 5 có tới 54 cuộc đấu tranh: 21 cuộc ở miền Bắc, 21 cuộc ở miền Trung, 12 cuộc ở miền Nam, (trong đó 16 cuộc là của công nhân, 34 cuộc của nông dân, 4 cuộc của học sinh và dân nghèo thành thị.
Tính đến hết tháng 5/1930 với sự lónh đạo của Đảng, chủ trương hỡnh thành một liờn minh tranh đấu của công nhân và nông dân chống đế quốc phong kiến trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt bước đầu đó được định hỡnh. Cụ thể, phong trào cụng nhõn – với tớnh chất tiờn phong và lónh đạo đó thực sự thu hỳt được sự tham gia của nông dân và một số lực lượng xó hội khỏc tạo thành một làn sóng đấu tranh dồn dập của quần chúng ...Kết quả này đó buộc Thực dõn Phỏp phải cú những nhượng bộ khá rừ ràng để xoa dịu tỡnh hỡnh: trả tự do cho một số cỏn bộ và quần chỳng, cải thiện một ớt những điều kiện làm việc cho công nhân, hoón nợ thuế cho nụng dõn...
Tháng 6 năm 1930. Với những thành công đó đạt được là rất lớn nếu so sánh với các giai đoạn trước, tuy vậy Đảng ta vẫn cho rằng còn có thể đạt được nhiều thành công hơn nữa. Đảng đó định hướng cho cán bộ và quần chúng hiểu rằng không nên mất cảnh giác. Trong lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính và tất cả những người lao động khác (tháng 6 năm 1930), Đảng nhấn mạnh: không được sao nhóng đấu tranh, nhân dân cả nước cần đứng lên ủng hộ công nông Nghệ An.
Ngoài phong trào ở Nghệ Tĩnh, trong tháng 6 và tháng 7 Nam Kỳ chính là nơi có phong trào quân chúng phát triển mạnh mẽ nhất. Cụ thể là các cuộc đấu tranh của quần chúng nông dân ở Vĩnh Long quần chúng đó biểu tỡnh lờn tận Tỉnh lỵ (2/6); Bà Hom (Chợ Lớn) ngày 3/6; Húc Mụn (4/6) Tân Lợi (Tân An) ngày 4/6; Đức Hũa (Chợ Lớn) 4/6; Bến Lức (Chợ Lớn), Gũ Đen (Chợ Lớn)...Phong trào lan tới Nha Trang. Ngày 6/7, dân biểu tỡnh kộo tới Ninh Hũa; Ngày 16/7, kộo tới Tõn 36
Định đũi giảm thuế.
Từ trước ngày 1 tháng 8 năm 1930 truyền đơn hô hào tranh đấu của Đảng đã xuất hiện ở nhiều tỉnh và thành phố như Hà Nội, Thái Bình, Hà Nam, Vinh, Huế, Sài Gòn, Chợ Lớn v.v... Tới ngày 1 tháng 8, nhiều cuộc biểu tình lớn nổ ra ở nhiều nơi thuộc xứ Nam Kỳ như Hóc Môn, Bà Quẹo (Gia Định), Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên v.v... Ở Bắc Kỳ, cờ đỏ búa liềm cũng xuất hiện ở Hà Nội và Nam Định, tuy không nổ ra cuộc đấu tranh lớn nào của quần chúng.
Ở Nghệ Tĩnh, Xứ uỷ Trung Kỳ và các tỉnh đảng bộ đã ra sức chỉ đạo các cơ sở đảng, cơ sở công hội và nông hội địa phương ra sức vận động quần chúng, chuẩn bị cho một đợt đấu tranh mới, quyết liệt hơn. Ngày 30 tháng 8 năm 1930, dưới sự lãnh đạo của cán bộ cơ sở đảng, hơn 3.000 nông dân Nam Đàn đã biểu tình, tổ chức mít tinh ở nhiều điểm rồi kéo về thị trấn Sa Nam đập phá đại lý rượu Fontaine, tràn vào huyện đường đốt hết hồ sơ, giấy tờ, phá nhà giam, giải phóng tù nhân.
Ngày 1 tháng 9 năm 1930 một cuộc biểu tình khổng lồ của nông dân đã nổ ra ở huyện Thanh Chương với khoảng 20.000 người tham gia. Để ngăn chặn đoàn biểu tình, tri huyện Thanh Chương Phan Sỹ Bàng ra lệnh cho lính bắn vào dân chúng, làm một người chết. Ngay lập tức quần chúng xông lên như nước vỡ bờ, viên tri huyện và binh lính vội vàng bỏ chạy. Quần chúng xông vào chiếm huyện đường, đốt phá hoàn toàn công đường và tư thất của Phan Sỹ Bàng.
Sau các cuộc biểu tình ngày 30 tháng 8 và ngày 1 tháng 9, chính quyền thực dân ở hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương đã tan rã hoặc tê liệt hoàn toàn. Phối hợp với phong trào nông dân, ngày 1 tháng 9 năm 1930 Tổng Công hội đỏ thành phố Vinh phát động một cuộc tổng đình công với sự tham gia của hàng nghìn công nhân một số nhà máy. Truyền đơn của Xứ uỷ Trung Kỳ và của tỉnh đảng bộ Nghệ An xuất hiện khắp nơi kêu gọi nhân dân quyết đứng lên theo gương nông dân Thanh Chương, Nam Đàn. Như một phản ứng dây chuyền, sức đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng đã làm tan rã hoàn toàn chính quyền cơ sở của thực dân - phong kiến ở hầu hết các huyện ven hai bờ sông Cả (Anh Sơn, Đô Lương, Nghi Lộc, Hưng Nguyên), lan đến tận vùng núi cao (Môn Sơn, Lục Dạ thuộc huyện Con Cuông).
37
Ngày 8 tháng 9 năm 1930, hơn 7.000 nông dân huyện Anh Sơn biểu tình kéo vào huyện đường đưa yêu sách. Thực dân Pháp đã cho máy bay ném bom hai lần vào đoàn biểu tình, làm 9 người chết và nhiều người bị thương. Binh lính đồn Đô
Lương cũng được lệnh bắn vào đoàn biểu tình làm một số người chết. Đoàn biểu tình phải giải tán, nhưng tối ngày 10 tháng 9, sau khi làm lễ truy điệu những người bị giết hại, dân chúng đã toả đi trừng trị chánh tổng và hào lý địa phương. Chính quyền thực dân ở làng xã khắp huyện Anh Sơn bị tê liệt, tan rã từng mảng.
Tại huyện Hưng Nguyên, ngày 12 tháng 9 năm 1930 hơn 8.000 nông dân tập trung dưới cờ Đảng, tự vũ trang bằng gậy gộc, câu liêm, đòn gánh, mã tấu nổi trống kéo xuống chiếm ga tàu hoả Yên Xuân, chặn các đoàn tàu, mít-tính diễn thuyết rồi kéo về huyện lỵ. Khi đoàn biểu tình đi tới Thái Lão, thực dân Pháp cho hai máy bay tới ném bom và xả súng liên thanh vào dân chúng, đồng thời lệnh cho binh lính xông ra dùng vũ khí giải tán cuộc biểu tình. Đến chiều, khi nhân dân đến chôn cất những người chết, thực dân Pháp lại cho máy bay ném bom một lần nữa, giết hại thêm nhiều người, nâng tổng số người bị giết hại trong ngày 12 tháng 9 ở Hưng Nguyên lên tới 217 người. 125 người khác bị thương, nhiều người khác bị bắt giam, 277 nóc nhà bị đốt trụi, hai làng Lộc Châu và Lộc Hải bị triệt hạ hoàn toàn. Đây là cuộc biểu tình quần chúng bị thực dân Pháp đàn áp dã man nhất trong toàn bộ lịch sử thực dân của chúng ở châu Á và châu Phi.
Thực dân Pháp càng đàn áp dã man, phong trào đấu tranh của nhân dân Nghệ An càng dâng lên mạnh mẽ. Trong suốt tháng 9 và tháng 10 năm 1930 toàn tỉnh ngày nào cũng rung chuyển bởi hàng chục cuộc míttinh và biểu tình quần chúng. Cũng từ đầu tháng 9 phong trào biểu tình quần chúng lan mạnh sang Hà Tĩnh. Ngày 7 tháng 9, hơn 1.000 nông dân Can Lộc mang theo gậy gộc, giáo mác, trống, tù và, mõ biểu tình và tấn công chiếm huyện đường, đốt sạch giấy tờ, giải thoát tù chính trị. Ngày hôm sau biểu tình quần chúng nổ ra ở khắp các huyện ở Hà Tĩnh. Tuy phong trào ở đây bùng phát muộn hơn, nhưng ngay từ đầu đã rất quyết liệt. Khắp nơi dân chúng biểu tình chiếm huyện lỵ, trừng trị hào lý, đánh đuổi binh lính. Chỉ trong vòng vài tuần lễ chính quyền thực dân - phong kiến ở nông thôn Hà Tĩnh dường như tan vỡ hoàn toàn.
38
Trước tình hình chính quyền địch tan rã, mặc dù Trung ương chưa có chủ trương giành chính quyền lúc này, các chi bộ Đảng và Nông hội đỏ đứng trước thực tế được đặt cho nhiệm vụ phải quản lý và điều hành hoạt động trong làng xã. Sự tổ chức quản lý và điều hành đó dựa trên những hiểu biết về chính quyền Xô viết ở Nga mà những người cộng sản Việt Nam tiếp thu được qua sách báo và tài liệu huấn luyện của Đảng. Một hình thức mới của chính quyền đã xuất hiện, chính
quyền Xô viết Nghệ Tĩnh. Tuy còn sơ khai, nhưng Xô viết Nghệ Tĩnh đã thực sự làm chức năng của một chính quyền cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Về chính trị: chính quyền xô viết đã ban bố nhiều quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Quần chúng được tự do tham gia hoạt động trong các đoàn thể cách mạng, được tự do hội họp, thảo luận và đưa ra ý kiến giải quyết các vấn đề xã hội. Các đội tự vệ đỏ được tổ chức để bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân, trấn áp kẻ thù. Toà án nhân dân được thành lập để xét xử những tên tay sai có nợ máu với nhân dân. Các sách báo, tài liệu tuyên truyền được chính quyền phổ biến rộng rãi, để nâng cao ý thức chính trị rộng rãi trong quần chúng.
Về kinh tế: chính quyền đã thi hành một loạt các biện pháp tích cực như tịch thu ruộng đất của địa chủ, tay sai, tịch thu tiền, đất công, thóc lúa do chính quyền cũ quản lý chia cho dân cày nghèo, bãi bỏ các loại thuế vô lý mà bọn tay sai và chính quyền cũ đã đặt ra để bóc lột nhân dân: thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế muối…xoá nợ cho người nghèo và giảm tô.
Về văn hoá xã hội: chính quyền xô viết đã đem đến cho quần chúng một bầu không khí hoàn toàn mới, từng người dân có thể cảm nhận được nó và quyết tâm bảo vệ nó. Khác với xã hội cũ, các tệ nạn xã hội bị khai tử, các hiện tượng như mê tín dị đoan, bói toán, ma chay bị loại trừ, rượu chè, cờ bạc cũng không còn, trật tự an ninh đựoc giữ vững. Mọi người đoàn kết tin yêu tương trợ lẫn nhau. Quần chúng đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ các chiến sĩ bị địch lùng bắt.
Với những kết qủa đã làm được, Xô viết Nghệ Tĩnh thực sự đã gây một tiếng vang lớn, gây một ảnh hưởng lớn đến không khí chính trị trong nước và quốc tế. Những vùng còn lại ở Nghệ Tĩnh chưa lập được chính quyền xô viết, bọn tay sai muốn truyền đạt ý kiến gì của bọn đế quốc thì chúng đều tìm đến cán bộ, đảng viên của ta để xin ý kiến. Qua đó có thể thấy, một áp lực lớn đã được tạo ra đang đè nén lên kẻ thù, áp lực này chính là sức mạnh của đội quân chính trị đông đảo với nòng cốt là liên minh công nông.
39
1. 2. 3 Những chủ trương vận động quần chúng của Đảng Cộng sản Đông Dương từ Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10 năm 1930:
Tháng 10 năm 1930, giữa lúc phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ, khí thế tranh đấu sục sôi khắp cả ba Kỳ thì Ban Trung ương Lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hồng Kông. Hội nghị diễn ra dưới sự chủ trì của Trần Phú.
Sau khi thảo luận nhiều vấn đề chiến lược và sách lược chính trị, phương thức vận động quần chúng và hệ thống tổ chức của Đảng, đặc biệt là bản Dự án "Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương" do Trần Phú khởi thảo, Hội nghị đã quyết nghị nhiều vấn đề rất quan trọng, liên quan tới không chỉ vận mệnh chính trị của Đảng mà còn có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ cuộc vận động giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Đối với công tác vận động quần chúng cách mạng, Luận cương chính trị khẳng định tầm vóc và vai trò của giai cấp công nhân đối với sự nghiệp cách mạng: vừa là giai cấp lãnh đạo vừa là động lực chính rất mạnh của cách mạng. “ Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được.” {16; 94}. Luận cương rất chú ý đến vấn đề bảo vệ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, phải kiên quyết chống chủ nghĩa cải lương của giai cấp tư sản dân tộc, tư tưởng dân tộc hẹp hòi của tiểu tư sản và ảnh hưởng của nó trong quần chúng.
Luận cương nhấn mạnh: “Muốn làm cho trọn nhiệm vụ của Đảng trong cuộc cách mạng, trước hết cần phải: tổ chức ra những đoàn thể độc lập (công hội, nông hội, v.v. )...Trong quá trình vạch ra hình thức và phương pháp cách mạng, Luận cương cho rằng: khi chưa có tình thế cách mạng, chỉ nên đặt khẩu hiệu ở mức tăng lương, giảm giờ làm, giảm thuế, chống thuế... từ những cuộc đấu tranh hằng ngày mới có điều kiện để giáo dục cho quần chúng ý thức đánh đổ đế quốc giành độc lập, đánh đổ phong kiến giành ruộng đất cho dân cày... Trước nguy cơ một cuộc chiến tranh đế quốc ngày càng gần, phải làm cho những khẩu hiệu chống chiến tranh ăn sâu trong quần chúng nhân dân; đồng thời tăng cường công tác vận động binh lính địch, tổ chức đội tự vệ công nông.
Luận cương đã thể hiện được quan điểm đúng đắn của Đảng ta là phải coi trọng công tác giáo dục, tổ chức quần chúng đấu tranh chính trị; trên cơ sở đó từng bước xây dựng lực lượng vũ trang.
40
Tuy nhiên, Luận cương cũng có những hạn chế nhất định như chưa nhận thức
được đặc điểm của tầng lớp tiểu tư sản ở Việt Nam, do đó chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của tiểu tư sản. Luận cương chưa thấy rõ trong giai cấp tư sản bản xứ có tư sản dân tộc và tư sản mại bản, vì vậy chưa thấy được khả năng cách mạng của tư sản dân tộc. - Hội nghị tháng 10 năm 1930 còn ra nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng. Nghị quyết ghi rõ những quyết định quan trọng của Hội nghị như:
+ Kiểm điểm những thiếu sót của Đảng trong thời gian qua về công tác quần chúng, cụ thể như “ Chi bộ không ra sức công tác trong quần chúng , không mật thiết liên lạc với quần chúng”{16; 109}, chưa thật tin vào sức mạnh quần chúng, làm những điều trái với chủ trương, phương pháp cách mạng của Đảng như ám sát cá nhân, bạo động non...
+ Nhiệm vụ trước mắt của Đảng phải mở rộng phong trào đấu tranh khắp Đông Dương nhằm thu phục đông đảo quần chúng...đẩy mạnh công tác tuyên truyền cương lĩnh, chính sách và gây thanh thế cho Đảng bằng những biện pháp thích hợp như treo cờ Búa Liềm, diễn thuyết, rải truyền đơn, ra sách báo... làm sao cho quần chúng hiểu và đi theo Đảng.
+ Chú trọng công tác quần chúng với việc tăng cường công tác vận động công nhân, mở rộng công hội, nông hội, chuẩn bị thành lập Tổng Công hội Đông Dương, Tổng Nông hội Đông Dương .
1.2. 4 Phong trào cách mạng 1930 – 1931 từ sau Hội nghị Trung ương tháng 10. 1930.
Trong và ngay sau Hội nghị tháng 10 năm 1930, cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân với đế quốc và tay sai vẫn diễn ra rất quyết liệt. Cao trào cách mạng thực sự đã lên tới đỉnh cao khiến cho đế quốc Pháp vô cùng hoảng hốt và điên cuồng chống trả: “lập thêm nhiều đồn bốt, bắt giữ và tra tấn giết hại không cần xét xử hàng vạn chiến sỹ cách mạng và quần chúng yêu nước. Chúng huy động cả máy bay ném bom tàn sát các đoàn biểu tình và triệt hạ thôn xóm. Chúng bắn giết hết, cướp phá hết và thiêu huỷ hết.”{2; 141}. Ngoài ra, kẻ thù còn dùng nhiều biện pháp thâm độc để phá hoại phong trào kiểu như: “quan làng trị dân làng” mua chuộc một số tay sai, ác ôn phong kiến để đàn áp cách mạng. Mua chuộc, dụ dỗ quần chúng, tuyên truyền xuyên tạc, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân.
41
Nhận thức được những khó khăn thực sự mà quần chúng cách mạng cả nước đang phải đối mặt, đặc biệt là quần chúng công nông ở Nghệ Tĩnh, Đảng đã kịp
thời chỉ đạo và uốn nắn phong trào nhằm giữ vững khí thế cách mạng và giảm thiểu những thiệt hại mà kẻ thù gây ra.
- Trong thông tri “Gửi chấp uỷ Trung kỳ” Trung ương Đảng đã chỉ rõ những hạn chế yếu kém, thậm chí là những sai lầm trong công tác lãnh đạo của Xứ uỷ để rồi vạch ra những định hướng quan trọng: “Ở Thanh Chương, Nam Đàn bây giờ, chấp uỷ thế là đã chủ trương bạo động rồi( lập xô viết, chia đất,..) chủ trương như thế thì chưa đúng hoàn cảnh, vì trình độ dự bị của Đảng và quần chúng trong nước chưa đủ, vũ trang bạo động cũng chưa có, bạo động riêng lẻ trong vài địa phương lúc bấy giờ là quá sớm.
Song việc đã như vậy rồi thì bây giờ phải làm cách nào mà duy trì, kiên cố ảnh hưởng của Đảng , của xô viết trong quần chúng, để đến khi thất bại thì ý nghĩa xô viết ăn sâu vào trong óc quần chúng, và là lực lượng của Đảng và nông hội vẫn duy trì”{15; 50}. Trung ương Đảng cũng vạch ra các biện pháp quan trọng để ứng phó trong tình hình cụ thể: khi cần biểu tình thì phải biết khéo léo tổ chức để chống được máy bay địch tàn sát, tránh những cuộc biểu tình vặt và không có tổ chức; củng cố chính quyền xô viết, làm cho tất thảy cố, bần, trung nông đều ủng hộ chính quyền xô viết, coi đó là chính quyền của mình, khi quân đội đế quốc đến thì tạm thời rút đi, khi chúng đi thì lại ra làm việc; các đội tự vệ phải năng tập luyện quân sự và tìm cách cướp súng giặc; nông hội phải rút vào bí mật; Đảng phải có bộ phận bí mật, liên hệ thường xuyên với bộ phận công khai.
- Trong “Thông cáo gửi cho đồng chí” (Tháng 10.1930), Trung ương Đảng cũng lại chỉ ra rằng: việc thành lập các Xô viết ở Nghệ Tĩnh: “Tuy hoàn cảnh trong vài nơi đó có cách mạng, song trong xứ thì trình độ giác ngộ và đấu tranh của của vô sản và nông dân chưa được đều và cao. Tuy là dân chúng ở mấy xã ấy có đủ giác ngộ, đủ hăng hái tranh đấu, song chưa có dự bị vũ trang. Hiện nay, theo hoàn cảnh trong nước, trình độ dự bị của vô sản và quần chúng lao khổ thành phố, nhà quê, trình độ dự bị của Đảng, tình hình của địch thù, thì thực hành lẻ tẻ bạo động riêng trong một vài địa phương không phải là chủ trương đúng”{16; 55}. Trung ương Đảng yêu cầu các đảng bộ trong nước phải nhân cuộc khủng hoảng kinh tế và chính sách đàn áp của đế quốc mà hướng quần chúng ra đấu tranh chính trị, phát động phong trào quần chúng cả nước bảo vệ Nghệ tĩnh đỏ, giáo dục sâu sắc cho quần chúng những khẩu hiệu của cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng phải tránh khởi nghĩa quá sớm.
Thực tiễn cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh đã chỉ ra cho Đảng ta thấy yêu cầu tất yếu phải có một Mặt trận dân tộc thống nhất với mục tiêu phản đế ở Đông Dương. Mặc dù trong Luận cương chính trị chưa nêu được cụ thể 42
tinh thần về việc thành lập Mặt trận này nhưng ngay sau đó vào ngày 18 tháng 11 năm 1930, Thường vụ trung ương Đảng đã ra “Chỉ thị về vấn đề thành lập Hội đồng minh phản đế Đông Dương” , đây là một chỉ thị riêng về Hội đồng minh phản đế, đề ra cho các cấp bộ Đảng uốn nắn lại những lệch lạc trong nhận thức về mặt trận dân tộc thống nhất, khắc phục những hạn chế của mình. Chỉ thị phân tích thái độ chính trị và khả năng cách mạng của các giai cấp trong nhân dân và chú ý tới một số bộ phận ngoài công nông như tiểu tư sản, tư sản và địa chủ vì thực tiễn cao trào 1930- 1931 ở nhiều nơi, tầng lớp trên đã phân hoá. Phú nông nói chung đã đoàn kết với nhân dân lao động, tham gia đấu tranh. Giai cấp địa chủ có một số người tham gia và ủng hộ phong trào, cũng có một số giữ thái độ trung lập: ở Nam Bộ vùng Hậu Giang, Sài Gòn, Chợ Lớn họ tỏ ra ôm chân đế quốc, ở Nghệ Tĩnh có một số ít phản lại dân tộc đã ra làm bang tá phản lại dân tộc, nhưng cũng có một số “trung tiểu địa chủ lại có xu hướng cách mạng rõ ràng, qua khủng bố trắng dữ dội họ vẫn cố bám lấy cách mạng và ủng hộ cách mạng....ở Nghệ Tĩnh một số lớn đã nghiêng về cách mạng, họ tỏ ra tôn trọng và phục Đảng Cộng sản và phong trào công nông”. Đối với giai cấp tư sản dân tộc thì lúc ấy họ rất ít người trực tiếp tham gia phong trào, họ lừng chừng , nhưng cũng không chống đối, họ cũng không ráo riết ngăn chặn con em họ tham gia cách mạng. Tầng lớp thanh niên học sinh, nhất là ở Vinh, đã hoà vào phong trào công nông và nhiệt tình đấu tranh. Giai cấp tư sản nhỏ ở Nghệ Tĩnh như buôn bán đều có ý thức xu hướng cách mạng, tuy vậy nói chung họ vẫn sợ hãi tụi giặc Pháp và bang tá”. Chỉ thị cũng nhấn mạnh lại: “Giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công”. Từ đó Đảng chỉ thị cho các cấp bộ: Từ trước các đồng chí chưa rõ các vấn đề ấy mà nay cũng vẫn mập mờ, nên tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông và là một màu sắc nhất định như công hội đỏ, nông hội, thanh niên phụ nữ và cứu tế đỏ. Do đó thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng để hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, nó là trên hay dưới hay ở vào lớp giữa cũng vậy, và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, muốn quốc gia độc lập, để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để vận động toàn dân nhất tề hành động và chống khủng bố trắng và ủng hộ cách mạng công nông... chúng ta đã tách rời dân tộc cách mạng và giai cấp cách mạng làm hai đường, mà cần nhận thức đúng là dân tộc cách mạng vẫn là một nhiệm vụ trong giai cấp cách mạng,.. căn cứ như trên, nên tổ chức Hội phản đế đồng minh là một công tác cần khẩn”{16; 228}. Chỉ thị cũng có những hướng dẫn thực hiện khá cụ thể về phương pháp tổ chức mặt trận: từng cấp uỷ địa 43
phương tìm ra ban chấp hành của hội phản đế, xây dựng tổ chức của của hội ở làng, xã huyện; các đoàn thể quần chúng của Đảng( công hội, nông hội) lấy danh nghĩa cả đoàn thể gia nhập hội, những nơi chưa xây dựng được đoàn thể quần chúng thì lợi dụng những tổ chức sẵn có trong làng xã như phường hội, hiếu hỷ mà tuyên truyền cách mạng, đi tới xây dựng tổ chức hội.
Có thể kết luận, “trong bản chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh, Trung
ương Đảng đã ra xác định một số vấn đề chủ yếu cho công tác mặt trận như sau:
- Cần phải tập trung sức lực của toàn dân đánh vào kẻ thù chủ yếu nhất của dân
tộc là đế quốc Pháp xâm lược, vào bọn phong kiến phản động, tay sai của chúng.
- Giai cấp công nhân là giai cấp tổ chức và lãnh đạo mặt trận, hoạt động của mặt
trận phải là thực hiện theo đường lối chính trị của Đảng của giai cấp công nhân. - Liên minh công nông là cơ sở của mặt trận dân tộc thống nhất”. {4; 36] Tuy nhiên, những chỉ đạo này đã không được một số cấp bộ bên dưới chú ý, coi trọng và thực hiện. Có nơi còn cho rằng chưa cần tổ chức Hội phản đế đồng minh vội. Cũng cần thấy rằng: Bản chỉ thị ra đời khi phong trào nhiều nơi đang lâm vào khó khăn và thoái thủ nên cũng không dễ thực hiện.
Cho dù Hội phản đế đồng minh chưa hình thành, liên minh giai cấp trong giai đoạn 1930-1931 vẫn là công nhân và nông dân là chủ yếu, nhưng liên minh công nhân và nông dân đã có một ảnh hưởng sâu sắc tới tất cả phần còn lại trong xã hội có tinh thần dân tộc, họ đã chứng kiến một tinh thần cách mạng triệt để, khối đoàn kết sắt đá của quần chúng công nông, họ đã thấy được kẻ thù của Đảng Cộng sản Đông Dương chĩa mũi nhọn vào cũng là kẻ thù của cả dân tộc, đồng thời qua cao trào này bộ mặt thật của thực dân và tay sai tàn ác đã bị phơi bày...đây là những điều kiện khách quan thuận lợi cho Đảng ta tập hợp lực lượng tốt hơn về sau này.
Đối diện với thực tiễn cách mạng khắc nghiệt: sự khủng bố gắt gao của kẻ thù, nhiều cơ sở đảng bị bóc dỡ, nhiều quần chúng, đảng viên bị sát hại. Xuất hiện xu hướng hữu khuynh ở một vài nơi, quan điểm cứ hãy “củng cố đã rồi hãy đấu tranh” đã làm hạn chế sự phát triển của phong trào. Ngày 3 tháng 1 năm 1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã kịp thời ra Thông cáo cho các xứ uỷ kịch liệt phê phán xu hướng hữu khuynh đó: “Tổ chức ra để có sức tranh đấu, tranh đấu để mở rộng, kiên cố tổ chức để mở rộng tổ chức nữa, tổ chức và tranh đấu hết sức mật thiết liên kết cùng nhau, đồng thời phát triển với nhau, cái này rời cái kia thì không được gì hết”, phải dựa vào sức mạnh quần chúng mà chống khủng bố đồng thời phải phát triển các đội tự vệ công nông để làm chỗ dựa cho quần chúng đấu tranh: “khi có đấu tranh thì đội tự vệ phải đi đầu, đi kèm quần chúng mà hộ vệ”. Với những chỉ đạo cụ thể và kịp thời của Trung ương Đảng nói trên đã giúp cho cho 44
đảng bộ Nghệ Tĩnh nói riêng và cả nước nói chung có được phương hướng và biện pháp cụ thể để đối phó với tình hình khó khăn trước mắt.
Mặc dù đang hoạt động ở ngoài nhưng đồng chí Nguyễn Ái Quốc luôn sát sao với tình hình cách mạng trong nước, đồng chí ca ngợi tinh thần anh dũng cách mạng của quần chúng đồng thời góp ý với Ban chấp hành Trung ương, trong tác phẩm Sai lầm và khuyết điểm trong phong trào nông dân Người viết: “Tập hợp, tổ chức, vận động nông dân đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, chứ không phải để tiến hành một cuộc khởi nghĩa địa phương (khởi nghĩa có nghĩa là nổi dậy giành chính quyền)”.
Kẻ thù ngoan cố và thâm độc. Ngoài chính sách khủng bố trắng chúng còn thực hiện chiến dịch chiêu hàng, cưỡng bách và phát thẻ qui thuận... gây một khó khăn rất lớn cho phong trào. Để chống lại âm mưu này, Đảng đã kịp thời phát động quần chúng đấu tranh chống đầu thú, chống những cải cách lừa bịp. Trong Thông cáo về việc đế quốc Pháp buộc dân cày ra “đầu thú” Đảng ta đã công khai phân tích những âm mưu hiểm độc của kẻ thù và chỉ ra những biện pháp đấu tranh cụ thể lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Cuối tháng 3 năm 1931, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn thể tại Sài Gòn trong bối cảnh kẻ thù đang khủng bố gắt gao. Hội nghị đã thẳng thắn chỉ ra những sai lầm trong công tác chấp hành đường lối, trong lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Hội nghị phê phán những biểu hiện sai lầm “tả” khuynh, cô độc hẹp hòi trong việc phát triển công hội và tổ chức biểu tình, bãi công liên miên…; “hữu” khuynh trong việc coi nhẹ việc tuyên truyền, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh về chính trị và kinh tế, tách rời tổ chức và đấu tranh, ngừng đấu tranh để tổ chức trước đã…vv… Hội nghị cũng vạch ra nhiệm vụ cấp bách là tăng cường thành phần công nhân vào các cơ quan lãnh đạo ; đi sâu vào các đồn điền và các xí nghiệp lớn để gây dựng cơ sở cho tổ chức Đảng và các đoàn thể cách mạng trong công nhân...
Do đánh giá đúng vai trò to lớn và quan trọng của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Đong Dương ngay từ khi mới ra đời, đã rất quan tâm đến lực lượng thanh niên và công tác vận động, giáo dục, rèn luyện thanh niên. Đặc biệt, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong nhiều bức thư gửi cho Đảng cũng luôn nhắc nhở công tác vận động thanh niên.
Thực hiện chỉ thị của Quốc tế Cộng sản (tháng 4 năm 1930) về vai trò của Đoàn thanh niên, phải thành lập Đoàn thanh niên cộng sản ở Đông Dương). Thực hiện nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 10 năm 1930 về công tác thanh niên và tổ chức của thanh niên... Qua cao trào 1930 – 1931, nhiều thanh niên cộng sản đã 45
chiến đấu anh dũng và hy sinh vẻ vang. Tuy nhiên, tổ chức Đoàn chưa được thống nhất và chưa có sinh hoạt độc lập. Ngay trong Hội nghị tháng 3 năm 1931 đã quyết định “cần kíp tổ chức ra cộng sản thanh niên đoàn”, “lập tức các đảng bộ địa phương phải mau mau tổ chức những ủy viên tổ chức ra Đoàn, đốc xuất cho chi bộ tổ chức cơ quan báo chương về việc vận động của Đoàn và phải chỉ đạo cho các chi bộ mới thành lập của Đoàn bắt đầu hoạt động trong quần chúng thanh niên, đem những khẩu hiệu của thanh niên mà hiệu triệu quần chúng.”, chính các chi bộ Đoàn lại thực hiện trọng trách vận động những thanh niên trong các tổ chức công nông hội và khuếch trương quần chúng là thanh niên lao động đấu tranh. Từ đó, Đoàn thanh niên cộng sản Đông Dương được thành lập, đã động viên hàng vạn thanh niên trực tiếp tham gia phong trào đấu tranh do Đảng lãnh đạo trong những ngày đầu sau khi Đảng ta ra đời.
