Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br />
<br />
<br />
Hoàng Thanh Huyền<br />
Khoa Kế toán- Kiểm toán,<br />
Học viện Ngân hàng<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bài viết đề cập tới lợi ích của việc đầu tư cho giáo dục đại học (GDĐH),<br />
một số xu hướng đầu tư và chia sẻ chi phí GDĐH trên thế giới. Tỷ lệ chi<br />
Ngân sách Nhà nước (NSNN) trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng<br />
lên, đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH tăng mạnh, tỷ trọng đầu tư từ<br />
NSNN cho một sinh viên đại học giảm xuống, tăng thu học phí và mở rộng<br />
cho sinh viên vay vốn… là các xu hướng thực hiện chia sẻ chi phí đang<br />
được áp dụng ở một số nước trên thế giới. Khuyến nghị đối với Việt Nam,<br />
cần hoàn thiện chính sách học phí để tăng cường đầu tư của cá nhân người<br />
học cho GDĐH và yêu cầu người học chia sẻ chi phí GDĐH với Nhà nước.<br />
Ngân sách Nhà nước được đầu tư chủ yếu cho hoạt động nghiên cứu và<br />
phát triển (R&D) của các cơ sở GDĐH và những lĩnh vực cần ưu tiên trong<br />
GDĐH. Cùng với việc tăng học phí, Nhà nước cần hoàn thiện chính sách<br />
tín dụng cho sinh viên.<br />
Từ khóa: đầu tư cho giáo dục đại học, chia sẻ chi phí<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Ngày nhận: 23/07/2019 Ngày nhận bản sửa: 14/08/2019 Ngày duyệt đăng: 27/08/2019<br />
<br />
<br />
<br />
Investment and cost sharing in higher education<br />
Abstract: The article addresses the benefits of investing in higher education (HE) and some trends of investment<br />
and cost sharing in higher education in the world. The increase of proportion of state budget spending<br />
on GDP, and private investment for higher education, the decrease of proportion of state investment per<br />
tertiary student, the increase in tuition and expansion for student loans… has proved positive trend in higher<br />
educationfinance in some countries around the world. Recommendation for Vietnam is that it is necessary<br />
to complete the tuition policy to increase the investment of students and their family, and ask them to share<br />
higher education cost. The State budget is mainly invested in research and development of higher education<br />
institution. Along with the increasing tuition fee policy, the State needs to improve credit policies for students.<br />
Keywords: Investment in higher education, Cost sharing.<br />
<br />
<br />
Huyen Thanh Hoang, PhD student<br />
Email: huyenht@hvnh.edu.vn<br />
Accounting & Auditing Falculty, Banking Academy of Vietnam<br />
<br />
© Học viện Ngân hàng Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br />
ISSN 1859 - 011X 71 Số 207- Tháng 8. 2019<br />
Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br />
<br />
<br />
1. Giới thiệu cho quá trình giáo dục đó” (Đặng Thị<br />
Minh Hiền, 2016).<br />
Đầu tư GDĐH là một khái niệm được sử<br />
dụng trong kinh tế học, hàm ý quá trình Cùng với những lợi ích mà GDĐH đem<br />
sử dụng phối hợp các nguồn lực trong một lại cho cộng đồng và cá nhân người học,<br />
khoảng thời gian xác định nhằm đạt được các quốc gia, các doanh nghiệp, tổ chức và<br />
kết quả hoặc một tập hợp các mục tiêu xác cá nhân ngày càng sẵn sàng đầu tư nhiều<br />
định trong điều kiện kinh tế xã hội nhất nguồn lực cho GDĐH. Đồng thời, theo<br />
định (Từ Quang Phương và Phạm Văn quá trình phát triển, nhu cầu học đại học<br />
Hùng, 2013). Các nguồn lực được huy ngày càng tăng cao, vượt xa khả năng bao<br />
động vào đầu tư có thể là tài nguyên thiên cấp của ngân sách chính phủ. Vì vậy, ở đa<br />
nhiên, sức lao động, trí tuệ, vốn, công số các nước trên thế giới, chính phủ không<br />
nghệ… Các kết quả thu được của hoạt còn bao cấp cho GDĐH như trước đây<br />
động đầu tư có thể là sự gia tăng về mặt nữa, mà thay vào đó là xu hướng chia sẻ<br />
giá trị của các tài sản tài chính hay sự tăng gánh nặng tài chính với người học, thông<br />
thêm năng lực sản xuất, năng lực phục vụ qua phương thức chủ yếu là tăng học phí.<br />
sản xuất hay sự gia tăng tài sản trí tuệ hoặc Tuy nhiên, điều này đã vấp phải những<br />
năng suất lao động của nguồn nhân lực. phản đối không ít từ phía người dân, vốn<br />
Các kết quả thu được từ hoạt động đầu tư đã quen với sự bao cấp của nhà nước trong<br />
có thể là kết quả trực tiếp cho nhà đầu tư, GDĐH. Tuy vậy, GDĐH được coi là hàng<br />
được thể hiện ở lợi nhuận mà nhà đầu tư hóa cá nhân và mang tính đầu tư, đồng<br />
