intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học

Chia sẻ: ViNeptune2711 ViNeptune2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

61
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết đề cập tới lợi ích của việc đầu tư cho giáo dục đại học (GDĐH), một số xu hướng đầu tư và chia sẻ chi phí GDĐH trên thế giới. Tỷ lệ chi Ngân sách Nhà nước (NSNN) trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng lên, đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH tăng mạnh, tỷ trọng đầu tư từ NSNN cho một sinh viên đại học giảm xuống, tăng thu học phí và mở rộng cho sinh viên vay vốn… là các xu hướng thực hiện chia sẻ chi phí đang được áp dụng ở một số nước trên thế giới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học

Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br /> <br /> <br /> Hoàng Thanh Huyền<br /> Khoa Kế toán- Kiểm toán,<br /> Học viện Ngân hàng<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Bài viết đề cập tới lợi ích của việc đầu tư cho giáo dục đại học (GDĐH),<br /> một số xu hướng đầu tư và chia sẻ chi phí GDĐH trên thế giới. Tỷ lệ chi<br /> Ngân sách Nhà nước (NSNN) trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng<br /> lên, đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH tăng mạnh, tỷ trọng đầu tư từ<br /> NSNN cho một sinh viên đại học giảm xuống, tăng thu học phí và mở rộng<br /> cho sinh viên vay vốn… là các xu hướng thực hiện chia sẻ chi phí đang<br /> được áp dụng ở một số nước trên thế giới. Khuyến nghị đối với Việt Nam,<br /> cần hoàn thiện chính sách học phí để tăng cường đầu tư của cá nhân người<br /> học cho GDĐH và yêu cầu người học chia sẻ chi phí GDĐH với Nhà nước.<br /> Ngân sách Nhà nước được đầu tư chủ yếu cho hoạt động nghiên cứu và<br /> phát triển (R&D) của các cơ sở GDĐH và những lĩnh vực cần ưu tiên trong<br /> GDĐH. Cùng với việc tăng học phí, Nhà nước cần hoàn thiện chính sách<br /> tín dụng cho sinh viên.<br /> Từ khóa: đầu tư cho giáo dục đại học, chia sẻ chi phí<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Ngày nhận: 23/07/2019 Ngày nhận bản sửa: 14/08/2019 Ngày duyệt đăng: 27/08/2019<br /> <br /> <br /> <br /> Investment and cost sharing in higher education<br /> Abstract: The article addresses the benefits of investing in higher education (HE) and some trends of investment<br /> and cost sharing in higher education in the world. The increase of proportion of state budget spending<br /> on GDP, and private investment for higher education, the decrease of proportion of state investment per<br /> tertiary student, the increase in tuition and expansion for student loans… has proved positive trend in higher<br /> educationfinance in some countries around the world. Recommendation for Vietnam is that it is necessary<br /> to complete the tuition policy to increase the investment of students and their family, and ask them to share<br /> higher education cost. The State budget is mainly invested in research and development of higher education<br /> institution. Along with the increasing tuition fee policy, the State needs to improve credit policies for students.<br /> Keywords: Investment in higher education, Cost sharing.<br /> <br /> <br /> Huyen Thanh Hoang, PhD student<br /> Email: huyenht@hvnh.edu.vn<br /> Accounting & Auditing Falculty, Banking Academy of Vietnam<br /> <br /> © Học viện Ngân hàng Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> ISSN 1859 - 011X 71 Số 207- Tháng 8. 2019<br /> Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br /> <br /> <br /> 1. Giới thiệu cho quá trình giáo dục đó” (Đặng Thị<br /> Minh Hiền, 2016).<br /> Đầu tư GDĐH là một khái niệm được sử<br /> dụng trong kinh tế học, hàm ý quá trình Cùng với những lợi ích mà GDĐH đem<br /> sử dụng phối hợp các nguồn lực trong một lại cho cộng đồng và cá nhân người học,<br /> khoảng thời gian xác định nhằm đạt được các quốc gia, các doanh nghiệp, tổ chức và<br /> kết quả hoặc một tập hợp các mục tiêu xác cá nhân ngày càng sẵn sàng đầu tư nhiều<br /> định trong điều kiện kinh tế xã hội nhất nguồn lực cho GDĐH. Đồng thời, theo<br /> định (Từ Quang Phương và Phạm Văn quá trình phát triển, nhu cầu học đại học<br /> Hùng, 2013). Các nguồn lực được huy ngày càng tăng cao, vượt xa khả năng bao<br /> động vào đầu tư có thể là tài nguyên thiên cấp của ngân sách chính phủ. Vì vậy, ở đa<br /> nhiên, sức lao động, trí tuệ, vốn, công số các nước trên thế giới, chính phủ không<br /> nghệ… Các kết quả thu được của hoạt còn bao cấp cho GDĐH như trước đây<br /> động đầu tư có thể là sự gia tăng về mặt nữa, mà thay vào đó là xu hướng chia sẻ<br /> giá trị của các tài sản tài chính hay sự tăng gánh nặng tài chính với người học, thông<br /> thêm năng lực sản xuất, năng lực phục vụ qua phương thức chủ yếu là tăng học phí.