intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đánh giá hiện trạng chất lượng nước mùa khô trên hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải và khả năng xử lý ứng dụng công nghệ xanh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

10
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Đánh giá hiện trạng chất lượng nước mùa khô trên hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải và khả năng xử lý ứng dụng công nghệ xanh tổng hợp các kết quả nghiên cứu và đánh giá chất lượng nước trên hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải vào mùa khô trong giai đoạn 2015 - 2021; các ứng dụng xử lý nước thải giàu hữu cơ dễ hòa tan và kim loại nặng bằng vi sinh vật, vi tảo, vật liệu nano, hoặc kết hợp theo nhóm tương ứng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đánh giá hiện trạng chất lượng nước mùa khô trên hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải và khả năng xử lý ứng dụng công nghệ xanh

  1. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC MÙA KHÔ TRÊN HỆ THỐNG THỦY LỢI BẮC HƯNG HẢI VÀ KHẢ NĂNG XỬ LÝ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ XANH Nguyễn Thị Kim Cúc1, Nguyễn Thị Hằng Nga1, Hà Thị Hiền1,2 1 Trường Đại học Thủy lợi 2 Trường Đại học Khánh Hòa Tóm tắt Bài báo tổng hợp các kết quả nghiên cứu và đánh giá chất lượng nước trên hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải vào mùa khô trong giai đoạn 2015 - 2021; các ứng dụng xử lý nước thải giàu hữu cơ dễ hòa tan và kim loại nặng bằng vi sinh vật, vi tảo, vật liệu nano, hoặc kết hợp theo nhóm tương ứng. Trên cơ sở phân tích hiệu quả xử lý các nguồn nước ô nhiễm của các phương pháp kể trên, phương pháp xử lý ô nhiễm nguồn nước giàu hữu cơ dễ hòa tan và kim loại nặng vào mùa khô trên hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải bằng màng sinh học (vi tảo - vi sinh vật) phát triển trên vật liệu nano cần được đưa vào thử nghiệm từ quy mô phòng thí nghiệm. Hướng nghiên cứu này kỳ vọng sẽ giải quyết được bài toán ô nhiễm nguồn nước bằng phương pháp hiệu quả và bền vững - công nghệ xanh. Từ khóa: Chất lượng nước; Ô nhiễm hữu cơ; Ô nhiễm kim loại năng; Công nghệ xanh. Abstract Assessment of the current situation of water quality in the dry season in Bac Hung Hai irrigation system and treatment capability by green technology The article summarizes and assesses the research results of water quality on the Bac Hung Hai irrigation system in the dry season in the period of 2015 - 2021; wastewater treatment applications rich in soluble organics and heavy metals by microorganisms, microalgae, nanomaterials, or in the combination, respectively. On the basis of analyzing the effectiveness of the above methods for treating polluted water sources, the method of treating pollution of water sources rich in soluble organics and heavy metals in the dry season on the Bac Hung Hai irrigation system by biofilms (microalgae - microorganisms) grown on nanomaterials need to be tested from the laboratory scale. This research direction is expected to solve the problem of water pollution by effective and sustainable methods. Keywords: Water quality; Organic pollution; Heavy metal pollution; Green technology. 1. Mở đầu Hệ thống thủy lợi của nước ta được thiết kế với hai nhiệm vụ chính là: tưới và tiêu. Hai nhiệm vụ này được phối hợp nhịp nhàng thông qua quy trình vận hành toàn hệ thống. Đặc thù của hai vùng đồng bằng lớn nhất cả nước là nằm trong vùng khí hậu có mùa mưa và mùa khô rõ rệt, phân bố ở những vùng hạ lưu, dân cư tương đối đông. Tại đây có các hoạt động kinh tế bao gồm: Sản xuất nông nghiệp và công nghiệp. Do đó, nhiệm vụ tiêu của các hệ thống thủy lợi không chỉ là tiêu nước trong mùa mưa mà còn là trữ nước vào mùa khô, đảm bảo một phần nước tưới và hạn chế xâm nhập mặn thông qua kênh rạch. Với những đặc thù riêng đó, các hệ thống thủy lợi thường phải bố trí vận hành theo thể thức đóng các kênh tiêu vào mùa khô. Như vậy, phần lớn khoảng thời gian trong năm, các nhánh kênh tiêu trở thành các ao nước tù, không được lưu thông hoặc lưu thông với lưu tốc rất thấp và là những điểm ô nhiễm cục bộ trên hệ thống. Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 411 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  2. Hơn nữa, do tác động của đô thị hóa, hệ thống thủy lợi không chỉ làm nhiệm vụ tưới - tiêu phục vụ nông nghiệp mà còn làm nhiệm vụ tiêu nước cho các khu đô thị, khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, làng nghề, dân sinh,... Lấy ví dụ về hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải, tính đến năm 2010, ước tính có khoảng 290.000 m3 nước thải xả vào hệ thống thủy lợi này mỗi ngày. Trong đó, nước thải sinh hoạt chiếm khoảng 76 %, nước thải công nghiệp của các cơ sở sản xuất, dịch vụ thương mại khoảng 22 %, hơn 1 % là nước thải làng nghề và số còn lại là nước thải y tế và các loại khác. Trên 90 % khối lượng nước thải chưa được xử lý hoặc xử lý chưa đạt yêu cầu là nguyên nhân làm ô nhiễm nước trong hệ thống Bắc Hưng Hải (BHH) ngày càng gia tăng cả về phạm vi và mức độ. Theo báo cáo mới nhất năm 2019 của Công ty Thủy lợi Bắc Hưng Hải cho biết, hệ thống này đang phải tiếp nhận 100 % nước thải sinh hoạt chăn nuôi, làng nghề và 70 - 80 % nước thải công nghiệp của các cơ sở sản xuất kinh doanh chưa xử lý hoặc xử lý không đạt yêu cầu thải vào hệ thống thủy lợi. Với tình hình xả thải như vậy, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải nói riêng và các hệ thống thủy lợi khác nói chung trên toàn quốc đang đối mặt với hiện tượng ô nhiễm cục bộ theo không gian và thời gian. Hiện nay, ngành Thủy lợi đã có những hành động cụ thể nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm cục bộ trên các hệ thống thủy lợi như: thau rửa hệ thống và các biện pháp công trình khác. Bên cạnh các biện pháp công trình, để giải quyết toàn diện hơn tình trạng ô nhiễm nêu trên, các hệ thống thủy lợi cần có giải pháp xử lý nguồn nước ô nhiễm một cách khoa học, hiệu quả, bền vững với giá thành phù hợp. Việc xử lý ô nhiễm môi trường nước bằng giải pháp phân