thu được. Kết quả này cũng có thể là gián thời nó đem lại lợi ích trong tương lai cho<br />
tiếp cho toàn bộ nền kinh tế xã hội, thể người học thông qua thu nhập tăng lên và<br />
hiện qua nâng cao mức đóng góp vào tăng tri thức tích lũy được (WB, 2008). Chính<br />
trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc vì vậy, đầu tư cho GDĐH cần được thực<br />
sống của người dân và sự phát triển của hiện đồng thời giữa các bên và tài chính<br />
từng cá nhân trong xã hội, nâng cao trình GDĐH cần được chia sẻ giữa Nhà nước<br />
độ dân trí… (Từ Quang Phương và Phạm và người học.<br />
Văn Hùng, 2013). Khi đề cập tới đầu tư<br />
cho GDĐH, tác giả Phùng Xuân Nhạ và Chia sẻ chi phí được hiểu là sự dịch<br />
Phạm Xuân Hoan (2012) cũng cho rằng: chuyển một phần gánh nặng chi phí<br />
“Giáo dục là một lĩnh vực đầu tư, đầu tư GDĐH từ chỗ “trông cậy” hoàn toàn hoặc<br />
tiền vốn kinh phí và thời gian để nâng cao gần như hoàn toàn vào chính phủ, thực<br />
trình độ, nhằm nâng cao năng suất lao chất là những người đóng thuế, sang một<br />
động”. Dưới góc độ cá nhân người học, số nguồn cung cấp tài chính khác nhờ vào<br />
thì đầu tư cho GDĐH được hiểu là “quá phụ huynh và/hoặc sinh viên, dưới dạng<br />
trình chủ thể đầu tư sử dụng các nguồn lực học phí hoặc phí sử dụng, nhằm chi trả<br />
trong một khoảng thời gian nhất định để toàn bộ các chi phí cho cơ sở vật chất và<br />
cá nhân được giáo dục nhằm đạt tới trình đội ngũ giảng dạy mà cơ sở giáo dục hay<br />
độ văn hóa, phẩm chất đạo đức, chuyên chính phủ cung cấp trước đây (Johnstone,<br />
môn nghề nghiệp cao hơn, giúp mang lại 2003). Thuật ngữ chia sẻ chi phí đã được<br />
cho chủ thể đầu tư những lợi ích trong sử dụng nhiều trong các nghiên cứu trên<br />
tương lai mà được kỳ vọng là có giá trị lớn thế giới về vấn đề tài chính cho GDĐH.<br />
hơn so với các nguồn lực được sử dụng Trong một báo cáo về giáo dục và đào tạo<br />
<br />
<br />
72 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />
HOÀNG THANH HUYỀN<br />
<br />
<br />
của Liên minh Châu Âu (2014), khái niệm học, nhà trường, và các lực lượng khác<br />
chia sẻ chi phí được sử dụng như thuật trong xã hội. Đối với Nhà nước, việc tăng<br />
ngữ về “sự chuyển dịch dần chi phí nhằm cường đầu tư cho GDĐH thông qua chính<br />
đảm bảo sự cân bằng giữa nguồn tài chính sách học phí thấp trở nên không có hiệu<br />
công và tài chính tư nhân” cho GDĐH. quả, mà học phí cần để người học tự “đầu<br />
Chia sẻ chi phí một mặt mô tả thực tế chi tư”. Đối với mỗi cá nhân, lợi ích của việc<br />
phí GDĐH đang được cả nhà nước và sinh đầu tư cho GDĐH thể hiện ở các khía<br />
viên chi trả, mặt khác nó cũng hàm ý về cạnh sau đây:<br />
đổi mới chính sách tài chính cho GDĐH,<br />
thay vì chính phủ bao cấp phần lớn chi Một là, đầu tư cho GDĐH được coi là<br />
phí GDĐH như trước đây, thì sinh viên khoản đầu tư cho tương lai của mỗi con<br />
sẽ phải cùng chia sẻ chi phí này với nhà người. GDĐH là một loại dịch vụ đặc thù,<br />
nước. tiêu thụ nó là quá trình tác động thẳng<br />
từ nhà cung cấp (người dạy) đến người<br />
Bài viết này đề cập tới những lợi ích của tiêu dùng (người học). Kiến thức mà nhà<br />
việc đầu tư cho GDĐH và xu hướng chia trường truyền tải, người học có thể lưu giữ<br />
sẻ chi phí GDĐH của một số nước trên và tích lũy qua năm tháng. Những kiến<br />
thế giới, từ đó rút ra một số khuyến nghị thức này sẽ là phương tiện, giúp cho người<br />
cho Việt Nam trong việc thực hiện chia học có khả năng tạo ra sức lao động, có<br />
sẻ chi phí GDĐH và đổi mới chính sách tri thức và tạo ra hiệu quả cao hơn so với<br />
tài chính GDĐH nhằm đạt được mục tiêu trường hợp không có nó (Đặng Thị Lệ<br />
“chất lượng” và “công bằng” trong GDĐH Xuân, 2017). Như vậy, có thể thấy rằng<br />
ở Việt Nam hiện nay. GDĐH chính là phương tiện nâng cao<br />
năng suất, hiệu quả của người lao động<br />
2. Lợi ích của đầu tư cho giáo dục đại trong tương lai. Tri thức được bồi đắp<br />
học qua nhiều năm tháng thông qua quá trình<br />
tích lũy, cho phép con người phát triển<br />
Lợi ích của GDĐH rất lớn và cả nhà nước thêm năng lực cá nhân cho tới khi có thể<br />
và tư nhân đều gặt hái lợi ích từ thành sử dụng được. Sự khác biệt về khả năng<br />
quả của dịch vụ này. Theo Alexander tích lũy của bản thân người học đã tạo<br />
Griboyeov (1817), một nhà biên kịch Nga nên những giá trị riêng của giáo dục. Đặc<br />
thế kỷ XIX, cho rằng: “Con người càng biệt, trong hệ thống giáo dục quốc dân thì<br />