<br /> sản xuất hay sự gia tăng tài sản trí tuệ hoặc Tuy nhiên, điều này đã vấp phải những<br /> năng suất lao động của nguồn nhân lực. phản đối không ít từ phía người dân, vốn<br /> Các kết quả thu được từ hoạt động đầu tư đã quen với sự bao cấp của nhà nước trong<br /> có thể là kết quả trực tiếp cho nhà đầu tư, GDĐH. Tuy vậy, GDĐH được coi là hàng<br /> được thể hiện ở lợi nhuận mà nhà đầu tư hóa cá nhân và mang tính đầu tư, đồng<br /> thu được. Kết quả này cũng có thể là gián thời nó đem lại lợi ích trong tương lai cho<br /> tiếp cho toàn bộ nền kinh tế xã hội, thể người học thông qua thu nhập tăng lên và<br /> hiện qua nâng cao mức đóng góp vào tăng tri thức tích lũy được (WB, 2008). Chính<br /> trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc vì vậy, đầu tư cho GDĐH cần được thực<br /> sống của người dân và sự phát triển của hiện đồng thời giữa các bên và tài chính<br /> từng cá nhân trong xã hội, nâng cao trình GDĐH cần được chia sẻ giữa Nhà nước<br /> độ dân trí… (Từ Quang Phương và Phạm và người học.<br /> Văn Hùng, 2013). Khi đề cập tới đầu tư<br /> cho GDĐH, tác giả Phùng Xuân Nhạ và Chia sẻ chi phí được hiểu là sự dịch<br /> Phạm Xuân Hoan (2012) cũng cho rằng: chuyển một phần gánh nặng chi phí<br /> “Giáo dục là một lĩnh vực đầu tư, đầu tư GDĐH từ chỗ “trông cậy” hoàn toàn hoặc<br /> tiền vốn kinh phí và thời gian để nâng cao gần như hoàn toàn vào chính phủ, thực<br /> trình độ, nhằm nâng cao năng suất lao chất là những người đóng thuế, sang một<br /> động”. Dưới góc độ cá nhân người học, số nguồn cung cấp tài chính khác nhờ vào<br /> thì đầu tư cho GDĐH được hiểu là “quá phụ huynh và/hoặc sinh viên, dưới dạng<br /> trình chủ thể đầu tư sử dụng các nguồn lực học phí hoặc phí sử dụng, nhằm chi trả<br /> trong một khoảng thời gian nhất định để toàn bộ các chi phí cho cơ sở vật chất và<br /> cá nhân được giáo dục nhằm đạt tới trình đội ngũ giảng dạy mà cơ sở giáo dục hay<br /> độ văn hóa, phẩm chất đạo đức, chuyên chính phủ cung cấp trước đây (Johnstone,<br /> môn nghề nghiệp cao hơn, giúp mang lại 2003). Thuật ngữ chia sẻ chi phí đã được<br /> cho chủ thể đầu tư những lợi ích trong sử dụng nhiều trong các nghiên cứu trên<br /> tương lai mà được kỳ vọng là có giá trị lớn thế giới về vấn đề tài chính cho GDĐH.<br /> hơn so với các nguồn lực được sử dụng Trong một báo cáo về giáo dục và đào tạo<br /> <br /> <br /> 72 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br /> HOÀNG THANH HUYỀN<br /> <br /> <br /> của Liên minh Châu Âu (2014), khái niệm học, nhà trường, và các lực lượng khác<br /> chia sẻ chi phí được sử dụng như thuật trong xã hội. Đối với Nhà nước, việc tăng<br /> ngữ về “sự chuyển dịch dần chi phí nhằm cường đầu tư cho GDĐH thông qua chính<br /> đảm bảo sự cân bằng giữa nguồn tài chính sách học phí thấp trở nên không có hiệu<br /> công và tài chính tư nhân” cho GDĐH. quả, mà học phí cần để người học tự “đầu<br /> Chia sẻ chi phí một mặt mô tả thực tế chi tư”. Đối với mỗi cá nhân, lợi ích của việc<br /> phí GDĐH đang được cả nhà nước và sinh đầu tư cho GDĐH thể hiện ở các khía<br /> viên chi trả, mặt khác nó cũng hàm ý về cạnh sau đây:<br /> đổi mới chính sách tài chính cho GDĐH,<br /> thay vì chính phủ bao cấp phần lớn chi Một là, đầu tư cho GDĐH được coi là<br /> phí GDĐH như trước đây, thì sinh viên khoản đầu tư cho tương lai của mỗi con<br /> sẽ phải cùng chia sẻ chi phí này với nhà người. GDĐH là một loại dịch vụ đặc thù,<br /> nước. tiêu thụ nó là quá trình tác động thẳng<br /> từ nhà cung cấp (người dạy) đến người<br /> Bài viết này đề cập tới những lợi ích của tiêu dùng (người học). Kiến thức mà nhà<br /> việc đầu tư cho GDĐH và xu hướng chia trường truyền tải, người học có thể lưu giữ<br /> sẻ chi phí GDĐH của một số nước trên và tích lũy qua năm tháng. Những kiến<br /> thế giới, từ đó rút ra một số khuyến nghị thức này sẽ là phương tiện, giúp cho người<br /> cho Việt Nam trong việc thực hiện chia học có khả năng tạo ra sức lao động, có<br /> sẻ chi phí GDĐH và đổi mới chính sách tri thức và tạo ra hiệu quả cao hơn so với<br /> tài chính GDĐH nhằm đạt được mục tiêu trường hợp không có nó (Đặng Thị Lệ<br /> “chất lượng” và “công bằng” trong GDĐH Xuân, 2017). Như vậy, có thể thấy rằng<br /> ở Việt Nam hiện nay. GDĐH chính là phương tiện nâng cao<br /> năng suất, hiệu quả của người lao động<br /> 2. Lợi ích của đầu tư cho giáo dục đại trong