hủy sinh học đã và đang được nhiều nhà khoa học trên thế giới cũng như trong nước quan tâm, nghiên cứu. Các phương pháp này có ưu điểm vượt trội như: an toàn với môi trường, đơn giản, xử lý triệt để, không gây ra hiện tượng ô nhiễm thứ cấp, giá thành rẻ. Công nghệ sử dụng màng sinh học (Biofilm) do các vi sinh vật - vi tảo tạo ra kết hợp các vật liệu mới có kích thước nano với tính chất ưu việt hiện đang được xem là công nghệ tối ưu, xử lý có hiệu quả nguồn nước giàu (ô nhiễm) hữu cơ và kim loại nặng. 2. Hiện trạng ô nhiễm nguồn nước trên hệ thống Bắc Hưng Hải vào mùa khô Theo Báo cáo “Quan trắc và cảnh báo môi trường nước hệ thống Bắc Hưng Hải phục vụ sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản năm 2015”, được thực hiện bởi Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường, thuộc Viện Khoa học Thủy lợi [1], đã nhận định về diễn biến chất lượng nước trên hệ thống BHH cho thấy: trong số 04 lần quan trắc của năm, chất lượng nước diễn biến vô cùng phức tạp, biến động theo không gian và thời gian, phụ thuộc vào các nguồn thải và việc vận hành các công trình trên hệ thống. Về thời gian: Nước bị ô nhiễm cao nhất vào đợt quan trắc tháng 07, tiếp đến là các tháng 03, 08 và 04. Nguyên nhân tháng 07 và tháng 03 có mức độ ô nhiễm cao do đây là các thời điểm phải sử dụng nước nhiều, hệ thống phải tích nước, trong khi mực nước Sông Hồng thấp hơn mực nước trong hệ thống nên không có điều kiện gạn tháo, pha loãng để giảm thiểu ô nhiễm. Về không gian, những vị trí có mức độ ô nhiễm cao đều nằm ở các khu vực chịu ảnh hưởng của các nguồn thải công nghiệp và dân cư tập trung như: Cầu Bây, cống Xuân Thụy, cống Chùa Tổng, Bình Hàn, cống Bình Lâu, trạm bơm An Vũ, cống Đại An, cống Đôn Thư, cống hai cửa Tân Hưng,… Các chất ô nhiễm vượt Quy chuẩn Việt Nam (QCVN) chủ yếu là: DO, COD, BOD5, NO2-, NH4+ (ô nhiễm chất hữu cơ hòa tan) và Coliform. Kim loại nặng và dư lượng thuốc BVTV nhóm Phospho còn trong giới hạn QCVN. Riêng dầu mỡ có mức độ ô nhiễm nhẹ, xuất hiện không thường xuyên ở tại vài vị trí quan trắc (Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường, 2015 [1]). Kết quả quan trắc và phân tích chất lượng nước trong hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải trong năm 2005 - 2021 cho thấy, chất lượng nước sông Bắc Hưng Hải chưa có sự cải thiện. Có tới 80 % tổng số vị trí quan trắc có các thông số hóa lý, vi sinh của nhóm ô nhiễm hữu cơ dễ hòa tan như: 412 Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  3. BOD5, COD, NO2-, PO43- vượt QCVN ở mức nhỏ hơn 05 lần thuộc nguồn nước bị ô nhiễm; Thông số NH4+ và Coliform có mức vượt QCVN lớn hơn 10 lần (thuộc nguồn nước ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng), chiếm tỷ trọng cao (Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường, 2019 [2]). Bảng 1 thống kê giá trị cao nhất của một số chỉ tiêu chất lượng nước trên hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải trong giai đoạn 2005 - 2021. Bảng 1. Thống kê giá trị cao nhất của một số chỉ tiêu từ 2005 - 2021 Giá trị cao nhất của một số chỉ tiêu TT Năm COD NH4+ NO2- PO43- Coliform (mg/l) (mg/l) (mg/l) (mg/l) (MPN/100ml) 1 2005 42.80 18.48 3.96 3.04 2,400,000 2 2006 84.00 31.58 14.05 2.75 1,400,000 3 2007 75.70 27.72 1.96 2.04 1,200,000 4 2008 160.60 41.30 3.60 2.48 16,000,000 5 2009 176.40 26.88 1.04 2.76 16,000,000 6 2010 312.00 33.04 1.64 2.84 28,000,000 7 2011 368.00 35.00 0.76 2.24 17,000,000 8 2012 326.40 42.28 0.31 3.64 220,000,000 9 2013 225.12 40.66 0.80 2.46 1,600,000 10 2014 368.40 24.92 0.34 8.46 13,000,000 11 2015 146.40 29.12 0.62 1.58 540,000 12 2016 110.40 42.84 0.34 3.26 960,000 13 2017 174.13 12.19 0.01 3.16 5,353 14 2018 193.40 23.69 1.12 4.28 1,600,000 15 2019 120.60 18.20 0.12 3.34 1,600,000 16 2020 54.52 3.77 0.05 3.42 11,000 17 2021 145.60 40.80 0.21 5.01 80,000 QCVN08-MT:2015/BTNMT B1 30.00 0.90 0.05 0.30 7,500 Kết quả tham khảo tài liệu [1, 2] và phân tích tại phòng thí nghiệm Đất - Nước và Môi trường, Trường Đại học Thủy lợi Một đặc điểm quan trọng nữa về chất lượng nước trên các hệ thống thủy lợi nói chung là chất lượng nước (mức độ ô nhiễm) không đồng đều ở các kênh chính, kênh nhánh và kênh nội đồng. Nồng độ ô nhiễm thậm chí còn có sự khác biệt lớn ở các đoạn kênh khác nhau của cùng một loại kênh. Bên cạnh đó, cũng có sự biến động lớn về lưu lượng khi hệ thống thủy lợi hoạt động tưới hoặc tiêu nước hoặc chịu ảnh hưởng của mưa lớn. Điều này dẫn đến việc cần thiết phải lựa chọn xử lý đối tượng ô nhiễm cụ thể trong những điều kiện lưu lượng nước xác định. 3. Đánh giá khả năng xử lý nước thải bằng màng sinh học từ vi sinh vật - vi tảo 3.1. Vi sinh vật Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, vi sinh vật có vai trò rất quan trọng. Nhiều quy trình công nghệ xử lí ô nhiễm môi trường hiện tại được xây dựng trên những đóng góp tích cực của vi sinh vật, bao gồm: xử lý rác thải, nước thải, phân hủy các chất độc hại, cải tạo và phục hồi môi trường. Nhiều phương pháp sử dụng các chế phẩm vi sinh vật để xử lý nước thải, chất thải rắn, rác thải sinh hoạt, xử lý bùn ao nuôi thuỷ sản, xử lý các phế thải rắn từ công nghiệp thực phẩm,... làm phân bón nhằm tạo ra sản phẩm thân thiện môi trường đã và đang được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Trong xử lý nước thải, vi sinh vật trong môi trường liên tục chuyển hóa các chất hữu cơ sẵn có trong nước thải rồi sử dụng nguyên liệu đó để tổng hợp, kiến tạo và hình thành tế bào mới. Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 413 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  4. Chúng có thể hấp thụ một lượng lớn các chất hữu cơ qua bề mặt tế bào của mình. Một lượng nhất định các chất hữu cơ hấp thụ được dành cho việc kiến tạo và sản sinh tế bào, một lượng khác các chất hữu cơ lại được Oxy hóa để sản sinh năng lượng cần thiết cho việc tổng hợp. Dựa trên phương thức phát triển, vi sinh vật được chia thành 02 nhóm: - Các vi sinh vật dị dưỡng: Sử dụng các chất hữu cơ làm nguồn năng lượng và nguồn Cacbon để thực hiện các phản ứng sinh tổng hợp; - Các vi sinh vật tự dưỡng: Có khả năng Oxy hoá chất vô cơ để thu năng lượng và sử dụng CO2 làm nguồn Cacbon cho quá trình sinh tổng hợp. Ví dụ: các loại vi khuẩn Nitrat hoá, vi khuẩn lưu huỳnh, vi khuẩn sắt,… Một trong những ứng dụng vi sinh vật để xử lý nước thải phổ biến nhất hiện nay là công nghệ sử dụng bùn hoạt tính. Hiệu quả xử lý nước thải của bùn hoạt tính phụ thuộc nhiều vào kỹ thuật của việc sục khí, thành phần của các chủng vi sinh vật, các điều kiện môi trường cụ thể và đặc biệt tính chất của nước thải. Để giải quyết một số hạn chế đó, với mỗi đối tượng và điều kiện cụ thể, các nhà khoa học lại tìm kiếm những chủng vi sinh vật khác nhau hoặc phối kết hợp các nhóm vi sinh vật với nhau để tăng cường hiệu quả xử lý môi trường. Nhóm nghiên cứu thuộc Viện Công nghệ Môi trường - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Tăng Thị Chính, 2020 [3]) đã nghiên cứu tuyển chọn các chủng vi sinh vật ưa nhiệt sinh tổng hợp các Enzym phân giải nhanh các hợp chất hữu cơ để xử lý phế thải rắn bằng phương pháp ủ Compost. Nhóm tác giả đã phân lập và tuyển chọn các chủng vi sinh vật ưa nhiệt thuộc nhóm xạ khuẩn Streptomyces (XK) (30 chủng XK ưa nhiệt) và vi khuẩn (VK) (20 chủng VK ưa nhiệt) thuộc giống Bacillus sinh trưởng tối ưu ở nhiệt độ 45 - 55 0 C). Nhóm vi sinh vật này có ưu điểm là sinh Enzym Xenlulaza, Amylaza, Proteaza, có tác dụng phân hủy mạnh các chất hữu cơ trong chất thải. Nhóm nghiên cứu đã ứng dụng chế phẩm vi sinh để xử lý rác thải sinh hoạt, phế thải nông nghiệp đồng ruộng, nước thải chăn nuôi ao hồ, nước thải chế biến thực phẩm,… Một trong những hướng nghiên cứu được các nhà khoa học trong nước và thế giới quan tâm là tuyển chọn các chủng vi sinh vật phân hủy dầu mỏ. Đối với các chủng vi khuẩn tham gia phân hủy Hydrocarbon dầu mỏ, người ta chia thành vi khuẩn phân hủy Hydrocarbon trong điều kiện hiếu khí và trong điều kiện kị khí. Trong điều kiện hiếu khí, nhiều vi khuẩn phân hủy các chất ô nhiễm hữu cơ chiếm ưu thế là các loài hóa dưỡng hữu cơ. Vi khuẩn phân hủy trong điều kiện hiếu khí cần Oxy tham gia vào giai đoạn hoạt hóa cơ chất và là chất nhận điện tử cuối cùng của chuỗi hô hấp. Một số chủng tham gia phân hủy Hydrocarbon điều kiện hiếu khí: Pseudomnas putida, Pseudomnas fluorescens, Acinetobacter spp., Alcaligens spp., nhóm Flavobacterium/Cytophaga, Xanthomonas spp., Nocardia spp., Mycobacterium spp., Corynebacterium spp., Baccilus spp (Houghton và cs., 1994 [4]). Thuộc nhóm vi khuẩn hô hấp kị khí có: vi khuẩn khử Nitrat, vi khuẩn khử sắt, vi khuẩn khử Sulfate, vi khuẩn lên men hữu cơ, vi khuẩn sinh Metan, vi khuẩn tia quang hợp. Trong trầm tích, đất ngập nước và nước ngầm người ta đã phân lập được một số chủng thuộc loài Geobacter có khả năng khử sắt. Chủng Geobacter metallireducens có khả năng oxy hóa hoàn toàn một số chất thơm, đồng thời, khử Fe3+ thành Fe2+ (Longergan và cs., 1996 [5]). Quá trình khử Sulfate xảy ra cùng với quá trình tổng hợp ATP. Năm 2014, Hasegawa và cộng sự [6] công bố vi khuẩn Desulfotignum sp. có khả năng chuyển hóa Toluene và Ethylbenzene theo con đường phân hủy bằng cách có gắn thêm acid Fumarate. 414 Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  5. Tổng hợp phân tích các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, vi tảo và vi sinh vật là những đối tượng tiềm năng, đóng vai trò quan trọng trong công nghệ xử lý các nguồn nước ô nhiễm thông qua chu trình dinh dưỡng của chúng. Những nghiên cứu đã thực hiện cho thấy nhóm sinh vật này có khả năng hấp thụ, khử nhiều chất ô nhiễm khác nhau, như: nhóm chất ô nhiễm hữu cơ dễ và khó hòa tan, kim loại nặng, các Hydrocabon có trong dầu thải. Cùng với quá trình xử lý nước thải, vi tảo và vi sinh vật còn tạo ra lượng sinh khối lớn có giá trị cả về mặt bảo vệ môi trường và kinh tế. Do vậy, việc thực hiện nghiên cứu chuyên sâu và tìm kiếm các chủng vi sinh vật - vi tảo tại chính các nguồn nước thải phục vụ xử lý ô nhiễm là nhiệm vụ cần thiết. 3.2. Vi tảo Tảo là những thực vật bậc thấp, nghĩa là thực vật bào tử có tản (cơ thể không phân ra thành thân, rễ, lá), sống chủ yếu trong nước. Tế bào của tảo có chứa diệp lục, chúng có khả năng quang hợp và giải phóng Oxy (Dương Đức Tiến, Võ Văn Chi, 1978 [7]). Theo phân loại truyền thống, người ta cho rằng, tảo là những sinh vật nhân sơ hoặc nhân chuẩn có khả năng sống tự dưỡng hoặc dị dưỡng và tạp dưỡng (Kirk E. và cs., 1999 [8]). Phương thức dinh dưỡng ở tảo được phân thành hai loại chính đó là: quang tự dưỡng (Photoautotrophy) và dị dưỡng (Heterotrophy). Dạng trung gian của hai hình thức này là tạp dưỡng (Mixotrophy). Tùy theo từng loài mà tảo có nhu cầu dinh dưỡng với các thành phần khác nhau. Tuy nhiên, thành phần dinh dưỡng chính của tảo vẫn là nguồn Cacbon, Nitơ, Photpho, các loại muối khoáng. Đây là những thành phần chính có trong môi trường ô nhiễm hữu cơ dễ phân hủy. Với đặc điểm có thể sử dụng nguồn dinh dưỡng Nitơ, Photpho và nhiều kim loại nặng cho sinh trưởng, vi tảo đã được sử dụng rất hiệu quả trong xử lý môi trường giàu hữu cơ, Nitơ, Photpho, kim loại nặng cũng như là dầu mỏ (Đặng Diễm Hồng, 2019 [9]; Đặng Diễm Hồng, 2017 [10]). Do vậy, tảo và vi tảo là một trong những thành tố quan trọng trong xử lý ô nhiễm môi trường, chúng có vai trò to lớn trong việc xử lý nước thải ô nhiễm. Sự có mặt của tảo trong các thủy vực nước thải có tác dụng làm giảm các chất gây ô nhiễm thông qua quá trình Oxy hoá. Trong quá trình quang hợp, tảo sử dụng các chất vô cơ trong nước thải (như NH4+, NO3-, NO2-, CO2, PO43-..) cũng như các chất vô cơ - sản phẩm từ hoạt động phân giải các chất hữu cơ ô nhiễm trong hồ của các vi sinh vật để tăng trưởng, đồng thời, thải ra O2 để cung cấp lại cho vi khuẩn hiếu khí, làm tăng cường quá trình Oxy hoá các chất ô nhiễm. Ngoài ra, tảo cũng có khả năng hấp thụ kim loại nặng vào cơ thể, điều này làm giảm bớt hàm lượng kim loại nặng độc hại trong nước thải (Đặng Đình Kim, 1999 [11]). Bảng 1 chỉ ra các vi tảo khác nhau có thể xử lý thành công các kim loại nặng khác nhau. Bảng 1. Một số nghiên cứu về ứng dụng vi tảo trong xử lý ô nhiễm kim loại nặng Vi tảo Loại kim loại