được giáo dục nhiều thì mức độ hữu dụng GDĐH là trình độ mà người học có thể<br />
của họ đối với đất nước của họ càng tăng tích lũy được kiến thức một cách nhanh<br />
lên”. Ở Việt Nam, Nghị quyết TW8, Khóa nhất, hiệu quả nhất và có liên hệ mật thiết<br />
XI (2013) của Ban chấp hành Trung ương với trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng<br />
Đảng đã khẳng định: “Đầu tư cho giáo như năng lực giải quyết công việc của<br />
dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên các cá nhân (Phùng Xuân Nhạ và Phạm<br />
đi trước trong các chương trình, kế hoạch Xuân Hoan, 2012). Nói một cách đầy đủ,<br />
phát triển kinh tế- xã hội”. GDĐH là sản phẩm có giá trị tích lũy và<br />
đầu tư cho GDĐH là đầu tư cho tương lai.<br />
Chính vì vậy, đầu tư cho giáo dục nói<br />
chung và GDĐH nói riêng ngày càng nhận Mặt khác, ở nhiều nước trên thế giới, giá<br />
được sự quan tâm của Nhà nước, người trị kinh tế ngày càng tăng của việc tiếp<br />
<br />
<br />
Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 73<br />
Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br />
<br />
<br />
Hình 1. Xu hướng lợi ích ròng của các cấp học<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: Đặng Thị Lệ Xuân (2017) trích từ George Psacharopoulos (1994)<br />
<br />
<br />
tục học sau trung học, được minh chứng hóa tư nhân (WB, 2008). Hàng hóa tư<br />
bằng sự chênh lệch mỗi ngày một lớn nhân có cả hai đặc tính, là tính “loại trừ”<br />
trong thu nhập bình quân của những người (excludability), và tính ganh đua (rivalry).<br />
tốt nghiệp đại học so với những người Tính loại trừ thể hiện ở khả năng ngăn<br />
không tham gia học đại học (Arthur M. cản việc sử dụng hàng hóa của ai đó hay<br />
Hauptman, 2006). Vì vậy, GDĐH đang không khi nó được cung cấp, tức là quá<br />
dần chuyển từ lĩnh vực truyền thống như trình tiêu dùng hàng hóa cá nhân này có<br />
dạy học, phục vụ hành chính công sang xu ảnh hưởng tới việc hưởng thụ hàng hóa<br />
hướng đáp ứng nhu cầu của thị trường và hay dịch vụ đó của người khác hay không,<br />
của lực lượng lao động. Trong bối cảnh thông thường thể hiện qua giá (tiền). Tính<br />
tỷ trọng nguồn lực công cho GDĐH ngày “ganh đua” được thể hiện ở chỗ quá trình<br />
càng giảm thì quan niệm về trường đại học tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của cá nhân<br />
như là một loại dịch vụ công ngày càng này có ảnh hưởng tới việc hưởng thụ hàng<br />
lấn át. hóa và dịch vụ đó của người khác hay<br />
không. Dịch vụ GDĐH có cả hai thuộc<br />
Hai là, GDĐH được coi là hàng hóa tính trên, nghĩa là chúng ta hoàn toàn có<br />
cá nhân. Trên thế giới tồn tại hai quan thể thu tiền đối với dịch vụ GDĐH một<br />
điểm khác nhau về tính chất của dịch vụ khi nó được cung cấp. Mặt khác, một<br />
GDĐH. Theo quan điểm của UNESCO sinh viên giành được một chỗ học trong<br />
(2015), GDĐH có đặc trưng của hàng hóa trường đại học thì đương nhiên loại trừ<br />
công cộng, đó là không có tính cạnh tranh và ảnh hưởng đến việc sử dụng của một<br />
và tính loại trừ. Theo đó, mọi người đều sinh viên khác. Như vậy, GDĐH có đầy<br />
có thể sử dụng hàng hóa và dịch vụ chung đủ thuộc tính của hàng hóa cá nhân, được<br />
với nhau mà không ảnh hưởng gì tới nhau thụ hưởng trực tiếp từ người tiêu dùng và<br />
và rất khó hoặc không thể thu tiền đối với có thể thu được tiền từ người sử dụng nên<br />
hàng hóa này một khi nó được cung cấp. GDĐH hoàn toàn có thể được cung cấp<br />
Tuy nhiên, theo ý nghĩa kinh tế học và bởi khu vực tư nhân. Hơn nữa, vì là hàng<br />
dựa trên diễn biến thực tế của thế giới thì hóa cá nhân nên nó có thể được cung cấp<br />
GDĐH chứa đựng nhiều yếu tố của hàng theo cơ chế thị trường trên cơ sở cung cầu<br />
<br />
<br />
74 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />
HOÀNG THANH HUYỀN<br />
<br />
<br />
Hình 2. Thuộc tính của một số loại hàng hóa<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: Joseph E. Sticglitz (1995)<br />
<br />
<br />
và cơ chế giá (Joseph E. Sticglitz, 1995). khi đầu tư cho GDĐH thì có mức sinh<br />
lời cao hơn nhiều (khoảng 15% đến 20%/<br />
Ba là, GDĐH là bậc học có khả năng thu năm) so với đầu tư vào nhà cửa, bất động<br />
hồi vốn đầu tư nhanh nhất. Bởi lẽ người sản (chỉ khoảng 1%) (Robert F. Bruner,<br />
học sau khi tốt nghiệp đại học có khả năng 2012). Hơn nữa, với các nước đang phát<br />
tìm việc làm với mức thu nhập cao hơn triển (trong đó có Việt Nam), lợi ích mà<br />
và dễ dàng hơn so với các cấp học khác GDĐH mang lại cho các cá nhân cao hơn<br />
(Đặng Thị Minh Hiền, 2009). Thống kê nhiều so với ở các nước phát triển, ở Hồng<br />
cho thấy, thu nhập của cá nhân dường Kông là 25,7%, ở Malaysia là 34,5%, ở<br />
như phụ thuộc chặt chẽ vào bằng cấp họ Singapore là 25,4%, ở Brazil là 28,2%<br />
có. Theo số liệu của Pew (2013), những (George Psacharopoulos, 1994).<br />
người trong khoảng 25- 32 tuổi tốt nghiệp<br />
đại học đang làm việc toàn thời gian 3. Xu hướng đầu tư và chia sẻ chi phí<br />
kiếm được nhiều tiền hơn những người giáo dục đại học trên thế giới<br />
cùng tuổi chỉ tốt nghiệp trung học khoảng<br />
17.500USD/năm đối với cả 2 nhóm giới Tỷ lệ chi NSNN cho GDĐH trong GDP<br />
tính. Robert F. Bruner (2012) đã chỉ ra tăng lên<br />
rằng, ở Mỹ người có bằng cấp cao thì thu<br />
nhập cũng cao hơn và ít thất nghiệp hơn. Tỷ lệ % chi NSNN so với GDP tăng lên<br />
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, học vấn là một trong những tiêu chí được dùng để<br />
còn có tác động mạnh mẽ tới khả năng tìm đo lường mức độ đầu tư của nhà nước cho<br />
việc làm, nhất là đối với phụ nữ. Chẳng giáo dục đào tạo nói chung và GDĐH nói<br />
hạn như, ở Ý tỷ lệ có việc làm đã tăng từ riêng. Giữa các quốc gia khác nhau, tỷ<br />
34% lên đến 81% nếu được giáo dục thêm lệ này cũng rất khác nhau do những đặc<br />
từ trình độ dưới trung học phổ thông lên điểm, sức mạnh về kinh tế và tình hình<br />
đến đại học và sau đại học. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, chính trị xã hội của quốc gia đó.<br />
các con số tương ứng của phụ nữ là 22%<br />
và 71% (Michael & Kretovics, 2004). Hình 3 thể hiện tỷ lệ % chi NSNN cho<br />
GDĐH trong GDP ở một số nước công<br />
Bốn là, đầu tư cho GDĐH có thể đem lại nghiệp phát triển và khu vực Đông Nam<br />
mức sinh lời cao nhất. Một số nghiên cứu Á trong giai đoạn 2005- 2015. Như vậy có<br />
trên thế giới đã chỉ ra rằng, các cá nhân thể thấy rằng, xu hướng chung là đầu tư<br />
<br />
<br />
Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 75<br />
Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br />
<br />
<br />
Hình 3. Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho GDĐH so với GDP tại một số nước giai đoạn<br />
2005-2015<br />
% GDP<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: Unesco (2015)<br />
<br />
của Nhà nước cho GDĐH ở đa số các nước nước này dùng để đầu tư cho tăng quy mô<br />
phát triển và đang phát triển trên thế giới đã GDĐH. Ở Việt Nam, trong những năm<br />
và đang tăng lên. Một số nước công nghiệp gần đây, tỷ lệ chi NSNN cho GDĐH có<br />
phát triển như Anh, Áo, Úc, Bỉ, Pháp, Đức, xu hướng tăng nhẹ hàng năm, cụ thể năm<br />
Tây Ban Nha, Đan Mạch, Thụy Điển có 2010 là 0,74%, năm 2012 là 0,82%, năm<br />
tỷ lệ % chi NSNN cho GDĐH trong GDP 2015 là 0,85%.<br />
tăng lên rõ nét. Ba quốc gia ở Đông Nam<br />
Á có tỷ lệ chi ngân sách tăng đáng kể là Như vậy, tài trợ công cho GDĐH ở đa số<br />
Hàn Quốc, Indonesia, và Singapore. Tại các nước trên thế giới đang có xu hướng<br />
bốn nước Bắc Âu: Đan Mạch, Phần Lan, tăng nhẹ và một phần lượng tăng thêm này<br />
Na Uy, Thụy Điển, nơi có tiềm lực kinh tế được sử dụng vào hoạt động nghiên cứu<br />
mạnh và theo mô hình Nhà nước phúc lợi, và phát triển (R&D). Trong thời đại phát<br />
chi ngân sách cho GDĐH rất cao và cao triển, R&D là hoạt động mang lại lợi ích<br />
hơn tất cả các nước (Hình 3), đạt mức xấp kinh tế nhiều hơn so với các hoạt động<br />
xỉ 2% trong giai đoạn 2010- 2015. Chỉ có khác. Theo Ngô Quang Hưng (2014), lợi<br />
Phần Lan có xu hướng cắt giảm chi tiêu tức đầu tư công vào R&D thường khá cao,<br />
ngân sách cho GDĐH từ 2,08% năm 2010 khoảng từ 30% đến 100% hoặc hơn nữa<br />
xuống còn 1,89% năm 2015, ba nước còn và nhiều trường Đại học ở Mỹ đã thành<br />
lại vẫn duy trì ổn định tỷ lệ này và có xu công vượt bậc về tài chính nhờ đầu tư vào<br />
hướng tăng lên. R&D. Không chỉ đem lại lợi ích to lớn<br />
cho các nước phát triển, R&D còn có vai<br />
Mặc dù vậy, trong giai đoạn 2005- 2015, trò quan trọng đối với các nước đang phát<br />
chi NSNN cho GDĐH ở một số nước vẫn triển (trong đó có Việt Nam) vì nó giúp<br />
có xu hướng giảm xuống, bao gồm Ai-len, các nước này tiếp thu và vận dụng tri thức<br />
Canada, Nhật Bản, Malaysia. Ở Trung hiện đại vào điều kiện của quốc gia đó.<br />
Quốc, tỷ lệ này không chuyển biến rõ<br />
nét, bên cạnh đó, phần lớn ngân sách của Do vậy, các nước ngày càng quan tâm tới<br />