tương lai. Tri thức được bồi đắp<br /> học qua nhiều năm tháng thông qua quá trình<br /> tích lũy, cho phép con người phát triển<br /> Lợi ích của GDĐH rất lớn và cả nhà nước thêm năng lực cá nhân cho tới khi có thể<br /> và tư nhân đều gặt hái lợi ích từ thành sử dụng được. Sự khác biệt về khả năng<br /> quả của dịch vụ này. Theo Alexander tích lũy của bản thân người học đã tạo<br /> Griboyeov (1817), một nhà biên kịch Nga nên những giá trị riêng của giáo dục. Đặc<br /> thế kỷ XIX, cho rằng: “Con người càng biệt, trong hệ thống giáo dục quốc dân thì<br /> được giáo dục nhiều thì mức độ hữu dụng GDĐH là trình độ mà người học có thể<br /> của họ đối với đất nước của họ càng tăng tích lũy được kiến thức một cách nhanh<br /> lên”. Ở Việt Nam, Nghị quyết TW8, Khóa nhất, hiệu quả nhất và có liên hệ mật thiết<br /> XI (2013) của Ban chấp hành Trung ương với trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng<br /> Đảng đã khẳng định: “Đầu tư cho giáo như năng lực giải quyết công việc của<br /> dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên các cá nhân (Phùng Xuân Nhạ và Phạm<br /> đi trước trong các chương trình, kế hoạch Xuân Hoan, 2012). Nói một cách đầy đủ,<br /> phát triển kinh tế- xã hội”. GDĐH là sản phẩm có giá trị tích lũy và<br /> đầu tư cho GDĐH là đầu tư cho tương lai.<br /> Chính vì vậy, đầu tư cho giáo dục nói<br /> chung và GDĐH nói riêng ngày càng nhận Mặt khác, ở nhiều nước trên thế giới, giá<br /> được sự quan tâm của Nhà nước, người trị kinh tế ngày càng tăng của việc tiếp<br /> <br /> <br /> Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 73<br /> Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br /> <br /> <br /> Hình 1. Xu hướng lợi ích ròng của các cấp học<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nguồn: Đặng Thị Lệ Xuân (2017) trích từ George Psacharopoulos (1994)<br /> <br /> <br /> tục học sau trung học, được minh chứng hóa tư nhân (WB, 2008). Hàng hóa tư<br /> bằng sự chênh lệch mỗi ngày một lớn nhân có cả hai đặc tính, là tính “loại trừ”<br /> trong thu nhập bình quân của những người (excludability), và tính ganh đua (rivalry).<br /> tốt nghiệp đại học so với những người Tính loại trừ thể hiện ở khả năng ngăn<br /> không tham gia học đại học (Arthur M. cản việc sử dụng hàng hóa của ai đó hay<br /> Hauptman, 2006). Vì vậy, GDĐH đang không khi nó được cung cấp, tức là quá<br /> dần chuyển từ lĩnh vực truyền thống như trình tiêu dùng hàng hóa cá nhân này có<br /> dạy học, phục vụ hành chính công sang xu ảnh hưởng tới việc hưởng thụ hàng hóa<br /> hướng đáp ứng nhu cầu của thị trường và hay dịch vụ đó của người khác hay không,<br /> của lực lượng lao động. Trong bối cảnh thông thường thể hiện qua giá (tiền). Tính<br /> tỷ trọng nguồn lực công cho GDĐH ngày “ganh đua” được thể hiện ở chỗ quá trình<br /> càng giảm thì quan niệm về trường đại học tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của cá nhân<br /> như là một loại dịch vụ công ngày càng này có ảnh hưởng tới việc hưởng thụ hàng<br /> lấn át. hóa và dịch vụ đó của người khác hay<br /> không. Dịch vụ GDĐH có cả hai thuộc<br /> Hai là, GDĐH được coi là hàng hóa tính trên, nghĩa là chúng ta hoàn toàn có<br /> cá nhân. Trên thế giới tồn tại hai quan thể thu tiền đối với dịch vụ GDĐH một<br /> điểm khác nhau về tính chất của dịch vụ khi nó được cung cấp. Mặt khác, một<br /> GDĐH. Theo quan điểm của UNESCO sinh viên giành được một chỗ học trong<br /> (2015), GDĐH có đặc trưng của hàng hóa trường đại học thì đương nhiên loại trừ<br /> công cộng, đó là không có tính cạnh tranh và ảnh hưởng đến việc sử dụng của một<br /> và tính loại trừ. Theo đó, mọi người đều sinh viên khác. Như vậy, GDĐH có đầy<br /> có thể sử dụng hàng hóa và dịch vụ chung đủ thuộc tính của hàng hóa cá nhân, được<br /> với nhau mà không ảnh hưởng gì tới nhau thụ hưởng trực tiếp từ người tiêu dùng và<br /> và rất khó hoặc không thể thu tiền đối với có thể thu được tiền từ người sử dụng nên<br /> hàng hóa này một khi nó được cung cấp. GDĐH hoàn toàn có thể được cung cấp<br /> Tuy nhiên, theo ý nghĩa kinh tế học và bởi khu vực tư nhân. Hơn nữa, vì là hàng<br /> dựa trên diễn biến thực tế của thế giới thì hóa cá nhân nên nó có thể được cung cấp<br /> GDĐH chứa đựng nhiều yếu tố của hàng theo cơ chế thị trường trên cơ sở cung cầu<br /> <br /> <br /> 74 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br /> HOÀNG THANH HUYỀN<br /> <br /> <br /> Hình 2. Thuộc tính của một số loại hàng hóa<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nguồn: Joseph E. Sticglitz (1995)<br /> <br /> <br /> và cơ chế