nặng Nguồn Tetraselmis chuii Cu Ayse và cs., 2005 [13] Spirulina (Arthrospira) platensis Pb Arunakumara và cs., 2008 [14] Spirulina platensis Cu, Hg, Pb Garnikar, 2002 [15] Spirogyra sp., Nostoc commune Se Mane và cs., 2011 [16] Spirogyra hyalina Cd, Hg, Pb, As, Co Nirmal Kumar and Cini (2012) [17] Anabaena variabilis, Ailosira sp., Nostoc Cr(VI), Ni(II) Parameswari và cs., 2010 [18] muscorum, Oscillatoria sp., Westiellopsis sp. Scenedesmus bijuga, Oscillatoria Cu, Co, Pb, Zn Ajayan và cs., 2011 [19] quadripunctulata Scenedesmus acutus, Chlorella vulgaris Cd, Zn, Cr Travieso và cs., 1999 [20] Chlorella minustissima Cr(VI) Singh và cs., 2011 [21] Priyadarshani và cs., 2011 [12] Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 415 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  6. Tảo lam - Vi khuẩn lam Spirulina platensis có thể là chỉ thị tốt nhất cho một số loại nước thải (Rangsayatorn và cs 2002 [22]; Chuntapa và cs., 2003 [23]; Chojnacka và cs., 2004 [24]). Spirrulina có khả năng loại bỏ kim loại nặng Cd trong nước thải rất tốt, do độ hấp thụ cũng như hiệu suất hấp thụ kim loại của nó rất cao (Rangsayatorn và cs., 2002 [22]). Spirulina được sử dụng để loại bỏ NH4+ và PO43- trong nước thải chăn nuôi lợn rất hiệu quả (Olguin và cs., 2003 [25]). Cepoia và cs., (2020) [26] đã công bố sử dụng vi khuẩn lam Spirulina trong loại bỏ Cu. Wang và cs., (2020) [27] cũng sử dụng chúng trong xử lý Carbamazeppine và loại bỏ các chất trao đổi khác. Tác giả Subashchandrabose và cs., (2013) [28] đã sử dụng vi khuẩn lam sống tạp dưỡng và vi tảo trong quá trình cạnh tranh dinh dưỡng với vi khuẩn và nấm để xử lý ô nhiễm hữu cơ, đạt kết quả tốt. Lu và cộng sự (2020) [29] đã tổng kết việc sử dụng hiệu quả vi khuẩn lam và vi tảo trong việc loại bỏ các chất ô nhiễm trong thủy vực, như: kim loại nặng, các vật liệu Nano, thuốc trừ sâu, các sản phẩm dược phẩm trong sản xuất thuốc, như: PPCPs, các chất ô nhiễm hữu cơ có độ bền vững cao (POPs) và thải loại dầu mỏ và vi nhựa,… Nhóm tác giả Madari và cộng sự (2016) [30] đã sử dụng vi tảo lục Chlorella vulgaris để xử lý nước thải ô nhiễm dầu. Các tác giả nhận thấy rằng, Chlorella cùng với chất hoạt động bề mặt có thể loại bỏ 100 % Nitơ và Photpho và loại bỏ được 27 % tổng số các hợp chất Hydrocabon có trong chất thải dầu mỏ so với đối chứng (chỉ đạt 10 %). Sử dụng vi khuẩn lam dạng sợi Tribonema sp. Trong quá trình xử lý Anaerobic/Oxic (A/O) để xử lý các chất hóa dầu đạt 71 - 97 %, hàm lượng N và P được xử lý gần như triệt để (Huo và cs 2018 [31]). Ngoài ra, việc sử dụng Biofilm được tạo thành từ vi tảo ở dạng quay cũng đã cho phép xử lý rất hiệu quả các chất dinh dưỡng và chất thải lơ lửng từ nước thải hóa dầu so với việc nuôi trồng vi tảo bằng các bể hở truyền thống (Hodges và cs 2017 [32]). Đây được xem là một tiến bộ lớn về công nghệ trong việc sử dụng Biofilm dạng quay được gắn vi tảo trong xử lý có hiệu quả nước nhiễm dầu hiện nay. Tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu xử lý nước thải bằng vi tảo, như: Đặng Xuyến Như và cs., (1998) [33]; Dương Đức Tiến và cs., (1990) [34]; Đặng Đình Kim và cs., (1996) [35], Trần Văn Nhân (1989) [36]; Lê Thị Hiền Thảo (1999) [37]; Nguyễn Đình San (2000) [38]; Lê Thị Phượng và cs., (2009) [39], Nguyễn Minh Phương và cs., (2011) [40]. Nguyễn Minh Phương và cs., (2011) [40] đã sử dụng nước thải từ làng nghề sản xuất bún Phú Đô để nuôi trồng S. platensis đột biến. Hiệu quả xử lý các thông số COD, BOD5, Phospho tổng số và Nitơ tổng số của mẫu nước thải sau khi được xử lý bằng bùn hoạt tính và chủng vi khuẩn lam S. platensis có hiệu quả cao, đạt lần lượt: 94 %; 89 %; 91,62 %; 60,84 % và 91,28 %. Nước thải sau khi xử lý có hàm lượng COD, Nitơ tổng số và Phospho tổng số đã đạt QCVN 24:2009/BTNMT loại B. Công bố của tác giả Đặng Xuyến Như và cộng sự (1998) [33] cho thấy sau 07 ngày nuôi, Chlorella sp. đã có thể giảm hàm lượng COD và BOD5 của nước thải sinh hoạt , với hiệu suất lên đến 80 - 90 %; NH4+ - N giảm 99 %; PO43- - 98 % và sinh khối tảo đạt 0,4 - 1 g/l sau 05 - 06 ngày nuôi. Nhìn chung, các nghiên cứu mới chỉ chủ yếu là về sự sinh trưởng của vi tảo và hiệu quả xử lý chất hữu cơ, Nitơ và Photpho; kim loại nặng của nước thải đô thị; một số loại hình nước thải công nghiệp như Ure; mía đường; giấy; dệt kim; thuộc da; nước sau ngâm đay và nước thải đầm nuôi tôm;… nhưng vẫn còn thiếu các nghiên cứu về ảnh hưởng của các điều kiện môi trường, như: nồng độ các chất có trong nước thải, pH, nhiệt độ, cường độ ánh sáng,… lên sự sinh trưởng và phát triển của vi tảo hay thử nghiệm nuôi vi tảo sinh dầu cho năng suất sinh khối cao; sinh khối có hàm lượng Lipit cao và thành phần Axit béo phù hợp làm nguyên liệu cho sản xuất năng lượng sinh học trên quy mô lớn. 416 Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  7. Việc sử dụng tảo Chlorella sp. trong xử lý nước thải chế biến cao su của Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam [41] cũng đã được thực hiện và đạt hiệu suất xử lý BOD5 là 98 %, khử Nitơ – 86 %, với công nghệ vận hành tương đối đơn giản và thân thiện với môi trường. Nhìn chung, vi tảo sinh dầu Chlorella sinh trưởng tốt trong các nguồn nước thải có COD dao động từ 200 - 700 mg/l. Trong điều kiện thử nghiệm, Chlorella sp. có khả năng phân hủy COD (giảm 84 %) và BOD5 (giảm 90 %). Chlorella sp cũng có khả năng loại bỏ 99 % N - NH4+, giảm 98 % PO43- của nước thải sinh hoạt, bảo đảm nước sau xử lý đạt tiêu chuẩn TCVN 5942 - 1995 về nước mặt; Chlorella sp. có khả năng hấp thụ Cu và Zn trong môi trường nước thải tổng hợp, với hiệu quả loại bỏ Cu và Zn lần lượt đạt 94 % - 95 % và 97 % sau 20 và 16 ngày tương ứng. Những nghiên cứu trong lĩnh vực này cho thấy, vi tảo có khả năng xử lý các chất vô cơ, chất hữu cơ dễ hòa tan và một số kim loại nặng trong nước thải. Những kết quả nghiên cứu này đã mở ra hướng sử dụng cộng nghệ xanh trong xử lý ô nhiễm nước. 3.3. Vật liệu nano trong xử lý nước thải Vật liệu Nano là loại vật liệu có kích thước rất nhỏ bé (tính bằng nanomet, bằng một phần tỉ mét). Với kích thước siêu nhỏ như vậy, vật liệu Nano thực sự là lựa chọn hàng đầu cho các đơn vị xử lý nước thải. Các vật liệu kích thước Nano thường có các đặc tính về quang học và dẫn điện, khác với vật liệu cùng loại có kích thước nhỏ hay lớn. Ví dụ, Nano Titan oxit là chất xúc tác hiệu quả hơn Titan oxit có kích thước nhỏ. Có thể sử dụng Nano Titan oxit để phân hủy các chất ô nhiễm hữu cơ trong xử lý nước. Cùng với công nghệ sinh học, công nghệ Nano có thể chung tay giải quyết các vấn đề nan giải về ô nhiễm nước, như: góp phần giải quyết các khó khăn về kỹ thuật để xử lý ô nhiễm kim loại nặng, dầu mỡ, muối,... Nhiều nhà khoa học khẳng định, công nghệ Nano đảm bảo các giải pháp hiệu quả và bền vững hơn vì sử dụng các hạt Nano để xử lý nước ít gây ô nhiễm hơn so với các phương pháp truyền thống và cũng đòi hỏi ít nhân công, vốn, diện tích đất và năng lượng hơn. Vi tảo và vi sinh vật được biết đến là những sinh vật tiên phong có tiềm năng phát triển trong điều kiện khắc nghiệt, bao gồm các môi trường ô nhiễm kim loại nặng. Chúng đã có các cơ chế tự bảo vệ cơ thể của mình để chống lại các tác động độc hại gây ra bởi các Ion kim loại nặng. Các công bố cho thấy, hầu hết các chủng tảo có tích lũy nồng độ Ion kim loại tăng cao trong các bào quan của tế bào. Liên quan đến vấn đề này, Eepsita Priyadarshini và cộng sự (2019) [42] đã đánh giá khả năng xử lý kim loại nặng của tảo kết hợp với vật liệu Nano và kết luận rằng, tảo đã đóng một vai trò như một hệ thống tuyệt vời để hấp thu và tích lũy cao kim loại nặng. Đặc biệt, kỹ thuật này cho phép thiết kế và phát triển các phương pháp xử lý có chi phí thấp để có thể mở rộng quy mô xử lý được dễ dàng hơn. Với việc tổng hợp trên quy mô lớn các hạt Nano, kết hợp với các phương pháp xử lý sinh học sẽ cung cấp nhiều cơ hội lựa chọn cho việc xử lý các loại hình nước thải khác nhau trong tương lai. Tác giả Majid Askari Hesni và cs (2020) [43] đã nghiên cứu xử lý nước thải nuôi trồng thủy sản có chứa chất rắn lơ lửng và các chất dinh dưỡng như Photpho và Nitơ bằng cách sử dụng đồng thời các hạt Nano vi tảo và Oxit sắt. Kết quả quan trắc chất lượng nước trong quá trình áp dụng kỹ thuật này là hiệu quả xử lý đối với NH4 đạt 93,67 %, NO3 (92,23 %), NO2 (89,3 %) và PO4 (89,25 %), tương ứng (P < 0,05). Như vậy, việc sử dụng đồng thời các vi tảo và hạt Nano là có thể xử lý được nguồn nước ô nhiễm chất hữu cơ dễ hòa tan. Các nhà khoa học Viện KH&CN Quân sự (Bộ Quốc phòng), Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam và Học viện Kỹ thuật Quân sự [44] đã nghiên cứu giải pháp xử lý nước thải bằng vật liệu Nano kim loại Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 417 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  8. hóa trị 0 trên nền Nano sắt (một tổ hợp gồm nhiều Nano kim loại hóa trị 0, thành phần chính là Nano sắt và một số Nano kim loại khác), có thể xử lý nhiều chất hữu cơ độc hại và kim loại nặng cùng lúc, dễ dàng vận hành và tiết kiệm chi phí hơn so với các phương pháp truyền thống. Việc ứng dụng Nano sắt hóa trị 0 để xử lý nước thải không phải là vấn đề mới trên thế giới. Nhờ tính chất hấp phụ bề mặt và tính khử cao, Nano sắt hóa trị 0 có khả năng Oxy hóa mạnh các hợp chất vô cơ và hữu cơ khó phân hủy, như: Clo, Nitơ, các hợp chất Phenol, Benzen hay các hợp chất mang màu,... Sau khi phản ứng, Nano sắt sẽ chuyển thành các hợp chất Oxit sắt Fe3O4 và Fe2O3 không độc hại, không gây ô nhiễm thứ cấp. Kết quả nghiên cứu chứng minh khả năng xử lý nước thải có chứa hàm lượng kim loại nặng cao, đặc biệt là trong các nhà máy luyện kim hoặc tuyển khoáng bằng Nano sắt hóa trị 0 (Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích số 2 - 0001826 công bố ngày 25/9/2018). Theo các kết quả nghiên cứu hiện có, sắt hóa trị 0 (nZVI) được coi là một trong các vật liệu Nano thú vị nhất do chi phí sản xuất thấp, tác động tích cực đến môi trường và khả năng phản ứng cao với các chất gây ô nhiễm. Công nghệ Nano này đã được ứng dụng rộng rãi trong việc xử lý nước ngầm bị ô nhiễm và đã đạt đến mức ứng dụng thương mại trên thế giới. Ngoài ra, nó đã được chứng minh là một công nghệ hiệu quả cao để loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ và vô cơ khác nhau, bao gồm: dung môi Clo hóa, thuốc trừ sâu, Nitroamines và Nitroaromatics, Organophosphates, Anion vô cơ, Asen, Uranium, nhiều kim loại, v.v. (Crane R.A. và cs., 2012 [45]). Như vậy, sự kết hợp màng sinh học và nZVI sẽ tạo nên hiệu ứng tích cực trong nghiên cứu và đánh giá khả năng xử lý nước thải của phức hợp Nano và màng sinh học. 3.4. Màng sinh học (Biofilm) và vật liệu Nano trong xử lý nước thải Biofim là một cấu trúc phức tạp, bao gồm các tế bào vi sinh vật và các sản phẩm Polymer ngoại bào EPS (Exo-cellular Polymeric Substances) do chính chúng tạo ra (Hình 1) (Pranjali P. Mahamuni-Badiger và cs., 2020 [46]). Do mật độ các chủng vi sinh vật trong Biofilm cao, hỗ trợ và liên kết với nhau một cách chặt chẽ nên khả năng đồng hoá, trao đổi chất, phân hủy các Hydrocarbon sẽ xảy ra nhanh hơn. Các tế bào vi sinh vật trong Biofilm có mật độ cao, liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một cấu trúc bền vững. Chính vì vậy, khả năng đồng hóa, trao đổi chất, phân hủy các cơ chất xảy ra nhanh và mạnh mẽ hơn tế bào ở dạng đơn lẻ. Hơn nữa, sự cộng sinh của nhiều loài vi sinh vật trong Biofilm giúp tạo nên một chuỗi thức ăn liên tục, phân giải triệt để các nguồn cơ chất. Cấu trúc bền vững của Biofilm giúp vi sinh vật chống chịu tốt hơn với các điều kiện bất lợi của môi trường, tăng khả năng cạnh tranh với các nhóm vi sinh vật khác. Nhóm nghiên cứu do tác giả Lê Thị Nhi Công, 2018 [47] - Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã nghiên cứu thành công sự hình thành màng sinh học từ các vi sinh vật phân lập tại Việt Nam, nhằm định hướng ứng dụng trong xử lý ô nhiễm dầu mỏ. Nước thải nhiễm dầu sau khi được xử lý bằng các chế phẩm màng sinh học đa chủng đã loại bỏ hơn 95 % các thành phần Hydrocacbon có trong nước thải, nước thu được đạt loại B theo QCVN 29:2010/BTNMT. Quy trình xử lý ô nhiễm của Viện Công nghệ sinh học đã được Cục sở hữu trí tuệ, Bộ KH&CN bảo hộ. Biofilm được tạo ra từ quần thể vi sinh vật - vi tảo có trong nước thải sẽ được gắn kết hợp với các hạt Nano sắt, giúp tăng cường diện tích tiếp xúc với nước thải, tăng cường quá trình xử lý cũng như Nano sắt hóa trị 0 sẽ kích thích sự phát triển nhanh chóng của quần thể vi sinh vật - vi tảo tạo thành Biofilm. Từ đó, tăng cường hiệu quả xử lý nước thải. Ngoài ra, Nano sắt có hóa trị 0 thường được dùng để xử lý nước thải có chứa hàm lượng kim loại nặng cao, đặc biệt là nước thải của nhà máy luyện kim hoặc tuyển khoáng (Thiều Quốc Hân và cs., 2018, SHTT [48]). 