<br />
<br />
76 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />
HOÀNG THANH HUYỀN<br />
<br />
<br />
Bảng 1. Tỷ lệ chi tiêu công cho R&D trong là một chỉ số xếp hạng quốc gia trong thời<br />
GDP tại một số nước Châu Âu đại kinh tế tri thức hiện nay. Bảng 1 thể<br />
Đơn vi: % GDP hiện tỷ lệ đầu tư công cho hoạt động R&D<br />
Nước 2002 2012 2017 trong ở một số nước trên thế giới trong<br />
Anh 0,55 0,56 0,5 thời gian qua.<br />
Áo 0,68 0,82 0,92<br />
Theo số liệu ở bảng 1, một số nước có<br />
Bỉ 0,54 0,67 0,83<br />
xu hướng đầu tư cho R&D tăng nhanh<br />
Đan Mạch 0,74 1,01 1,07 trong giai đoạn 2002-2017 là Áo, Bỉ, Đan<br />
Đức 0,75 0,92 0,93 Mạch, Đức. Các nước như Tây Ban Nha,<br />
Tây Ban Nha 0,47 0,61 0,54 Thụy Sỹ, Anh có xu hướng không rõ ràng,<br />
Thụy Sĩ 0,92 1,05 0,97 nhưng xét trong cả giai đoạn trên thì có sự<br />
tăng nhẹ. Theo số liệu từ Unesco (2015),<br />
Nguồn: European Commission (2019)<br />
những nước đứng đầu trong danh sách chi<br />
tiêu cho hoạt động R&D tập trung nhiều ở<br />
đầu tư công cho R&D và đây còn được coi các nước có nền kinh tế hàng đầu thế giới<br />
<br />
<br />
Bảng 2. Tỷ lệ đóng góp của nhà nước và tư nhân cho cơ sở GDĐH tại một số nước OECD<br />
năm 2006, 2011, 2013<br />
Đơn vi: %<br />
Nước 2006 2011 2013<br />
% nhà nước % tư nhân % nhà nước % tư nhân % nhà nước % tư nhân<br />
Anh 64,8 35,2 30,2 69,8 45,4 54,6<br />
Canada 53,4 46,6 57,4 42,6 37,2 62,8<br />
NewZealand 63 37 64,5 35,5 31,1 68,9<br />
Mỹ 34 66 34,8 65,2 39,6 60,4<br />
Úc 47,6 52,4 45,6 54,4 34,5 65,5<br />
Áo 84,5 15,5 88,9 11,1 50,9 49,1<br />
Bỉ 90,6 9,4 90,1 9,9 55,6 44,4<br />
Pháp 83,7 16,3 80,8 19,2 57 43<br />
Đức 85 15 84,7 15,3 44,5 55,5<br />
Tây Ban Nha 78,2 21,8 77,5 22,5 45,1 54,9<br />
Ý 73 27 66,5 33,5 51,1 48,9<br />
Đan Mạch 96,4 3,6 94,5 5,5 56,5 43,5<br />
Phần lan 95,5 4,5 95,9 4,1 57,5 42,5<br />
Na Uy 97 3 95,9 4,1 55,9 44,1<br />
Thụy Điển 89,1 10,9 89,5 10,5 52,4 47,6<br />
Hàn Quốc 23,1 76,9 27 73 31,8 68,2<br />
Nhật Bản 32,2 67,8 34,5 65,5 42,7 57,3<br />
Nguồn: OECD (2013) và tính toán của tác giả<br />
<br />
<br />
Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 77<br />
Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br />
<br />
<br />
như Mỹ là 476,5 tỷ USD, Trung Quốc là còn 30,2% năm 2011. Năm 2011, tỷ lệ<br />
370,6 tỷ USD, tiếp theo là Nhật Bản với đóng góp của tư nhân cho giáo dục đạt<br />
mức chi phí là 170,5 tỷ USD, Đức có mức mức 69,8%, cao hơn rất nhiều so với các<br />
chi 109,8 tỷ USD, Hàn Quốc là 73,2 tỷ nước phương Tây khác. Tuy nhiên, theo<br />
USD. Khi tính về chia sẻ trong tổng chi De Boer, Enders và Schimank (2009), cải<br />
phí cho R&D trên toàn thế giới thì các cách GDĐH ở Anh theo hướng sử dụng cơ<br />
nước trên đạt tỷ lệ cao nhất, lần lượt là chế thị trường có vẻ đã quá đà và gây ra<br />
26,4%, 20,6%, 9,5%, 6,1% và 4,1%. một số hệ quả bất lợi. Các trường đại học<br />
không có thành tựu nổi bật sẽ khó thu hút<br />
Đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH kinh phí dành cho nghiên cứu và trở thành<br />
tăng mạnh cơ sở chỉ chuyên về giảng dậy. Điều này<br />
đi ngược với mục tiêu xây dựng trường<br />
Đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH đại học có hoạt động đa dạng, đáp ứng<br />
có xu hướng tăng lên mạnh mẽ. Bảng 2 nhu cầu của sinh viên. Chính vì vậy, đầu<br />
cho thấy tỷ lệ đóng góp của khu vực tư tư của khu vực Nhà nước cho các cơ sở<br />
nhân cho GDĐH trong tổng nguồn thu GDĐH sau đó đã phục hồi, tăng lên 45,4%<br />
của trường tăng lên ở hầu hết các quốc gia vào năm 2013.<br />
thuộc khối OECD trong giai đoạn 2006-<br />
2013. Nguồn tài chính của các trường đại Tỷ trọng đầu tư công cho một sinh viên<br />
học được phân chia thành đóng góp từ hai vẫn giảm nhưng tốc độ chậm lại<br />
khu vực nhà nước và tư nhân. Số liệu cũng<br />
cho thấy tỷ lệ đóng góp của khu vực nhà Số liệu của Unesco (1998) cho thấy, chi<br />
nước cho cơ sở GDĐH giảm mạnh khi so tiêu của chính phủ cho một sinh viên đại<br />
sánh với khu vực tư nhân. Điển hình là ở học (tính theo tỷ lệ %) so với tổng sản<br />
các nước như New Zealand, Pháp, Đức, phẩm quốc gia (GNP) bình quân đầu<br />
Tây Ban Nha, Ý và 4 nước Bắc Âu: Đan người trong giai đoạn 1980- 1995 đã giảm<br />
Mạch, Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển. đi một nửa ở hầu hết các nước trên thế<br />
giới (Varghese, 2001). Theo số liệu của<br />
Tuy vậy, một số quốc gia không theo xu Ngân hàng thế giới (WB, 2015), chi tiêu<br />