giá (Joseph E. Sticglitz, 1995). khi đầu tư cho GDĐH thì có mức sinh<br /> lời cao hơn nhiều (khoảng 15% đến 20%/<br /> Ba là, GDĐH là bậc học có khả năng thu năm) so với đầu tư vào nhà cửa, bất động<br /> hồi vốn đầu tư nhanh nhất. Bởi lẽ người sản (chỉ khoảng 1%) (Robert F. Bruner,<br /> học sau khi tốt nghiệp đại học có khả năng 2012). Hơn nữa, với các nước đang phát<br /> tìm việc làm với mức thu nhập cao hơn triển (trong đó có Việt Nam), lợi ích mà<br /> và dễ dàng hơn so với các cấp học khác GDĐH mang lại cho các cá nhân cao hơn<br /> (Đặng Thị Minh Hiền, 2009). Thống kê nhiều so với ở các nước phát triển, ở Hồng<br /> cho thấy, thu nhập của cá nhân dường Kông là 25,7%, ở Malaysia là 34,5%, ở<br /> như phụ thuộc chặt chẽ vào bằng cấp họ Singapore là 25,4%, ở Brazil là 28,2%<br /> có. Theo số liệu của Pew (2013), những (George Psacharopoulos, 1994).<br /> người trong khoảng 25- 32 tuổi tốt nghiệp<br /> đại học đang làm việc toàn thời gian 3. Xu hướng đầu tư và chia sẻ chi phí<br /> kiếm được nhiều tiền hơn những người giáo dục đại học trên thế giới<br /> cùng tuổi chỉ tốt nghiệp trung học khoảng<br /> 17.500USD/năm đối với cả 2 nhóm giới Tỷ lệ chi NSNN cho GDĐH trong GDP<br /> tính. Robert F. Bruner (2012) đã chỉ ra tăng lên<br /> rằng, ở Mỹ người có bằng cấp cao thì thu<br /> nhập cũng cao hơn và ít thất nghiệp hơn. Tỷ lệ % chi NSNN so với GDP tăng lên<br /> Ở nhiều quốc gia trên thế giới, học vấn là một trong những tiêu chí được dùng để<br /> còn có tác động mạnh mẽ tới khả năng tìm đo lường mức độ đầu tư của nhà nước cho<br /> việc làm, nhất là đối với phụ nữ. Chẳng giáo dục đào tạo nói chung và GDĐH nói<br /> hạn như, ở Ý tỷ lệ có việc làm đã tăng từ riêng. Giữa các quốc gia khác nhau, tỷ<br /> 34% lên đến 81% nếu được giáo dục thêm lệ này cũng rất khác nhau do những đặc<br /> từ trình độ dưới trung học phổ thông lên điểm, sức mạnh về kinh tế và tình hình<br /> đến đại học và sau đại học. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, chính trị xã hội của quốc gia đó.<br /> các con số tương ứng của phụ nữ là 22%<br /> và 71% (Michael & Kretovics, 2004). Hình 3 thể hiện tỷ lệ % chi NSNN cho<br /> GDĐH trong GDP ở một số nước công<br /> Bốn là, đầu tư cho GDĐH có thể đem lại nghiệp phát triển và khu vực Đông Nam<br /> mức sinh lời cao nhất. Một số nghiên cứu Á trong giai đoạn 2005- 2015. Như vậy có<br /> trên thế giới đã chỉ ra rằng, các cá nhân thể thấy rằng, xu hướng chung là đầu tư<br /> <br /> <br /> Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 75<br /> Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br /> <br /> <br /> Hình 3. Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho GDĐH so với GDP tại một số nước giai đoạn<br /> 2005-2015<br /> % GDP<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nguồn: Unesco (2015)<br /> <br /> của Nhà nước cho GDĐH ở đa số các nước nước này dùng để đầu tư cho tăng quy mô<br /> phát triển và đang phát triển trên thế giới đã GDĐH. Ở Việt Nam, trong những năm<br /> và đang tăng lên. Một số nước công nghiệp gần đây, tỷ lệ chi NSNN cho GDĐH có<br /> phát triển như Anh, Áo, Úc, Bỉ, Pháp, Đức, xu hướng tăng nhẹ hàng năm, cụ thể năm<br /> Tây Ban Nha, Đan Mạch, Thụy Điển có 2010 là 0,74%, năm 2012 là 0,82%, năm<br /> tỷ lệ % chi NSNN cho GDĐH trong GDP 2015 là 0,85%.<br /> tăng lên rõ nét. Ba quốc gia ở Đông Nam<br /> Á có tỷ lệ chi ngân sách tăng đáng kể là Như vậy, tài trợ công cho GDĐH ở đa số<br /> Hàn Quốc, Indonesia, và Singapore. Tại các nước trên thế giới đang có xu hướng<br /> bốn nước Bắc Âu: Đan Mạch, Phần Lan, tăng nhẹ và một phần lượng tăng thêm này<br /> Na Uy, Thụy Điển, nơi có tiềm lực kinh tế được sử dụng vào hoạt động nghiên cứu<br /> mạnh và theo mô hình Nhà nước phúc lợi, và phát triển (R&D). Trong thời đại phát<br /> chi ngân sách cho GDĐH rất cao và cao triển, R&D là hoạt động mang lại lợi ích<br /> hơn tất cả các nước (Hình 3), đạt mức xấp kinh tế nhiều hơn so với các hoạt động<br /> xỉ 2% trong giai đoạn 2010- 2015. Chỉ có khác. Theo Ngô Quang Hưng (2014), lợi<br /> Phần Lan có xu hướng cắt giảm chi tiêu tức đầu tư công vào R&D thường khá cao,<br /> ngân sách cho GDĐH từ 2,08% năm 2010 khoảng từ 30% đến 100% hoặc hơn nữa<br /> xuống còn 1,89% năm 2015, ba nước còn và nhiều trường Đại học ở Mỹ đã thành<br /> lại vẫn duy trì ổn định tỷ lệ này và có xu công vượt bậc về tài chính nhờ đầu tư vào<br /> hướng tăng lên. R&D. Không chỉ đem lại lợi ích to lớn<br /> cho các nước phát triển, R&D còn có vai<br /> Mặc dù vậy, trong giai đoạn 2005- 2015, trò quan trọng đối với các nước đang phát<br /> chi NSNN cho GDĐH ở một số nước vẫn triển (trong đó có Việt Nam) vì nó giúp<br /> có xu hướng giảm xuống, bao gồm Ai-len, các nước này tiếp thu và vận dụng tri thức<br /> Canada, Nhật Bản, Malaysia. Ở Trung hiện đại vào điều kiện của quốc gia đó.