418 Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  9. Vi tảo có thể phát triển ở dạng huyền phù nhưng cũng có thể phát triển trong màng sinh học, cần ít năng lượng và hóa chất hơn, trong khi vi tảo sử dụng CO2 làm nguồn cacbon và tạo ra sinh khối có giá trị. Màng sinh học vi tảo có một số ưu điểm hơn so với nuôi cấy tảo lơ lửng. Đó là màng này phát triển trên bề mặt tách biệt với nước thải và có thể dễ dàng thu hoạch bằng cách cạo lớp tảo. Hơn nữa, mật độ sinh khối của tảo ở dạng màng sinh học cao hơn hàng trăm lần so với tảo ở dạng huyền phù. Do đó, hiệu quả xử lý nước bằng màng sinh học vi tảo là cao hơn. Boelee (2013) [49] đã tiến hành thí nghiệm và đánh giá khả năng của vi tảo trong loại bỏ Nitơ và Photpho, sử dụng cacbon dioxide (CO2), đồng thời sản xuất oxy. Tiếp đó, vi khuẩn sử dụng oxy (O2) để phân hủy hiếu khí các chất ô nhiễm hữu cơ, đồng thời tạo ra CO2. Khi hệ thống đã chạy, không cần cung cấp thêm O2 hoặc CO2. Màng sinh học cộng sinh có khả năng làm sạch nước thải với nồng độ dinh dưỡng tương đối cao, loại bỏ 3,2 g Nitơ và 0,41 g Photpho/m2/ngày (Hình 2). Hình 2: Sơ đồ tổng quan về phản ứng màng sinh học vi sinh vật - vi tảo cộng sinh. Vi tảo sử dụng ánh sáng và CO2, đồng thời tạo ra sinh khối và O2 được vi khuẩn sử dụng Boelee Màng sinh học lai tự lắp ráp (SAHB) thể hiện tính điện động vượt trội, được coi là vi khuẩn điện di động được lựa chọn (Song và cs., 2017 [50]). Để phát triển SAHB, vật liệu Nano có độ dẫn điện và khả năng tương thích sinh học tuyệt vời cũng như vi khuẩn được cấy vào nhau trong chất điện phân. Trong quá trình hình thành màng sinh học điện động, vật liệu Nano phân tán dung dịch bám dính vào vi khuẩn bằng các tương tác vật lý và hóa học, cuối cùng lắp ráp màng sinh học lai vi khuẩn/ vật liệu Nano trên bề mặt điện cực bằng cách lặp lại quy trình (Zhang và cs 2018 [51]). SAHB có thể phát triển đến độ dày của centimet, gấp một trăm lần độ dày của màng sinh học hình thành tự nhiên trên bề mặt phẳng (Virdis và Dennis 2017 [52]). Hơn nữa, vật liệu Nano trong SAHB tạo điều kiện cho sự chuyển điện tử (ET) giữa vi khuẩn và giao diện điện cực. Hình 3: Cơ chế tăng cường khử Nitrat bằng SAHB trên các điện cực hạt GAC của 3D-BER của màng sinh học kết hợp vật liệu Nano Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 419 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  10. GAC: các hạt như than hoạt tính dạng hạt; SAHB: Màng sinh học lai tự lắp ráp; 3D-BERs: Bể phản ứng điện cực biofilm ba chiều) (Si-yuan Wang và cs., 2019 [53]. Như vậy, theo cơ chế này (Hình 3), 3D-BER có thể được áp dụng trong xử lý ô nhiễm Nitrat, thông qua quá trình khử Nitơ tự dưỡng Hydro. Nano-Fe2O3 đóng vai trò tích cực trong quá trình khởi động 3D-BER, bắt giữ nhiều vi khuẩn vào SAHB và hình thành màng sinh học dày trên các điện cực hạt. Các vi sinh vật đặc biệt có chức năng khử Nitrat liên quan đến các chủng/loài thuộc Hydrogenophaga và Opitutus được làm giàu đặc biệt trong SAHB (Si-yuan Wang và cs., 2019 [53]). Theo nhóm tác giả Fares Almomani (2020) [54], sử dụng Nano từ tính (MNP - Magnetic Nanoparticles) trong xử lý kim loại nặng từ nước thải là một giải pháp mới, thân thiện với môi trường và hiệu quả về chi phí. Phương pháp này sẽ thay đổi đáng kể quá trình loại bỏ kim loại hiện tại khỏi dòng thải. Quá trình hấp phụ phụ thuộc pH và bị ảnh hưởng bởi hàm lượng Nitơ trong nước thải. Độ pH tối ưu để loại bỏ kim loại nặng chấp nhận được là 9,0. Khả năng hấp phụ tối đa được tìm thấy lần lượt là 0,700; 0,451 và 0,790 mg/L đối với Cu, Ni và Al. Cơ chế hấp phụ gồm nhiều bước, bao gồm bước liên kết bề mặt và khuếch tán phân tử. Vật liệu mới cho thấy khả năng tái sinh mạnh mẽ trong hơn 12 chu kỳ sẽ cải thiện tính khả thi và chi phí sử dụng vật liệu này trong các quy trình xử lý. Như vậy, sự kết hợp giữa vi sinh vật - vi tảo - vật liệu Nano là một lựa chọn xứng đáng cân nhắc để giải quyết tình trạng nguồn nước giàu hữu cơ dễ hòa tan và một số loại kim loại nặng. Việc bổ sung các hạt Nano trong xử lý ô nhiễm nước không chỉ giúp tăng diện tích bề mặt cho vi sinh vật và vi tảo phát triển mà còn có thể cải thiện năng suất hấp thụ CO2 và tăng cường sự chuyển đổi ánh sáng trong hệ thống phản ứng quang học của vi tảo. Ngoài ra, việc bổ sung các hạt Nano làm tăng đáng kể sự tích tụ của hợp chất nội bào và tăng trưởng. 4. Kết luận Kết quả tổng hợp chất lượng nước trên hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải cho thấy một số chỉ tiêu hóa lý, vi sinh của nhóm ô nhiễm hữu cơ dễ hòa tan như: BOD5, COD, NO2-, PO43- vượt QCVN ở mức nhỏ hơn 05 lần, thuộc nguồn nước bị ô nhiễm; thông số NH4+ và Coliform mức vượt QCVN, lớn hơn 10 lần, thuộc nguồn nước ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng, chiếm tỷ trọng cao và cần có giải pháp công trình kết hợp các giải pháp phi công trình nhằm xử lý chất lượng nước trên hệ thống. Thông qua phân tích các nghiên cứu cho thấy, phương pháp sử dụng màng sinh học Biofilm kết hợp với vật liệu Nano đã đang nhận được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước. Trên mỗi đối tượng nước thải cụ thể, kỹ thuật kết hợp những chủng vi tảo và vi sinh vật nhất định tạo màng sinh học cho nhiệm vụ xử lý chất ô nhiễm cụ thể cần được nghiên cứu; sự phối kết hợp vật liệu Nano và điều chỉnh một số chỉ số môi trường quan trọng chính sẽ đem đến những kết quả khác biệt. Do vậy, việc kết hợp phân lập và xác định những chủng vi tảo và vi sinh vật quan trọng trong các nguồn nước thải đổ vào hệ thống thủy lợi kết hợp tìm kiếm vật liệu Nano và thiết kế điều kiện môi trường phù hợp cho tổ hợp màng sinh học kết hợp vật liệu Nano vận hành hiệu quả nhất cần được nghiên cứu chi tiết từ quy mô phòng thí nghiệm trước khi triển khai ngoài thực địa. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường (2015). Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ môi trường năm 2015, Quan trắc và cảnh báo môi trường nước hệ thống Bắc Hưng Hải phục vụ sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. 161 trang. [2]. Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường (2019). Nghiên cứu đề xuất các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm nước 420 Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  11. trong hệ thống công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải. Đề tài cấp Bộ. [3]. Tăng Thị Chính. Nghiên cứu, sản xuất các chế phẩm vi sinh vật và ứng dụng chúng để xử lý ô nhiễm môi trường. Báo cáo tổng quan Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (tài liệu online: http://www. vast.ac.vn/file/Tang%20Thi%20Chinh%20-%20Vi%E1%BB%87n%20CNMT.doc). [4]. Houghton J. E., Shanley M. S. (1994). Catabolic potential of Pseudomonads: A regulatory perspective. p: 11 - 32. In: Biological degradation and bioremendiation of toxic chemicals. Portand, Ore., Dioscorides Press. [5]. Longergan D. J., Jenter H. L., Coates J. D., Philips E. J., Schmidt T. M, Loveley D. R. (1996). Phylogenetic analysis of dissimilatory Fe (III)-reducing bacteria. J. Bacteriol., 178, 2402 - 2408. [6]. Hasegawa, R., Toyama K., Miyanaga K., Tanji Y. (2014). Identification of crude-oil components and microorganisms that cause souring under anaerobic conditions. Appl Microbiol Biotecnol. 98, P. 1853 - 1861. [7]. Dương Đức Tiến, Võ Văn Chi (1978). Phân loại học thực vật - thực vật bậc thấp. Nhà xuất bản ĐH và THCN, Hà Nội. [8]. Kirk E. Apt and Paul W. Behrens (1999). Commercial developments in Microalgal Biotechnology. J. Phycol. 35, p: 215 - 226. [9]. Đặng Diễm Hồng (2019). Nuôi trồng vi tảo giàu dinh dưỡng làm thực phẩm chức năng cho người và động vật nuôi ở Việt Nam. Sách chuyên khảo Tài nguyên và môi trường Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ, 750 trang. [10]. Đặng Diễm Hồng (2017). Nhiên liệu sinh học từ vi tảo biển và một số ứng dụng ở Việt Nam. Sách chuyên khảo Khoa học và Công nghệ biển. Nhà xuất bản Khoa học tự nhiên và Công nghệ, 484 trang. [11]. Đặng Đình Kim, Đặng Hoàng Phước Hiền (1999). Công nghệ sinh học vi tảo. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. [12]. Priyadarshani I, Sahu D, Rath B (2011). Microalgal bioremediation: Current practices and perspectives. J Biochem Tech (2011) 3(3): 299 - 304. [13]. Ayse BY, Oya I, Selin S, (2005). Bioaccumulation and Toxicity of different copper concentrations in Tetraselmis chuii. E.U. Journal of Fisheries and Aquatic Sciences 22(3 - 4): 297 - 304. [14]. Arunakumara KKIU, Xuecheng ZHAG, Xiaojin SONG, (2008). Bioaccumulation of PB2+ and Its effects on Growth, Morphology and Pigment contents of Spirulina (Arthrospora) platensis. J Ocean Univ Chin 7(4): 397 - 403. [15]. Garnikar D, (2002). Accumulation of copper, mercury and lead in Spirulina platensis studied in Zarrouk’s medium. The Journal of KMITNB 12(4): 333 - 35. [16]. Mane PC, Bhosle AB, Jangam CM và cs. (2011). Bioadsorption of selenium by Pretreated Algal Biomass Advances in applied Science Researce 2(2): 202 - 207. [17]. Nirmal Kumar J I, Cini O (2012). Removal of heavy metals by biosorption using freshwater alga Spirogyra hyalina. J Environ Biol 33: 27 - 31. [18]. Parameswari E, Lakshmanan A, Thilagavathi T (2010). Phycoremediation of heavy metals in polluted waterbodies. Electronic Journal of Environmental, Agricultural and Food chemistry 9(4): 808 - 814. [19]. Ajayan KV., Sevajaru and K. Thirugnanamoorthy (2011). Growth and Heavy Metals Accumulation Potential of Microalgae Grown in Sewage Wastewater and Petrochemical Effluents. Pakistan Journal of Biological Sciences 14(16): 805 - 811. [20]. Travieso L, Canizares RO, Borja R và cs. (1999). Heavy metal removal by microalgae. Bull. Environ Contam Toxicol 62:144 - 151. Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 421 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  12. [21]. Singh SK, Bansal A, Jha MK và cs. (2011). An integrated approach to remove Cr(VI) using immobilized Chlorella minutissima grown in nutrient rich sewage waste water. Bioresource Technology pp 1 - 9. [22]. Rangsayatorn, N., Upatham, S., E., Kruatrachue, M., Pokethitiyook, P., Lanza, G., P, (2002). Phytoremediation potential of Spirulina (Arthrospira) platenssis: biosorption and toxicity studies of cadmium. Journal of Environmental Pollution, 119: 45 - 53. [23]. Chuntapa B., Powtonsook S., Menasveta P., (2003). Water quality control using Spirulina platensis in shrimp culture tank. J. of Aquaculture, 220: 355 - 366. [24]. Chojnacka K., Chojnacki A., Gorecka H., (2004). Trace element removal by Spirulina sp. from copper smeller and refinery effluents. J. of Hydrometallurgy. [25]. Olguin et al, (2003). Annual productivity of Spirulina (Arthrospira) and nutrient removal in a pig wastewater recycling process under tropical conditions. Journal of Applied Phycology 15 (2 - 3): 249 - 257. [26]. Cepoia L., Zinicovscaiac I., Rudi L., Chiriaca T., Miscua V., Djura S., Strelkovac L., Vergelc K., Nekhoroshkov P., (2020). Growth and heavy metals accumulation by Spirulina platensis biomass from multicomponent copper containing synthetic effluents during repeated cultivation cycles. Ecological Engineering, Vol. 142, January 2020, 105637. [27]. Wang Q., Liu W, Wang X L R., Zhai J., (2020). Carbamazepine toxicity and its co-metabolic removal by the cyanobacteria Spirulina platensis. Science of the Total Environment. Vol. 706, 1 March 2020, 135686. [28]. Subashchandrabose S R., Ramakrishnan B., Megharaj M., Venkateswarlu K., Naidu R., (2013). Mixotrophic cyanobacteria and microalgae as distinctive biological agents for organic pollutant degradation. Enviroment International, 51 (2013): 59 - 72. [29]. Lu T., Zhang Q. Zhang Z., Hu B., Chen J., Jun Chen1, Qian H., (2020). Pollutant toxicology with respect to microalgae and cyanobacteria. Journal of Environmental Sciences. 