hướng chung, có tỷ trọng đầu tư của Nhà của Chính phủ cho một sinh viên không<br />
nước cho GDĐH tăng lên trong cả giai chỉ cho từng nước riêng rẽ mà còn được<br />
đoạn là Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản. Các tính cho một số các nhóm nước (Bảng 3).<br />
nước này đã tăng tỷ lệ đóng góp của Nhà Số liệu cho thấy xu hướng giảm tỷ trọng<br />
nước trong tổng nguồn thu của nhà trường chi tiêu công trên một sinh viên đại học<br />
lên từ 5- 10%. Tuy nhiên, trong tổng đầu vẫn tiếp tục trong giai đoạn 1998- 2010 ở<br />
tư cho GDĐH, thì đầu tư của khu vực tư các khu vực khác nhau trên thế giới, tuy<br />
nhân vẫn chiếm tỷ trọng lớn (trên 60%), nhiên tốc độ giảm đã chậm lại.<br />
lần lượt là năm 2013 ở Mỹ và ở Hàn Quốc<br />
là 60,4% và 68,2%, ở Nhật Bản năm 2011 Số liệu ở Bảng 4 cho thấy chi tiêu Chính<br />
là 65,5%. phủ cho một sinh viên đại học theo tỷ lệ %<br />
so với GDP bình quân đầu người của các<br />
Số liệu Bảng 2 cho thấy, Anh là nước có nước trong giai doan 2012- 2015. Ở đa số<br />
tỷ lệ đóng góp của Nhà nước cho GDĐH các nước, chi tiêu công cho một sinh viên<br />
giảm mạnh, từ 64,8% năm 2006 xuống đại học so với GDP bình quân đầu người<br />
<br />
<br />
78 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />
HOÀNG THANH HUYỀN<br />
<br />
<br />
Bảng 3. Chi tiêu Chính phủ cho một sinh viên đại học của một số khu vực trên thế giới<br />
Đơn vi: % GDP<br />
Nước 1998 2000 2003 2005 2008 2010 2011<br />
Các nước OECD thu nhập cao 31,4 28,1 26,3 23,6 24 26,7 27,8<br />
Các nước thành viên OECD 32,0 28,1 27,2 24,1 24,4 28 28,4<br />
Khu vực Trung Âu và Baltics 33,5 31,9 26,1 21,8 20,0 24,1 20,6<br />
Khu vực Châu Âu và Trung Á - - 27,1 24,4 25,0 27,1 24,5<br />
Các nước đang phát triển khu<br />
- - 39,1 32,6 - - 29,6<br />
vực Mỹ Latin và Caribbean<br />
Nguồn: WB (2015)<br />
<br />
Bảng 4. Chi tiêu của chính phủ cho một sinh viên đại học theo tỷ lệ % so với GDP bình quân<br />
đầu người ở một số nước trên thế giới giai đoạn 2005- 2015<br />
Nước 2005 2010 2012 2014 2015<br />
Anh 30,4 24,5 40,43 41,41 35,49<br />
Áo 48,4 37,9 37,06 35,82 35,96<br />
Bỉ 33,7 34,8 - - 32,32<br />
Đan Mạch 54,1 54,3 41,90 43,13 -<br />
Mỹ 22,2 20,9 21,93 21,30 -<br />
Na Uy 48,8 44,3 40,54 42,40 37,32<br />
New Zealand 25,0 30,9 28,08 26,38 26,92<br />
Phần Lan 32,9 36,8 36,01 35,80 34,55<br />
Pháp 33,5 37,2 34,07 33,43 32,97<br />
Tây Ban Nha 22,3 28,0 23,85 22,99 22,94<br />
Thụy Điển 38,2 39,6 41,63 40,98 37,71<br />
Úc 21,7 21,4 19,11 21,92 21,54<br />
Ý 21,1 24,4 24,53 26,27 25,26<br />
Nhật Bản 19,0 25,4 - - 15,27<br />
Hàn Quốc 8,2 - - 26,35 25,22<br />
Malaysia - 47,0 44,26 - -<br />
Singapore - 27,4 25,16 21,27 -<br />
Thailand 25,5 17,0 18,25 18,17 -<br />
Việt Nam - 39,8 32,81 34,50 -<br />
Nguồn: Unesco (2015)<br />
<br />
giảm mạnh trong giai đoạn 2005- 2012, và đoạn 2010- 2014.<br />
giảm nhẹ ở giai đoạn tiếp theo 2012- 2015,<br />
điển hình là các nước Áo, Đan Mạch, Mỹ, Một số nước không tuân theo xu hướng<br />
Na Uy, Nhật Bản. Singapore, Malaysia chung về giảm chi tiêu Chính phủ cho một<br />
cũng có tỷ lệ chi tiêu công giảm trong giai sinh viên đại học tính theo tỷ lệ % GDP<br />
<br />
<br />
Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 79<br />
Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br />
<br />
<br />
bình quân đầu người, đó là Anh, Ý, Hàn 4. Kết luận và khuyến nghị cho Việt Nam<br />
Quốc. Đây là những nước có chi tiêu công<br />
cho một sinh viên đại học không cao, xấp Bài viết đề cập đến lợi ích của việc đầu tư<br />
xỉ 20%. Vì thế, các nước này khi tăng tỷ cho GDĐH và một vài xu hướng đầu tư<br />
lệ chi tiêu công cho GDĐH thì con số này cho GDĐH ở các nước trên thế giới. Từ<br />
cũng chỉ ngang bằng với các nước khác những phân tích ở trên, có thể thấy rằng<br />
trong khu vực. đầu tư cho GDĐH không chỉ mang lại lợi<br />
ích công cho xã hội mà còn là phương tiện<br />
Thái Lan, Việt Nam có tỷ lệ này giảm phát triển cho mỗi cá nhân người học. Đây<br />
trong giai đoạn 2010- 2012, ở Việt Nam là lí do khiến nhà nước, doanh nghiệp, các<br />
tỷ lệ này giảm từ 39,8% xuống 32,81%, tổ chức và cá nhân ngày càng có xu hướng<br />
nhưng lại tăng nhẹ trong giai đoạn tiếp đầu tư nguồn lực cho GDĐH. Xu hướng<br />
theo. ở các nước trên thế giới cho thấy, vấn đề<br />
chia sẻ chi phí đang được áp dụng khá phổ<br />
Trong khi tài trợ của Nhà nước cho một biến, dưới các hình thức như tăng tỷ lệ chi<br />