<br /> Quốc, tỷ lệ này không chuyển biến rõ<br /> nét, bên cạnh đó, phần lớn ngân sách của Do vậy, các nước ngày càng quan tâm tới<br /> <br /> <br /> 76 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br /> HOÀNG THANH HUYỀN<br /> <br /> <br /> Bảng 1. Tỷ lệ chi tiêu công cho R&D trong là một chỉ số xếp hạng quốc gia trong thời<br /> GDP tại một số nước Châu Âu đại kinh tế tri thức hiện nay. Bảng 1 thể<br /> Đơn vi: % GDP hiện tỷ lệ đầu tư công cho hoạt động R&D<br /> Nước 2002 2012 2017 trong ở một số nước trên thế giới trong<br /> Anh 0,55 0,56 0,5 thời gian qua.<br /> Áo 0,68 0,82 0,92<br /> Theo số liệu ở bảng 1, một số nước có<br /> Bỉ 0,54 0,67 0,83<br /> xu hướng đầu tư cho R&D tăng nhanh<br /> Đan Mạch 0,74 1,01 1,07 trong giai đoạn 2002-2017 là Áo, Bỉ, Đan<br /> Đức 0,75 0,92 0,93 Mạch, Đức. Các nước như Tây Ban Nha,<br /> Tây Ban Nha 0,47 0,61 0,54 Thụy Sỹ, Anh có xu hướng không rõ ràng,<br /> Thụy Sĩ 0,92 1,05 0,97 nhưng xét trong cả giai đoạn trên thì có sự<br /> tăng nhẹ. Theo số liệu từ Unesco (2015),<br /> Nguồn: European Commission (2019)<br /> những nước đứng đầu trong danh sách chi<br /> tiêu cho hoạt động R&D tập trung nhiều ở<br /> đầu tư công cho R&D và đây còn được coi các nước có nền kinh tế hàng đầu thế giới<br /> <br /> <br /> Bảng 2. Tỷ lệ đóng góp của nhà nước và tư nhân cho cơ sở GDĐH tại một số nước OECD<br /> năm 2006, 2011, 2013<br /> Đơn vi: %<br /> Nước 2006 2011 2013<br /> % nhà nước % tư nhân % nhà nước % tư nhân % nhà nước % tư nhân<br /> Anh 64,8 35,2 30,2 69,8 45,4 54,6<br /> Canada 53,4 46,6 57,4 42,6 37,2 62,8<br /> NewZealand 63 37 64,5 35,5 31,1 68,9<br /> Mỹ 34 66 34,8 65,2 39,6 60,4<br /> Úc 47,6 52,4 45,6 54,4 34,5 65,5<br /> Áo 84,5 15,5 88,9 11,1 50,9 49,1<br /> Bỉ 90,6 9,4 90,1 9,9 55,6 44,4<br /> Pháp 83,7 16,3 80,8 19,2 57 43<br /> Đức 85 15 84,7 15,3 44,5 55,5<br /> Tây Ban Nha 78,2 21,8 77,5 22,5 45,1 54,9<br /> Ý 73 27 66,5 33,5 51,1 48,9<br /> Đan Mạch 96,4 3,6 94,5 5,5 56,5 43,5<br /> Phần lan 95,5 4,5 95,9 4,1 57,5 42,5<br /> Na Uy 97 3 95,9 4,1 55,9 44,1<br /> Thụy Điển 89,1 10,9 89,5 10,5 52,4 47,6<br /> Hàn Quốc 23,1 76,9 27 73 31,8 68,2<br /> Nhật Bản 32,2 67,8 34,5 65,5 42,7 57,3<br /> Nguồn: OECD (2013) và tính toán của tác giả<br /> <br /> <br /> Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 77<br /> Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br /> <br /> <br /> như Mỹ là 476,5 tỷ USD, Trung Quốc là còn 30,2% năm 2011. Năm 2011, tỷ lệ<br /> 370,6 tỷ USD, tiếp theo là Nhật Bản với đóng góp của tư nhân cho giáo dục đạt<br /> mức chi phí là 170,5 tỷ USD, Đức có mức mức 69,8%, cao hơn rất nhiều so với các<br /> chi 109,8 tỷ USD, Hàn Quốc là 73,2 tỷ nước phương Tây khác. Tuy nhiên, theo<br /> USD. Khi tính về chia sẻ trong tổng chi De Boer, Enders và Schimank (2009), cải<br /> phí cho R&D trên toàn thế giới thì các cách GDĐH ở Anh theo hướng sử dụng cơ<br /> nước trên đạt tỷ lệ cao nhất, lần lượt là chế thị trường có vẻ đã quá đà và gây ra<br /> 26,4%, 20,6%, 9,5%, 6,1% và 4,1%. một số hệ quả bất lợi. Các trường đại học<br /> không có thành tựu nổi bật sẽ khó thu hút<br /> Đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH kinh phí dành cho nghiên cứu và trở thành<br /> tăng mạnh cơ sở chỉ chuyên về giảng dậy. Điều này<br /> đi ngược với mục tiêu xây dựng trường<br /> Đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH đại học có hoạt động đa dạng, đáp ứng<br /> có xu hướng tăng lên mạnh mẽ. Bảng 2 nhu cầu của sinh viên. Chính vì vậy, đầu<br /> cho thấy tỷ lệ đóng góp của khu vực tư tư của khu vực Nhà nước cho các cơ sở<br /> nhân cho GDĐH trong tổng nguồn thu GDĐH sau đó đã phục hồi, tăng lên 45,4%<br /> của trường tăng lên ở hầu hết các quốc gia vào năm 2013.<br /> thuộc khối OECD trong giai đoạn 2006-<br /> 2013. Nguồn tài chính của các trường đại Tỷ trọng đầu tư công cho một sinh viên<br /> học được phân chia thành đóng góp từ hai vẫn giảm nhưng tốc độ chậm lại<br /> khu vực nhà nước và tư nhân. Số liệu cũng<br /> cho thấy tỷ lệ đóng góp của khu vực nhà Số liệu của Unesco (1998) cho thấy, chi<br /> nước cho cơ sở GDĐH giảm mạnh khi so tiêu của chính phủ cho một sinh viên đại<br /> sánh với khu vực tư nhân. Điển hình là ở học (tính theo tỷ lệ %) so với tổng sản<br /> các nước như New Zealand, Pháp, Đức, phẩm quốc gia (GNP) bình quân đầu<br /> Tây Ban Nha, Ý và 4 nước Bắc Âu: Đan người trong giai đoạn 1980- 1995 đã giảm<br /> Mạch, Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển. đi một nửa ở hầu hết các nước trên thế<br /> giới (Varghese, 2001). Theo số liệu của<br /> Tuy vậy, một số quốc gia không theo xu Ngân hàng thế giới (WB, 2015), chi tiêu<br /> hướng chung, có tỷ trọng đầu tư của Nhà của Chính phủ cho một sinh viên không<br /> nước cho GDĐH tăng lên trong cả giai chỉ cho từng nước riêng rẽ mà còn được<br /> đoạn là Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản. Các tính cho một số các nhóm nước (Bảng 3).