99 (2020) 175 - 186. [30]. Madari R, Pourbabaee, A. A., Tabatabaei, M, Zahed, M.A. and Naghavi, M.R. (2016). Treatment of Petrochemical Wastewater by the Green Algae Chlorella vulgaris. Int. J. Environ. Res., 10(4):555 - 560, Autumn 2016. [31]. Huo S., Chen J., Chen X., Wang F., Xu L., Zhu F., Guo D., Li Z., (2018). Advanced treatment of the low concentration petrochemical wastewater by Tribonema sp. microalgae grown in the open photobioreactors coupled with the traditional Anaerobic/Oxic process. DOI: https://doi.org/10.1016/j.biortech.2018.09.024. [32]. Hodges A., Fica Z., Wanlass J., VanDarlin J., Sims R., (2017). Nutrient and suspended solids removal from petrochemical wastewater via microalgal biofilm cultivation. Chemosphere. Vol. 174, 2017: 46 - 48. [33]. Đặng Xuyến Như và cộng sự (1998). Sử dụng một số biện pháp sinh học để làm sạch môi trường đất và nước. Báo cáo đề tài cấp Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Hà Nội, 1998. [34]. Dương Đức Tiến và cộng sự (1990). Ô nhiễm môi trường Xã Dương Liễu, huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội và giải pháp xử lý. Báo cáo chương trình Nghiên cứu khoa học - kỹ thuật thành phố Hà Nội. [35]. Đặng Đình Kim, Trần Văn Tựa, Đặng Diễm Hồng, Hoàng Thị Bảo & Cao Văn Sung (1996). Một số kết quả về sử dụng vi tảo và bèo tây trong xử lí nước ngâm đay. Thông báo khoa học của các trường đại học, trang 28 - 32. [36]. Trần Văn Nhân (1989). Nghiên cứu tận dụng nước thải của sản xuất urê để nuôi trồng vi tảo có giá trị dinh dưỡng cao. Luận án Tiến sỹ, Đại học Bách khoa Hà Nội, Hà Nội. [37]. Lê Thị Hiền Thảo (1999). Nghiên cứu quá trình xử lý sinh học và ô nhiễm nước ở một số hồ Hà Nội. Luận án Tiến sỹ, Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội, Hà Nội. [38]. Nguyễn Đình San (2000). Vi tảo trong một số thủy vực bị ô nhiễm ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và vai trò của chúng trong quá trình làm sạch nước thải. Luận án Tiến Sỹ, Đại học Sư phạm Vinh, Vinh. 422 Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
  13. [39]. Lê Thị Phượng, Phan Văn Mạch, Mai Sỹ Tuấn (2009). Tìm hiểu khả năng làm giảm ô nhiễm môi trường nước của 3 loài vi tảo Chlorella sp., Platymonas sp. và Nannochloropsis oculata. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ ba, Hà Nội, trang 1513 - 1518. [40]. Nguyễn Minh Phương, Đinh Thị Ngọc Mai, Ngô Hoài Thu, Đặng Diễm Hồng (2011). Bước đầu ứng dụng vi sinh vật và vi tảo Spirulina đột biến để làm sạch nước thải theo định hướng sản xuất nguồn nguyên liệu chất dẻo sinh học dùng cho công nghiệp ở làng nghề bún Phú Đô. Tạp chí Môi trường, 12: 51 - 54. [41]. Viện Nghiên cứu Cao su Việt Nam. [42]. Eepsita Priyadarshini,  Sushree Sangita Priyadarshini  &  Nilotpala Pradhan (2019). Heavy metal resistance in algae and its application for metal nanoparticle synthesis. Applied Microbiology and Biotechnology, volume 103, pages 3297 - 3316. [43]. Majid Askari Hesni, Aliakbar Hedayati, Amir Qadermarzi, Mojtaba Pouladi, Somayeh Zangiabadi, Nabat Naqshbandi (2020). Using Chlorella vulgaris and iron oxide nanoparticles in a designed bioreactor for aquaculture effluents purification. Aquacultural Engineering 90 (2020) 102069. https://doi.org/10.1016/j. aquaeng.2020.102069. [44]. Viện KH&CN Quân sự (Bộ Quốc phòng), Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam và Học viện Kỹ thuật Quân sự (2018). Giải pháp hữu ích số 2-0001826 công bố ngày 25/09/2018. [45]. Crane, R. A, Scott, T. B (2012). Nanoscale zero-valent iron: Future prospects for an emerging water treatment technology. Journal of Hazardous Materials, 211 - 212, pp. 112 - 125, https://doi. org/10.1016/j. jhazmat.2011.11.073. [46]. Pranjali P. Mahamuni-Badiger, Pooja M. Patil, Manohar V. Badiger, Pratikshkumar R. Patel, Bhagyashi S. Thorat- Gadgil, Abhay Pandit, Raghvendra A. Bohara (2020). Biofilm formation to inhibition: Role of zinc oxide-based nanoparticles. Materials Science & Engineering C, 108. https://doi.org/10.1016/j. msec.2019.110319. [47]. Lê Thị Nhi Công (2018). Giải pháp hữu ích số 1942 công bố ngày 11/12/2018. [48]. Thiều Quốc Hân và cs (2018). Giải pháp hữu ích số 2-0001826 công bố ngày 25/9/2018. [49]. N.C. Boelee (2013). Microalgal Biofilms for Wastewater Treatment. PhD thesis, Wageningen University, Wageningen, NL (2013), 216 pages. https://core.ac.uk/download/pdf/29218727.pdf. [50]. Song, T. S, Zhang, H., Liu, H., Zhang, D., Wang, H., Yang, Y., Yuan, H., Xie, J., (2017). High efficiency microbial electrosynthesis of acetate from carbon dioxide by a self-assembled electroactive biofilm. Bioresour. Technol. 243, 573 - 582. [51]. Zhang, P., Liu, J., Qu, Y., Li, D., He, W., Feng, Y., (2018). Nanomaterials for facilitating microbial extracellular electron transfer: recent progress and challenges. Bioelectrochemistry 123, 190 - 200. [52]. Virdis, B., Dennis, P. G (2017). The nanostructure of microbially-reduced graphene oxide fosters thick and highly-performing electrochemically-active biofilms. J. Power Sources 356, 556 - 565. [53]. Si-yuan Wang, Xue-yuan Yang, Hui-shan Meng, Yan-chen Zhang, Xiu-yan Li, Juan Xu (2019). Enhanced denitrification by nano ɑ-Fe2O3 induced self-assembled hybrid biofilm on particle electrodes of three-dimensional biofilm electrode reactors. Environment International 125, p: 142 - 151. https://doi. org/10.1016/j.envint.2019.01.060. [54]. Fares Almomani, Rahul Bhosala, Majeda Khraisheh, Anand kumar, Thakir Almomani (2020). Heavy metal ions removal from industrial wastewater using magnetic nanoparticles (MNP). Applied Surface Science, Volume 506, https://doi.org/10.1016/j.apsusc.2019.144924. Ngày chấp nhận đăng: 10/11/2021. Người phản biện: TS. Tạ Thị Thoảng Nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong sử dụng hợp lý tài nguyên, 423 bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2