sinh viên đại học có xu hướng giảm xuống NSNN trong GDP cho GDĐH, tăng đầu tư<br />
thì chi phí đào tạo một sinh viên lại có xu của khu vực tư nhân cho GDĐH, tỷ trọng<br />
hướng tăng lên do một số nguyên nhân sau đầu tư từ NSNN cho một sinh viên đại<br />
đây: học giảm xuống, tăng thu học phí,… Mặc<br />
dù chi tiêu của Chính phủ cho GDĐH có<br />
- Chi trả tiền lương cho đội ngũ giảng xu hướng tăng lên nhưng tỷ trọng đầu tư<br />
viên, cán bộ đang tăng lên: Trong các nền cho đào tạo một sinh viên đại học của khu<br />
kinh tế dựa vào tri thức, nhu cầu về lao vực Nhà nước giảm mạnh so với khu vực<br />
động tri thức tăng lên, do vậy, tiền lương tư nhân. Tài chính cho GDĐH toàn cầu<br />
giảng viên có xu hướng tăng nhanh hơn đã và đang vận động theo xu hướng này<br />
tiền công bình quân trong xã hội. là do Chính phủ nhiều nước đã áp dụng<br />
chính sách cả Nhà nước và sinh viên cùng<br />
- Các trường đại học đang đổi mới chương chi trả chi phí đào tạo đại học. Điều này<br />
trình đào tạo và mở những ngành đào tạo dẫn tới “đầu tư” của tư nhân, người học và<br />
mới đáp ứng nhu cầu thị trường, do vậy gia đình người học ngày càng tăng lên và<br />
chi phí đào tạo tăng cao. chiếm tỷ trọng cao trong tổng đầu tư của<br />
xã hội cho GDĐH. Đồng thời, chi tiêu của<br />
- Chi phí đầu tư cho công nghệ, nhất là Chính phủ cho GDĐH như một công cụ<br />
các ngành vật lí, kỹ thuật và y khoa của để điều chỉnh, phân luồng cơ cấu, ngành<br />
các trường đại học nghiên cứu đang tăng nghề đào tạo, sử dụng chủ yếu để đầu tư<br />
nhanh. vào R&D của các cơ sở GDĐH, và tập<br />
trung vào những ngành nghề, lĩnh vực<br />
Để giải quyết với vấn đề tài chính cho các Nhà nước cần ưu tiên (Nguyễn Trường<br />
cơ sở GDĐH, nhiều Chính phủ đã áp dụng Giang, 2012), hay những lĩnh vực mà khu<br />
chính sách chia sẻ chi phí đào tạo giữa vực tư nhân không muốn hoặc không có<br />
Nhà nước và người học, đồng thời tăng động cơ tham gia đầu tư.<br />
cường các hoạt động nhằm tạo thu nhập<br />
cho nhà trường. Thực tế đặt ra vấn đề cho Việt Nam,<br />
trong bối cảnh NSNN có hạn và phải chi<br />
<br />
<br />
80 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />
HOÀNG THANH HUYỀN<br />
<br />
<br />
dùng cho nhiều lĩnh vực công ích khác, cũng hiểu hết được lợi ích của GDĐH<br />
Chính phủ cần hoàn thiện chính sách và có đủ khả năng tài chính để “đầu tư”.<br />
học phí, để tăng cường “đầu tư” của cá Chính vì vậy, Nhà nước cần cân nhắc<br />
nhân cho GDĐH và yêu cầu người học đến việc hoàn thiện chính sách hỗ trợ tài<br />
chia sẻ gánh nặng tài chính GDĐH với chính, cho sinh viên vay vốn, để đảm bảo<br />
nhà nước. NSNN dành để tập trung đầu các cá nhân có đủ điều kiện và cơ hội để<br />
tư cho phát triển nghiên cứu hoặc tài trợ đầu tư cho tương lai của mình. Thực tế ở<br />
cho các ngành nghề có lợi ích lớn cho xã Việt Nam hiện nay mới chỉ có một chương<br />
hội nhưng chưa nhận được sự quan tâm, trình tín dụng cho HSSV theo Quyết<br />
đầu tư của các cá nhân. Mặc dù những định 157/2007/QĐ-TTg dành cho các đối<br />
thay đổi quyết liệt trong cơ chế tài chính tượng có hoàn cảnh khó khăn. Trong thời<br />
GDĐH ở Việt Nam thời gian qua đã cho gian hơn 10 năm thực hiện đã đạt được<br />
thấy những thay đổi đáng kể trong chính những kết quả đáng kể, tổng doanh số tín<br />
sách học phí theo Nghị định 86/2015/ dụng cho sinh viên vay học tập gần 60.000<br />
NĐ-CP, mức học phí bình quân theo tỉ đồng với hơn 3,5 triệu HSSV được vay<br />
chương trình tối đa giai đoạn 2014- 2017 vốn cho chi phí học tập (Bộ Giáo dục và<br />
là 10.000.000 đồng/năm, cao gấp đôi mức Đào tạo, 2017). Tuy vậy, chương trình tín<br />
trần học phí năm học 2014- 2015 theo dụng trên vẫn còn một số hạn chế, mức<br />
Nghị định 49/2010/NĐ-CP. Nếu Việt vay vốn còn thấp chưa đáp ứng được nhu<br />
Nam vẫn tiếp tục duy trì mức học phí thấp cầu của SV, đối tượng được vay vốn còn<br />
thì các trường đại học không đủ để bù đắp hạn chế, thủ tục còn cứng nhắc… Chính vì<br />
chi phí đào tạo và nâng cao chất lượng. vậy, Việt Nam cần đa dạng hóa các hình<br />
Vì vậy, Nhà nước cần huy động sự đóng thức vay vốn, mở rộng đối tượng sinh<br />
góp của người học để có đủ nguồn lực tài viên được vay vốn ưu đãi, có phân loại<br />
chính cho nền GDĐH phát triển, đạt mục mức vốn vay cho từng đối tượng… Các<br />
tiêu chất lượng và cạnh tranh trong khu chương trình này được thiết kế có thể hoạt<br />
vực và thế giới. động lâu dài và bền vững nhằm đảm bảo<br />