<br /> nước này đã tăng tỷ lệ đóng góp của Nhà Số liệu cho thấy xu hướng giảm tỷ trọng<br /> nước trong tổng nguồn thu của nhà trường chi tiêu công trên một sinh viên đại học<br /> lên từ 5- 10%. Tuy nhiên, trong tổng đầu vẫn tiếp tục trong giai đoạn 1998- 2010 ở<br /> tư cho GDĐH, thì đầu tư của khu vực tư các khu vực khác nhau trên thế giới, tuy<br /> nhân vẫn chiếm tỷ trọng lớn (trên 60%), nhiên tốc độ giảm đã chậm lại.<br /> lần lượt là năm 2013 ở Mỹ và ở Hàn Quốc<br /> là 60,4% và 68,2%, ở Nhật Bản năm 2011 Số liệu ở Bảng 4 cho thấy chi tiêu Chính<br /> là 65,5%. phủ cho một sinh viên đại học theo tỷ lệ %<br /> so với GDP bình quân đầu người của các<br /> Số liệu Bảng 2 cho thấy, Anh là nước có nước trong giai doan 2012- 2015. Ở đa số<br /> tỷ lệ đóng góp của Nhà nước cho GDĐH các nước, chi tiêu công cho một sinh viên<br /> giảm mạnh, từ 64,8% năm 2006 xuống đại học so với GDP bình quân đầu người<br /> <br /> <br /> 78 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br /> HOÀNG THANH HUYỀN<br /> <br /> <br /> Bảng 3. Chi tiêu Chính phủ cho một sinh viên đại học của một số khu vực trên thế giới<br /> Đơn vi: % GDP<br /> Nước 1998 2000 2003 2005 2008 2010 2011<br /> Các nước OECD thu nhập cao 31,4 28,1 26,3 23,6 24 26,7 27,8<br /> Các nước thành viên OECD 32,0 28,1 27,2 24,1 24,4 28 28,4<br /> Khu vực Trung Âu và Baltics 33,5 31,9 26,1 21,8 20,0 24,1 20,6<br /> Khu vực Châu Âu và Trung Á - - 27,1 24,4 25,0 27,1 24,5<br /> Các nước đang phát triển khu<br /> - - 39,1 32,6 - - 29,6<br /> vực Mỹ Latin và Caribbean<br /> Nguồn: WB (2015)<br /> <br /> Bảng 4. Chi tiêu của chính phủ cho một sinh viên đại học theo tỷ lệ % so với GDP bình quân<br /> đầu người ở một số nước trên thế giới giai đoạn 2005- 2015<br /> Nước 2005 2010 2012 2014 2015<br /> Anh 30,4 24,5 40,43 41,41 35,49<br /> Áo 48,4 37,9 37,06 35,82 35,96<br /> Bỉ 33,7 34,8 - - 32,32<br /> Đan Mạch 54,1 54,3 41,90 43,13 -<br /> Mỹ 22,2 20,9 21,93 21,30 -<br /> Na Uy 48,8 44,3 40,54 42,40 37,32<br /> New Zealand 25,0 30,9 28,08 26,38 26,92<br /> Phần Lan 32,9 36,8 36,01 35,80 34,55<br /> Pháp 33,5 37,2 34,07 33,43 32,97<br /> Tây Ban Nha 22,3 28,0 23,85 22,99 22,94<br /> Thụy Điển 38,2 39,6 41,63 40,98 37,71<br /> Úc 21,7 21,4 19,11 21,92 21,54<br /> Ý 21,1 24,4 24,53 26,27 25,26<br /> Nhật Bản 19,0 25,4 - - 15,27<br /> Hàn Quốc 8,2 - - 26,35 25,22<br /> Malaysia - 47,0 44,26 - -<br /> Singapore - 27,4 25,16 21,27 -<br /> Thailand 25,5 17,0 18,25 18,17 -<br /> Việt Nam - 39,8 32,81 34,50 -<br /> Nguồn: Unesco (2015)<br /> <br /> giảm mạnh trong giai đoạn 2005- 2012, và đoạn 2010- 2014.<br /> giảm nhẹ ở giai đoạn tiếp theo 2012- 2015,<br /> điển hình là các nước Áo, Đan Mạch, Mỹ, Một số nước không tuân theo xu hướng<br /> Na Uy, Nhật Bản. Singapore, Malaysia chung về giảm chi tiêu Chính phủ cho một<br /> cũng có tỷ lệ chi tiêu công giảm trong giai sinh viên đại học tính theo tỷ lệ % GDP<br /> <br /> <br /> Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 79<br /> Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br /> <br /> <br /> bình quân đầu người, đó là Anh, Ý, Hàn 4. Kết luận và khuyến nghị cho Việt Nam<br /> Quốc. Đây là những nước có chi tiêu công<br /> cho một sinh viên đại học không cao, xấp Bài viết đề cập đến lợi ích của việc đầu tư<br /> xỉ 20%. Vì thế, các nước này khi tăng tỷ cho GDĐH và một vài xu hướng đầu tư<br /> lệ chi tiêu công cho GDĐH thì con số này cho GDĐH ở các nước trên thế giới. Từ<br /> cũng chỉ ngang bằng với các nước khác những phân tích ở trên, có thể thấy rằng<br /> trong khu vực. đầu tư cho GDĐH không chỉ mang lại lợi<br /> ích công cho xã hội mà còn là phương tiện<br /> Thái Lan, Việt Nam có tỷ lệ này giảm phát triển cho mỗi cá nhân người học. Đây<br /> trong giai đoạn 2010- 2012, ở Việt Nam là lí do khiến nhà nước, doanh nghiệp, các<br /> tỷ lệ này giảm từ 39,8% xuống 32,81%, tổ chức và cá nhân ngày càng có xu hướng<br /> nhưng lại tăng nhẹ trong giai đoạn tiếp đầu tư nguồn lực cho GDĐH. Xu hướng<br /> theo. ở các nước trên thế giới cho thấy, vấn đề<br /> chia sẻ chi phí đang được áp dụng khá phổ<br /> Trong khi tài trợ của Nhà nước cho một biến, dưới các hình thức như tăng tỷ lệ chi<br /> sinh viên đại học có xu hướng giảm xuống NSNN trong GDP cho GDĐH, tăng đầu tư<br /> thì chi phí đào tạo một sinh viên lại có xu của khu vực tư nhân cho GDĐH, tỷ trọng<br /> hướng tăng lên do một số nguyên nhân sau đầu tư từ NSNN cho một sinh viên đại<br /> đây: học giảm xuống, tăng thu học phí,… Mặc<br /> dù chi tiêu của Chính phủ cho GDĐH có<br /> - Chi trả tiền lương cho đội ngũ giảng xu hướng tăng lên nhưng tỷ trọng đầu tư<br /> viên, cán bộ đang tăng lên: Trong các nền cho đào tạo một sinh viên đại học của khu<br /> kinh tế dựa vào tri thức, nhu cầu về lao vực Nhà nước giảm mạnh so với khu vực<br /> động tri thức tăng lên, do vậy, tiền lương tư nhân. Tài chính cho GDĐH toàn cầu<br /> giảng viên có xu hướng tăng nhanh hơn đã và đang vận động theo xu hướng này<br /> tiền công bình quân trong xã hội. là do Chính phủ nhiều nước đã áp dụng<br /> chính sách cả Nhà nước và sinh viên cùng<br /> - Các trường đại học đang đổi mới chương chi trả chi phí đào tạo đại học. Điều này<br /> trình đào tạo và mở những ngành đào tạo dẫn tới “đầu tư” của tư nhân, người học và<br /> mới đáp ứng nhu cầu thị trường, do vậy gia đình người học ngày càng tăng lên và<br /> chi phí đào tạo tăng cao. chiếm tỷ trọng cao trong tổng đầu tư của<br /> xã hội cho GDĐH. Đồng thời, chi tiêu của<br /> - Chi phí đầu tư cho công nghệ, nhất là Chính phủ cho GDĐH như một công cụ<br /> các ngành vật lí, kỹ thuật và y khoa của để điều chỉnh, phân luồng cơ cấu, ngành<br /> các trường đại học nghiên cứu đang tăng nghề đào tạo, sử dụng chủ yếu để đầu tư<br /> nhanh. vào R&D của các cơ sở GDĐH, và tập<br /> trung vào những ngành nghề, lĩnh vực<br /> Để giải quyết với vấn đề tài chính cho các Nhà nước cần ưu tiên (Nguyễn Trường<br /> cơ sở GDĐH, nhiều Chính phủ đã áp dụng Giang, 2012), hay những lĩnh vực mà khu<br /> chính sách chia sẻ chi phí đào tạo giữa vực tư nhân không muốn hoặc không có<br /> Nhà nước và người học, đồng thời tăng động cơ tham gia đầu tư.<br /> cường các hoạt động nhằm tạo thu nhập<br /> cho nhà trường. Thực tế đặt ra vấn đề cho Việt Nam,<br /> trong bối cảnh NSNN có hạn và phải chi<br /> <br /> <br /> 80 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br /> HOÀNG THANH HUYỀN<br /> <br /> <br /> dùng cho nhiều lĩnh vực công ích khác, cũng hiểu hết được lợi ích của GDĐH<br /> Chính phủ cần hoàn thiện chính sách và có đủ khả năng tài chính để “đầu tư”.<br /> học phí, để tăng cường “đầu tư” của cá Chính vì vậy, Nhà nước cần cân nhắc<br /> nhân cho GDĐH và yêu cầu người học đến việc hoàn thiện chính sách hỗ trợ tài<br /> chia sẻ gánh nặng tài chính GDĐH với chính, cho sinh viên vay vốn, để đảm bảo<br /> nhà nước. NSNN dành để tập trung đầu các cá nhân có đủ điều kiện và cơ hội để<br /> tư cho phát triển nghiên cứu hoặc tài trợ đầu tư cho tương lai của mình. Thực tế ở<br /> cho các ngành nghề có lợi ích lớn cho xã Việt Nam hiện nay mới chỉ có một chương<br /> hội nhưng chưa nhận được sự quan tâm, trình tín dụng cho HSSV theo Quyết<br /> đầu tư của các cá nhân. Mặc dù những định 157/2007/QĐ-TTg dành cho các đối<br /> thay đổi quyết liệt trong cơ chế tài chính tượng có hoàn cảnh khó khăn. Trong thời<br /> GDĐH ở Việt Nam thời gian qua đã cho gian hơn 10 năm thực hiện đã đạt được<br /> thấy những thay đổi đáng kể trong chính những kết quả đáng kể, tổng doanh số tín<br /> sách học phí theo Nghị định 86/2015/ dụng cho sinh viên vay học tập gần 60.000<br /> NĐ-CP, mức học phí bình quân theo tỉ đồng với hơn 3,5 triệu HSSV được vay<br /> chương trình tối đa giai đoạn 2014- 2017 vốn cho chi phí học tập (Bộ Giáo dục và<br /> là 10.000.000 đồng/năm, cao gấp đôi mức Đào tạo, 2017). Tuy vậy, chương trình tín<br /> trần học phí năm học 2014- 2015 theo dụng trên vẫn còn một số hạn chế, mức<br /> Nghị định 49/2010/NĐ-CP. Nếu Việt vay vốn còn thấp chưa đáp ứng được nhu<br /> Nam vẫn tiếp tục duy trì mức học phí thấp cầu của SV, đối tượng được vay vốn còn<br /> thì các trường đại học không đủ để bù đắp hạn chế, thủ tục còn cứng nhắc… Chính vì<br /> chi phí đào tạo và nâng cao chất lượng. vậy, Việt Nam cần đa dạng hóa các hình<br /> Vì vậy, Nhà nước cần huy động sự đóng thức vay vốn, mở rộng đối tượng sinh<br /> góp của người học để có đủ nguồn lực tài viên được vay vốn ưu đãi, có phân loại<br /> chính cho nền GDĐH phát triển, đạt mục mức vốn vay cho từng đối tượng… Các<br /> tiêu chất lượng và cạnh tranh trong khu chương trình này được thiết kế có thể hoạt<br /> vực và thế giới. động lâu dài và bền vững nhằm đảm bảo<br /> mọi thành phần trong xã hội đều có cơ hội<br /> Bên cạnh đó, không phải cá nhân nào tiếp cận hệ thống GDĐH.■<br /> <br /> <br /> Tài liệu tham khảo<br /> 1. Arthur M. Hauptman (2006), Higher Education Finance: Trends and Issues, International Handbook of Higher<br /> Education, Springer, 83-106.<br /> 2. ARWU (Academic Ranking of World Universities- 2014), http://ww.shanghairanking.com/ARWU2014.html, truy<br /> cập ngày 22/6/2019.<br /> 3. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị TW8 khóa XIX về đổi mới căn<br /> bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, ban hành ngày 04/11/2013.4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng kết công tác HSSV<br /> tại http://moet.gov.vn/giaoducquocdan/cong-tac-hoc-sinh-sinh-vien/Pages/Default.aspx?ItemID=5256 truy cập ngày<br /> 12/7/2019.<br /> 4. De Boer, H., Enders, J.,& Schimank, U. (2007), On the Way towards New Public Management? The Governance<br /> of University Systems in England, the Netherlands, Austria, and Germany, New Forms of Governance in Research<br /> Organizations (pp. 137-154). Dordrecht: Springer.<br /> 5. Đặng Thị Lệ Xuân (2017), Tính đầu tư của giáo dục đại học: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam,<br /> Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 238, ISSN: 1859-0012.7.<br /> 6. Euro Commision, Government and higher education expenditure on R&D tại https://rio.jrc.ec.europa.eu/en/stats/<br /> public-government-and-higher-education-rd-expenditure-gdp truy cập ngày 20/7/2019.<br /> 7. George Psacharopoulos, (1994), Returns to Investment in Education: A Global Update, World Development, Vol 22.<br /> <br /> <br /> <br /> Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 81<br /> Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học<br /> <br /> <br /> 8. Joseph E. Sticglitz (1995), Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.<br /> 9. Ngô Quang Hưng (2014), Nghiên cứu và phát triển trong giáo dục đại học, Tham luận tại Hội thảo Đối thoại Giáo<br /> dục Việt Nam 2014, tại https://hocthenao.vn/2014/09/22/nghien-cuu-va-phat-trien-trong-dai-hoc-ngo-quang-hung/ truy<br /> cập ngày 11/7/2019.<br /> 10. Nguyễn Trường Giang (2012), Đổi mới cơ chế tài chính gắn với nâng cao chất lượng đào tạo đại học, thực hiện<br /> mục tiêu công bằng và hiệu quả, Hội thảo Đổi mới cơ chế tài chính đối với GDĐH, Hà Nội, tháng 11/2012.<br /> 11. OECD (2012, 2014, 2016), Education at a Glance: OECD indicators, OECD Publishing. truy cập tại https://www.<br /> oecd.org/education/highlights.pdf<br /> 12. Phạm Thị Lan Phượng (2015), Xu hướng tài trợ giáo dục đại học và vai trò của nhà nước trong dẫn dắt hệ thống,<br /> Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM, Số 11(77), pp.21-32.<br /> 13. Phạm Phụ (2009), Đầu tư và Chia sẻ chi phí trong GDĐH Việt Nam tại http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Dau-<br /> tu-va-chia-se-chi-phi-trong-giao-duc-dai-hoc-post169522.gd, truy cập ngày 22/8/2018.12.<br /> 14. Phùng Xuân Nhạ, Phạm Xuân Hoan (2012), Chi phí, lợi ích đầu tư cho GDĐH Việt Nam và lộ trình cải cách học<br /> phí cho nhóm ngành”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 264 tháng 10/2012, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh.<br /> 15. Robert F. Bruner(2012), The ROI on One’s Own Higher Education tại http://blog.darden.virgnia.edu/<br /> brunerblog/2012/10/the-roi-on-one’s-own-higher-education, truy cập ngày 10/8/2018.<br /> 16. Steve O.Michael, Mark A. Kretovics (2004), Financing higher education in a global market tại: https://www.<br /> questia.com/library/120083264/financing-higher-education-in-a-global-market, truy cập ngày 20/6/2019.<br /> 17. UNESCO (2015) http://data.uis.unesco.org/index.aspx#truy cập ngày 10/10/2018.<br /> 18. WB (1994), Higher Education: The Lessons of Experience, Washington, DC: the World Bank.<br /> 19. WB (2008), Vietnam: Higher Education and Skills for Growth tại http://sitesources.worldbank.org/<br /> INSTEASTASIAPACIFIC/Resources/Vietnam-HEandSkillsforGrowth.pdf, truy cập ngày 25/5/2019.<br /> 20. WB (2015), http://dataa.worldbank.org/indicator/SE.TER.ENRR/countries, truy cập ngày 15/6/2019.<br /> 21. Varghese, N. V. (2001), The Limits to Diversification of Sources of Funding in Higher Education, Paris: UNESCO:<br /> International Institute for Educational Planning.<br /> <br /> <br /> tiếp theo trang 81<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 82 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2