Tiểu kết: Phong trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh mặc dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, nhưng nó đã để lại ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Nó khẳng định đường lối cách mạng Đông Dương do Đảng ta lãnh đạo là hoàn toàn đúng đắn, nó mở đầu cho cho giai đoạn cách mạng Việt Nam đi theo đường lối sáng tạo trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê Nin. Phong trào đã khẳng định được quyền lãnh đạo trọn vẹn của giai cấp công nhân với cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung, khẳng định bản lĩnh, năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Đối với công tác vận động quần chúng, qua cao trào cách mạng này Đảng ta đã xây dựng được khối liên minh công nông và phát huy được sức mạnh to lớn của nó trong việc đấu tranh thực hiện các mục tiêu cách mạng đã đề ra. “Thắng lợi lớn nhất của Đảng ta trong cao trào cách mạng 1930- 1931 là Đảng ta đã xây dựng được một khối liên minh công nông, do đó đã giành được quyền lãnh đạo cho giai cấp công nhân”{9; 9}. Qua thực tiễn đấu tranh và chỉ đạo quần chúng đấu tranh, Đảng ta tiếp thu được nhiều kinh nghiệm quý báu trong nhiều nội dung chỉ đạo, điều này là vô cùng cân thiết và quan trọng trong các giai đoạn cách mạng về sau.
Tuy nhiên, cũng cần nghiêm khắc nhìn nhận một cách khách quan về quá trình lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác vận động quần chúng của Đảng trong giai đoạn này như: xu thế bạo động liều, ám sát cá nhân, phản đối các hình thức vận động trong công tác quần chúng như rải truyền đơn kêu gọi đấu tranh; xuất hiện chủ trương phải tổ chức lực lượng trước rồi mới đấu tranh, chờ cho hết khi địch khủng bố rồi mới tiếp tục hoạt động… tất cả những sai lầm trên đều xuất phát từ trình độ nhận thức của đảng viên còn thấp, trình độ giác ngộ đấu tranh của quần chúng chưa cao, sự chỉ đạo của Đảng có nơi, có lúc chưa thực sự đồng đều và hiệu 46
quả.
Nhìn nhận một cách hệ thống, có 4 sai lầm chủ quan cơ bản tạo hạn chế cho
sự phát triển của phong trào đấu tranh của quần chúng thời kỳ này.
Sai lầm thứ nhất chính là sai lầm trong phương thức vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh. Trong lúc phong trào đấu tranh dâng lên mạnh mẽ, phát triển thành cao trào, lực lượng cách mạng cũng tăng lên đột biến. Nhiều tổ chức quần chúng đã phát triển quá nhanh, trong khi công tác tổ chức, tuyên truyền và huấn luyện không theo kịp. Do vậy, ở nhiều nơi, Nông hội đỏ đã được tổ chức theo kiểu "đánh trống, ghi tên", chỉ có số lượng hội viên đông trên danh nghĩa mà thiếu độ bền vững về tổ chức cũng như sự cố kết về chính trị. Do đó, khi phong trào bị thử thách ác liệt thì các tổ chức quần chúng rất dễ bị dao động, tan vỡ. Trong khi đó, cán bộ Đảng ở cơ sở lại ham tổ chức biểu tình, míttinh, tranh đấu liên miên khiến cho quần chúng bị mỏi mệt, chán ngán. Để khắc phục tình hình đó, không ít nơi cán bộ Đảng và Xã bộ nông đã dùng các biện pháp cưỡng ép hoặc lừa dối quần chúng, buộc họ phải tham gia phong trào. Thậm chí, có nơi cán bộ Đảng đã rơi vào manh động, chủ trương dùng ám sát để trừng trị những người thoái chí, lừng chừng. Đây chính là những khuyết điểm góp phần làm tan rã lực lượng cách mạng khi phong trào bị khủng địch khủng bố.
Sai lầm thứ hai là sai lầm trong việc nhận định và đánh giá tình hình của Xứ uỷ Trung Kỳ. Vào khoảng tháng 4, tháng 5 năm 1931, khí thế đấu tranh của quần chúng đã giảm sút, phong trào đang chuyển sang giai đoạn thoái trào, nhưng Xứ uỷ Trung Kỳ và các cán bộ Đảng cơ sở kém nhạy bén, không nhận định đúng tình hình. Tháng 4 năm 1931 Xứ uỷ Trung Kỳ vẫn biên soạn và cho lưu hành một tài liệu có nhan đề là "Chiến lược ra trận", cổ động và hướng dẫn quần chúng dàn hàng ngang đối mặt với quân thù. Thậm chí tới tận đầu tháng 8 năm 1931, cơ sở Đảng ở Anh Sơn vẫn còn hô hào quần chúng kịch liệt đấu tranh chống thực dân phong kiến. Chính vì đánh giá sai tình hình, không thực hiện đúng chỉ dẫn của Trung ương Đảng, nên các cấp bộ Đảng cơ sở ở Nghệ Tĩnh đã không biết củng cố lực lượng, tổ chức quần chúng rút lui để bảo toàn lực lượng, hơn nữa lại tiếp tục bộc lộ lực lượng, tạo cớ cho địch tàn sát.
47
Sai lầm thứ ba là chủ trương thanh Đảng của Xứ uỷ Trung Kỳ. Thực hiện "Bônsơvich hoá" Đảng một cách máy móc, giáo điều, đầu tháng 4 năm 1931, giữa lúc phong trào cách mạng đang bị khủng bố ác liệt thì Xứ uỷ Trung Kỳ lại ra chỉ thị thanh Đảng, phổ biến xuống tận cơ sở. Nội dung chủ yếu của chỉ thị này là đưa ra
khỏi Đảng những đảng viên xuất thân từ những tầng lớp trí thức, con nhà giàu có hoặc quan lại. Xứ uỷ Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư, ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ. Đây là một chủ trương sai lầm nghiêm trọng, một đòn nặng giáng thẳng vào tổ chức Đảng đúng vào lúc phong trào đang trải qua những thử thách ác liệt nhất.
Sai lầm thứ tư, thực hiện chưa đúng chiến dịch "vay lúa nhà giàu chia cho nông dân nghèo" của Xứ uỷ Trung Kỳ vào đầu năm 1931. Về thực chất, đây là một chủ trương đúng đắn của Xứ uỷ nhằm giải quyết nạn đói đang hoành hành dữ dội ở Nghệ Tĩnh, đe doạ tính mạng của hàng vạn nông dân nghèo. Nếu chủ trương này được thực hiện tốt, có thể sẽ góp phần củng cố uy tín của Xôviết và của Đảng. Rất tiếc là chủ trương này đã được thực hiện bằng những biện pháp sai lầm. Thay vì vận động nhà giàu cho Xôviết vay lúa, tiền để cứu đói cho dân, Xã bộ nông đã tập hợp dân chúng kéo đến cưỡng đoạt lúa của cả địa chủ và các nhà giàu khác. Nhà nào không chịu nộp lúa và tiền cho "xã hội" có thể bị quy là phản động và bị trừng trị nghiêm khắc ngay lập tức. Nhiều nơi dân nghèo từ chối, không tham gia "vay lúa" của nhà giàu trong làng, khiến cho Xã bộ nông phải dùng nông dân của làng này "vay lúa" của nhà giàu làng khác. Với cách làm như trên, uy tín của Xô viết bị giảm đi đáng kể.
Với những sai lầm chủ quan như vậy của Xứ uỷ Trung Kỳ và cơ sở Đảng ở Nghệ Tĩnh đã gây nên hậu quả không nhỏ vào việc đẩy phong trào tranh đấu của quần chúng ở Trung Kỳ và trên phạm vi toàn quốc sớm đi vào thoái trào với những tổn thất không nhỏ.
1. 3. Công tác vận động quần chúng của Đảng những năm 1932- 1935.
48
Đến cuối năm 1931, phong trào cách mạng ở nước ta tạm thời lắng xuống do chính sách khủng bố của kẻ địch. Hàng vạn quần chúng và các chiến sỹ cách mạng bị bắt, các nhà tù của thực dân Pháp từ Bắc chí Nam đều chật ních những chính trị phạm. “Theo Niên biểu thống kê Đông Dương, từ năm 1930 đến 1933 Thực dân Pháp bắt giam 246.532 người. Riêng nhà tù Côn Đảo những năm 1930- 1935, 833 tù chính trị bị tra tấn đến chết...”{35; 311}. Thực dân Pháp còn dài tay liên kết với các đế quốc và các thế lực phản động quốc tế để lùng bắt các nhà cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở hải ngoại. Bên cạnh những biện pháp khủng bố gắt gao, Thực dân
Pháp vẫn thực hiện chính sách mị dân, lừa bịp nhằm che đậy dã tâm và gây khó khăn cho cách mạng.
1.3.1Đấu tranh trong các nhà tù thực dân
49
Trong nguy nan, bản lĩnh của những người cộng sản càng được phát huy cao độ. Tinh thần đấu tranh để khắc phục mọi khó khăn, gây dựng lại phong trào được thể hiện một cách kiên cường ở mọi nơi. Những đảng viên bị giam cầm trong các nhà tù dù bị tra tấn, bị kết án, ngay cả trước khi trút những hơi thở cuối cùng hay đứng trước họng súng của kẻ thù vẫn luôn vững vàng và kiên định. Với khẩu hiệu “ biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng” các hình thức đấu tranh phong phú đã diễn ra một cách sinh động: các lớp học văn hoá, các số báo tường, biên soạn tài liệu lý luận, chính trị để giảng dạy, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh... chuẩn bị sẵn sàng hoạt động khi thoát ra khỏi nhà tù. Trong những năm địch tiến hành khủng bố gắt gao, thì ngay trong các nhà tù nhiều Chi bộ cộng sản được tổ chức, tiêu biểu như ở Hoả Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), nhà tù Vinh, nhà tù Hải Phòng... Năm 1932, Chi bộ nhà tù Côn Đảo được thành lập, sau đó đã liên lạc với Xứ uỷ Nam kỳ và được công nhận là một chi bộ đặc biệt, đồng chí Ngô Gia Tự là một trong những cán bộ lãnh đạo xuất sắc của thế hệ đầu tiên ở đây. Chi bộ trong nhà tù. Đây là hình thức tổ chức do những tù chính trị cộng sản gây dựng nhằm tiếp tục tiến hành các hoạt động đấu tranh cách mạng. Những chiến sỹ cộng sản kiên trung nhất trong các chi bộ đã tổ chức nhiều hoạt động tiêu biểu qua các hội phổ thông như: lao tù tương trợ hội, lao tù ái hữu hội, lao tù tương tế hội...để lãnh đạo anh chị em đấu tranh chống khủng bố, đòi những quyền lợi hàng ngày, chống áp bức, hà khắc trong nhà lao… Những chiến sỹ cộng sản kiên trung luôn gương mẫu, can đảm, bất chấp bản án tử hình đang chờ đợi vẫn nêu cao tấm gương anh dũng như: Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lý Tự Trọng…điều đó đã khơi dậy, thúc đẩy tinh thần yêu nước, tinh thần đấu tranh với giặc cho các chính trị phạm và những tù nhân khác, tạo nên niềm tin, xây dựng hình ảnh đẹp của những chiến sỹ cộng sản kiên cường… Tinh thần đấu tranh của các chiến sỹ cách mạng trong việc duy trì, bảo vệ phong trào, bảo vệ anh em, đồng chí đã đạt được nhiều thành công quan trọng, cải thiện phần nào đời sống và giảm bớt những khó khăn, hy sinh. Bên cạnh đó các chi bộ còn tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng cho tất cả tù nhân, chủ yếu là tù chính trị về
chủ nghĩa Mác - Lê Nin, kiến thức văn hoá phổ thông, đường lối cách mạng Việt Nam. Bản Luận cương chính trị của Đảng được phổ biến một cách rộng rãi. Các bản tổng kết ở trong tù được gửi ra cho các đồng chí ở ngoài nghiên cứu. Sự liên lạc mật thiết giữa trong và ngoài nhà tù được duy trì ổn định. “Những hoạt động trong nhà tù kết hợp chặt chẽ với phong trào quần chúng ở bên ngoài, tạo nên một khí thế chung, cổ vũ cho tất cả đảng viên và quần chúng vững bước tiến lên.”{2; 181} Trên mặt trận tư tưởng, tại các nhà tù còn diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa tư tưởng của giai cấp vô sản với tư tưởng tư sản và tiểu tư sản sai lầm. Tiêu biểu như ở Hoả Lò, Côn Đảo, các chiến sỹ cộng sản đã kịch liệt phê phán những chủ trương, quan điểm sai lầm của Việt Nam Quốc dân Đảng về lực lượng, người lãnh đạo, tổ chức, phương pháp đấu tranh… Qua các cuộc đấu tranh này, đường lối cách mạng vô sản đã hoàn toàn chiến thắng tranh thủ và thu phục được cảm tình, ủng hộ của nhiều anh chị em chưa phải là đảng viên cộng sản, đáng chú ý là các hoạt động tranh luận của những người cộng sản tại các nhà lao cũng góp phần đẩy nhanh quá trình phân hoá của Việt Nam Quốc dân Đảng vốn chưa từng bao giờ là một tổ chức cách mạng chặt chẽ. Một số tiên tiến nhận ra chân lý đã gia nhập Đảng cộng sản. Một kết quả tất yếu của quá trình các chiến sỹ cộng sản đấu tranh trong tù là xuất hiện xu thế “Cộng sản hoá” những chiến sỹ yêu nước. “Nhiều chiến sỹ yêu nước vào nhà tù đã được giác ngộ dần dần và trở thành những nhà cộng sản”. “Trình độ hiểu biết lý luận, về đường lối cách mạng Việt Nam của các đồng chí ta được nâng cao. Do đó, sự thống nhất về tư tưởng, hành động trong Đảng được tăng cường và có cơ sở vững chắc trong quần chúng. Năm 1932, nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong cùng với một số đồng chí còn lại ở trong nước và ngoài nước tổ chức Ban lãnh đạo Trung ương Đảng. Tiếp đó, tháng 6 năm 1932, Ban lãnh đạo Trung ương đã thảo ra Chương trình hành động của Đảng, văn kiện quan trọng này đã được Quốc Tế cộng sản thông qua. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của cao trào cách mạng 1930-1931, căn cứ vào điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, nửa phong kiến; căn cứ vào thực trạng giai cấp, thái độ chính trị và khả năng cách mạng của các giai cấp trong và sau phong trào, Đảng cũng chỉ ra khả năng của việc tổ chức một Mặt trận thống nhất các lực lượng phản đế, cùng hành động chung với với những tổ chức có xu hướng quốc gia cách mạng. Ngoài những yêu cầu chung, Chương trình hành động còn đề ra các yêu cầu cụ thể cho từng giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động. Đó là những 50
yêu sách kinh tế và chính trị hàng ngày đối với công nhân, nông dân, binh lính, thuỷ thủ, tiểu thương, thợ thủ công, viên chức, dân nghèo thành thị, phụ nữ lao động, thanh niên và các dân tộc thiểu số. Cụ thể như: “Những điều yêu cầu của công nhân nam nữ và cu li” Đảng cộng sản Đông Dương kêu gọi hết thảy thợ thuyền, cu li mau đoàn kết lại mà tranh đấu chống những cách làm ăn uất ức này. Đảng tranh đấu để đòi:
1. Tự do tổ chức Công hội đỏ, công hội được tự do hành động. Thợ thuyền được tự do đình công. Công nhân đàn bà cũng được quyền tổ chức vào các công hội giai cấp như công nhân đàn ông vậy... ngày làm việc tám giờ , sáu giờ trong các công xưởng có hại đến sức khoẻ và trong các mỏ. Mỗi tuần nghỉ một ngày lĩnh cả tiền công và mỗi năm nghỉ bốn tuần lễ cho người lớn, sáu tuần cho thanh niên, lĩnh cả tiền công.
2. Cấm bớt tiền công. Tiền công phải tăng ngang với sinh hoạt đắt đỏ. Cấm cúp lương , cấm trả tiền công bằng phẩm vật. Công bằng nhau thì phải trả lương bằng nhau, bất luận dân tộc nào, đàn ông hay đàn bà , người lớn hoặc thanh niên, thợ được lĩnh thuốc thang không mất tiền.
3. Cấm đánh chửi thợ. Bỏ cai. Cấm xét thợ khi ra sở và vào sở...{18; 17}.
Đảng đặc biệt quan tâm đến cuộc vận động phụ nữ lao động trong các xí nghiệp công nghiệp và đồn điền là lực lượng lao động khá đông đảo, bị áp bức bóc lột nặng nề và tệ hại nhất, Đảng cũng rất chú ý tới đồng bào các dân tộc thiểu số- một bộ phận trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, một lực lượng cách mạng quan trọng, đang là nạn nhân của chính sách chia để trị của thực dân Pháp.
Đảng nhắc nhở đảng viên phải kêu gọi và tổ chức quần chúng đấu tranh cho những yêu sách thiết thân hàng ngày, rồi dần dần dẫn dắt quần chúng tiến lên đấu tranh đòi những quyền lợi cao hơn về chính trị, nhằm chuẩn bị chu đáo cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền khi có điều kiện. Đảng lưu ý, phải đề cao cảnh giác trước nguy cơ chiến tranh thế giới mới, phải nêu vấn đề đó trong những yêu sách cụ thể khi vận động quần chúng đấu tranh.
Sự cấp thiết phải củng cố và phát triển các đoàn thể cách mạng của quần chúng, nhất là công hội và nông hội. Đề phòng khi có sự khủng bố dã man của địch, công hội và nông hội không thể hoạt động dễ dàng được, cần phải tranh thủ mọi cơ hội lập ra những tổ chức cách mạng khác do quần chúng cử ra uỷ ban hành động, uỷ ban bãi công, uỷ ban nông dân... Đảng cũng lưu ý: cần phải biết kết hợp công tác hợp pháp, nửa hợp pháp với công tác bí mật. Đặc biệt nhấn mạnh : “Phải xây dựng một đoàn thể bí mật có kỷ luật nghiêm ngặt cứng như sắt, vững như đồng, tức Đảng cộng sản để hướng đạo quần chúng trên con đường giai cấp chiến 51
đấu”{18; 14}. Từ chương trình hành động của Đảng, chương trình hành động của các tổ chức quần chúng đã ra đời: công hội, nông hội, đoàn thanh niên cộng sản ... đây là sự cụ thể hoá đường lối những chủ trương của Đảng trong cuộc vận động công nhân, nông dân, thanh niên...
Có thể khẳng định, những tư tưởng về vận động quần chúng trong Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương là một bước tiến trong nhận thức của Đảng xuất phát từ thực tiễn sinh động trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, nó khắc phục được phần nào những hạn chế của công tác vận động quần chúng giai đoạn vừa qua. Trong thời kỳ khó khăn và gian nan nhất, Chương trình hành động đã giương cao ngọn cờ cách mạng của Đảng, đề ra được nhiều biện pháp tiến bộ, những chủ trương cụ thể, những hướng dẫn thực hiện cụ thể và đúng đắn trong tình hình mới góp phần khôi phục trở lại phong trào, chuẩn bị cho Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng.
1.3.2 Cuộc đấu tranh để giữ gìn cơ sở, khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương
Từ năm 1932 đến trước khi khai mạc Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ nhất, phong trào cách mạng cả nước nói chung đang dần đi vào quá trình phục hồi lực lượng và tiếp tục phát triển. Các hoạt động cách mạng của Đảng cộng sản Đông Dương trong thời kỳ này tác động lớn đến phong trào quần chúng.
52
Nhờ có sự chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời của Quốc tế Cộng sản, sự nỗ lực vượt bậc của cán bộ, đảng viên thực hiện những quyết nghị và chỉ dẫn của Đảng, công tác khôi phục tổ chức và phong trào quần chúng đã đạt được kết quả tương đối khả quan. Chỉ trong vòng khoảng nửa năm, đến tháng 12 năm 1934, hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục ở nhiều nơi. Theo báo cáo của Ban Chỉ huy ở ngoài gửi Quốc tế Cộng sản thì vào khoảng thời gian này, toàn Đảng đã có khoảng 600 đảng viên. Cơ quan Xứ uỷ đã được khôi phục ở Bắc Kỳ, Bắc và Nam Trung Kỳ và Lào. Ở Nam Kỳ, sau nhiều cố gắng, một Chấp uỷ miền cũng đã được tổ chức lại từ năm 1933”{18;184,185}. Đây chính là bước tiến quan trọng, đặt cơ sở cho việc khôi phục về căn bản hệ thống tổ chức của Đảng vào những tháng tiếp theo mà cuộc Đại hội lần thứ nhất của Đảng từ ngày 27 đến 31 tháng 3 năm 1935 là một mốc quan trọng.
Phong trào nông dân thời kỳ này tuy không rầm rộ và mạnh mẽ như những năm vừa qua nhưng cũng đã xuất hiện trở lại bóng dáng của các cuộc đấu tranh có tính chất quyết liệt từ đồng bằng đến miền núi, từ bắc vào nam.
Đáng chú ý trong khi tổ chức đảng ở trong nước gặp nhiều khó khăn thì tại mấy tỉnh biên giới Việt- Trung, Việt- Lào như Cao Bằng, Lạng Sơn, Thà Khẹt, Sa Va Na Khẹt một số đảng viên từ Trung Quốc, Thái Lan về hoạt động, gây dựng cơ sở trong quần chúng nơi đây, và do vậy phong trào cách mạng lại tiếp tục phát triển.
Các tầng lớp nhân dân khác ở thành thị như học sinh, viên chức, những người buôn bán nhỏ... cũng đấu tranh bằng hình thức bãi khoá, bãi thị rộng rãi như ở Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương, Sài Gòn, Chợ Lớn, Viêng Chăn...
Lần đầu tiên trong quá trình đấu tranh cách mạng từ khi có Đảng ra đời, đã xuất hiện một hình thức đấu tranh mới trong thời kỳ này, đó là việc một số cán bộ của Đảng đã biết tranh thủ tình hình, bước đầu sử dụng khả năng hoạt động hợp pháp để che giấu tổ chức “không hợp pháp”. Đáng kể nhất là các cuộc tranh cử Hội đồng thành phố Sài Gòn khoá 1933 và 1935, tranh cử vào Hội đồng quản hạt Nam kỳ năm 1935. Qua các cuộc vận động tranh cử, các đảng viên cộng sản tranh thủ trình bày chương trình chính trị, kinh tế, xã hội của Đảng... gây dựng được một phong trào sinh hoạt chính trị sôi nổi, rộng khắp trong công nhân, dân nghèo, học sinh, trí thức, viên chức... Mục đích của Đảng trong việc mở thêm mặt trận này không hề có những ảo tưởng về chính trị mà Đảng chỉ nhân cơ hội này tuyên truyền chủ truơng của mình, tranh thủ thêm sự ủng hộ của quần chúng, đặc biệt cần thiết trong việc lôi cuốn những giai tầng ngoài công nông.
Kết quả của việc đảng viên cộng sản tham gia vận động tranh cử, đại diện cho giới lao động đã giành thắng lợi ở Hội đồng thành phố Sài Gòn và ra tranh cử ở Hội đồng Quản hạt Nam kỳ có tác dụng cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Viêng Chăn, Đà Nẵng, PhNôm Pênh,...
53
Một hình thức đấu tranh hợp pháp nữa mà Đảng cũng lưu ý trong thời kỳ này là đấu tranh trên mặt trận báo chí với hình thức tranh luận các vấn đề cơ bản về lý luận, văn hoá như triết học, văn học nghệ thuật.... Mục đích tuyên truyền công khai với đông đảo quần chúng (đặc biệt ở Nam Kỳ) đường lối, chủ trương cách mạng vô sản, khai thông sự bế tắc về tư tưởng, quan điểm cho nhiều trí thức đang “bâng khuâng đứng giưã hai dòng nước”, từ đó kéo họ về với cách mạng. Mặc dù chỉ giới hạn trên phạm vi báo chí hợp pháp nhưng đã gây tiếng vang lớn trong các tầng lớp học sinh, sinh viên, trí thức tiểu tư sản ở thành thị và một bộ phận nhân dân lao
động khác...
Tất cả những hoạt động trên đã góp phần thúc đẩy việc dần dần phục hồi lại lực lượng, tăng cường thêm trên trận tuyến cách mạng của liên minh công nông nhiều chiến sỹ mới, hơn hết, đã gây được sự ảnh hưởng trở lại và dần rõ nét hơn trong quần chúng, sẵn sàng đưa phong trào tiến lên khi thời cơ đến.
Trên cở sở sự phục hồi nhất định của phong trào cách mạng Đông Dương, được sự giúp đỡ to lớn từ quốc tế, đứng trước nhu cầu cần có một sự chỉ đạo thống nhất trong toàn Đảng, “tháng 3 năm 1934 Đông phương Bộ của Quốc tế Cộng sản đã quyết định thành lập Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương, gồm ba người, do Lê Hồng Phong đứng đầu”{18;175,176-523,524}. Với một nhiệm vụ nặng nề: liên hệ, phối hợp với các tổ chức đảng trong nước, tiếp tục phục hồi và xây dựng nhiều tổ chức, cơ sở trong quần chúng; thống nhất việc chỉ đạo và thực hiện Chương trình hành động năm 1932 của Đảng; chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng.
Một hoạt động cụ thể của Ban Lãnh đạo hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương là trong các ngày từ 14 đến 26 tháng 6 năm 1934, Ban lãnh đạo và các đại biểu các đảng bộ trong nước đã họp hội nghị đánh giá, kiểm điểm việc thực hiện hơn 2 năm Chương trình hành động của Đảng.
Đối với công tác quần chúng, Hội nghị cho rằng: “Cán bộ ở cơ sở chỉ lo lập những tổ chức phổ thông của quần chúng mà sao nhãng việc củng cố và phát triển công hội, nông hội, chưa biết lập mặt trận dân tộc thống nhất phản đế, chưa biết len lỏi trong những tổ chức của các phe nhóm phản cách mạng để lột mặt nạ bọn tay sai đế quốc và giành lại quần chúng”{2; 201}. Hội nghị đề ra những công tác cụ thể cho các tổ chức quần chúng.
54
Cũng cần phải thừa nhận một thực tế khách quan, hạn chế lớn nhất của Đảng trong cuộc đấu tranh khôi phục Đảng và phục hồi phong trào quần chúng chính là những bất cập trong công tác vận động quần chúng. Theo báo cáo chính thức của Đảng thì cho tới tận tháng 3 năm 1935, tổng số hội viên của các hội quần chúng do Đảng lãnh đạo chỉ có 3.679 người. Ngay từ giữa năm 1934 Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng đã nhận thức rõ ràng rằng công tác vận động quần chúng của Đảng, nhất là trong công nhân và nông dân đều "rất kém", thậm chí "Đảng đã theo đuôi quần chúng"{18;193}. Để khắc phục tình hình trên, trong các nghị quyết, chỉ thị, Ban Chỉ huy ở ngoài (và sau này cả Ban Trung ương Chấp uỷ) của Đảng luôn luôn nhấn mạnh công tác vận động quần chúng, coi đó là trọng tâm, là đột phá khẩu trong cuộc đấu tranh khôi phục Đảng và phục hồi phong trào cách mạng. Tuy nhiên, công
tác này chỉ thu được kết quả rất hạn chế. Đại hội I của Đảng thẳng thắn thừa nhận: "Đại hội công nhận rằng công tác trong đoàn thể quần chúng rất yếu"{18;375}. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế nói trên: Thứ nhất, sau thất bại của cao trào cách mạng 1930-1931, cuộc khủng bố tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho tổ chức Đảng bị phá vỡ, khiến cho một bộ phận quần chúng và cán bộ, đảng viên hoang mang, mất phương hướng. Do đó, trong nỗ lực khôi phục Đảng, khôi phục phong trào, đã xuất hiện ở một số địa phương, nhất là ở Trung Kỳ, xu hướng "thủ tiêu", tức là chủ trương tập trung khôi phục tổ chức Đảng trước, đảm bảo bí mật tối đa, rồi sau mới tiến hành tuyên truyền, vận động quần chúng. Trong nhiều chỉ thị, nghị quyết Ban Chỉ huy ở Ngoài và Ban Trung ương Chấp uỷ của Đảng đã nghiêm khắc phê bình chủ trương sai lầm kiểu "lấy thúng úp tinh thần tranh đấu của quần chúng lại để tránh manh động" của các cấp bộ cơ sở Đảng{19;21}, đồng thời chỉ rõ phải gắn chặt và kết hợp nhuần nhuyễn cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức Đảng với khôi phục phong trào đấu tranh, rằng chính thông qua thực tiễn lãnh đạo phong trào đấu tranh mà phục hồi uy tín và tổ chức Đảng. Tuy nhiên, xu hướng "thủ tiêu" này vẫn chậm được khắc phục, là một cản trở không nhỏ khiến cho không những việc khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng kém hiệu quả, mà trên thực tế còn khiến Đảng không thực hiện được đầy đủ vai trò lãnh tụ chính trị của phong trào đấu tranh của quần chúng trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt, khi mà cuộc sống của quảng đại quần chúng bị tác động của cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới đẩy đến mức cùng quẫn nhất. Thứ hai, góp phần vào việc chậm khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và khôi phục phong trào đấu tranh của quần chúng chính là việc Đảng, dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, đã tiếp tục theo đuổi một đường lối chiến lược và sách lược mà mãi sau này, trong thời kỳ 1936-1939, Đảng mới nhận thức được là "chủ nghĩa bè phái", cần phải tẩy trừ. Những khuyết điểm này, được bộ lộ như sau:
55
- Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược và sách lược, mặc dù thời kỳ cao trào cách mạng đã qua, nhưng những khẩu hiệu tranh đấu của Đảng hầu như không thay đổi gì. Trong bản Chương trình hành động công bố vào tháng 6 năm 1932 cũng như trong nhiều tài liệu tuyên truyền khác Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn tiếp tục hô hào quần chúng bằng các khẩu hiệu như: "Đánh đổ đế quốc áp bức! Đông Dương hoàn toàn độc lập!", "Đánh đổ phong kiến, địa chủ! Chia đất cho dân cày!", "Chính quyền Xôviết công nông muôn năm!".{18;29}. Rõ ràng là sự chỉ đạo của Đảng đã không còn sát hợp với tình hình, và do đó, đã không mang lại hiệu quả.
-
Thứ hai, tiếp tục phê phán quan điểm của Nguyễn Ái Quốc được Hội nghị hợp nhất tháng 2 năm 1930 thông qua, cho rằng đường lối đó "mắc vào chủ nghĩa cơ hội", "trái với học thuyết lêninnít, với đường lối chính trị của Quốc tế Cộng sản", "mang nặng những tàn tích của chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa sôvanh"{18;399, 345}. Do theo đuổi đường lối "đấu tranh giai cấp" một cách máy móc, xa rời cương lĩnh chính trị và phương hướng chiến lược và sách lược mà Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra, cho nên công tác vận động quần chúng của Đảng trong thời kỳ này rất ít hiệu quả. Các tổ chức quần chúng của Đảng, như Công hội đỏ, nông hội, Thanh niên Cộng sản đoàn "... chỉ có thể là những tổ chức đóng cửa, bè phái, tách rời quần chúng"{19;375}.
Với những mặt hạn chế như vậy đã gây ảnh hưởng không tốt cho Đảng về nhiều mặt, điển hình nhất là việc phục hồi tổ chức và phong trào quần chúng. Bản thân ban lãnh đạo của Đảng cũng đã sớm nhận thức được những sai lầm này và đã có một số biện pháp khắc phục, điều chỉnh. Tuy nhiên, phải đến thời kỳ 1936 - 1939 thì những hạn chế đó mới được phân tích đầy đủ và từng bước khắc phục triệt để.
Từ ngày 27 đến ngày31 tháng 3 năm 1935, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Ma Cao, Trung Quốc. Tham dự có 13 đại biểu thay mặt cho 600 đảng viên thuộc các đảng bộ ở trong nước và ngoài nước. Đại hội đánh giá trong mấy năm khôi phục và phát triển phong trào, Đảng đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng. Đại hội đã nêu ra 3 nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt của toàn Đảng : củng cố phát triển Đảng, tranh thủ quần chúng rộng rãi, chống chiến tranh đế quốc.
“Đảng muốn chỉ huy nổi phong trào, muốn đưa phong trào cách mạng lên tới trình độ cao...thì trước hết cần phải thâu phục quảng đại quần chúng. thâu phục quảng đại quần chúng là một nhiệm vụ trung tâm, căn bản, cần kíp của Đảng hiện thời”{19; 26}, Nếu không liên lạc mật thiết được với quần chúng , không được quần chúng ủng hộ, tán thành thì những nghị quyết cách mạng của Đảng chỉ là nói suông. Cho nên, để huy động được quần chúng Đảng phải dìu dắt quần chúng ra đáu tranh giành quyền lợi hàng ngày , phải củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng vào một mặt trận thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
56
Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị và điều lệ Đảng, thông qua các Nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính và các nghị quyết về công tác liên minh phản đế, công tác trong các dân tộc thiểu số, vvề đội tự vệ và cứu tế đỏ.
57
Có thể đánh giá rằng, Đại hội I của Đảng đã thông qua được nhiều nội dung quan trọng, là một thành công lớn khi đã khôi phục được hệ thống tổ chức Đảng từ trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước; thống nhất được phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân và nông dân, cũng như các tầng lớp nhân dân khác dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; tạo thành một sức mạnh tổng hợp chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới.
Chương 2
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG
NHỮNG NĂM 1936-1939.
2.1. Chủ trương của Đảng về công tác vận động quần chúng trong tình hình mới.
2.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước.
- Quốc tế: Cho đến giữa những năm 30 của Thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1933 đã đi qua, nhưng những hậu quả của nó vẫn còn là một vấn đề nhức nhối, đẩy các nước tư bản chủ nghĩa vào tình trạng tiêu điều kéo dài. Nửa sau của năm 1937, một cuộc khủng hoảng kinh tế mới lại nổ ra, một lần nữa các nước tư bản lại phải gánh chịu những phản ứng phụ từ chính những chính sách phát triển của mình. Tại Mỹ, sản lượng công nghiệp năm 1938 chỉ bằng 81% sản lượng năm 1929, ở Pháp là 76%. Nhưng ngược lại, ở Đức và Nhật nền kinh tế không bị khủng hoảng do các nước này tích cực “chuẩn bị chiến tranh và bóc lột tàn nhẫn giai cấp công nhân và nông dân.” Từ khủng hoảng kinh tế làm nảy sinh khủng hoảng xã hội. “Tình trạng bao trùm chung ở tất cả các nước tư bản phát triển là xã hội mất an ninh nghiêm trọng do tình trạng lạm dụng bạo lực, đặc biệt là sự thịnh hành của các xu hướng, các phong trào bạo lực xã hội của giới trẻ vô nghề nghiệp, thất vọng trước cuộc sống hiện tại, mất định hướng về tương lai. Đó chính là môi sinh lịch sử thuận lợi cho sự xuất hiện các xu hướng chính trị cực hữu ở các nước tư bản Phương Tây, mà điển hình nhất là chủ nghĩa phát- xít.” {65;3}. Chủ nghĩa phát xít đã xuất hiện tại và lên nắm chính quyền ở một số quốc gia như Đức, Italia, Nhật Bản... Tháng 10 và tháng 11 năm 1936, ba nước Đức, Italia, Nhật Bản đã ký kết một hiệp ước liên minh chống Quốc tế Cộng sản, hình thành trên bản đồ chính trị quốc tế trục phát xít đe doạ an ninh và hoà bình thế giới. Sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tiếp tục là nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa có tính chất cục bộ của một vài nước tư bản đã phát xít hoá chính quyền, điển hình như: năm 1935, Italia xâm lược Êtiôpia, đe doạ vị trí của Anh ở Ai Cập, Iran , Irắc. Năm 1936, Đức có 58
nhiều động thái xâm lược và gây bất ổn định ở Châu Âu, Châu Phi. Năm 1937, Nhật mở rộng xâm lược Trung Quốc, đồng thời tiến hành chuẩn bị gắt gao xâm chiếm những phạm vi quyền lợi của Anh, Pháp tại Châu Á... Quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan hệ giữa Đức, Italia, Nhật Bản với Anh, Pháp, Mỹ trở nên xấu đi. Trong khi đó đây là khoảng thời gian mà Liên Xô đạt được nhiều thành công quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên Xô đã hoàn thành thắng lợi những chỉ tiêu trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1933-1937), chuẩn bị đi vào kế hoạch 5 năm lần thứ ba. “ Liên Xô đã trở thành nước xã hội chủ nghĩa có nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp tập thể hoá sản xuất quy mô lớn và quốc phòng vững mạnh” {2; 216}. Cũng chính vì thế, mâu thuẫn giữa Liên Xô với các nước đế quốc phát xít đã hình thành, mâu thuẫn này tồn tại đồng thời với mâu thuẫn giữa các nước đế quốc phát xít với nhau. Đứng trước những biến động của tình hình thế giới, các cường quốc đã thể hiện “bản chất qua quan điểm và động thái” của mình. A. Hitler muốn tiêu diệt Nga Xô cộng sản, năm 1936, Đức, Nhật liên danh ký kết “Hiệp ước chống Quốc Tế Cộng Sản”. Năm 1937, Italia cũng tham gia Hiệp ước này, tuy bề ngoài là kêu gọi tiêu diệt Cộng sản, nhưng thực chất chúng còn ngấm ngầm chuẩn bị chiến tranh với các đế quốc Anh, Pháp, Mỹ. Trong khi đó Liên Xô đã nhận thức rõ một hiểm hoạ đang đến gần, một mặt đã kiên quyết theo đuổi chính sách hoà bình, ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa, tích cực đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị quốc phòng cho một cuộc chiến tranh vệ quốc, mặt khác kiên trì vận động các chính phủ Anh, Pháp, Mỹ ký một hiệp ước an ninh tập thể chống xâm lược và giúp đỡ các nước bị xâm lược. Nhưng do bị hạn chế bởi bản chất đế quốc, các nước Phương Tây đã theo đuổi chính sách 2 mặt. Một mặt, chúng dùng chính sách nhân nhượng, cho phép các nước phát xít Đức, Italia tự do mở rộng thế lực, lãnh thổ, đổi lại họ hy vọng sau đó Đức, Italia sẽ quay sang tấn công Liên Xô, bằng cách này họ đã hy sinh lãnh thổ của Áo và Tiệp Khắc. Mặt khác, các nước Anh, Pháp, Mỹ cũng tiến hành đàm phán với Liên Xô nhưng với tình trạng “dùng dằng” nhằm thể hiện một “thiện chí” hoà bình, nhằm che mắt dư luận. Bên cạnh đó, Mỹ đã thể hiện sự cáo già trong ngoại giao khi muốn theo đuổi chính sách “trung lập” giả hiệu bằng cách bán vũ khí cho các bên đánh lẫn nhau và đánh Liên Xô, để cuối cùng chắc chắn Mỹ sẽ trở thành bá chủ. Bước ngoặt trong chiến lược có ảnh hưởng sâu rộng đối với sự phát triển của phong trào cách mạng toàn thế giới nói chung cũng như đối với phong trào cách mạng Việt Nam khởi đầu với Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản diễn ra từ ngày 25 tháng 7 tới ngày 20 tháng 8 năm 1935 tại Maxtcơva (Liên Xô), với sự 59
tham gia của 65 đoàn đại biểu đại diện cho các đảng cộng sản trên toàn thế giới. Tại đại hội lịch sử này, Dimitrov đã đọc một bản báo cáo chính trị quan trọng, chỉ rõ bản chất chính trị của chủ nghĩa phát- xít. Theo Dimitrov, Chủ nghĩa phát-xít nắm chính quyền là nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính. Đồng thời, bản báo cáo cũng đưa ra một cách phân tích mới, khoa học, làm căn cứ cho sự chuyển hướng chiến lược cách mạng của phong trào cộng sản và công nhân thế giới: Ngày nay, trong nhiều nước tư bản chủ nghĩa, quần chúng lao động trước mắt phải lựa chọn một cách cụ thể không phải giữa nền chuyên chính vô sản với chế độ dân chủ tư sản, mà là giữ chế độ dân chủ tư sản với chủ nghĩa phát-xít.
Trên cơ sở đó Quốc tế Cộng sản đã xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế không phải là tiến hành cách mạng vô sản, lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập nền chuyên chính vô sản và xây dựng xã hội cộng sản, mà ngược lại, tập trung ngọn lửa đấu tranh vào bộ phận phản động nhất của giai cấp tư sản, tức là đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít, bảo vệ hoà bình, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh thế giới mới. Để thực hiện mục tiêu nói trên, Quốc tế Cộng sản chủ trương rằng các đảng cộng sản ở tất cả các nước phải thiết lập cho được một liên minh dân chủ rộng rãi, cùng với mọi giai tầng tiến bộ trong xã hội cùng đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít, vì "tự do, cơm áo, hoà bình". Sau 17 năm lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đây là lần đầu tiên Quốc tế Cộng sản nhận thức lại học thuyết đấu tranh giai cấp, vận dụng biện chứng, mềm dẻo hơn cho phù hợp với yêu cầu khách quan của tình hình. Sự chuyển hướng chiến lược của Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ VII, vì vậy, vừa trực tiếp tạo ra một bước phát triển mới trong phong trào cách mạng thế giới, vừa có ảnh hưởng lâu dài đối với tư duy chiến lược của nhiều đảng cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Đông Dương.
Quán triệt Nghị quyết Quốc tế Cộng sản, các đảng cộng sản ra sức phấn đấu thực hiện mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít. Tiêu biểu như tình hình ở Tây Ban Nha, ở Trung Quốc, đặc biệt là ở Pháp, đã có những tác động sâu sắc đến cách mạng Đông Dương.
60
Tháng 1 năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp chống phát xít được thành lập bao gồm Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, Đảng Cấp tiến, Tổng Liên đoàn lao động... Mặt trận đã đề ra nhiều chính sách tiến bộ. Cuộc bầu cử tháng 4 năm 1936, các đảng phái tham gia Mặt trận giành được 56,6% tổng số phiếu bầu. Tháng 6 năm
1936, Chính phủ phái tả lên cầm quyền ở Pháp do Lê- ông Bơ- lum đứng đầu. Ngay lập tức, chính phủ Blum tuyên bố sẽ tiến hành một số cải cách dân chủ ở nước Pháp và các thuộc địa, như ân xá tù chính trị, ban bố luật lao động. Đối với Đông Dương và các xứ thuộc địa khác, trên thực tế, Chính phủ Bình Dân cho đến tháng 9 năm 1936 chưa có cam kết nào cụ thể, ngoài lời tuyên bố sẽ thực thi một số chính sách để cải thiện cuộc sống của dân chúng các xứ thuộc địa, và sẽ lập một phái đoàn thanh sát tình hình cụ thể tại lãnh thổ bên ngoài nước Pháp, chú trọng Bắc Phi và Đông Dương. Tuy nhiên, so với các chính phủ trước đây của giới tư bản tài phiệt Pháp thì thái độ đó Chính phủ Bình dân Pháp cũng đã là một chuyển biến đáng kể, một điều kiện thuận lợi cho bước phát triển mới của phong trào giải phóng dân tộc tại các nước là thuộc địa của Pháp, trong đó có Việt Nam.
61
- Trong nước: Tình hình kinh tế: Ở Việt Nam, do chính sách cai trị của Thực dân Pháp, tình hình kinh tế có những thay đổi nhất định. Bức tranh kinh tế Đông Dương, đặc biệt là ở Việt Nam có nhiều “gam màu” khác nhau, nhưng về cơ bản đây là “thời kỳ phục hồi và phát triển của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển đó tập trung vào những ngành kinh doanh các mặt hàng chiến lược, đáp ứng nhu cầu chiến tranh. Trong thời gian này không xuất hiện những ngành kinh tế mới. Nền kinh tế Việt Nam vẫn ở trong tình trạng phụ thuộc và lạc hậu”{35; 324}. Tình hình xã hội: Thực dân Pháp lại tiến hành tăng thêm thuế đánh vào các tầng lớp nhân dân ở Đông Dương, các số thuế thu trong thời kỳ này tăng hơn trước. Tình cảnh các giai cấp, tầng lớp trong xã hội vì vậy đều gặp rất nhiều khó khăn. Đối với giai cấp công nhân: Sau khủng hoảng kinh tế, số công nhân được nhận lại vào làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp có tăng nhưng chưa nhiều, tình trạng thất nghiệp vẫn còn trầm trọng. Theo số liệu thống kê của cơ quan lao động Nhà nước thực dân, năm 1936 vẫn còn 408.336 người thất nghiệp.... Thậm chí, lương công nhân trong những năm 1936- 1938 thấp hơn so với thời kỳ đầu khủng hoảng, đến tận năm 1939 lương công nhân mới bằng mức của năm 1931. Giá cả sinh hoạt ngày càng đắt đỏ, có mặt hàng tăng tới 100%, thậm chí lên tới 127%, 143% như : gạo, trứng gà, trứng vịt... mức sống của những người làm công ăn lương giảm sút ghê gớm. Đời sống của nông dân còn cực khổ hơn. Vì đa số họ không có ruộng đất, hoặc có rất ít ruộng. Họ phải đi làm thuê, làm mướn hay nhận ruộng của địa chủ để canh tác, địa tô ngày một tăng và nặng nề. Không những thế, thiên tai, ngập lụt, vỡ đê liên tiếp xảy ra, nạn đói thì triền miên năm này qua năm khác. Nạn đói diễn ra từ
Bắc chí Nam, nạn đói đi liền với dịch bệnh. Bọn cường hào ác bá ở nông thôn không ngừng hoành hành, trái lại, tình trạng này cũng có nguy cơ gia tăng. Tình trạng ma chay, cưới xin theo hủ tục, tệ nạn xã hội... càng làm cho đời sống của nông dân thêm bần cùng. Đời sống các giai tầng khác cũng khá chênh vênh, đặc biệt là tiểu tư sản trí thức bị thất nghiệp nhiều, những người còn giữ được việc làm thì bị ngược đãi, sinh viên tốt nghiệp đại học thì thất nghiệp. Tư sản Việt Nam bị thuế khoá nặng nề, ngoài ra họ còn bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh không lành mạnh. Một số nhà tư sản người Việt bị phá sản trong thời kỳ này. Bộ phận trung, tiểu địa chủ người Việt trong thời kỳ này cũng vô cùng gian nan. Họ bị các chủ đồn điền người Pháp cạnh tranh khốc liệt, hoặc bị các đại địa chủ người Việt bon chen, chèn ép, lấn chiếm ruộng đất, dùng nhiều thủ đoạn để lừa gạt, ép buộc phải nhượng lại, bán lại đất đai với giá rẻ... Tóm lại, đời sống của các giai tầng trong xã hội Việt Nam (trừ bộ phận đại địa chủ, tư sản mại bản) thời kỳ này đều lâm vào tình trạng khó khăn, cơ cực, bần cùng. Đây chính là nguyên nhân, động lực thúc đẩy họ tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước, đòi quyền sống, tự do, dân chủ, cơm áo. Vì vậy, đây cũng là một thuận lợi và là một nhiệm vụ để Đảng ta phát hiện và tận dụng nhằm thực hiện được yêu cầu của cách mạng trong tình hình mới này.
2.1.2. Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng.
62
Đứng trước những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước, các đảng phái chính trị tại Việt Nam đều ra sức hoạt động nhằm thu hút sự tham gia của quần chúng nhân dân. Sự thay đổi về chủ trương sách lược vào thời khắc biến động của lịch sử luôn có những tác dụng nhất định, tạo nên những bước đột phá quan trọng, có những tác động lớn đến toàn cục của quá trình tranh đấu cách mạng. Với tư cách là một chính đảng lớn nhất, mạnh nhất, có tổ chức chặt chẽ và đường lối rõ ràng nhất Đông Dương lúc ấy, ngày 26- 7- 1936, dưới sự chủ toạ của đồng chí Lê Hồng Phong, Uỷ viên Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tiến hành họp Hội nghị Ban Chấp Hành Trung ương tại Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị đã căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản, trên cơ sở nhận thức những biến động của tình hình quốc tế, trên cơ sở nghiên cứu những điều kiện cụ thể tại Việt Nam, Hội nghị đã vạch ra những những chủ trương có tính chất chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng: - “Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Việt Nam là chống đế
quốc và phong kiến. Nhưng để phù hợp với tình hình mới, Đảng xác định mục tiêu trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân Đông Dương là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai. - Về khẩu hiệu đấu tranh, tạm thời chưa nêu “Đánh đổ đế quốc Pháp” và “Tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày”, mà nêu “Tự do, dân chủ cơm áo và hoà bình” - Về tổ chức, chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương bao gồm các giai cấp và đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau. - Về phương pháp đấu tranh, kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp.” {35; 327, 328} Hội nghị phê phán tư tưởng “tả” khuynh hẹp hòi, bảo thủ chỉ chú trọng công tác không hợp pháp, chỉ biết có quần chúng công nông mà không chịu hợp tác với các tầng lớp nhân dân khác; đồng thời cũng đề phòng tư tưởng hữu khuynh, không giáo dục cho đảng viên, quần chúng hiểu rõ mục đích cách mạng là giải phóng Đông Dương khỏi ách đế quốc, thực dân, xoá bỏ tàn tích phong kiến, lìa bỏ lập trường giai cấp, ngăn cản không cho công nhân đấu tranh với tư sản và nông dân với địa chủ, vv... Có thể khẳng định, Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 26 tháng 7 năm 1936 có ý nghĩa vô cùng quan trọng, những quyết nghị của nó đã bổ sung cho những khuyết điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương đầu năm 1935, mở ra cho cách mạng Đông Dương một thời kỳ phát triển mới.
2.1.3 Nội dung chuyển hướng chỉ đạo công tác vận động quần chúng của Đảng.
63
Chủ trương chỉ đạo trước Hội nghị Thượng Hải tháng 7- 1936. Tháng 4- 1936, nhân dịp chuẩn bị kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động 1- 5, Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn chỉ đạo quần chúng cách mạng đấu tranh theo tinh thần chỉ đạo của đường lối cũ (chưa có sự điều chỉnh về chiến lược), Đảng khẳng định: chiến thuật thống nhất các lực lượng cách mạng của vô sản và quần chúng cần lao Đông Dương là phương tiện cuối cùng và độc nhất để đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp” {20, 4}. Mũi nhọn của quần chúng cách mạng vẫn hướng về đế quốc Pháp nói chung (tức là mọi cai trị của Pháp ở Đông Dương). Đảng còn nhấn mạnh: “muốn
đón tiếp mọi đảng phái và phần tử riêng rẽ giải pháp tốt nhất cho việc thành lập mặt trận thống nhất cách mạng chống đế quốc Pháp”. {20; 5}những khẩu hiệu cách mạng được nêu ra cụ thể trong thời kỳ này khẳng định Đảng Cộng sản Đông Dương quan tâm chặt chẽ quyền lợi các giai cấp để lôi kéo được nhiều hơn lực lượng ngoài công nông vào độ quân cách mạng. Nếu so sánh quan điểm chỉ đạo về công tác quần chúng trong Luận Cương 10.1930 thì có thể khẳng định đến tháng 4 năm 1936 đã có những chuyển biến nhất định về chủ trương chỉ đạo trong công tác vận động quần chúng. Đảng Cộng sản Đông Dương bảo vệ tất cả yêu sách của anh chị em …đòi giảm giờ làm, lập bảo hiểm xã hội, chống thất nghiệp, cứu giúp hỗ trợ cho tiểu tư sản, thả tù chính trị… Các khẩu hiệu được tuyên truyền như:
“Đả đảo khủng bố trắng! thả ngay tất cả tù chính trị! Đả đảo đế quốc Pháp và phong kiến bản xứ! Đả đảo bọn quốc gia cải lương, đầy tớ trung thành của đế quốc Pháp. Phản đối chiến tranh đế quốc! Ủng hộ Liên Bang Xô Viết! Đả đảo bọn phát xít, kẻ gây ra chiến tranh đế quốc!...” {20 , 5}.
Đối mặt với vô vàn khó khăn trong thực tiễn cách mạng ở Đông Dương trong bối cảnh kẻ thù điên cuồng đàn áp, khủng bố, hệ thống cơ sở Đảng, đảng viên, quần chúng hỗ trợ đắc lực cho cách mạng có phần bị giảm sút, Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn biết bám sát tình hình đề ra những sách lược phù hợp trước khi có những chuyển biến quan trọng về chủ trương được đưa ra.
Trong một loạt các bức thư ngỏ gửi các tổ chức chính trị, cá nhân và giai cấp cách mạng, Đảng Công sản Đông Dương thể hiện sự nhiệt thành của mình: “ĐCSĐD đề nghị cùng tất cả các Đảng quên đi những hiểu lầm trong quá khứ để tập trung mọi lực lượng đấu tranh của các Đảng cho phong trào chống đế quốc”{ 20; 9}. Từ đó đề ra các biện pháp để liên minh cũng như các mục tiêu cần đạt đến trong quá trình lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
64
Liên tiếp trong các văn kiện ngay trước khi diễn ra Hội nghị tháng 7- 1936 của Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng kiểm điểm lại công tác vận động quần chúng một cách quyết liệt với các đồng chí của mình: “Đảng phải mật thiết liên lạc với quần chúng, phải có quần chúng ủng hộ mới có thế lực”… “ công tác tổ chức phát triển của Đảng không thể ly khai đựơc công tác của quần chúng”. Thực trạng ở Đông Dương kẻ thù luôn chống phá và đàn áp quyết liệt, hễ ai bị bắt - không phân biệt đảng viên hay hội viên công hội, nông hội… đều bị chúng đàn áp như nhau, vì đó Đảng nhắc nhở đảng viên: “ không nên câu nệ về mấy chữ công hội, nông hội…. Từ nay về sau chỗ nào mà các công,nông
hội khó tổ chức thì các đồng chí lấy danh nghĩa như ái hữu hội, tương tế hội, hợp tác xã, hội học đêm mà tổ chức công nông cho dễ” {20; 20}.
Đối với công tác thành lập mặt trận thống nhất phản đế. Đây là một việc quan trọng phù hợp với điều kiện trong nước và quốc tế nên Đảng lệnh cho các cấp “ tự động hưởng ứng với các đảng bộ tương đương của các đảng phái đoàn thể khác nữa. Lập mặt trận dân chúng thống nhất phản đế Đông Dương”{20; 21}. Nguyên tắc thành lập, phải dựa vào nghị quyết VII của QTCS , dựa trên sự chỉ đạo của Đảng. Mặt trận này để thực hiện nhiệm vụ chung: “phải dùng đủ phương pháp mà đánh trúc ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang, cách mạng vận động Tàu và cách mạng vận động thế giới {20; 21}. Các đảng viên cần nhớ để lôi kéo cho hết quần chúng tham gia mặt trận đấu tranh vì các mục tiêu to lớn đã nêu nhất định Mặt trận phải bênh vực những quyền lợi thiết thân hàng ngày của quần chúng, đặc biệt “trong khi thành lập Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế Đông Dương, Đảng phải giữ quyền độc lập về quyền tổ chức chính trị, giữ quyền tự do công kích sự không triệt để của các đảng phái vào MTDCTNPĐ” {20; 22}. Đó là nguyên tắc cũng như yêu cầu của Đảng đối với các đảng viên khi thành lập, tổ chức các hoạt động của Mặt trận.
Trước tình hình mới, ngày 30- 6- 1936 xứ uỷ Nam Kỳ đã ra một quyết định quan trọng, trong đó nêu bật lên các nhiệm vụ cần kíp phải giải quyết, trọng tâm của nó hướng vào vấn đề vận động giai cấp: “dù quần chúng là đông đảo thì họ chỉ có thể đấu tranh thắng lợi nếu họ có những người lãnh đạo, thiếu người lãnh đạo họ chắc chắn thất bại” {20; 28}. Nghị quyết vạch rõ các đối tượng cần vận động, lúc này các tổ chức cần được xây dựng, củng cố và phát triển nhằm xây dựng lại một đội quân cách mạng hùng hậu có mặt trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Nam Bộ”, có thể khẳng định đây là những quyết sách quan trọng và tiến bộ mà xứ uỷ Nam Kỳ đã làm được.
65
Chú ý đầu tiên của Đảng trong lực lượng cách mạng là “thanh niên cộng sản” đây là đội quân dự trữ của Đảng, phải khẩn trương tập hợp các thanh niên có tư tưởng cộng sản để lập ra một tổ chức “thanh niên cộng sản”. Các tổ chức công nhân, nông dân cần được tái thiết củng cố và nhân rộng tạo nên một hệ thống gắn bó chặt chẽ, đoàn kết thu hút đông đảo công nhân, nông dân tham gia…Xứ uỷ cũng nhấn mạnh tới vai trò của quân đội, sinh viên cũng như các lực lượng ở bên ngoài ( các tổ chức chính trị khác và quần chúng chịu ảnh hưởng của các tổ chức đó).
Trước thềm của môt cuộc vận động cách mạng lớn (thời kỳ 1936- 1939) với nhiều sự khác biệt so với các thời kỳ trước mà xứ uỷ Nam Bộ nói riêng và Trung ương Đảng nói chung đã có những biến chuyển trong chỉ đạo công tác vận động quần chúng… “chúng ta phải tổ chức trong mỗi đại đội một hay hai chi bộ, tuỳ theo số lượng binh lính” phải tiếp xúc với lính mới trong những ngày nghỉ khi họ về nhà. Phải chỉ cho ra cho các tân binh đó biết sự dã man của bọn đế quốc, sử dụng họ làm bia đỡ đạn trong chiến tranh, phải thức tỉnh lương tâm các lính khố đỏ”. Phải tuyên truyền cả trong các thành viên gia đình những người đi lính như cha, me, vợ, con họ….
Xứ uỷ nhấn mạnh việc lập ra các đội dân quân tự vệ để bảo vệ các cơ quan Đảng, đàn ông, phụ nữ đều có thể tham gia các nhóm tự vệ. Vai trò của sinh viên cũng được đề cao: “ các sinh viên là lực lượng không phải không đáng kể trong việc tuyên truyền cách mạng” {20; 33}. Rõ ràng cách nhìn nhìn nhận về sinh viên nói riêng và các bộ phận khác ngoài công nông của thời kỳ này so với các thời kỳ trước có sự thay đổi khá cơ bản.
Trong chủ trương vận động quần chúng với các lực lượng khác cũng như lực lượng quần chúng chịu ảnh hưởng của họ thì có thể khẳng định chắc chắn một điều đây là thời kỳ những chủ trương của Đảng để đối phó với các tổ chức chính trị cách mạng và không cách mạng, tôn giáo đã có những bước phát triển rất cao, điều này thể hiện được bản lĩnh của một đảng chân chính:
Trước hết, đối với những tổ chức quốc gia cách mạng: Đảng nhấn mạnh chính sách linh hoạt một cách rõ ràng: đối với lực lượng lãnh đạo các tổ chức này cần “lập ra một mặt trận thống nhất bằng cách chúng ta thoả thuận với họ về các hiện tượng tượng tượng trưng chống đế quốc” {20; 33}, riêng với quần chúng của họ Đảng lại nhấn mạnh việc tuyên truyền để chuyển nhận thức của bộ phận này sang lập trường của chủ nghĩa cộng sản, làm cho họ thấy rằng đi theo các lãnh tụ của họ không thể thoát khỏi kiếp sống bị bóc lột, vì rằng các con đường và các chủ trương khác ngoài cộng sản chủ nghĩa đều là bóc lột.
66
Thứ hai, đối với các tổ chức quốc gia cải lương, lập trường của chúng ta rất rõ ràng, vạch mặt bọn này là tay sai của đế quốc, ngăn cản sự phát triển của cách mạng và quần chúng “ Đảng phải lôi cuốn quần chúng đang bị ảnh hưởng của những người cải lương vào cuộc đấu tranh chống CNTB” {20; 34} làm cho quần chúng công nông biết rằng những lãnh tụ cải lương là những đày tớ của chủ nghĩa đế quốc Pháp {20; 34}.
Thứ ba, đối với lực lượng Tơrôtxkit, “phải vạch mặt họ trước mặt tất cả mọi người đặc biệt là trước quần chúng công nông” chúng ta phải thâm nhập quần chúng của bọn này để có thể vạch mặt chúng, hướng họ vào cuộc đấu tranh với khẩu hiệu mà bọn Tơrôtxkit không hề mong muốn: “ cách mạng phản đế và điền địa”.
Thứ tư, đối với các đảng chính trị tôn giáo, lập trường rõ ràng của nghị quyết: “không thể liên minh” với các lãnh tụ tôn giáo, vì chính họ và tôn giáo là ru ngủ và làm cho quần chúng quên đi đấu tranh. Hướng cuộc vận động vào quần chúng chịu ảnh hưởng tôn giáo, làm cho họ thấy được bản chất của bọn cầm đầu từ đó nổi dậy chống lại bọn cầm đầu, chuyển họ từ lập trường tôn giáo sang lập trường vô sản.
Cũng trong tháng 6-1936, Đảng ra một chỉ đạo quan trọng bằng văn bản với tên gọi: Mặt trận dân chúng thống nhất tranh đấu phản đế. Giải thích vì sao phải thành lập mặt trận này, kinh nghiệm thành lập và hoạt động của hình thức mặt trận ở các nước, những xu hướng sai lầm của Đảng ta về mặt trận phản đế… Đảng khẳng định muốn thực hiện được mặt trận dân chúng thống nhất tranh đấu đế quốc thì phải :
1. Củng cố và phát triển hàng ngũ của Đảng, nâng cao trình độ lý luận của Đảng, biến mỗi đảng viên thành một người tổ chức và lãnh đạo có năng lực trong vận động quần chúng.
2. Khoách trương và củng cố các tổ chức quần chúng: công nông hội, học
sinh hội, phụ nữ hội, phản đế liên minh…
3. Phải giúp đỡ các đảng phái quốc gia cách mạng về đường lý thuyết và phải giúp đỡ lẫn nhau trong các cuộc tranh đấu, để đưa họ đến con đường chân chính phản đế….
4. Bênh vực quyền lợi hàng ngày của công nông binh và các lớp quần chúng bị áp bức, kéo thanh niên phụ nữ lao động, người các dân tộc thiểu số, người ngoại quốc vào vận động cách mạng, liên lạc các khẩu hiệu từng phần với những khẩu hiệu chung của cuộc cách mạng phản đế và điền địa ở Đông Dương.
67
5. Hiệu triệu quảng đại quần chúng lao động toàn xứ chống khủng bố trắng, chống phát xít, chống đế quốc chiến tranh. Phổ biến những thắng lợi của Xô- viết liên bang và Xô- viết Trung Quốc, ủng hộ Xô viết liên bang và ủng hộ Xô- viết Trung Quốc.
Tháng 7- 1936 , dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Hồng Phong, uỷ viên dự khuyết BCH QTCS, hội nghị BCHTU Đảng được triệu tập tại Thượng Hải (Trung Quốc). Căn cứ vào những biến chuyển của tình hình thế giới cũng như trong nước, căn cứ vào những chỉ đạo cụ thể từ Nghị quyết VII QTCS, Hội nghị đã định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh cách mạng trong thời kỳ mới:
“Có thể nói đây là lần đầu tiên Đảng thực sự xem xét lại toàn bộ đường lối chiến lược và sách lược mà Đảng theo đuổi từ tháng 10- 1930 với một tinh thần phê phán nghiêm túc. Hàng loạt những sai lầm của Đảng trước đây trong nhận thức về nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, về mối quan hệ giữa cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, về phương pháp và hình thức tổ chức tổ chức quần chúng, tổ chức đấu tranh, nhận thức về các lực lượng cách mạng và về mặt trận dân tộc thống nhất vv…hội nghị đã khẳng định: “thực tế chỉ cho chúng ta thấy rằng, sách lược mới của Quốc tế cộng sản là đúng (…) {20; 79}, đồng thời Hội nghị đã dứt khoát khẳng định: “Ban Trung ương, sau khi đã nghiên cứu những điều kiện chủ quan và khách quan ở Đông Dương đã đi đến kết luận rằng việc thành lập Mặt trận dân tộc phản đế không thể trì hoãn thêm một phút. Các tổ chức Đảng, mỗi một đồng chí phải hết sức chủ động thành lập mặt trận Mặt trận dân tộc phản đế, nhằm tập hợp tất cả các đảng, tất cả các tầng lớp quần chúng để tranh đấu đòi những yêu sách tối thiểu” {65; 9}.
Để thực hiện được kết luận trên, Đảng phải điều chỉnh một loạt vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam với hai mục tiêu cơ bản là “độc lập dân tộc” và “người cày có ruộng” tuy không thay đổi nhưng trước mắt phải được cụ thể hoá bằng những khẩu hiệu sách lược cụ thể, tập hợp thật đông đảo tất cả các tầng lớp nhân dân, tập trung ngọn lửa đấu tranh vào một bộ phận phản động nhất trong hàng ngũ thực dân- phong kiến thống trị ở Đông Dương, chống phát xít và ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh thế giới.
68
Về tổ chức, Ban Trung ương yêu cầu phải triệt để thay đổi phương pháp tổ chức quần chúng. Đảng phải thẳng thắn thừa nhận là vai trò tổ chức lãnh đạo của Đảng chưa thật sự thuyết phục: “các tổ chức quần chúng đã tồn tại trước đây, trong thực tế không có chỗ dựa trong quần chúng. Vì thế cho đến nay, phần lớn quần chúng ở Đông Dương vẫn không được tổ chức. Vì vậy, nhiêm vụ cấp thiết nhất là phải trừ bỏ những hình thức tổ chức thiển cận, bè phái, phải sử dụng mọi khả năng công khai và bán công khai để tổ chức quần chúng rộng rãi hơn, không phụ thuộc vào hình thức, không phụ thuộc vào tên gọi.
Về sách lược đấu tranh, Đảng chủ trương sử dụng kết hợp mọi hình thức đấu tranh chính trị, công khai và bán công khai, bí mật hợp pháp và bất hợp pháp, tiến hành trên nhiều địa vực khác nhau. Trong tranh đấu, Đảng sẵn sàng liên minh có nguyên tắc với tất cả các đảng phái, các tổ chức khác nhau trên cơ sở nhất trí về mục tiêu tranh đấu.
Trong lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đây là lần đầu tiên Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược một cách toàn diện và triệt để. Sự chuyển hướng này không đơn giản chỉ là sự vận dụng đường lối mới của Quốc tế cộng sản vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam. Ngược lại, đó là kết quả của cả một quá trình cân nhắc thận trọng, nghiên cứu kỹ lưỡng và cuối cùng đi đến kết luận hoàn toàn dứt khoát của đội ngũ lãnh đạo Đảng. Bước chuyển hướng chiến lược này đã đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về tư duy lý luận, về bản lĩnh và kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng. Nó đặt cơ sở vững chắc cho sự phục hồi của Đảng, cho thắng lợi của cách mạng trong giai đoạn cách mạng trước mắt và cả trong những thời kỳ tiếp theo.
Để triển khai được đường lối mới của mình Đảng cần giải thích rõ ràng hơn về những đổi mới trong sách lược đấu tranh mới, điều này rất cần thiết khi lực lượng Tơrôtxkit núp sau những lời lẽ “cách mạng tả” để chống phá Đảng ta. Ngày 30- 10- 1936 văn kiện “Chung quanh vấn đề chiến sách mới” được Đảng tuyên truyền để giải thích về chủ trương của mình và xác định phải chú ý giải thích những điểm mới này, xây dựng sự nhất trí về nhận thức và hành động trong các cấp bộ Đảng và toàn thể đảng viên. Đảng nêu ra mục tiêu trước mắt đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh là căn cứ vào trình độ tổ chức và đấu tranh của nhân dân, căn cứ vào trình độ tổ chức và đấu tranh của nhân dân, căn cứ vào lực lượng so sánh giữa ta và địch. Đây tuyệt nhiên không phải là cải lương chủ nghĩa, cũng không chịu ảnh hưởng của bất kỳ tư tưởng “đề huề” nào, vì Đảng không một phút xa rời mục tiêu chiến lược của cách mạng, không coi đấu tranh đòi cải cách là mục tiêu chiến lược cuối cùng mà chỉ sử dụng nó để mở rộng phong trào cách mạng, tiến lên thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược của cách mạng.
69
“Xét trên tình hình quần chúng vận động hiện thời cả về chính trị và về tổ chức chưa tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công nông, giải quyết vấn đề điền địa… Đảng cho rằng theo trình độ tranh đấu đặc biệt của quần chúng trong lúc hiện thời, theo chung quanh những điều yêu cầu ấy có thể hiệu triệu được toàn dân không kỳ giai cấp nào, đảng phái nào ra cùng nhau đấu tranh chống chế độ thuộc địa phản động” {20; 144}.
Chủ trương đấu tranh mới đòi hỏi những hình thức đấu tranh công khai, với các tổ chức công khai, hợp pháp…đây lại là vấn đề mới mẻ đối với một đảng chuyên hoạt động trong điều kiện bí mật như Đảng Cộng sản Đông Dương. Mặc dù được sự chỉ đạo sát sao của Quốc tế cộng sản, với các tin tức đấu tranh công khai của phong trào dân chủ đấu tranh vì hoà bình ở nhiều nước dội vào nhưng để thông suốt tư tưởng cho tất cả các cán bộ đảng viên thực sự là một vấn đề không đơn giản. Đây là một khó khăn cơ bản mà Đảng ta vấp phải trong thời kỳ này. “Khó khăn thứ hai trong việc triển khai thực hiện đường lối chiến lược và sách lược mới của Đảng trong thời kỳ này chính là sự bất đồng ý kiến trong nội bộ Đảng, nhất là hàng ngũ cán bộ lãnh đạo cao cấp nhất. Phải nói ngay rằng sự bất đồng ý kiến với các cuộc tranh luận tinh thần cộng sản, với trách nhiệm cao nhất trước vận mệnh của Đảng, của sự nghiệp cách mạng là hiện tượng hoàn toàn lành mạnh trong sinh hoạt Đảng” {65; 10}. Để thống nhất vấn đề công khai hay không công khai về tổ chức và tranh đấu, Đảng nêu rõ: “vì những lối chủ trương đóng cửa, và cách tổ chức hẹp hòi nên công tác rất khó phát triển, quảng đại quần chúng không có tổ chức gì, đế quốc địa chủ, quan lại, tư bản tha hồ bóc lột và áp bức” {20; 153}. Như vậy, Đảng đã kết luận: trong điều kiện lịch sử mới về sách lược thì việc duy trì đấu tranh kiểu “cô độc chật hẹp”, bí mật… là không phù hợp, nhất nhất cần được thay đổi.
“Chủ trương mới của Đảng là hoạt động và tổ chức theo lối công khai và bán công khai, điều đó không phải là không làm được, mà chỉ vì mình không biết sửa đổi hình thức tổ chức mà thôi.(…) Vì muốn cho Mặt trận nhân dân phản đế có một cơ sở quần chúng rộng rãi, nên phải sửa đổi hình thức tổ chức quần chúng theo lối công khai và bán công khai” {20; 153- 154}. Đảng còn nhấn mạnh: “tranh đấu cho Đảng được công khai là việc cần thiêt. Đảng được công khai thì ảnh hưởng của Đảng dễ được lan rộng trong các lớp quần chúng nhân dân” {20;154- 155}.
70
Về phương pháp tuyên truyền của Mặt trận nhân dân phản đế, Đảng đã lưu ý các Đảng viên của mình trong việc tuyên truyền để tránh bị bọn Tơrôtxkit lợi dụng, đả phá. Phải cho quần chúng thấy được rằng Đảng Cộng sản Đông Dương không chỉ đại diện cho quyền lợi của công nhân mà còn là đại diện cho cả dân tộc. Đảng lưu ý nhất là: “không những phải thâu phục đa số thợ thuyền mà còn phải thâu phục quảng đại quần chúng nông dân và tiểu tư sản thành thị. Đồng thời trong lúc tập hợp mặt trận dân tộc rộng rãi chúng ta lại phải thâu phục hết các lớp trong nhân dân” {20; 155}. Muốn thực hiện được nội dung đó, nhất định Đảng phả tránh những lối nêu khẩu hiệu ở tầm vĩ mô, sâu sắc, chiến lược; điều đó cần thiết để lôi
cuốn được sự tham gia của đông đảo nhân dân chính là: “sự tuyên truyền cổ động phải mật thiết liên lạc với quyền lợi hàng ngày của quảng đại quần chúng, của toàn bộ dân tộc mới thích hợp”.{20; 156}.
2.2 Quá trình tổ chức thực hiện công tác quần chúng giai đoạn 1936- 1939.
Phong trào Đông Dương Đại Hội và quần chúng đấu tranh đòi các quyền dân
chủ, dân sinh:
Ngay từ khi có nghị quyết của Hội nghị Trung ương tại Thượng Hải (7- 1936) soi sáng, những tin tức của các phong trào dân chủ, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi dân chủ dân sinh, hoà bình của các nước trên thế giới liên tục dội vào đã khích lệ quần chúng, Đảng viên hăng hái đấu tranh theo một “chiến sách” mới. Những thay đổi trong chủ trương tổ chức vận động quần chúng của Đảng trong giai đoạn này được cụ thể hoá một cách rõ nét qua nhiều hình thức phong phú.
Mở đầu là phong trào Đông Dương đại hội, đây là một hoạt động điển hình đã thu hút được sự tham gia của đông đảo quần chúng. Biết được thông tin Quốc hội Pháp sẽ cử phái đoàn điều tra sang Đông Dương, Đảng ra chủ trương phát động và tổ chức nhân dân ở tất cả các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, công sở, trường học, khu phố… công khai hội họp. Nội dung chủ yếu của các cuộc hội họp là thảo luận các yêu cầu về tự do, dân chủ, dân sinh và cử đại biểu đi dự đại hội đại biểu nhân dân các cấp, tiến tới tổ chức đại hội đại biểu nhân dân toàn Đông Dương, thảo bản nguyện vọng của nhân dân Đông Dương.
Đây là lần đầu tiên một Đảng bí mật, “bất hợp pháp” tiến hành tổ chức vận động quần chúng công khai hội họp đòi các quyền tự do dân chủ. Có thể khẳng định, đây là một bước đột phá của Đảng trong công tác tổ chức vận động quần chúng đấu tranh. Bước đột phá này chỉ xuất hiện trong các điều kiện cho phép.
71
Ngày 29- 7- 1936, được phong trào quần chúng khích lệ và được Đảng cộng sản Đông Dương động viên, gợi ý, trí thức yêu nước Nguyễn An Ninh- một người có uy tín đã đăng lời kêu gọi trên tờ Tranh đấu (La Lutte), kêu gọi lập uỷ ban trù bị, tiến tới triệu tập đại hội Đông Dương. Ngay lập tức quảng đại quần chúng Đông Dương bao gồm các tầng lớp nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội hưởng ứng nhiệt liệt. Ngay sau đó “Bức thư ngỏ” (8- 1936) Đảng ta đã trình bày quan điểm của mình về Đông Dương Đại hội, kêu gọi các đảng phái, các tổ chức chính trị và toàn thể nhân dân Đông Dương vì lợi ích chung, đoàn kết lại, thành lập mặt trận
đấu tranh bảo vệ hoà bình, đòi các quyền tự do, dân chủ và cơm áo. “ Bức thư nêu 12 yêu cầu được coi như là nội dung chương trình hành động của Mặt trận nhân dân phản đế” (Đại cương tập 2, 329). Đảng đã nêu ra 12 yêu cầu về tự do, dân chủ làm cơ sở cho việc thảo luận và lập bản dân nguyện. Nội dung của những nguyện vọng đó là đòi các quyền tự do về ngôn luận, hội nghị, tổ chức, đi lại…; trả tự do cho các tù chính trị; bỏ chế độ phân biệt đối xử giữa người Đông Dương với người Pháp; cải tổ hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương, các việc dân biểu, hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố,những cơ quan kinh tế và chính trị; thực hành luật lao động ngày làm 8 giờ, định lương tối thiểu và cứu tế thất nghiệp, bỏ thuế thân và giảm các thuế khác, xoá nạn cho vay nặng lãi; bỏ độc quyền rượu, muối, nước mắm, cấm buôn thuốc phiện, thải hồi những công chức Pháp ăn hối lộ và đàn áp nhân dân; truyền bá giáo dục, bắt buộc học tiếng Việt trong các trường; nam nữ bình đẳng.
Để thực hiện được chủ trương tiến hành Đông Dương Đại hội Đảng đã kêu gọi thành lập ngay các uỷ ban hành động khắp mọi nơi nhằm tập hợp quần chúng nhân dân và vận động họ bầu cử đại biểu tham dự Đại hội Đông Dương. Đảng còn chú ý công tác nuôi dưỡng phong trào tiến tới sẽ xây dựng một tổ chức có tính chất thường trực của mặt trận thống nhất nhân dân ở Đông Dương.
“Phong trào bắt đầu từ Nam Kỳ. Ngày 13- 8- 1936, uỷ ban lâm thời (lâm uỷ) Đông Dương Đại hội thành lập. Tối 21- 8- 1936, uỷ ban lâm thời họp lần thứ hai, giới thiệu người vào ban thường trực, định nội dung công tác của ban hành động” {35; 330}. Quần chúng nhân dân đáp lại chủ trương vận động Đông Dương Đại hội của Đảng bằng cách tham gia phong trào này mạnh mẽ, nhiệt thành. Riêng tại Miền Nam, chưa đầy hai tháng (tính đến cuối tháng 9- 1936) đã có hơn 600 uỷ ban hành động được thành lập. Tại miền Bắc, trong những Hồi ký của mình, nhà cách mạng Trần Huy Liệu viết: “phong trào lên mạnh nhất là ở Nam Bộ, ở đó đã có đến 600 uỷ ban hành động. ở ngoài này chúng tôi suốt ruột quá. Muốn gây sóng gió ầm ầm nhưng giết đâu ra cán bộ? Hàng nghìn chính trị phạm còn mắc kẹt trong nhà tù, gỡ chưa ra”{40; 22}. Mặc dù phải đối phó với tình trạng thiếu cán bộ, nhưng nhóm đảng viên tại Bắc Kỳ vẫn kiên trì vận động gây dựng thanh thế của Đại hội Đông Dương cho kịp, cho hoà nhịp với những nơi khác. Một “Uỷ ban lâm thời chi nhánh Bắc Kỳ Đại hội Đông Dương” đã được các đồng chí lập ra. Sau đó, tổ chức này cũng xuất bản báo chí, truyền đơn cổ động Đại hội Đông Dương. Nhiều uỷ ban hành động đã được thành lập ở Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Nam Định…
Chính quyền phản động ở thuộc địa lúc đầu đối phó một cách thận trọng và xảo quyệt. Trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam chính quyền thực dân đều dùng 72
những thủ đoạn nham hiểm để đối phó. Như ở miền Nam, chính quyền thực dân tăng cường kiểm soát sự đi lại, hội họp của nhân dân, đe doạ đuổi việc bắt bớ những người tích cực của các uỷ ban hành động. Kích động cho báo chí phản cách mạng xuyên tạc phong trào Đông Dương Đại hội…“Tại Nam Kỳ, chúng để cho bọn Tơrôtxkit khiêu khích rồi xúi giục bọn tư sản phản động rút lui, gây chia rẽ trong mặt trận Đông Dương đại hội. Tại Bắc Kỳ, chúng cho bon dân biểu bù nhìn đứng ra hiệu triệu một số thân hào tri thức làm bản dân nguyện, đợi ngày trao cho phái đoàn chính phủ Mặt trận bình dân” {40; 23}. Mượn danh nghĩa bọn cách mạng giả hiệu, chính quyền thực dân định thu hẹp vấn đề trong một số người mà chúng có thể khống chế. Nhưng, tất cả những thủ đoạn đó đều bị các chiến sỹ cộng sản lên án. Ở miền Trung, bọn phản động thuộc địa và tay sai cũng dùng chính sách “nắm lấy phong trào để hạn chế phong trào”. Các đồng chí ta đã nhanh chóng vận động các giới nhân dân ở Huế, Quảng Nam, Quảng Trị, Vinh…hưởng ứng tham gia. Một cuộc họp “toàn kỳ” được công khai tổ chức tại viện dân biểu Trung Kỳ có trên 500 người dự. Tại đây một tổ chức có tên “Uỷ ban lâm thời chi nhánh Trung kỳ Đại hội Đông Dương” gồm 26 người, có đại diện viện dân biểu, đại biểu các giới đồng bào, trong đó có nòng cốt là các chiến sỹ cộng sản và những người có cảm tình cách mạng. Đây là một thành công lớn của phong trào cách mạng tại Trung Kỳ.
Nhận thấy phong trào đấu tranh của nhân dân ngày một lan rộng và dâng cao, có nguy cơ mất kiểm soát, được sự dung túng của chính phủ Pháp, bọn phản động thuộc địa chuyển sang công khai đàn áp kết hợp với chia rẽ, mua chuộc xoa dịu tình hình. Ngày 15- 9- 1936, chúng ta ra lệnh giải tán các uỷ ban hành động, cấm tất cả các cuộc hội họp của nhân dân, bắt giam và xét xử những người đứng đầu các ban hành động, tịch thu báo cổ động cho Đại hội Đông Dương…
73
Để xoa dịu dư luận phản đối của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trong mặt trận nhân dân Pháp, xoa dịu tinh thần đấu tranh của nhân dân Đông Dương, toàn quyền Đông Dương đã ban hành một số quy định có lợi cho nhân dân lao động. “ Thời gian lao động” không quá 10 giờ kể từ ngày 1- 11- 1936, không quá 9 giờ kể từ ngày 1- 1 -1937, không quá 8 giờ kể từ ngày 1- 1- 1938, được nghỉ chủ nhật, nghỉ phép hàng năm (5 ngày từ năm 1937 và 10 ngày từ 1938) được hưởng lương; cấm bắt đàn bà trẻ em làm việc ban đêm” {2; 242}. Tiếp đó Bộ trưởng thuộc địa Pháp còn qui định thêm một số nội dung như: chế độ học nghề, tiền lương tối thiểu, cấm cúp phạt bằng tiền, chế độ nghỉ đẻ, nghỉ cho con bú trong thời gian làm việc.
Một kết quả rõ nét nhất là việc chúng phải trả chính trị phạm, “ngày 5- 11- 1936 chúng phải trả tự do cho hai đại biểu cộng sản trong uỷ ban lâm thời Đông Dương Đại hội. Đến tháng 10- 1937 có 1532 tù chính trị- phần lớn là những chiến sỹ cộng sản- ra khỏi nhà tù đế quốc” {35; 332}. Mặc dù bị địch quản thúc, ràng buộc, cán bộ, đảng viên của Đảng được tôi luyện và nâng cao về trình độ lý luận, chính trị, văn hoá và kinh nghiệm vận động quần chúng, nay trở về với nhân dân, trở thành cốt cán của phong trào dân chủ. Đây thực sự là một thắng lợi to lớn của phong trào cách mạng của Đảng ta.
Đại hội Đông Dương mặc dù sớm bị đàn áp nhưng nó đã chứng minh được
những giá trị đúng đắn.
Trước hết, thêm một lần nữa khẳng định: khi chủ trương, chính sách, những khẩu hiệu đấu tranh phù hợp, gần gũi với đời sống của quần chúng nhân dân thì được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ và nhanh chóng trở thành một phong trào rộng rãi.
Thứ hai, qua phong trào này cho thấy rõ hơn bộ mặt của các đại biểu cho tư sản Việt nam qua thái độ lập lờ có tính chất hai mặt, sẵn sàng ngả sang phe phản động đi ngược lại với lợi ích chung của dân tộc.
Thứ ba, những kết quả quan trọng đạt được qua phong trào này thực sự cần thiết cho phong trào dân chủ tiếp tục tiến lên. Đảng thu được một số kinh nghiệm về phát động và lãnh đạo phong trào đấu tranh công khai hợp pháp ở một nước thuộc địa.
74
Từ đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào dân chủ ngày càng lên cao và đi sâu vào các tầng lớp nhân dân. Phong trào đấu tranh đòi quyền dân chủ, cải thiện đời sống của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác ngày càng phát triển mạnh mẽ. Công nhân đấu tranh đòi tự do lập nghiệp đoàn, tăng lương, giảm giờ làm… nông dân đấu tranh đòi cứu tế nạn đói, nạn lụt, đòi chia lại ruộng đất công, giảm tô, giảm tức, cải cách hương thôn, chống sưu cao thuế nặng, phù thu lạm bổ, chống nạn cướp ruộng đất… tiểu thương, tiểu chủ đòi giảm thuế chợ, thuế hàng, công chức lớp dưới đòi tăng lương. học sinh đòi mở thêm trường… tất cả các tầng lớp đều nêu những yêu cầu chung đòi tự do hội họp, tự do đi lại, tự do báo chí, xuất bản, bỏ thuế thân, phổ thông đầu phiếu, thả tù chính trị và bỏ án quản thúc.
Tính riêng 6 tháng cuối năm 1936 đã có 361 cuộc đấu tranh trong đó có 236 của công nhân, “Theo báo cáo của sở mật thám Sài Gòn ngày 12- 12- 1936, trung bình mỗi tỉnh có trên 150 cuộc họp. Đông nhất là 300 người một họp” {60; 84}.
Trong số các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nửa sau năm 1936 phải kể đến cuộc tổng bãi công của công nhân của tỉnh Tĩnh Túc (Cao Bằng) và cuộc tổng bãi công của công nhân Hồng Gai- Cẩm Phả tháng 11- 1936 . Đi vào lịch sử của công nhân Việt Nam, ngày 23- 11- 1936, 2 vạn công nhân mỏ Hồng Gai, Cảm Phả, Mông Dương, Hà Tu, Hà Lầm, Cọc 5 bãi công đòi tăng 25% lương, bọn chủ đã phải nhượng bộ. Từ đó, ngày 23- 11 hàng năm trở thành ngày hội của công nhân mỏ.
Tiếp theo năm 1936, trong năm 1937 có gần 400 cuộc đấu tranh của công nhân, trong đó có những cuộc đấu tranh lớn như: 3000 công nhân nhà máy tơ Hải Phòng, 7000 công nhân dệt Nam Định, 4000 công nhân Ba Son, 20000 công nhân mỏ Uông Bí. Tiêu biểu nhất là cuộc bãi công của 3000 công nhân xe lửa Trường Thi (Vinh) và Nam Đông Dương. Hầu hết các cuộc đấu tranh trên đã giành thắng lợi, chỉ duy nhất cuộc bãi công của công nhân xe lửa Trường Thi (Vinh) đã phải kéo dài sang tháng 8- 1937 vẫn không thu được thắng lợi, sau phải kết thúc, về khách quan: thực dân Pháp rất gay gắt trong việc đàn áp để tránh sự lặp lại của một cao trào cách mạng như hồi 1930- 1931 cũng bắt đầu từ đất Nghệ- Tĩnh, về chủ quan: bài học cần rút ra cho Đảng, cho công nhân nói chung là sự chuẩn bị đấu tranh, việc vạch ra mục tiêu, khẩu hiệu cho sát với thực tiễn cách mạng.
Về phía giai cấp nông dân, trong năm 1937 cũng có hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân chống cướp ruộng đất, đòi chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức. Trong số các cuộc đấu tranh này mục tiêu đòi khất thuế, xoá bỏ các hủ tục tại hương thộn, chống cường bào, hương lý tham ô, ức hiếp dân nghèo… trở thành các mục tiêu phổ biến.
Anh chị em tiểu thương ở nhiều nơi trong ccả nước cũng tích cực đấu tranh điển hình như tại Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng… các mục tiêu mà họ đưa ra cũng rất đơn giản, thiết thực: đòi giảm thuế chợ, thuế môn bài…
75
Trong năm 1937, còn có cuộc biểu dương lớn về lực lượng dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương trong dịp Giuýt- tanh Gô- đa, đảng viên Đảng Cấp Tiến, phái viên của chính phủ Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương và trong dịp toàn quyền Brêviê sang nhậm chức. Đảng ta đã tổ chức được những cuộc mittinh, biểu tình lớn diễn ra suốt từ Bắc tới Nam. “Đó là cuộc biểu dương lực
lượng lớn, đánh dấu bước phát triển mới của phong trào” {35; 332}. Dưới hình thức hợp pháp: đón tiếp những người đại diện cho chính phủ Pháp, Đảng đã huy động được hàng chục vạn người thuộc đủ các tầng lớp xuống đường biểu dương lực lượng với các khẩu hiệu điển hình của phong trào Đông Dương Đại hội đã tiến hành năm 1936: đòi toàn xá tù chính trị, bỏ thuế thân, tự do nghiệp đoàn, tự do ngôn luận…Suốt cuộc hành trình của đặc phái viên Gôđa từ Sài Gòn ra Hà nội, ở mọi nơi nhân dân cũng biểu tình nêu ra những yêu cầu về dân sinh, dân chủ. Làn sóng đấu tranh này đã vượt qua những thủ đoạn nhằm ngăn trở của kẻ thù. Cuối năm 1936 thực dân Pháp buộc phải ban hành một số cải cách cho người lao động để mong xoa dịu phong trào, Đảng lại chớp lấy cơ hội này tiếp tục vận động quần chúng tiếp tục đấu tranh, bám vào những điều chúng vừa nhượng bộ để triển khai thêm các cuộc đấu tranh mới, làm thất bại ý đồ của kẻ địch. Điều đó còn khẳng định thêm bản lĩnh của Đảng trong quá trình vận động quần chúng đấu tranh, khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng ta với quần chúng, qua đó cũng nói lên tinh thần giác ngộ, trình độ đấu tranh cũng như lòng tin tưởng của quảng đại quần chúng vào Đảng ta ngày một tăng thêm. Vai trò đi đầu của giai cấp công nhân luôn được phát huy, tinh thần đoàn kết giai cấp được thể hiện cao độ. Mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, giữa quần chúng với nhau (ức là mối liên hệ công nhân, nông dân và các tầng lớp khác) được thể hiện rõ ràng. Đội quân chính trị hùng mạnh hơn lúc nào hết (từ khi Đảng ra đời) làm hạn chế, giảm sút rõ rệt hiệu lực của bộ máy thống trị của thực dân Pháp.
Trong thực tiễn cuộc vận động dân chủ từ năm 1936, Đảng phải đương đầu với không chỉ một kẻ thù, không chỉ là những hạn chế, yếu kém của Đảng, của quần chúng trong quá trình phát triển đấu tranh cách mạng trong những điều kiện vô vàn khó khăn mà còn là từ phía khách quan khắc nghiệt:
- Đó là sự nham hiểm của Thực dân Pháp (chúng vừa nhượng bộ quần chúng để đánh lạc hướng, mua chuộc những cán bộ yếu kém, dùng tay sai để ngăn chặn ảnh hưởng từ phía Đảng ta vào quần chúng; ép buộc những người thuộc tầng lớp tư sản, tiểu thương làm cho họ chống lại công nhân nhưng mặt khác chúng lại rêu rao giai cấp tư sản là kẻ thù trực tiếp của công nhân Việt Nam).
76
- Đó là mối nguy hiểm khó nhận biết và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng từ phía lực lượng Tơrôtxkit, “cái nguy hiểm của Tơrôtxkit là: về thực chất, chúng là bọn phản cách mạng, nhưng lại “ vũ trang” bằng những giọng
tả đầu lưỡi, khiến nhiều người lầm tưởng chúng chẳng những cách mạng mà còn là cách mạng triệt để nữa là đằng khác”.{40; 59}.
Trong khi chúng ta phải căn cứ vào điều kiện lịch sử chuyển hướng đấu tranh cho phù hợp, chúng lại rêu rao Đảng ta là “hữu khuynh” phản bội. Ta chủ trương làm cách mạng dân tộc dân chủ chúng lại nêu “cách mạng vô sản”, ta nêu Mặt trận dân chủ thì chúng lại nêu Mặt trận công nông, ta nêu lập cứu tế bình dân chúng lại nêu cứu tế đỏ… Trong thực tiễn những năm 30 của thế kỷ XX với một mặt bằng dân trí thấp, trong sự kiềm toả của thực dân, phong kiến, với sự phá hoại một cách “nhiệt tình cách mạng” kiểu Tơrôtxkit như vậy thì công tác vận động quần chúng, tổ chức quần chúng đấu tranh như Đảng đã làm được thì có thể khẳng định đã là một thành công rất lớn.
Để thúc đẩy công tác công khai hợp pháp, nửa hợp pháp, tháng 3- 1937 và sau đó là tháng 9- 1937, Ban chấp hành Trung ương đã họp kiểm điểm và đánh giá tình hình hoạt động trong các thời kỳ đấu tranh theo “chiến sách” mới. Đảng khẳng định: “thời gian 8 tháng qua, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ và rộng rãi chưa từng có so với trước. Các cuộc đấu tranh lớn của quần chúng đều do Đảng khởi xướng, tổ chức và chỉ đạo”.{2; 250}. Điều này chứng tỏ uy tín của Đảng trong nhân dân ngày càng được tăng cường, những đường lối cụ thể của “chiến sách mới” đã lôi kéo được quảng đại quần chúng. Tuy nhiên, “trong phong trào quần chúng đang trên đà phát triển mạnh mẽ, công tác tổ chức của Đảng còn nhiều mặt chưa theo kịp”{2; 250},với rất nhiều hạn chế cần khắc phục như: có nhiều nơi thiếu cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng, một số cán bộ còn chưa theo kịp phương pháp tổ chức mới trong thời kỳ mới, cơ sở Đảng trong các tầng lớp tiểu tư sản, và các tầng lớp khác ngoài công nông còn hạn chế. Sự tách biệt giữa các nhóm công khai và bí mật, nhiều nơi công tác tuyên truyền còn nặng “tả” khuynh…
77
Bởi vậy, trong điều lịch sử mới cần đường lối chính trị mới, phương pháp tổ chức mới, đặc biệt, cần lưu ý phương pháp mới phải rất khôn khéo, linh hoạt nhằm đoàn kết đông đảo quần chúng, thực hiện được Mặt trận thống nhất để chống phản động thuộc địa, tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình. Từ đó, Đảng quán triệt: “phải lợi dụng hết các hoàn cảnh mà tổ chức hết thảy các hội quần chúng theo công khai và bán công khai, chỉ có chỗ nào không lợi dụng được hai phương pháp tổ chức ấy thì mới dùng đến phương pháp tổ chức bí mật” {20; 212}. Cụ thể hoá của chủ trương này là cần đổi tên một loạt các tổ chức vệ tinh của Đảng cho phù hợp: “Đông
Dương thanh niên phản đế đoàn” thay cho “Thanh niên cộng sản đoàn”, Hội cứu tế bình dân thay cho hội cứu tế đỏ, công hội thay cho “Công hội đỏ”, “Nông hội” thay cho “Nông hội đỏ”. Phải tổ chức nhiều hội quần chúng công khai như ái hữu, tương tế, thể thao, âm nhạc… rồi từ đó tham gia Mặt trận thống nhất. Điều kiện kết nạp hội viên không được quá cao chỉ cần chấp nhận chủ trương mới với các yêu cầu đấu tranh thiết thực. Đảng cho rằng, dùng những cách tổ chức đơn sơ mà tập hợp được nhiều tầng lớp nhân dân tin theo, làm theo thì còn hơn tổ chức những hội lấy tên cách mạng mà có rất ít quần chúng.
Các hội nghị cũng nêu rõ về công tác mặt trận: đây phải là tổ chức thống nhất trong toàn Đông Dương, theo phương hướng thống nhất “ngang ở địa phương, dọc theo từng ngành”. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà liên minh với các đảng phái chính trị khác để hình thành các “uỷ ban liên hiệp hành động” và “uỷ ban ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp”. Bước đi tới thống nhất phải rất linh hoạt “có thể thống nhất từ trên xuống, hoặc từ dưới lên. Có mặt trận thống nhất chung của các giai cấp, tầng lớp, đồng thời phải có mặt trận thống nhất riêng của từng giai cấp công nhân, thanh niên, phụ nữ. Để giành lấy số đông quần chúng, Đảng cũng chủ động phái người vào hoạt động trong các tổ chức chính trị cải lương, phản động để vạch mặt bọn này, thức tỉnh những quần chúng bị mê hoặc. Đảng cũng coi trọng vận động quần chúng là binh lính trong hàng ngũ địch, yêu cầu đặt ra phải thành lập uỷ ban vận động binh lính. Đảng cũng chú ý việc mở rộng mặt trận trên lĩnh vực đấu tranh mới: Đấu tranh nghị trường, “ vô luận là cuộc tuyển cử gì, Đảng ta có thể tham gia được là nên tham gia. Chúng ta cần lợi dụng các thời kỳ tranh cử mà tuyên truyền khẩu hiệu của ta…”{20; 213}. Vận động những người cảm tình đứng ra xuất bản các tờ báo công khai. Vận động phong trào lập các thư viện bình dân, phong trào mua sách báo công khai để nâng cao kiến thức cách mạng cho quần chúng.
78
Luôn giữ mối quan hệ mật thiết giữa phong trào của công nhân với nông dân, lồng phong trào công nông vào phong trào quần chúng nói chung và để phong trào công nông trở thành vị trí định hướng, chủ yếu, xương sống cho Mặt trận. Bên cạnh đó phải tuyệt đối cảnh giác với bọn Tơrôtxkit: “phải triệt để chống bọn Tơrôtxkit.
79
Bọn này là trở ngại lớn nhất trong cuộc vận động quần chúng và mở rộng Mặt trận” {2; 253}. Trong các hội nghị này, Đảng cũng chú ý việc xây dựng Đảng và kết nạp đảng viên. Do cán bộ đảng viên có ảnh hưởng quan trọng tới công tác vận động quần chúng nên trong Thông cáo ngày 20- 3- 1937, Đảng khẳng định: “thà có đảng viên ít mà tốt còn hơn có đảng viên nhiều mà bị động và phức tạp”. Kiên quyết khai trừ các đảng viên thoái hoá, phản động. Khéo léo thử thách những người có dấu hiệu nghi vấn, các tù chính trị đã khai báo làm tổn thất cho tổ chức. Chú ý kết nạp vào Đảng các phần tử ưu tú từ công nông. Chấm dứt các tình trạng các đảng viên, các chi bộ hoạt động vô tổ chức, thiếu thống nhất. Lập các chi bộ Đảng trong các tổ chức công khai, các cấp bộ Đảng tương đương phải liên lạc mật thiết và chỉ đạo các chi bộ này trong công tác công khai. Từ những chỉ đạo, uốn nắn của Đảng phong trào đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh tiếp tục giành được nhiều thắng lợi quan trọng trên nhiều lĩnh vực ở nhiều giai cấp tầng lớp. Các cuộc đấu tranh của quần chúng từ năm 1937 trở đi đều đạt được những thắng lợi cụ thể, mang lại các quyền lợi cho người lao động. Bọn chủ xưởng phải công khai luật lao động, tuyên bố không đuổi việc những người tham gia đấu tranh. Lần đầu tiên ở Đông Dương, từ năm 1938, chế độ ngày làm 8 giờ, hàng tuần có ngày nghỉ, 10 ngày phép/năm được hưởng lương đã được thực hiện. Trong quá trình thực hiện vận động quần chúng, Đảng chú ý hướng dẫn các cốt cán định hướng cho công nhân tiếp tục đấu tranh đòi tự do nghiệp đoàn đi liền với việc tận dụng khă năng tổ chức ái hữu, đưa công nhân và lao động vào tổ chức dù là tổ chức thấp. Về thực chất Ái hữu là hình thức tổ chức có tính chất linh động, phổ biến và thích ứng cao được đông đảo lao động gồm nhiều giai cấp tầng lớp hưởng ứng mạnh mẽ. Trong các năm 1937- 1938, phong trào ái hữu phát triển và hoạt động rầm rộ thu hút hàng vạn hội viên. Tại các vùng nông thôn, Đảng chú trọng phát triển các hình thức phổ thông nhằm thu hút đông nhất lực lượng ở đây tham gia cuộc vận động dân chủ. Điển hình như các hội cấy, hội gặt, hội hiếu hỉ, phường đi săn, nhóm học quốc ngữ, hội chèo, các hội thể thao, hội đọc sách báo, du lịch…
Bằng các hình thức đơn giản như vậy, Đảng đã thu hút hàng triệu quần chúng. Đường lối của Đảng qua đó được truyền bá sâu rộng. Nhân dân tin Đảng và tin vào chính sức mạnh đoàn kết của mình.
Thực chất trong quá trình tổ chức các hình thức tổ chức quần chúng không phải là chuyện cứ nhiệt tình theo “chiến sách mới” là đạt yêu cầu, trong thực tiễn sinh động của đấu tranh cách mạng nếu không lưu ý, cân nhắc và xem xét một cách kỹ lưỡng thì các tổ chức quần chúng vừa đươc thành lập rất dễ rơi vào khuynh hướng “tả” (chỉ sử dụng các hình thức cao để thu hút lớp người có nhận thức cao về chính trị, sử dụng phổ biến hình thức nghiệp đoàn) hoặc khuynh hướng “hữu” (chú trọng phát triển các hình thức tổ chức thấp quá đề cao lớp quần chúngcó trình độ chính trị thấp, không đáp ứng được yêu cầu của lớp người tiên tiến, bỏ qua bộ phận quan trọng của lực lượng cách mạng, sử dụng phổ biến ái hữu, coi nhẹ lập nghiệp đoàn). Vấn đề bí mật và công khai về hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh cũng là một vấn đề phức tạp. Đảng đã liên tục công kích những tư tưởng, suy nghĩ cũng như các hành động lệch lạc gây bất lợi cho phong trào. Bởi vậy, những kết quả đạt được như trên cho thấy Đảng có những nỗ lực lớn trong công tác tổ chức các hình thức đấu tranh, tập hợp quần chúng trong điều kiện lịch sử mới.
* Đấu tranh trên mặt trận báo chí:
80
Đẩy mạnh hoạt động công khai là một trong những nội dung quan trọng của cách mạng thời kỳ này. Đây mặc dù là một hoạt động mới mẻ nhưng cũng góp phần quan trọng trong công tác quần chúng của Đảng. “Hàng chục tờ báo của Đảng, của Mặt trận dân chủ và các tổ chức quần chúng đã đời, trong đó có một số báo tiếng Pháp. Tờ “Tin tức” và tờ “Dân chúng” phát hành hàng ngày từ 5000 đến 15000 bản {34; 81}. Đảng chú ý bố trí các đồng chí làm báo thành hai nhóm công tác: bí mật và công khai, mỗi nhóm có một hướng công tác riêng nhưng có mối liên hệ chặt chẽ. Bộ phận bí mật có nhiệm vụ liên hệ với Trung ương Đảng và xứ uỷ, truyền đạt và chỉ đạo thực hiện đường lối chính trị của Đảng đối với báo chí công khai. Bộ phận hoạt động công khai tiếp xúc với quần chúng và các báo khác, khéo léo đưa đường lối chỉ đạo của Đảng thâm nhập vào quần chúng, làm nhiệm vụ truyền đạt trực tiếp. Trên cả ba miền đất nước đều xuất hiện các tờ báo của Đảng,
Mặt trận và của quần chúng có ảnh hưởng lớn trong thời kỳ này: tờ Lao động (Le Travail), Tập hợp (Rasemblement), Tiến lên (En avant), Tiếng nói của chúng ta (Notre voix), Hồn trẻ, Tiếng trẻ, Bạn dân, Tin Tức, Thế giới, Nhành lúa, Sông Hương tục bản, Dân, Tiền phong (L` Avan- garde), Nhân dân (Le people), Phổ thông…
Báo chí của Đảng, đặc biệt là những tờ báo công khai có ảnh hưởng ngày một sâu rộng trong quần chúng vì đây là lần đầu tiên những tờ báo có tính chiến đấu cao được phổ biến công khai, nó vạch trần bộ mặt của chính quyền thực dân, phong kiến thối nát, phản ánh tình cảnh khổ cực của người lao động và nêu lên nguyện vọng của họ, tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin, phổ biến chủ trương chính sách của Đảng, hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền dân sinh, dân chủ, vạch mặt bọn Tơrôtxkit giả danh cách mạng…
Nhận thấy mối nguy hiểm trực tiếp và phổ biến mà các tờ báo tiến bộ đem đến, chính quyền phản động phản ứng quyết liệt, chúng đóng cửa các tờ báo có đăng tin tích cực cho Mặt trận, cho Đảng thẳng tay bắt các chủ báo và những người làm báo, đóng cửa các toà soạn, bắt những người đọc các báo tiến bộ. Tuy nhiên, tờ báo này bị cấm thì tờ báo khác lại mọc ra bằng nhiều hình thức, tên gọi khác nhau. Đảng ta lại dựa vào sức mạnh quần chúng buộc bọn phản động thuộc địa phải thi hành tự do báo chí, các khẩu hiệu “tự do báo chí” luôn xuất hiện trong các cuộc biểu tình, mit tinh của quần chúng. “Ngày 27- 3- 1937, nhờ sự vận động, lãnh đạo khéo léo của Đảng ta, hội nghị giới báo chí Trung kỳ đã được triệu tập, gồm có 60 đại biểu các nhà báo. Hội nghị đã thông qua hai nghị quyết về quyền tự do báo chí và những vấn đề về tình hình chính trị chung vv… {1; 405}. Tiếp theo, ngày 24- 4- 1937 Hội nghị giới báo chí Bắc kỳ đã họp với mục đích:
- “Thi hành chế độ báo chí như ở “chính quốc” cho giới báo chí ở Đông
Dương.
- Trả lại tự do cho những người viết báo bị can án theo sắc lệnh hiện hành ở
81
Đông Dương.
- Lập uỷ ban cổ động, uỷ ban quản trị để lập hội đồng giới báo chí toàn
quốc” {1; 407}…
Sau những cuộc họp hội nghị báo chí Trung kỳ, Bắc kỳ đã tiến hành, phạm vi ảnh hưởng của báo chí tiến bộ của Đảng, Mặt trận ngày càng thấm sâu trong nhân dân nhất là trong giới chí thức, điều này đã góp phần không nhỏ vào việc đấu tranh thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương. Bên cạnh đó, sự phát triển của nhiều tờ báo tiến bộ cũng như tiếng vang từ các hội nghị báo chí đã thu hút sự đồng tình của nhiều nhà báo tiến bộ của Pháp. Thực tế cho thấy, báo chí công khai đã góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh tự do, dân sinh dân chủ, chống Phát xít, chống chiến tranh… lên cao ở Đông Dương.
Song song với những hoạt động của báo chí, Đảng chú trọng công khai xuất bản một số cuốn sách giới thiệu chủ nghĩa Mác- Lênin và giải thích những vấn đề mới trong sách lược đấu tranh của Đảng: “Vấn đề dân cày” của Qua Ninh, Vân Đình, cuốn “Chủ nghĩa Các Mác” của Hải Triều, nhiều cuốn sách giới thiệu Liên Xô, Trung Quốc, thơ Tố Hữu bắt đầu chinh phục trái tim quần chúng bằng những lời lẽ sâu sắc mang tinh thần cách mạng cao, các nhà văn tiến bộ đã cho ra mắt nhiều tác phẩm văn học phê phán sâu sắc: Tắt đèn, Việc làng, Lều chõng (Ngô Tất Tố), Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan), Dông tố, Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), các vở kịch: Đời cô Lựu (Trần Hữu Trang), Kim tiền (Vi Huyền Đắc). Sách báo cách mạng của Đảng, của Mặt trân thời kỳ này được quần chúng tiếp nhận nhiệt tình, nó đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu, một vũ khí đấu tranh sắc bén của quần chúng cách mạng. “Quần chúng không ngừng đòi tự do báo chí, tự do xuất bản, kiên quyết chống mọi âm mưu đàn áp báo chí của địch. Việc góp tiền mua và ủng hộ báo chí công khai của Đảng đã trở thành phong trào quần chúng rộng rãi”. {2; 261}.
* Các cuộc vận động bầu cử và tranh cử:
Ngay từ khi ra đời cho tới trước năm 1936, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, Đảng ta chưa bao giờ đặt ra vấn đề đấu tranh trên mặt trận nghị trường. Trong những năm 1933- 1935, tại Nam kỳ, một số cán bộ cộng sản đứng đầu là Nguyễn Văn Tạo đã liên danh với một số cá nhân khác như Nguyễn An Ninh, Tạ 82
Thu Thâu tham gia tranh cử vào Hội đồng Quản hạt Nam kỳ, mục đích của ta là mượn mặt trận này để công khai lên án chính sách của thực dân Pháp và qua đó tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng. Những bước đi đầu tiên đó đã mang lại những kinh nghiệm đầu tiên cho Đảng trên địa vực đấu tranh mới mẻ đó.
“Cuối năm 1936, trong không khí sôi sục của phong trào Đông Dương Đại hội nhóm cán bộ cộng sản hoạt động công khai ở Hà Nội tập trung trong toà báo Le Travail là những người đầu tiên đã mạnh dạn phối hợp với một số nghị viên cấp tiến của Viện Dân biểu Bắc kỳ do Vũ Văn An đứng đầu để đấu tranh chống lại âm mưu phá phong trào của nhóm nghị viên bảo thủ thân thực dân do Phạm Huy Lục cầm đầu” {64; 40}. Cuộc bầu cử tại viện Dân biểu Bắc kỳ đầu năm 1937 tranh 1 ghế nghị viên, đại biểu của nhóm Le Travail đã giành thắng lợi, đây là lần đầu tiên những người cộng sản tham gia tranh cử và giành chiến thắng.
Từ các cơ sở như vậy, ngày 20- 3- 1937 trong thông cáo của Trung ương Đảng gửi các cấp Đảng bộ để nói rõ một số vấn đề cần thi hành ngay, trong đó Đảng nhấn mạnh nội dung: “tham gia các cuộc tuyển cử Đảng chủ trương tham gia các cuộc tuyển cử, chọn ra người tranh cử, thảo ra chương trình hành động tối thiểu để tập hợp quần chúng theo mình và thương lượng với các Đảng cấp tiến dồn phiếu cho người ứng cử của Mặt trận; đẩy mạnh tuyên truyền những khẩu hiệu cửa Đảng trong dịp bầu cử và đấu tranh trong nghị trường để bênh vực quyền lợi cho quần chúng”{1; 400}.
Trên cơ sở chỉ đạo của Trung ương Đảng, các nhóm công tác liên tục tiến hành vận động tranh cử tạo nên một không khí chính trị sôi nổi ở Bắc kỳ và Trung kỳ. Đầu năm 1938, trong cuộc bầu cử Viện dân biểu Bắc kỳ nhóm Tin Tức (bộ phận công khai của Đảng) đã liên danh với một số tổ chức chính trị khác thành lập Mặt trận dân chủ đưa danh sách ứng cử của Mặt trận để tranh cử. Mặc dù kẻ địch đã dùng nhiều biện pháp ngăn cản kể cả dùng tiền mua chuộc cử tri nhưng Mặt trận dân chủ vẫn giành thắng lợi lớn (15 ghế trong Viện Dân biểu Bắc kỳ).
Tháng 12- 1938, trong kỳ tuyển cử Hội đồng thành phố Hà Nội số ứng cử của Mặt trận dân chủ đưa ra đã trúng cử với số phiếu trung bình là 487 phiếu. Tháng 4- 1939 các đại biểu của Mặt trận dân chủ đã gây sức ép thành công buộc 83
nhà cầm quyền phải bãi bỏ một số điều vô lý và tiến hành bầu cử lại hội đồng thành phố.
Ở Trung kỳ, tháng 8- 1937 tại kỳ tuyển cử viện dân biểu Trung kỳ, Đảng ta liên lạc với những người tiến bộ trong một số trí chức phong kiến, tư sản dân tộc vận động họ ra ứng cử. Với các sách lược mềm dẻo, cách mạng đã đạt thắng lợi lớn trong đợt bầu cử, số ứng viên trúng cử nhiều và đều giữ vị trí quan trọng như: viện trưởng, viện phó, chánh thư ký, uỷ viên thường trực, vv… trong Viện Dân biểu, một số dân biểu dân chủ còn xuất bản tờ báo Dân để tuyên truyền và vận động quần chúng đấu tranh làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh nghị trường.
Tháng 9- 1938, Mặt trận dân chủ còn tham gia tranh cử và giành thắng lợi trong đợt cử người vào Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương. Hai đại biểu của Mặt trận, trong đó có đồng chí Phan Thanh, đạt kết quả cao nhất của Viện và trúng cử vào Hội đồng. Tuy nhiên thắng lợi quan trọng nhất phải kể đến là cuộc đấu tranh bác bỏ dự án tăng thuế ở Viện Dân biểu Trung kỳ. Để có được thành công này, Đảng đã phải tổ chức một phong trào quần chúng đấu tranh mạnh mẽ phối hợp với sự đấu tranh của các dân biểu của Mặt trận, đồng thời liên kết chặt chẽ với các dân biểu cấp tiến khác đồng quan điểm. Một làn sóng đấu tranh tổng hợp rầm rộ, một không kkhí chính trị sôi sục xung quanh trụ sở của Viện dân biểu. Dưới sức ép mạnh mẽ của quần chúng biểu tình, các báo tiến bộ công kích, các dân biểu đấu tranh, ngày 16- 9- 1938 một nghị quyết bác bỏ tăng thuế của chính phủ thực dân đã được thông qua.
Thắng lợi giành được trong cuộc vận động tuyển cử chứng tỏ Đảng đã khéo léo lợi dụng mọi khả năng để mở rộng phong trào đấu tranh công khai hợp pháp, mở rộng tuyên truyền, giáo dục, tổ chức quần chúng. Nó kiểm nghiêm, xác minh chủ trương, chính sách Mặt trận của Đảng là đúng đắn, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lúc bấy giờ.
“Cần phải nhấn mạnh thêm rằng đây là lần duy nhất trong toàn bộ lịch sử Cận đại Việt Nam “đấu tranh nghị trường” công khai thực sự trở thành một bộ phận của phong trào yêu nước và cách mạng; đồng thời, trong tất cả các Đảng cộng sản ở các dân tộc thuộc địa, Đảng Cộng sản Đông Dương là Đảng duy nhất đã phát động 84
được một cuộc đấu tranh giàu tính sáng tạo và thành công đến vậy” {64; 45}. Một hình thức trước đây chỉ là trò hề của thực dân, phong kiến, các cuộc vận động bầu cử, tranh cử đã thực sự trở thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ ở cả thành thị và nông thôn. “Thông qua các cuộc vận động này, hàng triệu quần chúng được thức tỉnh về ý thức chính trị, đường lối, chủ trương của Đảng đã thực sự có ảnh hưởng mạnh mẽ trong quảng đại quần chúng. Uy tín chính trị của Đảng do đó mà được tăng thêm một bước. Đó chính là kết quả quan trọng nhất của cuộc vận động dân chủ trên địa hạt “đấu tranh nghị trường” do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo” {64; 45}.
* Hội truyền bá Quốc ngữ:
85
Một sáng kiến trong công tác công khai, hợp pháp mang một ý nghĩa cách mạng sâu rộng đó là “cuối năm 1937, Đảng Cộng sản Đông Dương phát động phong trào truyền bá Quốc ngữ nhằm giúp quần chúng lao động đọc sách báo, nâng cao hiểu biết về chính trị và cách mạng” {35; 336}. Đảng đã vận động cụ Nguyễn Văn Tố, một trí thức cũ có tinh thần yêu dân, yêu nước đứng ra xin phép thành lập “Hội truyền bá Quốc ngữ”. Các báo sôi nổi khuếch trương cho Hội, ngay lập tức, Hội đã thu hút được các tầng lớp nhân dân tham gia, nhiều người đã trực tiếp ủng hộ tiền bạc, giấy, mực, cho mượn nhà để làm lớp học. Mũi nhọn của Hội là thanh niên, học sinh, bộ phận này vừa đảm nhiệm dạy học vừa tham gia vận động người đi học. Công nhân, nông dân cũng như các tầng lớp lao động khác nhiệt tình tham gia các lớp học. Không chỉ được học chữ, quần chúng được các “giảng viên” khéo léo truyền bá chính trị vô sản bằng nhiều biện pháp, phương pháp phù hợp. Nhận thấy đây là một phong trào bất lợi mang “dáng dấp” cộng sản, bọn phản động thuộc địa viện mọi lý do để trì hoãn việc cho phép, tuy vậy, trong bối cảnh đó chúng không thể ngăn cấm hẳn vì đây là phong trào dưới vỏ bọc không chính trị: có tính chất và hình thức văn hoá, xã hội. bọn phản động chuyển sang thủ đoạn đưa một số tay sai truyền bá quốc ngữ để kìm hãm phong trào. Tuy nhiên, phong trào vẫn phát triển mạnh mẽ ngày một lan rộng từ thành thị đến nông thôn.
Những chỉ đạo của Đảng về công tác quần chúng thời kỳ 1938 – 1939 và thực tiễn phong trào quần chúng những năm cuối của thời kỳ đấu tranh công khai, dân chủ
Bắt đầu từ giữa năm 1937 những biến động kinh tế, chính trị trên thế giới và tại nước Pháp đã gây những khó khăn ngày càng phức tạp và khó lường cho cách mạng thế giới nói chung và Đông Dương nói riêng. Chính phủ Pháp ngày càng thiên hữu, từ việc Bờ Lum từ chức, Sô Tăng làm Thủ tướng, sau đó là Đalađiê lên nắm quyền hàng loạt các chính sách bất lợi cho quần chúng được ban hành. Bọn phản động ở thuộc địa cũng thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng.
Đứng trước những biến động của tình hình như vậy, từ ngày 29 đến ngày 30/3/1938 tại làng Tân Thới Nhất, gần Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã khai mạc, gồm có các đồng chí: Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Nguyễn Chí Diểu… Hội nghị đã đưa ra những nhận xét về phong trào quần chúng: “Về số lượng, tuy phong trào trong 6 tháng vừa qua không được bằng những năm 1936, 1937, song trình độ giác ngộ về quyền lợi sâu sắc hơn, tinh thần đấu tranh cương quyết hơn; Đặc biệt là Đảng ta đã chiếm được địa vị ưu thắng trong phong trào đấu tranh của quần chúng” {1; 438}.
Để củng cố và phát huy những thắng lợi đã giành được, đưa phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống… trong điều kiện lịch sử đã xuất hiện nhiều yếu tố bất lợi, Đảng xác định: “Lập Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương và coi đó là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại; cần đưa hết toàn lực của Đảng và dùng hết phương pháp để thực hiện mặt trận đó” {1; 439}.
86
Như vậy, trải qua gần 2 năm của phong trào dân chủ công khai, hơn ai hết Đảng ta nhận thấy sự đúng đắn của chủ trương thành lập một Mặt trận thống nhất các lực lượng có tinh thần dân chủ, đoàn kết chống chiến tranh, chống phản động thuộc địa, cải thiện dân sinh, dân chủ… và trong bối cảnh hiện tại cần phát huy hình thức này để tiếp tục đưa phong trào đấu tranh dân chủ tiến lên. Đảng cũng lưu ý rằng: vận động thành lập và phát triển Mặt trận, Đảng phải đấu tranh chống khuynh hướng “tả”, đưa ra những khẩu hiệu quá cao không quan tâm đến nguyện vọng và quyền lợi của tư sản cũng như của địa chủ nhỏ. Mặt khác, phải đề phòng khuynh hướng hữu, chỉ chú trọng giao thiệp với bộ phận bên trên của
xã hội, không chú ý tổ chức quần chúng ở bên dưới và coi thường phong trào đấu tranh của quần chúng công nông. Mặt trận dân chủ cần liên lạc với các nhóm, tổ chức của người Pháp ở Đông Dương tán thành cải cách để thương lượng thực hiện sự liên hiệp hành động vì mục tiêu chung, vì quyền lợi chung.
Hội nghị khẳng định: Với các sách lược đúng đắn trong thời kỳ mới, đặc biệt từ hội nghị tháng 9 năm 1937, nhờ sự cố gắng thực hiện đúng đắn những chỉ đạo của Đảng, của đảng bộ các cấp mà các thành tựu đạt được trong công tác vận động quần chúng là rất lớn. Tuy nhiên, còn nhiều mặt hạn chế cần khắc phục.
Về mặt tổ chức quần chúng công nhân, ban đầu nhiều cán bộ đảng viên có tư tưởng “tả” hẹp hòi, lúc đầu tẩy chay ái hữu, lại chuểyn sang hữu khuynh máy móc là tổ chức ái hữu trước rồi tổ chức nghiệp đoàn sau; không biết kết hợp giữa hình thức công khai và nửa công khai; phần lớn các cuộc đấu tranh của cong nhân chưa chĩa múi nhọn vào tư bản thực dân Pháp mà lại hướng vào những tiểu chủ, tư sản dân tộc, tạo điều kiện cho bọn phản động phá hoại Mặt trận dân chủ. Khẩu hiệu dân tộc của công nhân chưa đủ sức thuyết phục khi chưa thực sự chú ý các yêu sách kinh tế của các giai tầng khác, đặc biệt là nông dân.
Phong trào của nông dân rất phong phú cả về khẩu hiệu và hình thưc đấu tranh, đòi chia lại ruộng, chi tiết công khai thu chi trong xã, cải cách văn hoá, xã hội…, bằng nhiều hình thức như: biểu tình đưa dân nguyện, đấu tranh đưa đại diện của quần chúng vào bộ máy chính quyền ở địa phương, tham gia cổ vũ, ủng hộ đấu tranh nghị trường… Tất cả tạo nên một không khí mới sục sôi tinh thần cách mạng trong nông thôn. Nhưng Đảng cũng nghiêm khắc tự phê bình là chưa có những nội dung chỉ đạo mang tính thống nhất để tạo nên một phong trào nông dân mạnh mẽ, quyết liệt trên cả nước.
Thực ra, phong trào Mặt trận dân chủ rất phù hợp với ưu điểm của tiểu sư sản bao gồm các lực lượng trí thức, học sinh, sinh viên, thị dân… Đời sống bấp bênh, bị thực dân, tư sản mại bản chèn ép nguy cơ phá sản rất cao, bởi vậy, ý thức đấu tranh của bộ phận này rất cao và nhạy bén tuy nhiên Đảng chưa biết đưa ra khẩu hiệu và mục tiêu đấu tranh cũng như phong trào riêng cho từng giới, tầng lớp…
Vì vậy, cho nên Đảng phải “hết sức chú ý tới công tác vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ làm cho phong trào quần chúng được đẩy mạnh, phát triển đều và rộng khắp trong toàn quốc, làm cho Mặt trận có cơ sở rộng rãi”. {4; 49}. Cụ thể, cần lãnh đạo công nhân liên hiệp với tư sản dân tộc 87
và tiểu chủ chống lại bọ tư bản lớn người Pháp và bọn mại bản người Việt chuyên chèn ép họ, đồng thời yêu cầu họ thi hành luật lao động cho công nhân, tuyệt nhiên không được nêu ra những yêu cầu quá cao đối lập gay gắt với lợi ích của họ. Đối với nông dân, phải căn cứ vào trình độ nhận thức và giác ngộ cách mạng mà đưa ra khẩu hiệu thích hợp như hoãn nợ thuế, giảm lãi nợ, cải cách sưu thuế…
Mặc dù Chính phủ Pháp ngày càng ngả về hữu, tuy vậy phong trào đấu tranh của quần chúng trông những năm 1938 – 1939 vẫn tiếp tục phát triển và dạt được những kết quả to lớn.
“Từ đầu năm, những cuộc đình công liên tiếp xảy ra của 350 thợ máy Sài Gòn – Chợ Lớn, 30-1, hơn 100 thợ cưa ở Châu Thành, Mỹ Tho ngày 11-2, 70 người thầu chở gạo ra tàu ở Sài Gòn- Chợ Lớn, ngày 14- 2, 600 phu chuyên chở ở bến Sài Gòn ngày 2-3… tại Bắc Kỳ, nhất là Hà Nội, phong trào nắm vững nói chung, tiểu thương nói riêng, lên cao” [39; 137]. Tính riêng từ tháng 1 đến tháng 11 của năm 1938, có tới 135 cuộc bãi công của công nhân với khoảng 12.762 người tham gia, có tới 125 cuộc đấu tranh của nông dân với 55.442 người tham gia”. Số lượng tuy không bằng năm 1937 nhưng trình độ tổ chức và lãnh đạo của các tổ chức Đảng vững vàng hơn, các khẩu hiệu sát hợp hơn, đúng với nguyện vọng của các giai tầng lao động từ cao xuống thấp. Sự liên kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau của công nhân trong từng ngành, địa phương được tăng cường hơn trước. Bọn chủ xưởng của nhiều nhà máy, xí nghiệp đã mau chóng tự động nới lỏng hơn, chế độ làm việc cũng như tăng thêm lương cho công nhân.
Phong trào đấu tranh của nông dân, học sinh, những người buôn bán nhỏ cũng phát triển. Ở miền Nam, riêng trong tháng 10 năm 1938 có các cuộc biểu tình của hơn 1.000 nông dân Cà Mau, gần 2.000 công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, thanh niên, phụ nữ ở Sài Gòn.
Điều này chứng tỏ những nội dung chỉ đạo, điều chỉnh trong công tác vận động quần chúng của Hội nghị Trung ương Đảng tháng 3 năm 1938 đã có những kết quả cụ thể.
Đỉnh cao của Mặt trận dân chủ Đông Dương là phong trào đấu tranh nhân dịp kỉ niệm ngày Quốc tế lao động 1/5/1938. Đây là sự kết hợp giữa bộ phận hoạt động công khai của Đảng ta với chi nhánh của Đảng xã hội Pháp về công tác tổ chức. Về phía Đảng xã hội họ đứng ra xin phép bọn cầm quyền Đông Dương, ta chịu trách nhiệm huy động quần chúng. Trước khi tiến hành lễ mít tinh kỷ niệm, những đại diện của chi nhánh đảng xã hội Pháp yêu cầu ta quán 88
triệt quần chúng về nhiều mặt: hạn chế số lượng quần chúng, số đại biểu phát biểu, các bài phát biểu phải được kiểm duyệt, quần chúng không được tụ tập, tuần hành ngoài phố, khi mít tinh không được dùng cờ biển, không hát Quốc tế ca chỉ hát Quốc ca của Pháp… Ta không hề cưỡng lại các yêu cầu của chúng, tuy nhiên đến ngày 1/5 mọi việc lại diễn ra hoàn toàn ngược lại với ý đồ của những người Pháp có tư tưởng hẹp hòi và bọn thống trị ở Đông Dương: “Các đoàn thể quần chúng trước khi đến trường Đấu Xảo làm mít tinh, đều tụ tập ở hội quán ái hữu của mỗi ngành hay một địa điểm nhất định. Hàng ngũ chỉnh tề, có người phụ trách từng nhóm, từng đoàn. Mỗi người đều đeo huy hiệu, trên mũ cài những khẩu hiệu la liệt. Từng đoàn qua các đường phố, ai cấm được họ hô những khẩu hiệu vang lừng” {40; 54}. Ban tổ chức lễ kỉ niệm vừa khai mạc, quốc ca Pháp với bài Mác xây vừa dứt, ngay lập tức mọi người đồng thanh hát bài Quốc tế ca. Hai vạn rưỡi người cùng hát, ai cấm được họ? Các đại biểu của ta tranh thủ quần chúng đang giơ cờ Búa liềm, hăng hái lên diễn thuyết: “Diễn văn của chị Thảo, thay mặt phụ nữ, được vỗ tay rất nhiều. Đại biểu nông dân là Mai Văn Thể hô những khẩu hiệu bỏ thuốc nào (lào), thuốc ná (lá), ai cũng bật cười. Anh Phan Tử Nghĩa nhân danh đảng xã hội. Tôi (Trần Huy Liệu – TG) thay mặt cho nhóm cộng sản công khai là nhóm Tin Tức đọc một bài chiếu văn viết ít, nói nhiều, được người nghe vỗ tay, hoan nghênh nhiệt liệt” [40; 54]. Uy thế của Đảng cộng sản lên rất cao, quần chúng vô cùng mãn nguyện, chỉ có bọn phản động thuộc địa là không bằng lòng, nhưng, trước sức mạnh của quần chúng rầm rộ, hoà bình, chúng không làm gì được. Đây là lần đầu tiên ở Đông Dương, ngày Quốc tế lao động được tổ chức công khai. Đối với nhân dân lao động Đông Dương, đây là một thắng lợi lớn, một ngày hội lớn. Đối với Đảng ta, đây là một sự khích lệ lớn lao, với sự tham gia của 2,5 vạn người tại Đấu Xảo, chứng tỏ những chủ trương của Đảng nêu ra là hoàn toàn đúng đắn, nó phù hợp với nguyện vọng của đại đa số quần chúng.
Không chỉ ở Hà Nội, tại nhiều nơi khác, đặc biệt là Sài Gòn hoạt động kỉ niệm ngày 1/5 cũng được tổ chức rầm rộ. Hàng nghìn người được Đảng tổ chức biểu tình ở Sài Gòn, trong đó có đủ đại biểu công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, phụ nữ, thanh niên… người dự mít tinh hô lớn các khẩu hiệu tự do nghiệp đoàn, ái hữu, triệt để thi hành luật lao động, giảm thuế, tăng lương, bớt giờ làm, ủng hộ Liên Xô, Trung Quốc, Tây Ban Nha…
89
* Vấn đề phong thủ Đông Dương và công tác vận động quần chúng:
Phát xít Nhật tiến sát biên giới Việt – Trung đe doạ an ninh, tự do của Đông Dương. Ngay từ hội nghị Trung ương Đảng 3/1938 Đảng đã ra một nghị quyết quan trọng có tên gọi “phòng thủ Đông Dương và chống bắt lính”. Nghị quyết này không chỉ khuyến cáo sự cảnh giác của cả Đông Dương với nguy cơ xâm lược của phát xít Nhật mà còn chống lại âm mưu móc nối giữa Pháp - Nhật để đàn áp, bóc lột Đông Dương. Đảng kêu gọi đông đảo quần chúng nói chung và binh lính, những thanh niên sắp bị bắt lính cần thấy những trách nhiệm của mình trước vận mệnh cá nhân và dân tộc.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng ta với thời cuộc” (29/10/1938) Đảng khẳng định phòng thủ Đông Dương: “Phải có lực lượng của quần chúng; chính phủ Pháp ở Đông Dương phải ban bố các quyền tự do dân chủ và cải thiện sinh hoạt cho nhân dân; đồng thời phải tổ chức quần chúng vào các hội quốc phòng và vũ trang quần chúng lú có chiến tranh” [1; 453]. Đảng cũng nói rõ với quần chúng: “Dân chúng phòng thủ Đông Dương mà không tranh đấu đòi tự do, dân chủ, đòi cải thiện sinh hoạt, đòi vũ trang để phòng thủ thì sự phòng thủ ấy là phòng thủ suông mà kko có ý nghĩa” [1; 253]. Đảng coi việc phòng thủ Đông Dương là một nhiệm vụ của thời kỳ đấu tranh công khai, coi đây là một nội dung để tập hợp quần chúng, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù. Đảng nêu chủ trương đúng đắn của mình trong việc phòng thủ Đông Dương một cách chủ động, có hiệu nghiệm, tức là chính phủ Pháp phải ban hành những quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống cho nhân dân. Đồng thời, nhân dân Đông Dương, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, phải được vũ trang chủ động phòng thủ Đông Dương để tự bảo vệ mình.
Đảng ta còn nêu rõ quan điểm: nếu Nhật vào Đông Dương không những người Đông Dương mà cả người Hoa cũng chịu chung số phận, nên Đảng đã tranh thủ kêu gọi người Pháp dân chủ, người Hoa tham gia chống bọn phản động Đông Dương và phát xít Nhật, dù cho quan điểm của họ có thế nào thì Đảng Cộng sản và toàn thể Đông Dương vẫn chủ động phòng ngự tích cực.
90
Ngay từ cuối năm 1938, thực hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương về phòng thủ Đông Dương, nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng đã nổ ra, như các cuộc biểu tình của 200 nông dân Bình Đăng (Nam Bộ) vào ngày 15/8/1938; biểu tình của 300 nông dân ở Vĩnh Long (Nam Bộ) ngày 19/6/1938; biểu tình của 2.000 nông dân Vĩnh Linh (Quảng Trị) ngày 17/10/1938, biểu tình của 2.000 công nhân và nhân dân Sài Gòn ngày 29/10/1938… khẩu hiệu “ủng hộ Đông Dương” đã được quần chúng nêu lên bên cạnh các khẩu hiệu tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình, chống phát xít, chống chiến tranh.
Để đối phó với những thủ đoạn phát xít của chính quyền do Đalađiê cầm đầu tiến hành ở Đông Dương, ngày 10/3/1939, Đảng ta “Thông Cáo khẩn cấơ” kêu gọi toàn Đảng lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống khủng bố, tiếp tục đòi các mục tiêu dan sinh” dân chủ, đòi tự do cho chính trị phạm, mở rộng chế độ tuyển cử, thủ tiêu án biệt xứ và quản thúc, thả hết nhân viên toà soạn báo Dân chúng, cải thiện đời sống nhân dân. Cuối bản Thông cáo, Trung ương nhấn mạnh cho các đảng bộ: cần tránh những khẩu hiệu “tả”, đề phòng sự khiêu khích, nắm vững đường lối của Đảng, không manh động, không nhượng bộ trước sự tiến công của thế lực phản động thuộc địa.
Liên tục trong 2 tháng đầu năm 1939 (tháng 3 và tháng 4), Đảng ta ra liền các bản Tuyên Ngôn phân tích tình hình thế giới, trong nước, nhấn mạnh hoạ phát xít đang đến gần, kêu gọi nhân dân thống nhất hành động, chống bọn phản động thuộc địa và nguy cơ chiến tranh.
Mặc dù chịu ảnh hưởng rất lớn từ những chính sách khủng bố của thực dân Pháp nhưng phong trào đấu tranh của quần chúng do Đảng lãnh đạo vẫn có những hoạt động đáng kể trên cả ba miền Bắc- Trung- Nam. Cuộc đấu tranh của 200 thợ xẻ ở Hải Phòng (7/4); 200 anh em kéo xe ở Mỹ Tho (16/4); anh em xe kéo Hải Phòng đòi giảm thuế xe (21/3). Những cuộc biểu tình của nông dân Nam Kỳ và nam Trung Kỳ từ cuối 1938 vẫn tiếp diễn, nông dân các tỉnh Mỹ Tho, Vĩnh Long, Đà Lạt biểu tình đòi giảm thuế, chống đi phu, tự do, dân chủ… Trong không khí khá “ngột ngạt” tại Hà Nội do chính sách phản động của thực dân, ngày 1/5/1939 công nhân và quần chúng nói chung không thể tiến hành ngày hội lớn như tại nhà Đấu Xảo năm trước. Theo sự chỉ đạo của Đảng, quần chúng được phân tán thành nhiều cuộc mít tinh nhỏ theo hình thức nửa công khai, tiến hành rải truyền đơn ở nhiều nơi với các khẩu hiệu: đòi tự do dân chủ và nghiệp đoàn, triệt để thi hành luật lao động, chống khủng bố, chống phản động thuộc địa, ủng hộ phòng thủ Đông Dương, chống Nhật, ủng hộ cuộc kháng chiến của Trung Quốc, kêu gọi bảo vệ Liên Xô.
91
Với những khẩu hiệu đó, Mặt trận dân chủ Đông Dương vẫn thể hiện được vai trò hiệu quả của mình trong việc trực tiếp vận động quần chúng tiếp tục đấu tranh. Sau ngày 1/5 ở nhiều nơi, các cuộc đấu tranh liên tục nổ ra từ Bắc chí Nam: “anh em xe rác và xe thùng ở Sài Gòn – Chợ Lớn ngày 20/5, thợ hăng Ba Son ngày 5/6…) tại Bắc Kỳ, trong hai tháng 5 và 6, hầu hết các xí nghiệp ở Hải Phòng đều đình công để phản đối việc tăng thuế đèn, thuế nước và đòi thi hành đúng luật lao động (…). Ngày 9/6, 800 công nhân của Sở xe lửa Vân Nam tại
Gia Lâm đình công đòi tăng lương và cải thiện sinh hoạt. Một lần nữa, phong trào lại sôi nổi lên đều” [39; 40].
Ngày 14/7/1939, nhân kỷ niệm 150 năm cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789 Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương coi đây là một dịp tốt để vận động quần chúng đấu tranh; “nhân dịp này phát huy tinh thần dân chủ của cuộc cách mạng Pháp đẩy mạnh thêm đấu tranh của thợ thuyền và nhân dân Đông Dương” {39; 140].
Thực hiện chủ trương đó, các đảng viên nhiều nơi tích cực vận động quần chúng biến nơi tổ chức lễ kỷ niệm thành các cuộc mít tinh biểu tình rộng lớn từ Bắc vào Nam để giành lại những quyền lợi mà dân chúng vừa đấu tranh giành được.
Tại Bắc Kỳ, nhiều cuộc mít tinh đã được tổ chức ở Bờ Hồ, Lạc Viên, vườn Hoa và chợ Cột đèn Hải Phòng. Tại Nam Kì, ngay tối 13/7 khi lính Pháp vừa diễu hành qua đưòng Nôrôđôm, hàng vạn quần chúng đã chờ sẵn và nối đuôi vào đoàn lính Pháp, giương cao nhiều khẩu hiệu, biểu ngữ đòi tự do nghiệp đoàn, bỏ thuế thân, toàn xá chính trị phạm, phòng thủ Đông Dương một cách hiệu nghiệm… phong trào còn nổ ra ở Vĩnh Long, Châu Đốc, Cần Thơ, Biên Hoà… với sự tham gia của đông đảo nhân dân với nhiều khẩu hiệu như: đòi trừng trị bọn đầu cơ, đòi chia lại công điền, chống bọn cướp đất, lập thêm trường học, việc làm cho trí thức, trí thức nười Việt phải được đối xử công bằng với trí thức người Pháp.
Tại Trung Kỳ, nhiều cuộc mít tinh đã nổ ra vượt qua mọi sự phòng bị, ngáng đường của bọn thống trị. Đáng kể nhất là cuộc đấu tranh của 1.000 người ở Quảng Ngãi với các khẩu hiệu như trên.
Sau ngày 14/7 phong trào vẫn tiếp tục diễn ra từ thành thị đến nông thôn. Tuy nhiên, từ khi Mặt trận Bình dân đi vào tan và bọn phản động thuộc địa đã hoạt động ráo riết hơn, cũng từ đây “cuộc đấu tranh của thợ thuyền và nhân dân Đông Dương lâm vào thế thủ, chỉ còn việc chặn lại những đòn phản công của địch”.
92
* Các cuộc đấu tranh ở miền núi trong thời kỳ 1936 – 1939: Nếu ở thành thị, nông thôn đồng bằng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, quần chúng đấu tranh với các mục tiêu dân sinh, dân chủ, hoà bình… thì tại miền núi, nhân dân các dân tộc thiểu số cũng nhiệt tình hưởng ứng. Mặc dù, sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng tại các khu vực này là chưa nhiều,
nhưng nhân dân vẫn tự giác hưởng ứng mạnh mẽ. Tại miền Bắc, đồng bào dân tộc ở Cao Bằng đấu tranh với nhiều mục tiêu như chống đi phu, bắt lính, làm đường quân sự tại địa phương, bên cạnh các khẩu đấu tranh chung. Tại khu vực miền Trung- Tây Nguyên các cuộc đấu tranh chống làm đường ở Sơn Hà (Quảng Ngãi), ở Ba Tơ (Quảng Ngãi) chống thu thuế của Pháp và giết tay sai của Pháp, nhiều cuộc bãi công có đổ máu đã diễn ra giữa quần chúng bất mãn với thực dân (nhân dân 9 xã tại Đại Lộc, Quảng Nam). Điều này cho thấy đã hình thành thực sự một Mặt trận dân tộc thống nhất trên cả nước.
* Trong giai đoạn cuối của Mặt trận dân chủ, về phía Đảng nói chung và công tác vận động quần chúng nhân dân nói riêng xuất hiện một vài hiện tượng thiếu thống nhất gây ảnh hưởng không tốt đến phong trào, sự thiếu nhất trí này chính là nguyên nhân dẫn đến việc Đảng bị thất bại trong cuộc tranh cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Bọn Tơrôtxkit lợi dụng sơ hở này ra sức tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng ta, gây hoang mang trong dư luận. Một cuộc tranh luận trong Đảng đã nổ ra “chứng tỏ một số đồng chí đã không nắm vững nguyên tăc tự phê bình và phê bình của đảng Mác- Lênin, đồng thời cũng chứng tỏ một số đồng chí chưa quán triệt những vấn đề thuộc về nguyên tắc trong chính sách Mặt trận dân chủ của Đảng” [2; 282].
Để thống nhất cách đánh giá về cuộc tranh cử, để định hướng dư luận nhân dân đang xôn xao về cuộc tuyển cử Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, nhằm tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, kịp thời lãnh đạo, giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân và tiếp tục đưa phong trào cách mạng tiến lên, đồng chí Nguyễn Văn Cừ- Tổng Bí thư của Đảng từ 1938 đén 1940 đã viết cuốn “Tự chỉ trích” dưới bút danh Trí Cường, nhà xuất bản Dân Chúng đã phát hành ngày 20/7/1939.
Trong tác phẩm của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ khẳng định: đường lối của Đảng là đúng đắn, các đảng viên đã nhiệt tình chiến đấu, đã bênh vực quyền lợi của giai cấp, của dân tộc. Tuy nhiên, kinh nghiệm đấu tranh của Đảng còn ít lại phải đương đầu với những kẻ thù nguy hiểm nên không tránh được việc mắc phải sai lầm, khuyết điểm. Đảng muốn tồn tạivà phát triển phải vận dụng đúng đắn nguyên tắc phê bình, tự phê bình.
Về việc thất bại trong cuộc bầu cử tại Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, đồng chí có giải thích nguyên nhân thất bại, chịu ảnh hưởng của các yếu tố khách quan tác động, tuy nhiên, chủ yếu do những khuyết điểm về chủ quan của ta:
- Mặt trận dân chủ chưa được xây dựng thật vững chắc và rộng rãi. 93
- Công tác tuyên truyền và vận dụng chính sách của Đảng còn nhiều
khuyết điểm.
- Coi thường nguy cơ Tơrốxkit là một khuyết điểm quan trọng. Đồng chí cũng thẳng thắn thừa nhận còn có những đảng viên có nhận thức và quan điểm lệch lạc về chính sách Mặt trận dân chủ của Đảng, đồng thời đồng chí còn nêu ra, làm rõ đường lối đúng đắn và những kinh nghiệm lớn của Đảng trong quá trình thực hiện mặt trận.
Tự chỉ trích có ý nghĩa và tác dụng rất quan trọng trong cuộc đấu tranh đi đến thống nhất về tư tưởng trong Đảng, làm cho sự đoàn kết trong Đảng được củng cố, cán bộ, đảng viên của Đảng sáng tỏ được nhiều vấn đề quan trọng, quần chúng nhân dân càng tin tưởng vào đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta.
Đầu tháng 9 năm 1939, đại chiến thế giới lần thứ hai đã nổ ra không nằm ngoài dự đoán của những người cộng sản ở Đông Dương. Đế quốc Pháp là một trong những nước tham chiến. Bọn phản động ở Đông Dương điên cuồng truy lùng các tổ chức và quần chúng cách mạng. Các điều kiện cho một cuộc đấu tranh công khai, dân chủ đã không còn. Thời kỳ hoạt động “hợp pháp” đã chấm dứt. Đảng ta rút vào hoạt động bí mật, chuẩn bị cho sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược của thời kỳ mới, thời kỳ chiến tranh và cách mạng tiến tới giải phóng dân tộc.
Quá trình vận động quần chúng thời kỳ 1936- 1939 - nhìn nhận một cách khách quan- đã mang lại nhiều thành công quan trọng trong quá trình vận động cách mạng của Đảng ta, tuy nhiên, phong trào này còn có những hạn chế nhất định cần được đánh giá, nhìn nhận khách quan để rút ra bài học trong thực tiễn.
- Mặt trận Dân chủ Đông Dương tuy được tổ chức cụ thể hơn Hội phản đế đồng minh năm 1930, đã có sự tham gia liên kết đấu tranh của nhiều đảng phái và tổ chức chính trị mà nòng cốt là Đảng Cộng sản Đông Dương, tuy nhiên sự liên hệ giữa các đảng phái chưa được chặt chẽ theo hình thức sinh hoạt của mặt trận. Nghị quyết của đảng Cộng sản Đông Dương thường nhắc đến việc củng cố và phát triển mặt trận nhưng thực tế quá trình đó đã diễn ra rất hạn chế. Sự thật là trong suốt thời gian hoạt động của mình măt Dân chủ thường được nêu lên về danh nghĩa; còn thực tế công tác vẫn là đảng Cộng sản và các đoàn thể quần chúng của Đảng.
94
- Thành công lớn của công tác vận động quần chúng thời kỳ này dưới sự lãnh đạo của Đảng là đã vận động được đông đảo quần chúng tham gia đấu tranh,
giưã các giai cấp, tầng lớp đã có sự liên hệ chặt chẽ trong đấu tranh. Thành công đạt được là rất lớn. Tuy nhiên cũng xuất hiện những hạn chế trong công tác vận động quần chúng đối với từng giai tầng cụ thể. Đối với công nhân: mặc dù phong trào lan rộng nhưng nhiều cuộc đấu tranh không nhận được sự hướng dẫn chu đáo nên dã không chĩa được mũi nhọn vào đối tượng chính của cách mạng thời kỳ này mà lại hướng vào tư sản dân tộc, một số địa chủ. Đây chính là một hạn chế đã bị kẻ thù lợi dụng gây chia rẽ làm ảnh hưởng không tốt đến phong trào. Đối với nông dân, “Đảng chưa đề ra được một chính sách nông thôn rõ rệt, không có một chỉ đạo xác đáng cho toàn quốc về việc xây dựng mặt trận Dân chủ ở nông thôn. Do đó, phong trào nông dân do Đảng bộ địa phương lãnh đạo nhiều hơn, thiếu sự chỉ huy chung.” {39; 148}. Đối với các tầng lớp dân chúng khác, Đảng đã đưa ra được nhiều khẩu hiệu lôi kéo được nhiều tầng lớp tham gia nhưng “trong những khẩu hiệu mặt trận Dân chủ đề ra hồi ấy đã thiếu hẳn khẩu hiệu của các dân tộc thiểu số” {39;149}.
- Việc công khai hay bí mật những tổ chức quần chúng cũng trở thành một vấn đề còn gây nhiều tranh luận trong nội bộ cách mạng. Một bộ phận cho rằng không thể có những tổ chức công khai cho dù là tổ chức của quần chúng. Bộ phận khác thì cho rằng với tất cả những điều kiện hiện có, tổ chức của quần chúng có thể đem ra công khai và nhất định phải là công khai. Thực tế trong đấu tranh cách mạng nói chung và trong vận động quần chúng nói riêng có nhiều hình thức tổ chức quần chúng đấu tranh và phương pháp đấu tranh khác nhau tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mà có sách lược phù hợp, có thể công khai hoặc bí mật, hoặc nửa công khai, nửa bí mật. Tất cả đều phối hợp với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung, duy nhất. Trong một xứ là thuộc địa của thực dân thì hình thức bí mật là chủ yếu nhưng tuỳ theo hoàn cảnh cụ với những không gian và thời gian nhất định có thể lợi dụng hình thức công khai và hợp pháp để đẩy mạnh phong trào phát triển rộng khắp đó là nhiệm vụ mà một đảng cách mạng cần làm và phải làm. Thực tiễn của thời kỳ 1936- 1939, một số đồng chí do chịu ảnh hưởng của quá trình hoạt động bí mật trong những năm trước đã không nắm được phương châm công tác mới khi hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi, hoặc tư tưởng đấu tranh của cá nhân chưa thực sự được thông suốt… nên đã gây những hạn chế nhất định cho phong trào nói chung. Tuy nhiên, những hạn chế này chủ yếu do những nguyên nhân khách quan và tính chất cũng như phạm vi ảnh hưởng là không lớn, không trở thành một vấn đề cơ bản.
95
- Tương tự như vậy, vấn đề phòng thủ Đông Dương cũng là một chủ đề gây nhiều tranh luận. Mặt trận Dân chủ chủ trương phòng thủ Đông Dương một cách hiệu nghiệm, có điều kiện, không phải là khẩu hiệu cơ bản mà chỉ là khẩu hiệu mang tính sách lược mục đích chính vẫn là đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh dân chủ chung phát triển. Nhưng trong thực tiễn, nhiều đồng chí cho rằng Đông Dương là thuộc địa của Pháp, đã mất độc lập, tự do, nếu quyết tâm phòng thủ Đông Dương thì đồng nghĩa với việc phòng thủ cho Thực dân Pháp. Và thực chất giữa Pháp và Nhật không có sự khác biệt về bản chất xâm lược nên phải đánh cả hai để giành lại độc lập tự do cho Đông Dương. Thực chất quan điểm của lực lượng này có vẻ “có lý” và rất “khảng khái, cách mạng” nên rất dễ lôi kéo những quần chúng chưa thông suốt chiến sách mới, “lúc ấy một số người đã không nhận thức thấu đáo nên đi vào hữu khuynh, thêm vào đấy là sự vu cáo của bọn trốt- kít, khiến có người đã hiểu lầm chủ trương của chúng ta. Việc thất bại trong cuộc tuyển cử Hội đồng quản hạt (hội đồng thuộc địa) ở Nam Kỳ của Mặt trận dân chủ là một bằng cớ”. {39; 152}.
- Một hạn chế cơ bản lúc ấy chính là “khẩu hiệu độc lập dân tộc không được nêu ra lúc ấy” {39;153}. Thực tế phải thừa nhận không thể nêu ra khẩu hiệu độc lập dân tộc trong một mặt trận mà cả tên gọi và tất cả thành phần trong nó đều chưa thuận thậm chí một số thành phần không thuận với khẩu hiệu đó. Nhưng, vấn đề là “điểm lại những văn kiện của đảng Cộng sản Đông Dương hồi ấy cũng không thấy nêu lên khẩu hiệu này”{39; 153}- tức là khẩu hiệu độc lập dân tộc. Trên thực tế phong trào đã diễn ra, vấn đề độc lập dân tộc hầu như không được nhắc đến, ngay cả trong những sách báo, truyền đơn, văn kiện thời kỳ 1936- 1939, cũng như cao trào 1930- 1931, không hề nói đến những khẩu hiệu “đồng bào”, “tổ quốc”… Chính những khuyết điểm này đã làm hạn chế phần nào tinh thần dân tộc chống thực dân của quảng đại quần chúng nhân dân. Đây là một hạn chế rõ rệt của công tác vận động quần chúng của Đảng trong thời kỳ này.
96
Chương 3
Ý NGHĨA VÀ KINH NGHIỆM.
3.1 Ý nghĩa
3.1.1 Cao trào 1930 - 1931.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản vừa được thành lập với đường lối chính trị rõ ràng, cao trào 1930- 1931 mà đỉnh cao là xô viết Nghệ Tĩnh đã thu hút được đông đảo quần chúng tham gia đấu tranh và đạt được nhiều thắng lợi quan trọng. Thành công của cuộc đấu tranh cách mạng nói chung và của quá trình vận động quần chúng của Đảng ta nói riêng trong thời kỳ này có một ý nghĩa lịch sử quan trọng, tác động mạnh mẽ đến nội tình chính trị của Việt Nam, Đông Dương cũng như quốc tế.
- Những thắng lợi trong công tác vận động quần chúng đạt được trong thời kỳ 1930- 1931 đã khẳng định đường lối cách mạng do Đảng ta đề ra là đúng đắn, phù hợp với đặc điểm tình hình cụ thể của nước ta, đáp ứng được nguyện vọng của đa số quần chúng nhân dân.
97
Khác với những phong trào đấu tranh đã từng diễn ra trong lịch sử, những người cộng sản Việt Nam đã mang đến một đường lối đấu tranh hoàn toàn mới, nó là sự kết hợp của lý luận đấu tranh tiên tiến nhất của thời đại là chủ nghĩa Mác – Lê Nin với thực tiễn kinh nghiệm đấu tranh của dân tộc và thế giới. Và chính con đường này đã mang đến một niềm tin mãnh liệt cho quảng đại quần chúng. Bằng chứng dễ nhận thấy nhất chính là lực lượng quần chúng tham gia đấu tranh trong thời kỳ này, theo nhà sử học Lê Mậu Hãn: “Cao trào cách mạng nổ ra năm 1930 có tính quần chúng rộng rãi, nhất là những địa phương phong trào lên đến đỉnh cao nhất như Nghệ An, Hà Tĩnh đã cuốn hút mạnh mẽ sức mạnh đoàn kết dân tộc, không chỉ có công nông mà còn có các tầng lớp trí thức, một số sỹ phu, phú nông, trung tiểu địa chủ và một số quan lại nhỏ ở nông thôn.” {29; 29}.
- Qua cuộc đấu tranh của đông đảo quần chúng nhân dân trong cao trào cách mạng này nổi bật và rõ ràng nhất là vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân với đội tiên phong là Đảng Cộng sản.
Có thể còn có sự tranh cãi về việc có hay không sự lãnh đạo của Đảng ngay từ khi phong trào cách mạng này mới bắt đầu, tuy nhiên, có một điều chắc chắn không thể phủ nhận được là do những ảnh hưởng có tính quyết định từ phong trào dân tộc dân chủ cuối năm 1928 đầu năm 1929 mà chủ lưu theo đường lối vô sản nên phong trào cách mạng 1930- 1931 mới trở nên mạnh mẽ đặc biệt đến vậy. Càng về sau thì vai trò đi đầu và lãnh đạo của phong trào công nhân và Đảng Cộng sản càng hiện rõ, điều này cho thấy trong cách mạng dân tộc dân chủ giai cấp công nhân ở nước ta đóng vai trò tiên phong và Đảng Cộng sản xứng đáng là lực lượng lãnh đạo ưu tú đủ năng lực đưa cách mạng đến toàn thắng.
- Với thắng lợi của cao trào cách mạng này khối liên minh công nông đã
được thực hiện.
Lần đầu tiên trong cuộc đấu tranh chống áp bức của nhân dân ta phong trào đấu tranh của quần chúng mà chủ yếu là công nhân và nông dân đã chính thức kết thành những làn sóng mạnh mẽ dội vào kẻ thù. Từ Bắc chí Nam hễ một khi có phong trào đấu tranh dù của bất kỳ là giai cấp nông dân hay công nhân châm ngòi thì cũng ngay lập tức có sự bùng nổ đấu tranh của giai cấp còn lại trong liên minh công nông. Điều này cho thấy tính chất tương hỗ của quần chúng cách mạng trong cuộc đương đầu với kẻ thù gian ác, chỉ có sự đoàn kết theo tiinh thần chỉ đạo của những người cộng sản mới mang lại hiệu quả đấu tranh xứng đáng với xương máu mà quần chúng đã đổ xuống. Đây chính là những cơ sở thực tiễn đầu tiên cho Đảng ta nhiều bài học trong quá trình xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất về sau.
98
- Đối với công tác vận động quần chúng, đây là lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của một chính đảng của giai cấp công nhân quần chúng đã được tập dượt đấu tranh một cách mạnh mẽ, trực tiếp đương đầu với một kẻ thù hung hãn, gian xảo… Vượt qua những sóng gió của thời kỳ này không chỉ Đảng trưởng thành về độ ngũ cán bộ và tổ chức mà lực lượng quần chúng còn có thêm nhiều kinh nghiệm đấu tranh chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám sau này. Và trước hết có thể khẳng định “không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930- 1931, trong đó công nông đã vung ra nghị lực một cách phi thường của mình thì không thể có cao trào những năm 1936- 1939”. {10; 38, 39}
- Thắng lợi của cuộc vận động quần chúng giai đoạn này nói riêng và cao trào 1930 – 1931 nói chung có những ảnh hưởng nhất định ra bên ngoài, tức là nó mang ý nghĩa quốc tế. Trước hết, thắng lợi của giai đoạn này của cách mạng nước ta đã gây hiệu ứng tích cực tới các phong trào đấu tranh ở PhNôm Pênh, Viêng Chăn…Và trong những nước nằm trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân vùng dậy đấu tranh ở giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới thì cao trào 1930- 1931 ở Việt Nam đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh đã gây được tiếng vang lớn, ảnh hưởng tích cực đến phong trào đấu tranh của nhiều dân tộc khác trên thế giới. Ngày 11 tháng 4 năm 1931 Quốc tế Cộng sản chính thức công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một chi bộ độc lập thuộc Quốc tế Cộng sản. Sự kiện này còn chứng tỏ Đảng ta đã trưởng thành nhanh chóng trong quá trình lãnh đạo quần chúng đáu tranh, ngoài ra nó còn góp phần động viên tinh thần đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân ta… Trong thời kỳ này Quốc tế Cộng sản còn kêu gọi nhân dân các nước phát động phong trào đấu tranh để bảo vệ, ủng hộ và cứu tế cho Xô viết Nghệ Tĩnh… Như vậy, nhìn về một khía cạnh khác, Xô viết Nghệ Tĩnh và Cao trào 1930- 1931 ở Việt Nam đã trở thành một nội dung hoạt động của Quốc tế Cộng sản, góp phần làm phong phú thêm phong trào hoạt động của cách mạng thế giới.
Xô viết Nghệ Tĩnh và phong trào quần chúng Việt Nam đấu tranh trong những năm 1930- 1931 đã thực sự gây được một ấn tượng mạnh đối với quốc tế, “đây là cao trào cách mạng công nông đầu tiên trong hệ thống thuộc địa thế giới. Nó làm cho kẻ địch rất lo ngại và tìm đủ mọi cách tiêu diệt Đảng Cộng sản, nhưng Đảng ngày càng mạnh, càng ăn sâu trong quần chúng lao động.”{2; 155}. Trong thư gửi các Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Quốc tế Cộng sản đã khẳng định ý nghĩa của phong trào quần chúng thời kỳ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đã góp phần tăng thêm ảnh hưởng cộng sản trong các xứ thuộc địa, nhất là các nước Phương Đông.
3.1.2 Giai đoạn 1932- 1935.
99
Cuộc đấu tranh của Đảng ta trong thời kỳ này trọng tâm nhằm phục hồi lực lượng nên không gian hoạt động chủ yếu diễn ra ngay tại các nhà tù đế quốc nơi có hàng vạn quần chúng, đảng viên Cộng sản và đảng phái và các tổ chức chính trị khác. Chính tại các “trường học cách mạng”, những hoạt động của những người cộng sản kiên trung đã có những tác động sâu sắc không chỉ cho phong trào cách mạng hiện thời mà còn để lại bài học lịch sử vô giá cho hậu thế về sự sáng tạo, dũng cảm và ý chí kiên định cách mạng của những người cộng sản.
- Thắng lợi của công tác vận động truyên truyền tư tưởng cách mạng cộng sản đúng đắn của những tù chính trị cộng sản đối với những bạn tù khác đã tăng cường thêm cho lực lượng cách mạng một đội quân đông đảo để khi có dịp đội quân này sẽ đảm nhận những trọng trách mà Đảng giao phó.
- Ngay trong tại các nhà lao đế quốc, những người cộng sản kiên trung đã biết nương tựa vào nhau để thể hiện tinh thần dũng khí cách mạng của mình, vượt qua sự tra tấn, lung lạc của kẻ thù. Qua đó chiến thắng kẻ thù và chiến thắng chính những hạn chế mang tính bản năng trong mình, tự rèn luyện mình để trở thành những người cộng sản kiên trung, “hầu hết những chính trị phạm được thả ra trong dịp Mặt trận Bình dân lên cầm quyền ở bên Pháp năm 1936 đều đã được “trang bị” bằng lý luận và kinh nghiệm cách mạng để nhảy luôn vào trường hoạt động, gây lại phong trào. Vì vậy, nói đến quá trình cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến cách mạng tháng Tám, chúng ta phải ghi nhớ, nhắc nhở luôn những thành tích của các “trường học cách mạng” tại các nhà tù của thực dân Pháp và phần đóng góp to lớn của nó với cách mạng. Đây cũng là một trong những đặc điểm của cách mạng Việt Nam.”{39, 105}. Ngay cả khi phải đối diện với cái chết những đồng chí như Trần Phú, Nguyễn Đức Cảnh, Lý Tự Trọng…vẫn luôn “giữ vững ý chí chiến đấu” để khẳng định cho các đồng chí của mình, cho những đảng viên các đảng phái, tổ chức chính trị khác, cho đông đảo quần chúng trong và ngoài nhà lao thấy được bản lĩnh và tinh thần đấu tranh của những người cộng sản chân chính.
- Qua các cuộc đối thoại và tranh luận trực tiếp trong thời kỳ này của những người cộng sản với các đảng phái tư sản, tiểu tư sản, Tơrôtxkit…trên cả lĩnh vực chính trị hay văn học nghệ thuật đều đã có ý nghĩa quan trọng như: khẳng định với quần chúng sự đúng đắn của đường lối cách mạng vô sản; vạch ra những hạn chế thậm chí là phản động của các đường lối chính trị khác ngoài vô sản; vạch mặt nạ của bọn Tơrốtxkít giả danh cách mạng nói xấu những người cộng sản chân chính; thu hút được đông đảo những quần chúng cách mạng còn phân vân chưa biết nên theo con đường đấu tranh nào; thu hút cả những quần chúng đã lầm đường tin theo bọn Tơrốtxkít, các đảng phái tư sản, tiểu tư sản; lôi kéo và mang về cho Đảng cả những đảng viên nhiệt tình của các đảng phái này…
100
- Cũng trong thời kỳ này các đảng viên đã bắt đầu tiến hành những hình thức đấu tranh công khai, bán công khai, “hợp pháp và nửa hợp pháp”, cụ thể là đấu tranh trên mặt trận báo chí, tham gia đấu tranh nghị trường… Đảng đã khéo léo sử dụng biện pháp đấu tranh công khai, nửa công khai để che giấu và phục hồi tổ chức
bí mật, bước đầu mạnh dạn công khai chương trình chủ trương đường lối chính trị của Đảng mình trước quần chúng. Chính những kinh nghiệm đấu tranh công khai đầu tiên này là những tiền đề vô cùng quan trọng để Đảng ta gặt hái những thành công lớn trong thời kỳ Mặt trận dân chủ kế sau đó.
Tất cả những thắng lợi đạt được trong thời kỳ này của công tác vận động quần chúng đã góp phần phục hồi lực lượng cách mạng sau khủng bố trắng. Đây là ý nghĩa quan trọng nhất đối với tiến trình cách mạng. Trải qua cuộc đấu tranh sống mái với kẻ thù, Đảng nhanh chóng trưởng thành, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm đấu tranh quý báu. Đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng được rèn luyện và sàng lọc. Đây là một trong những nguyên nhân thắng lợi có ý nghĩa quyết định cho giai đoạn sau- thời kỳ đấu tranh công khai dân chủ.
3.1.3 Giai đoạn 1936- 1939.
- Những thành công của quá trình vận động quần chúng trong những năm 1936- 1939 không những đã cho thấy được sự đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương trong việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng cho phù hợp với xu hướng đấu tranh mới của cách mạng thế giới dưới sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản, mà còn cho thấy được bản lĩnh lãnh đạo quần chúng đấu tranh khi biết kết hợp những điều kiện khách quan và chủ quan để xác định đường lối đấu tranh cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của mình. Sự đúng đắn này được minh chứng bằng thành tích cụ thể và không thể phủ nhận: vừa phải trải qua một cơn sóng gió do bị kẻ địch khủng bố, hệ thống tổ chức của Đảng cũng như cơ sở trong quần chúng chỉ vừa được khôi phục trở lại. Đảng luôn phải hoạt động trong những điều kiện khắc nghiệt nhất mà kẻ thù tạo ra, trong khi nhân dân ta chưa có một quyền tự do dân chủ nào. Nhưng Đảng đã phát động được một cao trào quần chúng đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp kết hợp chặt chẽ với hoạt động bí mật, không hợp pháp. Đây là một thành tích hiếm có đối với một đảng cộng sản ở một nước thuộc địa. Thắng lợi của Mặt trận Dân chủ chính là thắng lợi của đường lối sáng suốt quán triệt sâu sắc tinh thần cách mạng tiến công của Đảng, biết triệt để lợi dụng những khả năng hợp pháp để tập hợp, động viên và tổ chức lực lượng quần chúng, đưa quần chúng ra đấu tranh.
101
- Cuộc vận động dân chủ 1936- 1939 tiếp tục rèn luyện đấu tranh cho đội quân chính trị đông đảo để chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Với cơ sở quần chúng đã được thử lửa qua cao trào 1930- 1931, thời kỳ đấu
tranh phục hồi lực lượng những năm 1932- 1935. Đến giai đoạn 1936- 1939, “hàng triệu quần chúng công nông cùng với đông đảo quần chúng tiểu tư sản và các tầng lớp trên đã được động viên, giáo dục và tổ chức lại dưới các hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp kết hợp với không hợp pháp rất linh hoạt và phong phú. Thắng lợi to lớn đó đã tạo ra lực lượng mới và trận địa mới cho cao trào cứu nước rộng lớn những năm 1940- 1945.” {2; 289}.
- Qua cuộc vận động dân chủ rộng lớn này, uy tín và ảnh hưởng của Đảng không chỉ được mở rộng và nâng cao trong quần chúng nhân dân trong nước mà qua thời kỳ này uy tín của Đảng trong Quốc tế Cộng sản được nâng lên thêm một bước, các đảng chính trị tại Pháp và nhiều nước khác đánh giá cao vị thế của Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Trải qua thời kỳ đấu tranh này, thêm một lần nữa đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng nói riêng và chủ nghĩa Mác- Lê Nin nói chung được truyền bá sâu rộng trong quần chúng.
- Làm phong phú thêm các lĩnh vực và hình thức đấu tranh và vận động quần chúng. Cao trào cách mạng này đã diễn ra trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, tư tưởng… diễn ra bằng nhiều hình thức phong phú, linh hoạt: bãi công, biểu tình, bãi chợ, bãi khoá, mít tinh, báo chí, nghị trường…các hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp, công khai kết hợp với bí mật. Tuy vậy, công tác bí mật luôn được Đảng ta coi là nòng cốt.
Ý nghĩa quốc tế của quá trình vận động quần chúng giai đoạn 1936- 1939.
Trước hết, cuộc vận động dân chủ này đã đưa cách mạng Việt Nam hoà nhịp với phong trào đấu tranh dân chủ khắp nơi trên thế giới, góp phần tạo nên một mặt trận, một sức mạnh tổng hợp cho phong trào cách mạng thế giới trong quá trình đấu tranh, tiến công vào nghĩa chủ phát xít, bọn đế quốc quân phiệt phản động đòi các quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình, chống chiến tranh đế quốc.
Thứ hai, thắng lợi của cuộc vận động này góp phần thúc đẩy cách mạng Lào, Campuchia cũng như phong trào đấu tranh của nhiều dân tộc khác trong khu vực cùng phát triển.
102
Thứ ba, cuộc vận động dân chủ ở Việt Nam phát triển hỗ trợ tích cực cho cuộc đấu tranh của các lực lượng dân chủ ở Pháp giành nhiều thắng lợi trước khi bước chân vào một thời kỳ đấu tranh mới.
3.2 Một số kinh nghiệm.
3.2.1 Từ quá trình lãnh đạo cách mạng nói chung và quá trình vận động quần chúng nói riêng của Đảng trong giai đoạn 1930- 1931, chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:
- Kinh nghiệm về việc xác định mục tiêu đấu tranh cụ thể cho từng giai đoạn một cách đúng đắn, phù hợp để tiến tới giành thắng lợi cuối cùng. Một cuộc cách mạng xã hội thường phải trải qua nhiều giai đoạn đấu tranh khác nhau, thắng lợi của từng giai đoạn góp phần vào thắng lợi chung của cả quá trình cách mạng. Nếu một đảng cách mạng lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng mà không biết đặt ra những mục tiêu đấu tranh phù hợp với điều kiện khách quan, chủ quan, đáp ứng nguyện vọng của quần chúng, động viên tinh thần đấu tranh của quần chúng để giành thắng lợi thì con đường đấu tranh của đảng ấy chắc chắn sẽ đi vào ngõ cụt và thất bại là một tất yếu có thể đoán trước.
Năm 1930 khi Đảng vừa được thành lập, những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi cho một cuộc lật đổ chính quyền thực dân phong kiến mang lại thắng lợi hoàn toàn cho nhân dân chưa xuất hiện. Muốn cho tình thế cách mạng xuất hiện thì Đảng phải có những chuẩn bị tích cực về chủ quan, tức là phải tích luỹ lực lượng, phải chuẩn bị về mọi mặt. Khi chưa thể đặt ra những mục tiêu cho một cuộc quyết chiến cuối cùng thì tất yếu phải đưa ra những mục tiêu có tính cụ thể, trước mắt, gần gũi với yêu cầu thực tế đời sống của quần chúng “đó là đấu tranh giành quyền lợi dân sinh, dân chủ”{2; 156}, bước đầu đưa quần chúng làm quen với đấu tranh cách mạng, rèn luyện quần chúng để chuẩn bị cho các phong trào đấu tranh. Trong Luận cương Chính trị tháng 10 năm 1930, Đảng ta đã khẳng định: “Không chú ý đến những sự nhu yếu và sự tranh đấu hàng ngày của quần chúng là rất sai lầm (…). Nhiệm vụ của Đảng là phải lấy những sự nhu yếu hằng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng.” {20; 102}. Mặc dù có sự khác nhau trên một số vấn đề vào thời điểm hiện tại nhưng đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng cho rằng mục tiêu cụ thể lúc ấy là tập hợp, tổ chức, vận động nông dân đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày chứ chưa phải là việc tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Trong thực tế, cao trào 1930- 1931 là sự cụ thể hoá những quan điểm chỉ đạo của Đảng ta với những mục tiêu trước mắt. Việc thành lập chính quyền Xô viết lúc ấy chỉ là một kết quả tất yếu, một hiệu ứng tất nhiên khi phong trào quần chúng được đẩy lên rất cao. Đảng đã nhanh chóng kiểm điểm chỉ ra những ưu, khuyết, kịp thời uốn nắn theo phương hướng đúng đắn để hạn chế thấp 103
nhất những hậu quả từ sự khủng bố quyết liệt của địch. Xô viết Nghệ Tĩnh và cao trào 1930- 1931 đã xác định cho Đảng ta kinh nghiệm đầu tiên về vận động và lãnh đạo quần chúng đấu tranh đó là việc xác định đúng những mục tiêu cụ thể trước mắt. Về kinh nghiệm này, đồng chí Lê Duẩn cũng đã kết luận: “ở mỗi thời kỳ nhất định hay mỗi tình thế nhất định, biết đề ra được mục tiêu cụ thể sát hợp nhất, biết dựa theo quy luật khách quan mà điều khiển cuộc đấu tranh thế nào để thực hiện mục tiêu đó với mức thắng lợi tối đa, mở đường cho cách mạng tiến lên những bước mới cao hơn và tạo ra triển vọng chắc chắn nhất cho thắng lợi cuối cùng.” {10; 38}.
- Kinh nghiệm về đánh giá và khắc phục một cuộc khởi nghĩa của quần chúng khi nó nổ ra chưa đúng thời cơ và bị đàn áp.
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng dân tộc và thế giới không tránh khỏi những cuộc khởi nghĩa bùng phát có tính chất manh động của quần chúng vượt ra ngoài tầm kiểm soát của những người lãnh đạo đấu tranh. Điều quan trọng đối với những người lãnh đạo không phải là việc kiểm điểm kỷ luật một ai đó đã trực tiếp hay gián tiếp làm bùng nổ cuộc khởi nghĩa đó hay than vãn, hoang mang về mức độ tổn thất mà quần chúng phải hứng chịu từ sự khủng bố của kẻ thù. Trái lại, những người lãnh đạo cần tỉnh táo để có những phân tích, đánh giá đúng đắn rồi có những biện pháp giải quyết hợp lý định hướng cho quần chúng những biện pháp đấu tranh tối ưu để hạn chế thấp nhất những thương vong không cần thiết, đồng thời tiếp tục phát huy tinh thần đấu tranh của quần chúng, bảo vệ những thành quả mà cách mạng vừa giành được.
Năm 1870, 6 tháng trước khi Công Xã Pari diễn ra, Các Mác đã cảnh báo công nhân Pari không nên bạo động non khi chưa có đủ điều kiện. Tháng 3 năm 1871, khi cuộc đấu tranh vũ trang của công nhân Pari đã nổ ra thì C. Mác lại ca ngợi tinh thần đấu tranh của công nhân Pari, gọi những hành động đó là “tấn công lên trời”, vai trò của C. Mác lúc diễn biến cách mạng 1871 là một cố vấn theo dõi và chỉ đạo công nhân đấu tranh.
104
Cũng trên tinh thần đó, năm 1905 khi đánh giá về cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới vừa diễn ra, Lê Nin cho rằng không bao giờ người ta có thể tính trước một cách thật chính xác những cơ hội thắng lợi, điều quan trọng là rút ra bài học bổ ích và làm thế nào giữ vững được khí thế cách mạng của quần chúng để chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh mới để giành những thắng lợi có ý nghĩa lớn hơn.
Mặc dù đang hoạt động tại nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc luôn theo dõi mọi động thái của cao trào 1930- 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh để cùng với Đảng đưa ra những chỉ đạo phù hợp cho quần chúng đấu tranh. Sau này Người đã khẳng định: “Tuy đế quốc Pháp đã dập tắt phong trào đó trong một biển máu, nhưng Xô viết Nghệ Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này.” {1; 210}.
Trước những diễn biến mạnh mẽ và phức tạp của phong trào đấu tranh của quần chúng tại Nghệ Tĩnh, Trung ương Đảng đã có những chỉ đạo khẩn trương đối với Xứ uỷ Trung Kỳ, thẳng thắn chỉ ra rằng: “chủ trương như thế là là chưa đúng hoàn cảnh (…) Song việc đã như vậy rồi thì bây giờ phải làm cách thế nào mà duy trì kiên cố ảnh hưởng của Đảng, của Xô viết trong quần chúng để đến khi thất bại thì ý nghĩa Xô viết ăn sâu vào trong óc quần chúng và lực lượng của Đảng và Nông hội vẫn được duy trì.” {16; 83}. Đảng vừa biểu dương tinh thần cách mạng tiến công tuyệt vời của công nông Nghệ Tĩnh, phát động phong trào cả nước ủng hộ công nông Nghệ Tĩnh, vừa uốn nắn lệch lạc, chuẩn bị đối phó với khủng bố của địch; đồng thời nhanh chóng chuyển vào bí mật và rút ra những kinh nghiệm thiết thực, chuẩn bị cho cao trào cách mạng tiếp theo.
- Kinh nghiệm về việc xây dựng khối liên minh công nông vững chắc làm
nòng cốt cho đội quân chính trị quần chúng rộng lớn.
Thực tiễn cao trào 1930- 1931 đã cụ thể hoá chủ trương liên minh công nông mà Đảng ta vạch ra ngay từ khi thành lập và đây chính là yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thành công lớn nhất của cao trào cách mạng này chính là việc đã kết hợp được hai giai cấp có tinh thần cách mạng cao nhất, bị áp bức nặng nề nhất trong xã hội lúc đó. Chủ nghĩa Mác- Lê Nin về liên minh công nông đã được minh chứng một cách đúng đắn trong điều kiện Việt Nam. Ngay từ đầu Đảng ta đã thấu suốt lý luận này và đã thực hiện nó một cách mạch lạc, sinh động trong cuộc thử sức đầu tiên do mình trực tiếp lãnh đạo. Sự tham gia đấu tranh của hàng vạn quần chúng công nông trên cả nước cho thấy sự ủng hộ của đông đảo quần chúng dành cho Đảng.
105
Khối đoàn kết công nông trong thời kỳ này đã đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc như những sự kiện vẻ vang nhất, nhưng một hạn chế cần thừa nhận chính là việc chưa thể thành lập được Mặt trận Dân tộc thống nhất. Nguyên
nhân chủ yếu là do đảng viên và quần chúng chưa được giáo dục một cách sâu sắc về chủ trương thành lập Mặt trận, nên trong thực tiễn, chủ trương thành lập Hội Đồng minh phản đế Đông Dương đã không được thực hiện. Chỉ sau này chúng ta mới nhận thấy được tầm quan trọng thực sự của chủ trương quan trọng này.
Cao trào 1930- 1931 không chỉ khẳng định vai trò của liên minh công nông và đội quân chính trị quần chúng rộng lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta mà còn cho Đảng ta những kinh nghiệm quý báu về về phương pháp tổ chức và phát động công nông, phát động đội quân chính trị quần chúng rộng lớn. Đó là việc kết hợp các khẩu hiệu đấu tranh chính trị với các khẩu hiệu đấu tranh kinh tế trên nguyên tắc các mục tiêu đấu tranh phải xuất phát từ các nhu cầu cụ thể, thiết yếu với quần chúng hàng ngày. Ta sử dụng các hình thức đấu tranh từ thấp đến cao, giành thắng lợi từng bước, dù nhỏ, để khuyến khích quần chúng đấu tranh quyết liệt với kẻ thù. Đảng viên bám sát với quần chúng để tự rèn luyện bản lĩnh cách mạng đồng thời giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ lý tưởng cách mạng cho quần chúng. Việc tổ chức và phát động đội quân chính trị đông đảo mà công nhân, nông dân là lực lượng chủ yếu đã trở thành vấn đề chiến lược cách mạng và vấn đề phương pháp cách mạng.
- Để có được một cao trào đấu tranh rộng lớn của quần chúng, nhất định phải có những hình thức và phương pháp cách mạng thích hợp nhằm biến đường lối của Đảng thành hiện thực.
Thực tiễn giai đoạn 1930- 1931 đã cho thấy cần phân biệt rõ hai hình thức và phương pháp đấu tranh khi chưa có và khi có tình thế cách mạng là yêu cầu vô cùng quan trọng của phương pháp cách mạng trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền.
Tinh thần của Luận cương Chính trị đã nêu rõ : “Lúc thường thì phải tuỳ theo tình hình mà đặt khẩu hiệu “phần ít” để binh vực quyền lợi cho quần chúng (…) để khoách trương sự tranh đấu cách mạng ra” {16; 101}. Tức là khi chưa có tình thế cách mạng, phương pháp thích hợp nhất là vận động quần chúng đấu tranh vì các quyền lợi hàng ngày như tăng lương, giảm giờ làm, giảm thuế, chống thuế…
106
Đây chính là lúc Đảng phải tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho một cuộc đấu tranh cách mạng bùng nổ khi thời cơ đến, đặc biệt là việc chuẩn bị lực lượng cách mạng và tạo ra thời cơ cách mạng, trong quá trình này tuyệt đối không được
thủ tiêu đấu tranh. Liên tục trong giai đoạn chuẩn bị này Đảng phải hướng quần chúng vào sự tập dượt đấu tranh và đòi các quyền tự do dân chủ chứ chưa phải nổi dậy giành chính quyền, mọi khả năng giành chính quyền có tính chất cục bộ đều phải có những chỉ đạo chi tiết và phải thận trọng nhằm duy trì ảnh hưởng của Đảng và tinh thần đấu tranh của quần chúng. Nguyên tắc chỉ đạo là không dùng các hình thức đấu tranh quá cao có tính “tả” khuynh như khởi nghĩa vũ trang vì đó là cách ta bộc lộ lực lượng và dễ bị kẻ thù khủng bố. Tuy nhiên cũng không được theo chủ trương cứ tích luỹ lực lượng theo kiểu “tổ chức rồi mới đấu tranh”…thì không thể rèn luyện được quần chúng để chuẩn bị cho ngày tổng khởi nghĩa được. Nên, hình thức phù hợp nhất của cả quá trình cách mạng là vừa đấu tranh, vừa tổ chức.
Khi tình thế cách mạng đã xuất hiện, Đảng phải hướng quần chúng vào những mục tiêu đấu tranh cao hơn mà Đảng đã nêu ra trong đường lối chiến lược của mình: chính quyền công nông, ruộng đất dân cày…Phương pháp lúc ấy phải có sự điều chỉnh: dùng bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng phải được thực hiện bằng lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang (lực lượng vũ trang được tổ chức từ lực lượng chính trị mà ra). Cả hai lực lượng này tạo thành sức mạnh tổng hợp áp đảo kẻ thù mói có thể giành thắng lợi.
Muốn được như vậy, lực lượng chính trị của quần chúng phải được tập hợp và được chuẩn bị một cách kỹ lưỡng, phải được tập dượt đấu tranh bằng việc đòi những mục tiêu cụ thể trước mắt. Khi đã có kinh nghiệm đấu tranh chỉ cần có điều kiện thuận lợi là có thể nổi dậy giành chính.
Có thể nói, vẫn còn những hạn chế trong công tác vận động quần chúng nhưng cao trào cách mạng 1930- 1931 đã đi đúng hướng. Đảng đã xây dựng cho mình được một đội quân chính trị đông đảo mà nòng cốt là liên minh công nông ngay từ những ngày đầu lãnh đạo quần chúng.
3.2.2. Giai đoạn Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo quần chúng đấu tranh để phục hồi lực lượng sau khủng bố trắng của Thực dân Pháp để lại nhiều kinh nghiệm sâu sắc trong đấu tranh cách mạng vận động quần chúng:
107
- Kinh nghiệm về việc tận dụng mọi hoàn cảnh, điều kiện để không ngừng đấu tranh và vận động quần chúng
- Chú ý bồi dưỡng đạo đức và lý tưởng cách mạng cho đảng viên đây là điều kiện cơ bản cho quá trình đấu tranh vận động quần chúng. Giai đoạn đấu tranh trong các nhà tù của Thực dân Pháp cho thấy càng trong nguy nan bản lĩnh của những người cộng sản càng được phát huy cao độ. Chính sự toả sáng của những nhà cách mạng chân chính này đã góp phần chủ yếu làm nên thành công cho thời kỳ này.
- Mạnh dạn sáng tạo các hình thức đấu tranh mới để mang lại sự tươi mới cho phong trào cách mạng, tranh thủ mọi điều kiện để tuyên truyền đường lối cách mạng của Đảng phục vụ cho quá trình vận động quần chúng: đấu tranh báo chí, tranh luận về triết lý, tư tưởng cách mạng, tham gia tranh cử…
- Trong điều kiện và hoàn cảnh khó khăn việc kiên trì đấu tranh nhằm bảo vệ và khôi phục thành công tổ chức Đảng là điều kiện cơ bản để phát động các cuộc đấu tranh mới. Bảo vệ Đảng, tiếp tục tổng kết kinh nghiệm và đề ra sách lược đấu tranh mới phù hợp thúc đẩy cách mạng tiến lên.
3.2.3. Qua thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1936- 1939 có thể ghi nhận nhiều kinh nghiệm về công tác vận động quần chúng.
- Vấn đề xác định đúng phương hướng và mục tiêu cụ thể trước mắt, từng bước đưa quần chúng vào cuộc đấu tranh giành những thắng lợi trong giai đoạn và thắng lợi mang tính chiến lược cho cả quá trình cách mạng.
Đây là bài học được phát huy từ cao trào 1930- 1931. Bước vào thời kỳ đấu tranh mới, sau khi đã nghiên cứu kỹ lưỡng hoàn cảnh lịch sử trong nước và quốc tế, nghiên cứu những chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội lần VII Quốc tế Cộng sản, sau những cuộc tranh luận gay gắt trong nội bộ, Đảng ta đã xác định mục tiêu cụ thể trước mắt là chống phản động thuộc địa và tay sai, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình. Chính những khẩu hiệu này đã làm dấy lên một phong trào cách mạng rộng lớn của quần chúng.
108
Phương hướng và mục tiêu cụ thể trước mắt trong thời kỳ 1936- 1939 đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn và phù hợp. Những mục tiêu trên đã vạch mặt kẻ thù nguy hiểm trước mắt của quần chúng Đông Dương, đồng thời, với việc thu hẹp, giới hạn phạm vi kẻ thù như vậy Đảng thực hiện được sách lược phân hoá kẻ thù, trung lập được những đối tượng ít nguy hiểm, làm cho thế và lực của kẻ thù giảm sút rõ rệt, khiến đối tượng cách mạng bị lúng túng trong việc đối phó với cách
mạng, và đương nhiên đã tăng cường lực lượng và sức mạnh cho cách mạng. Những mục tiêu trên đã làm cho đại đa số các giai tầng bị áp bức, chèn ép trong xã hội ta lúc ấy bị thuyết phục, họ hăng hái lao vào trận tuyến cách mạng, đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Nó đã làm cho phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương phối hợp một cách nhịp nhàng với phong trào cách mạng thế giới trong đó có nhân dân Pháp. Nó thể hiện sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước của nhân dân Đông Dương với chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính.
Từ khi có sự lãnh đạo của Đảng, chưa bao giờ quần chúng lại sát cánh đông đảo trong một mặt trận chung đến vậy, thế và lực của cách mạng được nhân lên gấp bội, vị thế chính trị của cách mạng trong thời kỳ này đã tiến những bước dài so với thời kỳ trước.
Mục tiêu trước mắt mà Đảng xác định trong thời kỳ đấu tranh này hoàn toàn không mang tính cải lương. Đấu tranh đòi những cải cách trong khuôn khổ chế độ cai trị của kẻ thù chủ yếu là nhằm đòi quyền dân sinh, có thêm những quyền lợi chính đáng mà nhân dân đáng được hưởng qua đó lại rèn luyện được tinh thần và kinh nghiệm đấu tranh cách mạng cho quần chúng. Khi chưa thể làm cuộc cách mạng lật đổ để giành chính quyền về tay công nông thì có thể khẳng định đây là những lựa chọn hợp lý nhất, và duy nhất đúng của Đảng ta.
Trong điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến, vấn đề dân tộc và dân chủ luôn luôn có quan hệ khăng khít với nhau. Sự trưởng thành và sáng tạo của Đảng là trong khi tiếp tục phê phán chủ nghĩa cải lương cơ hội, Đảng lại biết sử dụng một cách hợp lý và khéo léo những khẩu hiệu đấu tranh đòi cải cách theo đúng quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, phát động thành công một cao trào quần chúng để chống bọn tay sai và phản động thuộc địa.
109
Kinh nghiệm xác định phương hướng và mục tiêu cụ thể này vẫn luôn đúng trong điều kiện hiện nay của quá trình đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay luôn cần sự tham gia của đông đảo quần chúng lao động trong mọi giới, mọi ngành. Đặc biệt cần hướng trọng tâm vận động vào những bộ phận quần chúng là thanh niên, trí thức vì đây chính là lực lượng có yếu tố quyết định sự phát triển của quốc gia dân tộc trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Bằng những mục tiêu cụ thể sát hợp với đặc điểm và nhu cầu của từng bộ phận, giai cấp, tầng lớp, trong đó cần chú ý việc định hướng tư tưởng cho
thanh niên, trí thức đi đôi với việc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho họ phát huy những khả năng, ưu điểm của mình.
Là một nước nông nghiệp với đa số nông dân vẫn ở trong điều kiện còn vô
vàn khó khăn
- Kinh nghiệm về việc xây dựng Mặt trận dân chủ rộng rãi nhằm thực hiện
các mục tiêu sách lược của từng thời kỳ cách mạng.
Thời kỳ 1936- 1939, thực hiện chủ trương của Quốc tế Cộng sản, Đảng ta chú trọng thực hiện nhiệm vụ đoàn kết rộng rãi các đảng phái, giai cấp tầng lớp trong xã hội có tinh thần dân chủ để xây dựng Mặt trận dân chủ rộng rãi nhằm chống bọn phản động thuộc địa, tay sai, chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
Mặt trận dân chủ ở Đông Dương không giống với Mặt trận bình dân ở nước Pháp gồm 3 đảng Cộng sản, Xã hội Cấp tiến và Xã hội đại diện cho công nhân, tiểu tư sản và một bộ phận tư sản. Mặt trận dân chủ Đông Dương cũng không giống với Mặt trận nhân dân thống nhất kháng Nhật ở Trung Quốc gồm Đảng Cộng sản do Mao Trạch Đông và Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu nhằm giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của phát xít Nhật. Thân phận Đông Dương lúc này mặc dù cũng là thuộc địa, tuy nhiên, trong giới thực dân Pháp cũng có những người đứng trong mặt trận chống phát xít, cũng như Mặt trận bình dân Pháp là một mặt trận tiến bộ chống phát xít nhưng họ vẫn chủ trương duy trì chế độ thuộc địa. Cho nên, thực tế tất yếu đặt ra cho Đảng ta là phải xác định được đúng đắn sách lược đấu tranh cho cả thời kỳ, cụ thể hơn là phải đề ra được mục tiêu đáu tranh cho Mặt trận dân chủ Đông Dương. Đây là nguyên nhân giải thích tại sao thời kỳ này Đảng ta có chủ trương đòi các quyền dân sinh dân chủ, chống bọn phản động thuộc địa là chủ yếu.
110
Về thành phần của Mặt trận bao gồm các tầng lớp nhân dân, các lực lượng dân chủ tiến bộ, không phân biệt giai cấp, đảng phái tôn giáo, dân tộc, vào một mặt trận thống nhất dân chủ để chống bọn phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự do cơm áo, hòa bình. Nhưng đồng thời Đảng cũng phê phán những tư tưởng hữu khuynh lúc ấy muốn liên hiệp hết tất cả các đảng phái dù cải lương hay phản động ta chỉ chống các phần tử phản động có hại thôi. Nếu không đứng trên quan điểm đáu tranh giai cấp để giải quyết vấn đề mặt trận thì tất nhiên cũng không thể thành
lập được mặt trận, vì thực chất mặt trận là sự liên hiệp những giai tầng có chung quyền lợi tự nguyện liên hiệp lại để đấu tranh vì những quyền lợi ấy, chứ mặt trận không thể là sự liên hiệp của mọi giai tầng trong một xã hội. Ngay trong bản thân nội bộ mặt trận yếu tố giai cấp đương nhiên tồn tại, trong quá trình hoạt động phát sinh các mâu thuẫn nội tại thì việc giải quyết các mâu thuẫn ấy phải được thực hiện bằng hòa bình thương lượng, giải quyết một cách hợp lý quyền lợi mỗi giai cấp, tầng lớp trong mặt trận mới có thể đảm bảo cho sự thống nhất và hành động chung trong mặt trận. Xuyên suốt thời kỳ của Mặt trận Dân chủ chúng ta đã làm khá tốt nguyên tắc này. Trong bối cảnh hiện nay, việc nắm giữ và thực hiện có hiệu quả nguyên tắc này vẫn luôn là một biện pháp hiệu quả của công tác Mặt trận và dân vận.
Thời kỳ 1936- 1939, chính những chính sách của Mặt trận Dân chủ đã tạo điều kiện và thúc đẩy phog trào đấu tranh công khai, hợp pháp của nhân dân lao động phát triển thuận lợi, làm cho cách mạng sử dụng được nhiều hình thức đấu tranh phong phú và linh hoạt, mở rộng địa bàn hoạt động vào ngay cả những lĩnh vực mà trước kia là lãnh địa của kẻ thù, qua đó tăng cường được lực lượng cho cách mạng, đẩy mạnh phong trào công nông phát triển.
Trong bối cảnh của Đông Dương lúc ấy vấn đề dân tộc và dân chủ không những là nhu cầu tất yếu của mà còn là của quảng đại các giai cấp tầng lớp có ý thức dân tộc và bị áp bức, nên việc có đặt ra được mục tiêu đấu tranh cụ thể, sát hợp hay không có một ý nghĩa sống còn đối với Mặt trận. Bên cạnh đó hình thức mặt trận cũng có ý nghĩa quan trọng. Hình thức Mặt trận dân chủ thích hợp với mục tiêu đấu tranh cụ thể trước mắt của cách mạng và hoàn cảnh Đông Dương lúc ấy. Mặt trận Dân chủ không chỉ bao gồm những lực lượng có tinh thần phản đế mà còn mở rộng đến các lực lượng yêu cầu cải cách; không chỉ là công nông mà cả các tầng lớp giai cấp khác như tiểu tư sản, tư sản dân tộc, địa chủ, các đảng phái cải lương ít nhiều tiến bộ....Mặt trận không chỉ là những người tán thành dân chủ thuộc 3 nước Đông Dương mà cả những ngoại kiều, những người Pháp tán thành những khẩu hiệu ấy. Mặt trận Dân chủ có khi hình thành tổ chức thường xuyên có khi chỉ là mối liên hệ nhất định trong từng hoạt động, Mặt trận Dân chủ được tổ chức từ bên trên đến cơ sở.
111
Đảng ta rất chú ý đến nguyên tắc liên minh trong Mặt trận, thực hiện mặt trận rộng rãi nhưng không phải là không có giới hạn. Đối với các đảng phái phản
động phải vạch mặt cho quần chúng thấy, phải đánh đổ chúng để chúng không còn cơ hội lừa bịp quần chúng. Đối với các dảng phái cải lương cần liên minh có chọn lọc, đánh giá đúng bản chất chính trị của chúng để có những sách lược đúng đắn. Điều quan trọng nhất là phải lôi cuốn được quần chúng chịu ảnh hưởng của họ tham gia trận tuyến cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Để thực hiện được quyền lãnh đạo đối với mặt trận rộng rãi, Đảng phải giữ vững tính độc lập về chính trị và tổ chức. “Nút sống” của Đảng chính là liên minh công nông, không dựa được vào công nông Đảng không thể tồn tại. Trong phong trào quần chúng rộng lớn, phải lấy phong trào công nông làm nòng cốt. Đảng cho rằng sở dĩ Mặt trận Dân chủ chưa phát triển sâu rộng và vững chắc nguyên nhân cơ bản là lực lượng của phong trào quần chúng công nông do Đảng lãnh đạo chưa đủ mạnh để có thể khắc phục những hạn chế có tính trù trừ, do dự và yếu kém về bản lĩnh chính trị của tư sản dân tộc và các đại diện chính trị của họ.
- Kinh nghiệm về việc giải quyết mối quan hệ giữa hình thức hoạt động, hình thức tổ chức công khai, hợp pháp và hình thức hoạt động, hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp trong đấu tranh trong vận động quần chúng để khắc phục tư tưởng ngại khó, chỉ bó mình trong các hình thức bí mật, đồng thời để ngăn ngừa có hiệu quả chủ nghĩa công khai, hợp pháp.
Trong công tác vận động quần chúng, hình thức tổ chức và đấu tranh là cái vẻ bề ngoài của mục tiêu đấu tranh. Nói cách khác, mục tiêu đấu tranh là cái bản chất còn hình thức tổ chức và đấu tranh là vỏ ngoài hiện tượng. Cái hiện tượng đương nhiên phải phục tùng bản chất, tùy thuộc bản chất. Thời kỳ 1936- 1939 đã giúp ta có nhận thức đúng đắn hơn về mối quan hệ này. Cụ thể như khi Đảng xác định mục tiêu cụ thể là những yêu cầu về dân sinh dân chủ trong phạm vi cai trị của thực dân thì hình thức đấu tranh được chúng ta triệt để sử dụng là công khai, hợp pháp là phù hợp. Nó cũng phù hợp với trình độ giác ngộ và khả năng đấu tranh của đông đảo quần chúng, cho phép khai thác được chỗ yếu của bọn phản động thuộc địa là những chính sách đàn áp phát xít của chúng đang bị Chính phủ Pháp ngăn cấm trên một mức độ nhất định và bị các lực lượng tiến bộ và cách mạng tại Pháp phản đối kịch liệt.
Đảng đặt vấn đề giành cho được những điều kiện hợp pháp không phải là có ảo tưởng về con đường “hợp pháp” giành chính quyền mà chính là mở rộng việc giáo dục và tập hợp quần chúng, phát triển rộng rãi ảnh hưởng của cách mạng. Từ 112
những hội ái hữu, nghiệp đoàn, hình thức thỉnh cầu, đưa dân nguyện, đòi mở Đông Dương đại hội, đón phái đoàn điều tra, truyền bá chữ quốc ngữ, hoạt động báo chí, lợi dụng các viện dân biểu, hội đồng quản hạt, yêu cầu cải cách hương thôn ... Đảng đã sáng tạo ra hàng loạt hình thức hoạt động, tổ chức và đấu tranh phong phú, linh hoạt, từ thấp đến cao. Nhờ thế, chỉ trong một thời gian ngắn đã tập hợp được đội quân chính trị quần chúng rộng lớn.
Thực tiễn thời kỳ 1936 - 1939 cho ta nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa hình thức tổ chức, hình thức hoạt động công khai, hợp pháp với những hình thức bí mật, không hợp pháp. Dưới chế độ thống trị của bọn phản động thuộc địa và tay sai, khi tình thế cách mạng trực tiếp chưa xuất hiện, khi đông đảo quần chúng chưa quyết tâm vùng dậy chiến đấu quyết liệt với kẻ thù, nếu chỉ dùng hình thức tổ chức và đấu tranh bí mật, không hợp pháp sẽ không thể tập hợp được đông đảo quần chúng, lực lượng của Đảng và quần chúng trung kiên của cách mạng có nguy cơ bị cô lập trước sự tấn công của kẻ thù. Phải biết sử dụng triệt để mọi khả năng hợp pháp để Đảng liên hệ được với đông đảo quần chúng, đồng thời phải biết khéo léo kết hợp giữa các hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp với các hình thức bí mật, không hợp pháp.
Ban đầu phải tập trung chống khuynh hướng bảo thủ, rụt rè, co mình lại, đồng thời đề phòng chủ nghĩa hợp pháp. Khi phong trào đấu tranh hợp pháp phát triển thuận lợi, kẻ thù có sự lùi bước, phải đặc biệt coi trọng chống chủ nghĩa hợp pháp, chống sự vi phạm những nguyên tắc tổ chức bí mật của Đảng, coi nhẹ việc xây dựng Đảng bí mật và các tổ chức trung kiên của quần chúng, coi nhẹ việc chuẩn bị chuyển sang hoạt động không hợp pháp.
113
Muốn kết hợp chặt chẽ giữa công tác không hợp pháp với việc lợi dụng việc khả năng hợp pháp, phải giữ vững mối quan hệ khăng khít giữa tổ chức bí mật và tổ chức công khai. Tổ chức bí mật là tổ chưc cơ bản của Đảng, tổ chức công khai là bộ phận chịu trách nhiệm thực hiện các chủ trương của Đảng trên các lĩnh vực đấu tranh công khai. Tổ chức đảng bí mật và bộ phận Đảng làm công tác công khai cân phải tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương và của Ban Chấp hành các cấp bộ Đảng tương đương. Coi thường bộ phận làm công tác công khai sẽ hạn chế việc mở rộng công cuộc vận động cách mạng của Đảng, coi thường tổ chức bí mật sẽ rơi vào chủ nghĩa hợp pháp.
Dưới chế độ thống trị của thực dân và phong kiến, cuộc đấu tranh cách mạng căn bản là đấu tranh không hợp pháp, chỉ trong những điều kiện đặc biệt nào đó kẻ địch mới buộc phải chịu để cho ta đấu tranh hợp pháp, nhưng vẫn dùng mọi thủ đoạn hạn chế sự hoạt động hợp pháp của ta. Không được bị động trông chờ ở kẻ địch, phải chủ động tranh thủ mọi khả năng, phải có sáng kiến tạo ra nhiều hình thức tổ chức và hoạt động cho phù hợp với tâm lý, nguyện vọng và khả năng đấu tranh của từng giới, của từng lứa tuổi, từng ngành nghề ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều quan trọng nhất là trong đấu tranh hợp pháp phải sẵn sàng chuyển sang bí mật, không hợp pháp khi điều kiện lịch sử không cho phép.
114
Thời kỳ 1936 – 1939, khi phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp phát triển thuận lợi, trong Đảng đã có những biểu hiện của chủ nghĩa công khai như không chú ý đúng mức đến nhiệm vụ xây dựng Đảng bí mật và củng cố các tổ chức quần chúng trung kiên, không xuất bản những sách báo bí mật và không có những lớp huấn luyện bí mật để tuyên truyền, giáo dục trong Đảng và quần chúng những vấn đề của cách mạng mà sách báo và những cuộc họp công khai không thể đề cập đến được. Nhưng về căn bản, Đảng ta không thủ tiêu hoạt động bí mật, không rơi vào chủ nghĩa hợp pháp. Trong khi kết hợp hoạt động hợp pháp với hoạt động không hợp pháp, Đảng đã giữ vững mối quan hệ giữa phong trào thành thị và phong trào nông thôn. Thành thị được coi là trung tâm hoạt động của phong trào, nhưng Đảng cũng không coi nhẹ nông thôn. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra, sự đàn áp của kẻ thù có gây cho Đảng nhiều khó khăn, nhưng Đảng đã rút vào hoạt động bí mật tương đối kịp thời, bảo vệ được lực lượng của quần chúng.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở truyền thống dân tộc coi trọng nhân dân, gần dân, vì dân, Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi thành lập đến năm 1939 đã biết vận dụng và phát huy truyền thống đó một cách hiệu quả, nhưng không phải là sự phát huy một cách đơn thuần mà là một sự kết hợp hài hòa với nhiều yếu tố khác như: lý luận cách mạng tiên tiến nhất của thời đại là chủ nghĩa Mác- LêNin; những quan điểm chỉ đạo của Bộ Chỉ huy tối cao của phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế là Quốc tế Cộng sản; những điều kiện lịch sử cụ thể của tình hình quốc tế và Đông Dương lúc ấy, để hình thành nên một đường lối vận động quần chúng mang những đặc điểm của riêng mình, và chính đường lối này đã góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Nhìn lại một chặng đường không dài của công tác vận động quần chúng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng từ ngày đầu thành lập đến khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, ta có thể thấy xuyên suốt trong đó một sự nhiệt huyết, kiên định không có gì lay chuyển được, không nề hy sinh gian khổ của những người cộng sản vì một mục tiêu cao nhất và duy nhất: độc lập dân tộc và người cày có ruộng, tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản.
Quá trình vận động quần chúng giai đoạn 1930- 1939 của Đảng là một quá trình đấu tranh gay go phức tạp trải qua 3 thời kỳ chủ yếu 1930- 1931, 1932- 1935, 1936- 1939, trong mỗi giai đoạn, công tác vận động quần chúng có tính chất khác nhau, nhưng cùng chung một mục đích duy nhất là tập hợp và rèn luyện quần chúng đấu tranh hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra và thúc đẩy cách mạng tiến lên.
- Giai đoạn 1930- 1931: Đây là thời kỳ xác lập những quan điểm đầu tiên về công tác vận động quần chúng, tiền đề của những quan điểm này là những luận điểm cách mạng của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên với vai trò quyết định của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc.
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh Chính trị đầu tiên đã khẳng định đường lối cách mạng của mình trong đó nổi bật là những quan điểm về công tác vận động quần chúng. Những chủ trương được thể hiện trong Chính Cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là những quan điểm khách quan, khoa học có tính khái quát cao, nó thể hiện một nhãn quan chính trị sắc sảo, siêu việt của một nhà cách mạng nắm vững lý luận đấu tranh tiên tiến của thời đại được chứng kiến, trải qua thực tiễn đấu tranh sinh động của quần chúng. Tuy nhiên, do 115
những lý do khách quan và chủ quan mà những quan điểm cách mạng được Hội nghị hợp nhất thông qua đã không được đánh giá một cách đúng đắn thậm chí còn bị đả phá một cách quyết liệt.
Thay thế vào đó là những chủ trương, đường lối có tính chất cứng rắn nhưng cũng chưa thực sự khách quan khoa học và phù hợp một cách hoàn toàn với thực tế xã hội Đông Dương lúc ấy. Với Luận cương chính trị những chủ trương về vận động quần chúng của Đảng cũng được điều chỉnh ở mức độ nhất định. Không thể đánh giá đây là một bước lùi trong việc hoạch định đường lối vận động quần chúng của Đảng nhưng có một thực tế phải nhìn nhận một cách khách quan: Luận cương chưa thấy hết được tính chất xã hội Đông Dương và các mâu thuẫn nội tại trong nó, do vậy, chưa nêu lên được những chỉ đạo thực sự thuyết phục trong công tác vận động quần chúng.
Phong trào cách mạng Việt Nam nói chung và cuộc đấu tranh vận động quần chúng những năm 1930- 1931 đã phản ánh khá rõ những chủ trương, đường lối từ trong Luận cương tháng 10 năm 1930 của Đảng. Một phong trào đấu tranh của đông đảo quần chúng (chủ yếu là công nông) đã diễn ra một cách mạnh mẽ quyết liệt điều đó thể hiện khát vọng của nhân dân, thể hiện sự khác biệt so với các thời kỳ trước và cũng thể hiện sự ủng hộ của nhân dân với con đường cách mạng vô sản do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Mặc dù còn có những hạn chế nhưng quá trình vận động quần chúng những năm 1930- 1931 đã đạt được những kết quả có ý nghĩa quan trọng, tập hợp và rèn luyện đấu tranh cho một bộ phận quần chúng đông đảo, chuẩn bị tích cực cho Cách mạng tháng Tám năm 1945.
116
- Những năm 1932- 1935, cách mạng Đông Dương gặp vô vàn khó khăn do sự khủng bố quyết liệt của kẻ thù, tuy nhiên, đây lại là giai đoạn thể hiện được bản lĩnh vững vàng của những người cộng sản. Quá trình vận động quần chúng diễn ra một cách tự giác của đông đảo những chính trị phạm họ là những đảng viên, tự tập hợp và tổ chức lại các chi bộ trong các nhà lao của thực dân. Với nhiều hình thức đấu tranh, vận động khác nhau các chi bộ Đảng đã lôi kéo được đông đảo quần chúng trong các nhà lao, trong đó có một bộ phận không nhỏ là các đảng viên, thành viên của những đảng phái và tổ chức chính trị khác vô sản cùng với một bộ phận không nhỏ quần chúng chịu ảnh hưởng của những tổ chức này. Song song với những hoạt động trong các nhà lao thực dân, cuộc đấu tranh vận động quần chúng còn được thể hiện rõ nét qua các cuộc đấu tranh trên nhiều mặt trận với nhiều hình
thức khác nhau có tính chất mới mẻ: đấu tranh tuyên truyền và tranh luận trên báo chí, văn học nghệ thuật, tư tưởng, chính trị, và cả đấu tranh nghị trường…Cùng với các hoạt động khôi phục tổ chức Đảng của những người cộng sản khác được sự hỗ trợ của Quốc tế Cộng sản, tổng hợp quá trình đấu tranh vận động quần chúng những năm 1932- 1935 đã đạt được những thắng lợi quan trọng. Thời kỳ đấu tranh đặc biệt này chính là cái gạch nối quan trọng góp phần trực tiếp khôi phục lại tổ chức của Đảng; tập hợp, phục hồi và củng cố tinh thần đấu tranh của quần chúng; góp phần chuẩn bị tích cực, trực tiếp cho giai đoạn đấu tranh kế tiếp - phong trào đấu tranh của Mặt trận Dân chủ.
- Bước sang giai đoạn 1936- 1939 hoàn cảnh lịch sử có những thay đổi đặc biệt, thực hiện chủ trương của Quốc tế Cộng sản, những người cộng sản ở Đông Dương đã thực hiện sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng nói chung và công tác vận động quần chúng nói riêng. Đảng Cộng sản Đông Dương chủ động liên kết với những tổ chức, đảng phái chính trị khác để thành lập Mặt trận thống nhất thực hiện mục tiêu chung. Mục tiêu đấu tranh có những thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới, lúc này, trong tâm đấu tranh hướng tới đòi những quyền lợi trước mắt như dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình, chống phát xít, chống chiến tranh, chống bọn phản động thuộc địa. Đảng chủ trương sử dụng kết hợp mọi hình thức đấu tranh chính trị, công khai và bán công khai, bí mật hợp pháp và bất hợp pháp, tiến hành trên nhiều địa vực khác nhau.Trong tranh đấu, Đảng sẵn sàng liên minh có nguyên tắc với tất cả các đảng phái, các tổ chức khác nhau trên cơ sở nhất trí về mục tiêu tranh đấu.
Những kết quả đạt được của phong trào đấu tranh dân chủ công khai là to lớn vì đặc trưng mục tiêu đấu tranh của thời kỳ này là cụ thể và phù hợp với đông đảo các giai cấp tầng lớp quần trong xã hội nên sự tham gia hưởng ứng của quần chúng rất đông đảo và mạnh mẽ. Đỉnh cao của thời kỳ này chính là cuộc mít tinh của 2 vạn quần chúng tại nhà Đấu Xảo, Hà Nội. Sự kiện này minh chứng những hoạt động của Mặt trận Dân chủ Đông Dương theo đường lối của Đảng Cộng sản là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp. Đây cũng là thời kỳ Đảng ta thực hiện vận động quần chúng qua nhiều hình thức mới mẻ, sinh động tạo nên một không khí đấu tranh sôi nổi mang đặc trưng riêng của giai đoạn lịch sử đặc biệt này.
117
Thành công của công tác vận động quần chúng những năm 1930- 1939 có đóng góp quan trọng trực tiếp vào thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nó cũng để lại nhiều bài học quan trọng cho công tác dân vận sau này, góp
phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống Mỹ cũng như sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh về công tác vận động quần
chúng: Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dõn vận kộm thỡ việc gỡ cũng kộm. Dõn vận khộo thỡ việc gỡ cũng thành cụng.
Ngày 14- 8- 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã phát biểu tại thành phố Hồ Chí Minh trước đông đảo cán bộ Ban dân vận Thành uỷ và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội… Chủ tịch nước nói: “Cả đời tôi gắn bó với dân vận, nó thấm vào máu rồi nên tôi nói bằng tất cả tấm lòng chứ không sáo ngữ. Hiện nay các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến công tác dân vận. Dân là cái gốc! Cho nên phải dựa vào gốc. Không lúc nào được sơ sẩy. Vì vậy, thấy dân còn nhiều cái khổ mà tôi lo.”
Ông nhấn mạnh: “Bình quân thu nhập đầu người dân của ta có hơn 600 USD. Tuy nhiên đó là bình quân, nhiều người còn dưới mức đó xa lắm. Nhiều thủ tục hành chính, nhiều oan sai chưa được giải quyết. Nỗi khổ này nhiều khi còn khổ hơn nỗi khổ thiếu vật chất. Người ta đã tin tưởng vào chế độ, vào Đảng, vào Nhà nước mình, thế thì tại sao có những bộ máy làm việc tắc trách thế. Do đó tôi rất lưu tâm đến công tác caỉi cách hành chính. Quyết định công tác này có tốt hay không cuối cùng vẫn là con người. Cho nên phải đào tạo một đội ngũ cán bộ. Nếu cần thì phải thay đổi cán bộ để phục vụ dân tốt hơn. Với người cán bộ, cái tài thì cần nhưng trước nhất vẫn là cái tâm. Các đoàn thể, đặc biệt là mặt trận phát huy vai trò giám sát cán bộ nhà nước, cán bộ Đảng. Nhưng muốn giám sát người khác, trước hết phải hoàn thiện mình. Phải phê bình và trước hết là tự phê bình để hoàn thiện, đóng góp, xây dựng Đảng, chính quyền ngày càng tốt hơn.”
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh công tác dân vận: “Đổi mới phải dựa vào lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với với cái mới.”
118
Xuất phát từ tình hình hiện nay với nhiều khó khăn là “nội xâm” nguy hiểm, chúng ta phải đối phó với nhiều vấn đề do khách quan mang lại đặc biệt từ năm 2006 Việt Nam gia nhập WTO, để đưa Nghị Quyết Đại Hội X vào cuộc sống một cách thành công, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đi đến thắng lợi, Theo TS
Nguyễn Thanh Tuyền, Ban Dân vận Trung ương: công tác vận động quần chúng phải được đề cao đứng mức và phải thực hiện những nhiệm vụ quan trọng như:
“Thứ nhất, hệ thống dân vận của các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đén địa phương cần phải tiếp tục làm tốt công tác của mình theo phong cách “trọng dân, gần dân và có trách nhiệm với dân”. Chỉ có gần dân, nghe được dân nói, nói để dân hiểu mới nắm được tình hình, nguyện vọng của dân; mới dự báo được tình hình biến động về các mặt chính trị, xã hội, đời sống trong các tầng lớp nhân dân. Trên cơ sở đó mới tham mưu kịp thời, đúng đắn được cho các cấp uỷ Đảng ban hành các chủ trương, biện pháp, chính sách hợp lòng dân. Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ hai, cần nâng cao trách nhiệm của hệ thống chính quyền với công tác dân vận. Các bộ, ngành và các cấp chính quyền từ Trung ương tới cơ sở phải thực hiện nghiêm túc cơ chế bảo đảm cho Mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia ý kiến xây dựng pháp luật và các chế độ chính sách có liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ, quyền lợi của dân trước khi quyết định bnan hành. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; công bố công khai các quy chế về trách nhiệm phục vụ nhân dân của viên chức nhà nước các cấp, kiên quyết chống và loại khỏi hệ thống chính quyền những cán bộ, công chức quan liêu, hách dịch cửa quyền, tham nhũng gây phiền hà và ức hiếp dân.
Thứ ba, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động cho phù hợp với đặc điemr của tình hình mới. Mặt trận cùng với các đoàn thể nhân dân là bộ phận hợp thành hệ thống chính trị ở nước ta; là đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân; là cầu nối giữa dân với Đảng; là chỗ dựa của Nhà nước. Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy, nếu Mặt trận và các đoàn thể nhân dân không đổi mới hơn nữa nội dung và phương thức hoạt động thì sẽ dẫn đến tình trạng đoàn viên, hội viên không tha thiết với đoàn thể của mình.”
119
Trong năm 2008 này, Đảng và nhân dân cả nước đang thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đây thực sự là một cơ hội lớn để cả hệ thống dân vận kết hợp với các tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân tấn công vào những mặt xấu trong đời sống xã hội, chính trị, tiếp tục tập hợp quần chúng nhân dân xung quanh Đảng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đã đề ra, đưa Việt Nam trở thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng, tập
1( 1920- 1945 ), Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1976.
2. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt
Nam (Sơ thảo), tập 1, Nxb Sự Thật, HN, 1981.
3. Nguyễn Khánh Bật ( Chủ biên ): Những bài giảng về tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb CTQG, HN, 1999.
4. Nguyễn Công Bình: Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng Việt
Nam, Nxb Khoa học, Hà Nội, 1963.
5. Nguyễn Công Bình: Một số vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam,
Nxb Lao Động, Hà Nội, 1974.
6. Nguyễn Công Bình: Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc,
Nxb Văn- Sử- Địa, Hà Nội, 1959.
7. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo: Giáo trình lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
(Dùng trong các trường Đại học), Nxb CTQG, HN, 2006
8. Trường Chinh: Chủ Tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ kính yêu của giai cấp công
nhân và nhân dân Việt Nam, Nxb CTQG, HN, 1980.
9. Trường Chinh: Tiến lên dưới lá cờ của Đảng, Nxb Sự Thật, HN, 1963. 10. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội
tiến lên dành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976.
11. Lê Duẩn: Giai cấp công nhân và liên minh công nông, Nxb Sự Thật, HN,
1976.
12. Lê Duẩn: Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân trong cách mạng Việt Nam,
Nxb Sự thật, HN, 1965.
120
13. Lê Duẩn: Toàn tập, Nxb Sự Thật, HN,1987 14. Đảng CSVN: Trích văn kiện Đảng, tập 1, Nxb SGK Mác-Lênin, HN, 1979. 15. Đảng CSVN: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, HN, 2005. 16. Đảng CSVN: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 2005. 17. Đảng CSVN: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, HN, 2005. 18. Đảng CSVN: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, HN, 1999. 19. Đảng CSVN: Văn kiện Đảng, toàn tập , tập 5, Nxb CTQG, HN, 2002. 20. Đảng CSVN: Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, HN, 2000. 21. Đảng CSVN: Văn kiện Đảng (1920-1945), tập 1, Nxb CTQG, HN, 2000.
22. Võ Nguyên Giáp ( chủ biên ): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003.
23. Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb Sự Thật, HN, 1961. 24. Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam, tập 1. Nxb Sử học Viện Sử
Học, HN. 1962.
25. Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam, tập 2. Nxb Sử học Viện Sử
Học, HN. 1962.
26. Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam, tập 3. Nxb Sử học Viện Sử
Học, HN. 1963.
27. Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam - Sự hình thành và sự phát triển của nó từ giai cấp” tự mình” đến giai cấp “cho mình”, Nxb Sự Thật, HN, 1958.
28. Lê Mậu Hãn (Chủ biên): Đảng cộng sản Việt Nam - Các đại hội và hội nghị
Trung ương, Nxb CTQG, HN, 1995.
29. Lê Mậu Hãn: Hồ Chí Minh hoàn thiện về đường lối chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Mặt trận dân tộc thống nhất ở Việt Nam, Nghiên cứu lịch sử, số 2, 1992
30. Lê Mậu Hãn: Chủ nghĩa dân tộc truyền thống và tư tưởng độc lập tự do - động lực, mục tiêu đại đoàn kết, đại thành công của cách mạng Việt Nam, Nghiên cứu lịch sử, số 6, 1995.
31. Học Viện CTQG Hồ Chí Minh, Khoa Lịch Sử Đảng: Lịch Sử Đảng Cộng
Sản Việt Nam, tập 2, Chương trình cao cấp, Nxb CTQG, HN, 1997.
32. Học viện Nguyễn Ái Quốc, Khoa Triết học: Triết học Mác- Lê Nin Chủ nghĩa duy vật lịch sử (Chương trình cao cấp), Nxb Tuyên Huấn, HN, 1988. 33. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nxb CTQG, HN, 2001.
34. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác– Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nxb CTQG, HN, 2004.
35. Đinh Xuân Lâm ( chủ biên): Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo
Dục, HN, 2003.
36. V. I. Lê Nin: toàn tập, tập 11, Nxb Tiến Bộ, Mat-xcơ-va, 1977. 37. V. I. Lê Nin: Toàn tập, tập 31, Nxb Sự Thật, HN, 1989. 38. Nguyễn Bá Linh: Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, ngọn cờ độc lập dân tộc
121
và chủ nghĩa xã hội, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997.
39. Trần Huy Liệu: Lịch sử tám mươi năm chống Pháp, Quyển thứ hai, tập
thượng, Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958.
40. Trần Huy Liệu: Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Hồi Ký, Nxb Sử học, HN,
1960.
41. Hồ Tố Lương: Quốc tế Cộng sản với Cách mạng Việt Nam, Nxb CTQG,
HN, 2007.
42. Các Mác - Ph Ăngghen: toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, HN, 1995. 43. Các Mác – Ph Ăngghen: toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, HN, 1995. 44. Các Mác – Ph Ăngghen: toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, HN, 1995. 45. Các Mác và Ph Ăngghen: Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG , HN, 1994. 46. Hồ Chí Minh: Cách mạng tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng
cho các dân tộc, Nxb Sự Thật, HN, 1967.
47. Hồ Chí Minh: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - thành công, thành công,
đại thành công, Nxb Sự Thật, HN, 1973.
48. Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 1 (1919 - 1924 ), Nxb CTQG, HN. 2000. 49. Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 2 (1924 - 1930 ), Nxb CTQG, HN. 2000. 50. Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 3 (1930 - 1945 ), Nxb CTQG, HN. 1995. 51. Hồ Chí Minh: Về liên minh công nông, Nxb Sự thật, HN, 1977 52. Hồ Chí Minh: Về mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb Sự Thật, HN, 1972. 53. Hồ Chí Minh: Về quan điểm quần chúng, Nxb Sự Thật, HN, 1974. 54. Hồ Chí Minh: Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, HN,
1970.
55. B. N. Pơ - na ma – rép ( Chủ biên): Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, Nxb
Sự Thật, HN, 1960.
56. Nguyễn Trọng Phúc ( Chủ biên ): Các đại hội đại biểu toàn quốc và hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ( 1930 – 2006 ), Nxb CTQG, HN, 2006.
57. PGS. TS Nguyễn Trọng Phúc: Góp phần tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng Sản
Việt Nam – Hỏi và Đáp, Nxb CTQG, HN, 2005.
58. Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919- 1945 ), Nxb
Giáo Dục, HN, 2005.
59. Nguyễn Thành: Cuộc vận động Đông Dương Đại hội năm 1936, Nxb
TPHCM, Thành Phố HCM, 1985.
60. Nguyễn Anh Thái: Lịch sử thế giới hiện đại (1929 – 1945), Quyển I, Tập II,
Nxb Giáo Dục, HN, 1978.
122
61. Nguyễn Anh Thái ( Chủ biên): Lịch sử thế giới hiện đại từ 1917 đến1945,
tập 1, Nxb Giáo Dục, HN, 1995.
62. Tôn Đức Thắng: Về Mặt trận dân tộc thống nhất, Nxb Sự Thật, HN, 1977. 63. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb
CTQG, HN. 1994.
64. Phạm Hồng Tung: Các cuộc vận động bầu cử và tranh cử trong cuộc đấu tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ (1936-1939), Nghiên cứu lịch sử, số 10 (366), 2006, tr. 39-46.
65. Phạm Hồng Tung: Về quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương trong quá trình lãnh đạo cuộc vận động dân chủ 1936-1939 ở Việt Nam, Nghiên cứu lịch sử, số 2 (358), 2006, tr. 3-14. 66. Uỷ Ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam: Lược sử mặt trận dân tộc
thống nhất trong cách mạng Việt Nam, Nxb CTQG, HN, 1995
67. Uỷ Ban Trung ương Mặt rrận Tổ Quốc Việt Nam: Sơ thảo lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1930-1996), Nxb CTQG, HN, 1999. 68. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Hồ Chí
Minh biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb CTQG, HN. 1993.
69. Hoàng Quốc Việt: Chính sách đại đoàn kết và thắng lợi của Cách mạng Việt
Nam, Tạp chí học tập số 3, 1976.
70. Vụ biên soạn Ban Tuyên huấn Trung ương: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam (trích văn kiện Đảng, tập I (1927 – 1945)), Nxb Sách giáo khoa Mác – Lê Nin, HN, 1979.
71. Phạm Xanh: Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá Chủ nghĩa Mác- Lê Nin vào
123
Việt Nam (1921- 1930 ), Nxb CTQG, HN, 2001.