mọi thành phần trong xã hội đều có cơ hội<br />
Bên cạnh đó, không phải cá nhân nào tiếp cận hệ thống GDĐH.■<br />
<br />
<br />
Tài liệu tham khảo<br />
1. Arthur M. Hauptman (2006), Higher Education Finance: Trends and Issues, International Handbook of Higher<br />
Education, Springer, 83-106.<br />
2. ARWU (Academic Ranking of World Universities- 2014), http://ww.shanghairanking.com/ARWU2014.html, truy<br />
cập ngày 22/6/2019.<br />
3. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị TW8 khóa XIX về đổi mới căn<br />
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, ban hành ngày 04/11/2013.4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng kết công tác HSSV<br />
tại http://moet.gov.vn/giaoducquocdan/cong-tac-hoc-sinh-sinh-vien/Pages/Default.aspx?ItemID=5256 truy cập ngày<br />
12/7/2019.<br />
4. De Boer, H., Enders, J.,& Schimank, U. (2007), On the Way towards New Public Management? The Governance<br />
of University Systems in England, the Netherlands, Austria, and Germany, New Forms of Governance in Research<br />
Organizations (pp. 137-154). Dordrecht: Springer.<br />
5. Đặng Thị Lệ Xuân (2017), Tính đầu tư của giáo dục đại học: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam,<br />
Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 238, ISSN: 1859-0012.7.<br />
6. Euro Commision, Government and higher education expenditure on R&D tại https://rio.jrc.ec.europa.eu/en/stats/<br />
public-government-and-higher-education-rd-expenditure-gdp truy cập ngày 20/7/2019.<br />
7. George Psacharopoulos, (1994), Returns to Investment in Education: A Global Update, World Development, Vol 22.<br />
<br />
<br />
<br />
Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 81<br />
Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br />
<br />
<br />
8. Joseph E. Sticglitz (1995), Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.<br />
9. Ngô Quang Hưng (2014), Nghiên cứu và phát triển trong giáo dục đại học, Tham luận tại Hội thảo Đối thoại Giáo<br />
dục Việt Nam 2014, tại https://hocthenao.vn/2014/09/22/nghien-cuu-va-phat-trien-trong-dai-hoc-ngo-quang-hung/ truy<br />
cập ngày 11/7/2019.<br />
10. Nguyễn Trường Giang (2012), Đổi mới cơ chế tài chính gắn với nâng cao chất lượng đào tạo đại học, thực hiện<br />
mục tiêu công bằng và hiệu quả, Hội thảo Đổi mới cơ chế tài chính đối với GDĐH, Hà Nội, tháng 11/2012.<br />
11. OECD (2012, 2014, 2016), Education at a Glance: OECD indicators, OECD Publishing. truy cập tại https://www.<br />
oecd.org/education/highlights.pdf<br />
12. Phạm Thị Lan Phượng (2015), Xu hướng tài trợ giáo dục đại học và vai trò của nhà nước trong dẫn dắt hệ thống,<br />
Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM, Số 11(77), pp.21-32.<br />
13. Phạm Phụ (2009), Đầu tư và Chia sẻ chi phí trong GDĐH Việt Nam tại http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Dau-<br />
tu-va-chia-se-chi-phi-trong-giao-duc-dai-hoc-post169522.gd, truy cập ngày 22/8/2018.12.<br />
14. Phùng Xuân Nhạ, Phạm Xuân Hoan (2012), Chi phí, lợi ích đầu tư cho GDĐH Việt Nam và lộ trình cải cách học<br />
phí cho nhóm ngành”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 264 tháng 10/2012, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh.<br />
15. Robert F. Bruner(2012), The ROI on One’s Own Higher Education tại http://blog.darden.virgnia.edu/<br />
brunerblog/2012/10/the-roi-on-one’s-own-higher-education, truy cập ngày 10/8/2018.<br />
16. Steve O.Michael, Mark A. Kretovics (2004), Financing higher education in a global market tại: https://www.<br />
questia.com/library/120083264/financing-higher-education-in-a-global-market, truy cập ngày 20/6/2019.<br />
17. UNESCO (2015) http://data.uis.unesco.org/index.aspx#truy cập ngày 10/10/2018.<br />
18. WB (1994), Higher Education: The Lessons of Experience, Washington, DC: the World Bank.<br />
19. WB (2008), Vietnam: Higher Education and Skills for Growth tại http://sitesources.worldbank.org/<br />
INSTEASTASIAPACIFIC/Resources/Vietnam-HEandSkillsforGrowth.pdf, truy cập ngày 25/5/2019.<br />
20. WB (2015), http://dataa.worldbank.org/indicator/SE.TER.ENRR/countries, truy cập ngày 15/6/2019.<br />
21. Varghese, N. V. (2001), The Limits to Diversification of Sources of Funding in Higher Education, Paris: UNESCO:<br />
International Institute for Educational Planning.<br />
<br />
<br />
tiếp theo trang 81<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
82 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />