Đào tạo theo hệ thống tín chỉ bài toán khó giải cho các trường cao đẳng và đại học địa phương
lượt xem 2
download
Bài viết Đào tạo theo hệ thống tín chỉ bài toán khó giải cho các trường cao đẳng và đại học địa phương làm rõ thế nào là tín chỉ; ưu điểm của phương thức đào tạo theo tín chỉ và khó khăn khi áp dụng phương thức đào tạo này ở các trường Cao đẳng (CĐ), Đại học (ĐH) địa phương.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đào tạo theo hệ thống tín chỉ bài toán khó giải cho các trường cao đẳng và đại học địa phương
- BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ BÀI TOÁN KHÓ GIẢI CHO CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC ĐỊA PHƯƠNG Lê Thị Hương Quê 1 Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An Phương thức đào tạo theo tín chỉ được hình thành và phát triển để phục vụ cho các mục đích cụ thể của nền giáo dục Mỹ vào cuối thể kỷ 19 và cho đến nay nó đã vượt ra ngoài biên giới nước Mỹ. Đào tạo theo tín chỉ bắt đầu được áp dụng rộng rãi ở các nước Tây Âu từ những năm 1960 với hơn 40 quốc gia Châu Âu có các cơ sở đào tạo đại học, việc áp dụng đào tạo theo tín chỉ cũng khác nhau. Ở Châu Á, tín chỉ cũng được áp dụng mạnh mẽ trong đào tạo ở các nước Nhật bản, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Phillipine, Trung Quốc. Phương thức đào tạo theo tín chỉ cũng được áp dụng ở các nước thuộc khối Liên hiệp Anh ở Nam Thái Bình Dương như: Australia, New Zealand… Việc áp dụng hệ thống đào tạo theo tín chỉ phải quan điểm lấy người học làm trung tâm, người học là người tiếp nhận kiến thức nhưng đồng thời cũng là người chủ động tạo kiến thức, hướng tới đáp ứng những nhu cầu của thị trường lao động ngoài xã hội. Bài viết này muốn làm rõ thế nào là tín chỉ; ưu điểm của phương thức đào tạo theo tín chỉ và khó khăn khi áp dụng phương thức đào tạo này ở các trường Cao đẳng (CĐ), Đại học (ĐH) địa phương. 1. Tín chỉ là gì? Có rất nhiều định nghĩa về tín chỉ, khoảng 60 định nghĩa khác nhau, có định nghĩa coi trọng khía cạnh định tính, có định nghĩa coi trọng khía cạnh định lượng, có định nghĩa nhấn mạnh vào chuẩn đầu ra của sinh viên, có định nghĩa lại nhấn mạnh vào các mục tiêu của chương trình học. Một định nghĩa về tín chỉ được các nhà quản lý và nhà nghiên cứu giáo dục ở Việt Nam biết đến nhiều 1 ThS, Giảng viên 72
- HỘI THẢO KHOA HỌC: ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ nhất có lẽ là của học giả người Mỹ gốc Trung Quốc James Quann thuộc ĐH Washington. Cách hiểu của ông về tín chỉ như sau: Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một người học bình thường để học một môn cụ thể, bao gồm: 1. Thời gian lên lớp; 2. Thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được quy định ở thời khoá biểu; 3. Thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài…; đối với môn học lý thuyết một tín chỉ là một gìờ lên lớp (với 2 giờ chuẩn bị bài) trong tuần và kéo dài trong một học kỳ 15 tuần; đối với các môn học ở sudio hay phòng thí nghiệm, ít nhất là 2 giờ trong một tuần (với 1 giờ chuẩn); đối với các môn tự học, ít nhất là 3 giờ trong một tuần. (Bản dịch của Bộ Giáo dục và Đào tạo). Theo cách hiểu của PGS.TS Hoàng Văn Vân khoa sau ĐH – ĐH Quốc gia Hà Nội như sau: Tín chỉ là đại lượng dùng để đo khối lượng kiến thức, kỹ năng của một môn học mà người học cần phải tích luỹ trong một khoảng thời gian nhất định thông qua các hình thức: 1. Học tập trên lớp; 2. Học tập trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc làm các phần việc khác (có sự hướng dẫn của giáo viên); 3. Tự học ngoài lớp như đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề hoặc chuẩn bị bài... Tín chỉ còn được hiểu là khối lượng lao động của người học trong một khoảng thời gian nhất định trong những điều kiện học tập tiêu chuẩn. Như vậy, có 7 điểm cần phải làm rõ từ định nghĩa về tín chỉ này. Thứ nhất, hoạt động dạy - học theo tín chỉ được tổ chức theo ba hình thức: lên lớp, thực hành, và tự học. Trong ba hình thức tổ chức dạy - học này, hai hình thức đầu được tổ chức có sự tiếp xúc trực tiếp giữa giáo viên và sinh viên (giáo viên giảng bài, hướng dẫn, sinh viên nghe giảng, thực tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên...), hình thức thứ ba không có sự tiếp xúc giữa giáo viên và sinh viên (giáo viên giao nội dung để sinh viên tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành). Ba hình thức tổ chức dạy - học này tương ứng với ba kiểu giờ tín chỉ: giờ tín chỉ lên lớp, giờ tín chỉ thực hành và giờ tín chỉ tự học. Theo đó, một giờ tín chỉ lên lớp bao gồm 1 tiết (50 phút) giáo viên giảng bài và 2 tiết sinh viên tự học, tự nghiên cứu ở nhà; một giờ tín chỉ thực hành bao gồm 2 tiết giáo viên hướng dẫn, điều khiển và giúp đỡ sinh viên thực hành, thực tập; và một giờ tín chỉ tự học bao 73
- BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM gồm 3 tiết sinh viên tự học, tự nghiên cứu, tự thực hành theo những nội dung giáo viên giao và những gì sinh viên thấy cần phải nghiên cứu hoặc thực hành thêm (những hoạt động học tập này có thể được thực hiện ở nhà hoặc ở trong phòng thí nghiệm, trong studio...). Thứ hai, trong ba hình thức tổ chức dạy - học, cụ thể là trong ba kiểu giờ tín chỉ, lượng kiến thức sinh viên thu được có thể khác nhau nhưng để thuận tiện cho việc tính toán (giờ chuẩn cho giáo viên, kinh phí cho từng môn học, nhân lực để phục vụ cho dạy - học...), ba kiểu giờ tín chỉ này được coi là có giá trị ngang nhau. Thứ ba, có hai thuật ngữ dễ gây nhầm lẫn: đó là, một giờ tín chỉ (a credit hour) và một tín chỉ (a credit). Trong các tài liệu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Âu - Mỹ, hai thuật ngữ này thường được sử dụng thay cho nhau, chỉ chung một giá trị. Trong cách hiểu của chúng tôi, tín chỉ và giờ tín chỉ là hai khái niệm có nội dung khác. Theo đó, một tín chỉ gồm 15 giờ tín chỉ, thực hiện trong một học kỳ, kéo dài 15 tuần, mỗi tuần 01 giờ tín chỉ. Thứ tư, có thể có những môn học chỉ gồm một kiểu giờ tín chỉ, nhưng có thể có những môn học gồm nhiều hơn một kiểu giờ tín chỉ. Trong mọi trường hợp, công thức tính cho mỗi môn học là không đổi: 1+ 0 + 2 cho môn học thuần lý thuyết, 0+ 2 + 1 cho môn học thuần thực hành, thực nghiệm, và 0+ 0 + 3 cho môn học thuần tự học. Thứ năm, người học trong phương thức đào tạo theo tín chỉ được cấp bằng theo hình thức tích lũy đủ tín chỉ, và đánh giá theo thang điểm A, B, C, D, F trong đó F là mức chưa đạt yêu cầu phải học và thi lại tín chỉ đó. Thứ sáu, định nghĩa tín chỉ trên mới đo năng lực học tập của người học thông qua thời lượng và số lượng tín chỉ được tích luỹ, nó chưa đo được mục tiêu hay chất lượng đầu ra của quá trình học tập. Tuy nhiên người học được cấp bằng không chỉ phụ thuộc vào số tín chỉ mà họ tích lũy đủ mà còn phụ thuộc vào điểm trung bình chung quy định cho từng thời kỳ, từng kiểu văn bằng (cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ). Những quy định này phần lớn là do từng trường ĐH quyết định. Cuối cùng, thứ bảy, khác với phương thức đào tạo truyền thống, phương thức đào tạo theo tín chỉ xem tự học như là một thành phần hợp pháp trong cơ 74
- HỘI THẢO KHOA HỌC: ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ cấu giờ học của sinh viên: ngoài việc nghe giảng và thực hành trên lớp, sinh viên được giao những nội dung để tự học, tự thực hành, tự nghiên cứu; những nội dung này được đưa vào thời khoá biểu để phục vụ cho công tác quản lý và phải đưa vào nội dung các bài kiểm tra thường xuyên và bài thi hết môn học. 2. Ưu điểm của phương thức đào tạo theo tín chỉ Thứ nhất, việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên được coi trọng được tính vào nội dung và thời lượng của chương trình. Đây là phương thức đưa giáo dục ĐH về với đúng nghĩa của nó, người học tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi nhét kiến thức của người dạy, và do đó phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. Thứ hai, chương trình được thiết kế theo phương thức đào tạo tín chỉ bao gồm một hệ thống những môn học thuộc khối kiến thức chung, những môn học thuộc khối kiến thức chuyên ngành, những môn học thuộc khối kiến thức cận chuyên ngành. Mỗi khối lượng kiến thức đều có số lượng môn học lớn hơn số lượng các môn học hay số lượng tín chỉ được yêu cầu. Sinh viên có thể tham khảo giáo viên hoặc cố vấn để chọn những môn học phù hợp với mình, để hoàn thành một văn bằng và để phục vụ cho nghề nghiệp tương lai của mình. Thứ ba, sinh viên được cấp bằng khi đã tích luỹ đầy đủ số lượng tín chỉ do trường ĐH quy định; do vậy họ có thể hoàn thành những điện kiện để được cấp bằng tuỳ theo khả năng và nguồn lực của mình. Thứ tư, phản ánh được những mối quan tâm và những yêu cầu của người học như là những người sử dụng kiến thức và nhu cầu của các nhà sử dụng lao động trong các tổ chức quản lý kinh doanh và tổ chức quản lý hành chính nhà nước. Thứ năm, phương thức đào tạo này sẽ tạo được sự liên thông giữa các cơ sở đào tạo ĐH trong nước và nước ngoài. Bên cạnh những ưu điểm cho giáo viên và sinh viên còn có các lợi ích cho các nhà quản lý giáo dục. Vì nó vừa là thước đo khả năng học tập của người học, vừa là thước đo hiệu quả của giáo viên; là cơ sở để các trường ĐH tính toán ngân sách chi tiêu, nguồn nhân lực; và là cơ sở để báo các số liệu của trường cho các cơ quan cấp trên và các đơn vị liên quan. Một khi thước đo giờ tín chỉ được 75
- BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM phát triển và kiện toàn, việc sử dụng nó như là một phương tiện giám sát bên ngoài, để báo cáo và quản lý hành chính hữu hiệu hơn. Chính vì thế mà đào tạo theo tín chỉ có sức hấp dẫn với các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Ngày nay, trong xu thế hội nhập vừa tạo ra thời cơ đồng thời vừa là thách thức đối với nước ta trên lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo. Việt Nam đang trên đà phát triển vì vậy cần có tư duy mới để bứt phá đưa đất nước phát triển điều đó phụ thuộc rất nhiều vào giáo dục nước nhà, tạo ra con người chủ động, tích cực, sáng tạo. Muốn vậy, cần có hệ thống giáo dục hợp lý, để nâng cao chất lượng Giáo dục - Đào tạo cho hệ thống trung học chuyên nghiệp (THCN), CĐ, ĐH cần chuyển đổi từ phương thức đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Phương thức đào tạo này có ý nghĩa to lớn trong việc hội nhập và tiến dần đến phương thức đào tạo tiên tiến, tạo nhiều cơ hội cho người học - chủ nhân tương lai của đất nước. 3. Bài toán khó giải với các trường CĐ, ĐH địa phương khi áp dụng đào tạo theo hệ thống tín chỉ Thế giới sử dụng phương thức đào tạo theo tín chỉ đã lâu, còn ở nước ta năm học 2005- 2006 đẩy nhanh việc mở rộng học chế tín chỉ ở các trường ĐH, CĐ, THCN và phấn đấu đến năm 2010 hầu hết các trường CĐ, ĐH đều áp dụng hình thức đào tạo này. Hiện nay, một số trường ĐH đã áp dụng hình thức đào tạo này như: ĐH Bách khoa TP HCM, ĐH Đà Lạt; ĐH Cần Thơ, ĐH Thủy sản Nha Trang, ĐH Quốc gia HN, ĐH Dân lập Thăng Long... Nhìn chung, đây là những trường ĐH có quy mô lớn về chỉ tiêu đào tạo, về mã ngành đào tạo, về số lượng sinh viên, về cơ sở vật chất, lại nằm ở các trung tâm kinh tế - xã hội của đất nước nên có rất nhiều thuận lợi trong việc áp dụng hình thức đào tạo theo tín chỉ. • Khó khăn của các trường CĐ, ĐH địa phương khi áp dụng hệ thống tín chỉ Các trường CĐ, ĐH địa phương (tỉnh) có đặc thù là quy mô nhỏ về mã ngành đào tạo, về chỉ tiêu đào tạo, về số lượng thí sinh tham gia, về cơ sở vật chất, có những trường còn rất “trẻ”, mới thành lập được vài năm như: ĐH Hồng Đức (Thanh Hóa), ĐH Hà Tĩnh (Hà Tĩnh), ĐH DL Vạn Xuân (Nghệ An).... còn các trường CĐ thì chủ yếu được chuyển lên từ các trường THCN (mỗi tỉnh có ít 76
- HỘI THẢO KHOA HỌC: ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ nhất 2 trường CĐ) cho nên khi chuyển từ đào tạo theo niên chế – học phần sang hệ thống tín chỉ thì gặp rất nhiều khó khăn, cụ thể: Về phía nhà trường: - Thiếu cơ sở vật chất, phòng ốc không đảm bảo để có thể chứa 100sv/lớp thậm chí hơn nữa; phương tiện dạy học nghèo nàn; hệ thống thư viện quy mô nhỏ; tài liệu tham khảo kém phong phú. Khi áp dụng theo hệ thống tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải đọc tài liệu, nghiên cứu bài tập về nhà rất nhiều trong khi đó thư viện không đáp ứng được. - Chỉ tiêu đào tạo của trường lại có hạn, các ngành đào tạo thay đổi từng năm theo nhu cầu của địa phương, có ngành được mở rộng, có ngành bị gián đoạn nhiều khóa. Từ đó, có ngành số lượng sinh viên đăng ký rất đông, ngành lại rất ít dẫn tới khó khăn cho nhà trường về tổ chức lớp học. - Lớp học không còn theo lớp cố định mà thường xuyên phải di chuyển từ lớp này sang lớp khác nên rất khó khăn trong quản lý sinh viên, sự liên kết giữa sinh viên - lớp học - nhà trường rất lỏng lẻo và làm cho phong trào đoàn, hội sinh viên hoạt động không hiệu quả. Về phía giảng viên: - Đã quen với kiểu lên lớp truyền thống chủ yếu là thầy giảng - trò ghi, thầy nói- trò nghe, phương pháp dạy học một chiều. Chưa có phương pháp dạy học tích cực tạo tình huống cho sinh viên, chưa phát huy tính tích cực của các em. - Với khối lượng kiến thức lớn nhưng không đi vào trọng tâm bài giảng mà thường dàn trải gây mất thời gian và không đạt hiệu quả. Chuẩn bị bài đến lớp chưa chu đáo, thiếu thực tiễn, sử dụng công nghệ thông tin vào bài giảng chưa nhiều. Giảng viên gặp khó khăn trong việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên vì lớp học quá đông. - Nhiều giảng viên chưa có cách nhìn và nhận thức đúng về dạy học trong hệ thống đào tạo tín chỉ, ngại thay đổi và chưa nhiệt tình trong việc tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học. 77
- BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM Về phía sinh viên: - Thói quen, tư duy thụ động được hình thành từ phổ thông, chưa có phương pháp tự học, tự nghiên cứu, thiếu tính tích cực; ngại sự tranh luận, diễn thuyết giữa đám đông; không đọc tài liệu, chuẩn bị bài đến lớp, nếu có cũng chỉ là qua quýt, đối phó. - Lớp học đông người khó chú ý tập trung cao trong giờ học nên hiệu quả giờ học kém. Sinh viên còn thiếu kỹ năng làm việc theo nhóm cho nên giờ thảo luận nhóm chủ yếu nhóm trưởng làm việc còn các bạn khác gần như không tham gia. - Khó khăn trong việc tìm tài liệu tham khảo, thư viện của trường tài liệu không đầy đủ; với khối lượng kiến thức rất nặng nhiều sinh viên muốn học ngành 2 cũng rất vất vả. Với những khó khăn trên tôi cũng mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết khó khăn của các trường CĐ, ĐH địa phương • Những giải pháp giải quyết khó khăn cho các trường CĐ, ĐH địa phương khi áp dụng hệ thống tín chỉ Thứ nhất, phía nhà trường cần khắc phục cơ sở vật chất bằng cách tìm kiếm nguồn đầu tư kinh phí từ phía các doanh nghiệp, cá nhân, sự hỗ trợ của tỉnh để mua sắm tài liệu, tư liệu, máy chiếu... Để quản lý được sinh viên theo hệ thống tín chỉ thì phòng công tác sinh viên cần tạo phối hợp với khoa, đoàn, hội sinh viên, phòng đọc, phòng thí nghiệm với phòng Đào tạo một cách có hiệu quả như hàng tháng hoặc hàng quý có sự đối thoại giữa ban lãnh đạo nhà trường với sinh viên để hiểu được tâm tư nguyện vọng của sinh viên nhằm xây dựng chiến lược cho nhà trường. Nhà trường cũng cần xây dựng một chương trình học hợp lý cho từng đối tượng sinh viên, hệ TC khác hệ CĐ, hệ CĐ khác hệ ĐH và tránh sự chồng chéo khi sinh viên học liên thông. Ngoài môn học bắt buộc ra, những môn tự chọn nhà trường cần tư vấn, định hướng, giải thích cho sinh viên hiểu, tránh tình trạng môn quá đông người học môn lại quá ít người tham gia vì sinh viên thường theo bạn, thấy bạn học mình cũng học chứ chưa có định hướng tương lai. Vấn đề quan trọng nữa là nhà trường làm sao để đạt đến mục tiêu là 78
- HỘI THẢO KHOA HỌC: ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ tín chỉ của sinh viên trường mình cũng phải được công nhận ở các trường khác và ngược lại. Thứ hai, phía đội ngũ giảng viên cần đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao ý thức tự giác học tập, năng lực tự học, tự nghiên cứu; phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, nâng cao kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin, kỹ năng trình bày và thảo luận cho sinh viên. Tôi còn nhớ nhận xét của một nhà nghiên cứu nước ngoài “người thầy trung bình chỉ biết nói, người thầy thông minh biết giải thích, người thầy xuất sắc biết minh họa, người thầy vĩ đại biết truyền cảm hứng”. Ngoài ra, người dạy phải đảm nhiệm thêm ít nhất ba vai trò nữa, đó là cố vấn cho quá trình học tập; người tham gia vào quá trình học tập; và người học và nhà nghiên cứu. Với tư cách cố vấn cho quá trình học tập, khi giảng bài cũng như khi hướng dẫn thảo luận, người dạy phải chọn những vấn đề cốt lõi, quan trọng để giảng mà nếu không có người dạy thì người học khó có thể lĩnh hội được, tạo điều kiện cho người học tiếp thu và khám phá tiếp kiến thức. Như vậy trong quá trình học tập, người dạy sẽ giúp cho chính mình hiểu được người học: hiểu được những gì họ cần trong quá trình học tập và những gì họ có thể tự làm được để có thể chuyển giao những nhiệm vụ này cho họ thông qua hướng dẫn và giám sát; giúp người học hiểu rõ hơn những ý định của họ để qua đó họ có thể phát huy được vai trò chủ động và sáng tạo, và những nguồn lực của chính họ để học tốt môn học; hướng dẫn tham gia tích cực của người học vào những mục tiêu thực tế nhất của giáo dục hiện đại: học đi đôi với hành. Vai trò của người tham gia vào quá trình dạy - học, người dạy hoạt động như là một thành viên tham gia vào quá trình học tập ở trên lớp với các nhóm người học. Với tư cách vừa là cố vấn vừa là người tham gia vào quá trình học tập, người dạy còn có thêm một vai trò bổ sung nữa, đó là, nguồn tham khảo cho người học, giúp họ tháo gỡ những khó khăn trong quá trình dạy học và nghiên cứu. Với vai trò là người học người nghiên cứu, với tư cách là một thành viên tham gia vào các hoạt động học tập ở trên lớp, người dạy ở một mức độ nào đó, có điều kiện trở lại vị trí của người học, hiểu và chia sẻ khó khăn và trách nhiệm học tập với họ. Khi thực hiện được vai trò người học thì người dạy mới phát huy 79
- BAN LIÊN LẠC CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM được vai trò tích cực của người học, lúc đó lựa chọn được phương pháp và thủ thuật phù hợp. Với tư cách là nhà nghiên cứu, người dạy có thể đóng góp khả năng và kiến thức của mình vào việc tìm hiểu bản chất của quá trình dạy - học nói chung, bản chất của quá trình học của một môn học nói riêng. Ngoài ra, thông qua nghiên cứu, người học sẽ ý thức được rằng dạy - học là một nhiệm vụ liên nhân - một nhiệm vụ mà cả người dạy và người học đều có trách nhiệm tham gia, trong đó học có vai trò trung tâm, dạy có vai trò hỗ trợ, và mục tiêu học tập chi phối toàn bộ quá trình dạy - học. Nhà trường cần có những buổi tập huấn cho giảng viên hiểu đúng bản chất của đào tạo theo hệ thống tín chỉ, để từ đó đưa ra những phương pháp dạy học thích hợp, tránh tình trạng “bình mới rượu cũ”. Thứ ba, phía sinh viên trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, người học phải được tạo điều kiện để thực sự trở thành người đàm phán tích cực và có hiệu quả với chính mình trong quá trình học tập, với mục tiêu học tập, với các thành viên trong nhóm và trong lớp học và với người dạy. Chúng ta thấy sinh viên ĐH trong xã hội hiện đại không chỉ là những người thu nhận kiến thức thụ động từ giáo viên, từ sách vở mà điều quan trọng họ phải là những người biết cách học như thế nào. Nhiều công trình nghiên cứu về tâm lí học ĐH cho thấy rằng sinh viên có những nhu cầu, động cơ học tập và những chờ đợi khác nhau về ngành học, một môn học, và trong quá trình học tập họ thường xuyên điều chỉnh kế hoạch của họ cho phù hợp với những mục tiêu của môn học. Kiến thức thường được xác định lại khi sinh viên khám phá nhiều hơn về nó và trong khi xây dựng kế hoạch học tập cho riêng mình, sinh viên có thể nhận ra rằng các chiến lược học tập trước đó của họ có thể không còn phù hợp nữa và có thể thay thế bằng các chiến lược học tập mới phù hợp hơn. Quá trình điều chỉnh này được gọi là quá trình đàm phán với chính mình trong thu nhận và tạo kiến thức. Từ thực tế này yêu cầu người học phải có thêm một vai trò nữa, đó là người cùng đàm phán trong nhóm và trong lớp học. Đối với sinh viên năm thứ nhất nhà trường có thể tổ chức những buổi giao lưu học hỏi kinh nghiệm phương pháp học tập của các sinh viên xuất sắc năm cuối để có thêm kiến thức về cách thức học cho hiệu quả. 80
- HỘI THẢO KHOA HỌC: ĐÀO TẠO LIÊN THÔNG THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ Bài viết trên đây đã tham khảo qua một số hội thảo bàn về đào tạo theo tín chỉ và đưa ra một số đề xuất cho các trường CĐ, ĐH địa phương để các nhà giáo dục tham khảo thêm. Với thực trạng của các trường CĐ, ĐH địa phương hiện nay thì việc áp dụng theo hệ thống tín chỉ quả là bài toán khó giải. Hiện nay, trong xu thế hội nhập việc sử dụng hình thức đào tạo theo phương phức tín chỉ là rất cần thiết, nó đáp ứng được mục tiêu đào tạo gắn liền với nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, tùy và điều kiện của mỗi trường mà có những hình thức phù hợp khi áp dụng đào tạo theo hệ thống tín chỉ có hiệu quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Văn Vân, Phương thức đào tạo theo tín chỉ: lịch sử, bản chất, và những hàm ý cho phương pháp giảng- dạy ở bậc đại học, Hội nghị triển khai đào tạo theo tín chỉ của ĐH Khoa học Tự nhiên Hà Nội. 2. “Đổi mới phương pháp dạy học đại học trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Huế, 2009 3. Lê Thị Hương Quê, Phương thức đào tạo theo tín chỉ: hình thức phổ biến ở các nước trên thế giới, Kỷ yếu hội thảo khoa học nâng cao chất lượng đào tạo tại trường ĐH Hà Tĩnh, 2008 81
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở Học viện Ngân hàng - Phân viện Phú Yên trong quá trình chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ
11 p | 125 | 16
-
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy, học và nghiên cứu khoa học trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ
8 p | 139 | 15
-
Kỉ yếu hội thảo khoa học: Thực tiễn triển khai thí điểm công tác đào tạo theo hệ thống tín chỉ tại Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội
91 p | 90 | 11
-
Những hiểu biết và thái độ của sinh viên Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đối với việc áp dụng đào tạo theo học chế tín chỉ
9 p | 93 | 6
-
Một số vấn đề lí luận về năng lực tự quản lí quá trình đào tạo của giảng viên đại học trong đào tạo theo học chế tín chỉ
6 p | 40 | 4
-
Tổng quan về đào tạo theo hệ thống tín chỉ
8 p | 70 | 4
-
Xây dựng chuẩn đầu ra dưới tác dụng đào tạo theo hệ thống tín chỉ của trường Đại học Lạc Hồng
13 p | 60 | 4
-
Những bất cập trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở Việt Nam
7 p | 67 | 4
-
Bài học kinh nghiệm qua 4 năm thực hiện đào tạo theo hệ thống tín chỉ tại Khoa Giáo dục Mầm non Trường Đại học Hải Phòng
6 p | 87 | 4
-
Phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ và những yêu cầu đối với cố vấn học tập
4 p | 29 | 4
-
Các giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo theo hệ thống tín chỉ đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp
13 p | 19 | 3
-
Quan điểm người học là trung tâm và vai trò của người thầy trong phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ
4 p | 51 | 3
-
Một số biện pháp quản lí chất lượng đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở Trường Cao đẳng Thống kê II
3 p | 5 | 3
-
Vai trò của đội ngũ cố vấn học tập trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở các trường Đại học, Cao đẳng
4 p | 22 | 2
-
Giải pháp đặc thù trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ của các học viện, trường đại học công an nhân dân
5 p | 26 | 2
-
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ và vấn đề liên thông của văn bằng tú tài cộng hai năm của quốc tế sang cao đẳng Việt Nam
5 p | 9 | 2
-
Vai trò và nhiệm vụ của giảng viên trong phương pháp đào tạo theo hệ thống tín chỉ
7 p | 56 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn