intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề án: Giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp ở Việt Nam

Chia sẻ: Hanh Duong | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:76

693
lượt xem
178
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề án: Giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp ở Việt Nam tập trung vào việc tìm hiểu những lý luận cơ bản về chuỗi cung ứng sản phẩm; thực trạng về chuỗi cung ứng gạo ở nước ta hiện nay; giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng gạo xuất khẩu ở nước ta hiện nay. Đây là tài liệu hữu ích với các bạn chuyên ngành Quản trị kinh doanh và những ngành có liên quan.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề án: Giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp ở Việt Nam

  1. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỀ ÁN MÔN HỌC ĐỀ TÀI: “ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ  CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP Ở  VIỆT NAM”. GVHD                      : GS.TS Đặng Đình Đào Sinh viên thực hiện : Ngô Thị Thuỳ Liên. Mã sinh viên            : CQ532085 Lớp                           : QTKD thương mại 53B 1 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  2. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG  2 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  3. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào DANH MỤC VIẾT TẮT SCM  : Supply Chain Management RFID :  Radio Frequency Identification (Nhận dạng tần số  sóng vô  tuyến) GĐLH : Gặt đập liên hợp. ĐBSCL : đồng bằng sông Cửu Long. NNPTNT : nông nghiệp phát triển nông thôn 3 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  4. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lý do và ý nghĩa nghiên cứu đề tài.    Năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương   mại thế  giới WTO.Điều này mở  ra cơ  hội mới cho nền kinh tế Việt Nam  nói chung cũng như  các doanh nghiệp nói riêng.Việc gia nhập WTO vừa   tạo cơ hội cũng như thách thức đối với các doanh nghiệp ở nước ta. Đó là   sự  cạnh tranh vô cùng khốc liệt trong thị trường rộng lớn đó, để  không bị  thất bại và có cơ hội vươn ra thị trường thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp   phải không ngừng hoàn thiện, cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh,   nâng   cao   sức   cạnh   tranh   của   doanh   nghiệp.Trước   đây   hàng   hoá   không  ngừng   được   sản   xuất   ra   nhưng   chỉ   sản   xuất   những   thứ   doanh   nghiệp   có,việc sản xuất đúng nơi, đúng lúc, đúng nhu cầu không được quan tâm.   Bởi vậy gây ra chi phí sản xuất cao, cung lớn hơn cầu, giá trị  sản phẩm   không cao, không thoả  mãn tối đa nhu cầu của khách hàng…làm cho hiệu  quả kinh doanh thấp. Việc ra đời của logistic và hình thành chuỗi cung ứng sản phẩm đã giúp cho  các doanh nghiệp sử  dụng nguồn lực một cách tối  ưu. Chính nhờ  hoạt  động hậu cần mà giá trị sản phẩm được tăng lên, đồng thời nhờ sự kết hợp  chặt chẽ từ khâu nguyên liệu đầu vào tới khâu tiêu thụ sản phẩm đẩu ra đã   giảm thiểu chi phí sản xuất kinh doanh tạo lợi thế  cạnh tranh.Việc các  doanh nghiệp xây dựng cho mình một chuỗi cung  ứng hoàn chỉnh sẽ  tạo  nền tảng cho doanh nghiệp tiết kiệm chi phí không cần thiết, nâng cao giá  trị cho sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. 4 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  5. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào       Về   ngành nông nghiệp  ở  nước ta, trong các sản phẩm của ngành   nông nghiệp thì lúa gạo là ngành sản xuất truyền thống của ta, xuất khẩu   gạo chiếm vị trí quan trọng trong nền Kinh tế quốc dân, là nguồn thu ngoại   tệ  quan trọng của đất nước vì kim ngạch xuất khẩu gạo hiện đang đứng   đầu trong kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản. Sản phẩm gạo của nước ta   do hàng triệu hộ  nông dân sản xuất ra, là một mặt hàng có vị  trí hết sức   quan trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Từ  chỗ  là nước nhập  khẩu gạo, Việt Nam đã vươn lên sản xuất đủ ăn, có thừa để xuất khẩu. Từ  đầu thập niên 1990s đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong ba quốc gia  xuất khẩu gạo hàng đầu thế  giới. Song, vị  thế  cạnh tranh của gạo Việt   Nam trên thị trường thế giới vẫn thường xuyên đứng sau Thái Lan với một  khoảng cách khá xa. Mặt khác, gạo cũng là một trong 10 mặt hàng có giá trị  kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, nhưng xét về hiệu quả đóng  góp của ngành hàng này cho nền kinh tế thì vẫn còn nhiều hạn chế. Cùng   với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật; nhu cầu tiêu dùng của thị trường thế  giới và thị  trường trong nước đòi hỏi ngày càng cao hơn về  chất lượng,   tiện lợi trong tiêu dùng; sự cạnh tranh ngày càng gay gắt .Việt Nam là nước  nông nghiệp truyền thống­ đây là thế  mạnh, nhưng cũng là điểm yếu nếu  ta tưởng rằng đã biết quá rõ về  nông nghiệp và không thấy cần phải thay  đổi.Cách cung ứng là cách truyền thống. Việt Nam là nước nông nghiệp, có  hàng nghìn năm phát triển nông nghiệp đã tạo cho chúng ta nhiều “lối mòn”  trong tư duy sản xuất – cung  ứng – tiêu thụ  sản phẩm. Chính điều này vô  hình trung đang gây thiệt thòi cho cả  nông dân và người tiêu dùng. Xét về  vấn đề hình thành chuỗi cung ứng trên thế giới, với một số nước tiên tiến,  do mở rộng theo chiều dọc của chuỗi giá trị nên các đại gia bán lẻ, siêu thị  ngày càng tiến tới gần hơn, tiếp cận được nhiều hơn với việc sản xuất ­   chế biến nông sản. Họ từ người bán lẻ trở thành nhà sản xuất toàn cầu, tự  mình đặt hàng, mua hàng và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong toàn bộ  chuỗi cung ứng. Các nhà bán lẻ, siêu thị trở thành các “người giữ cửa”, định  đoạt việc tham gia vào các thị trường khu vực và thế  giới. Họ  thường làm  việc trực tiếp với nông dân, nhà sản xuất nhỏ và chỉ sử dụng một số rất ít  nhà cung ứng cấp một quen thuộc, đáp ứng được các tiêu chuẩn cao và rất  5 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  6. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào chuyên biệt của họ. Họ  luôn nâng cao khả  năng kiểm soát đối với sản   phẩm (ví dụ  chất lượng), đối với thông tin (ví dụ  khả  năng theo dõi sản   phẩm trong suốt chuỗi cung  ứng). Qua đó, họ  áp dụng các mô hình trong  công nghiệp hiện đại vào nông nghiệp như  hệ  thống sản xuất theo thời   gian thực và hệ  thống quản lý chất lượng tổng thể. Tính cạnh tranh thấp,  sự đổ vỡ của chuỗi cung ứng nông sản Việt, thua lỗ của công ty chế  biến  nông sản và nông dân, sự chiếm lĩnh thị trường của các đại gia bán lẻ, siêu  thị  ngoại  ở  Việt Nam, nông dân bán nông sản cho thương lái nước ngoài  mà không cho nhà chế  biến Việt Nam… không còn là viễn cảnh, mà nó   hiển hiện ngay trước mắt chúng ta. Điều này cho thấy đây không phải lỗi  của nhà sản xuất riêng lẻ, người nông dân mà chủ yếu là lỗi mang tính hệ  thống, của quản lý, của nhà hoạch định. Tuy nhiên, khi thực sự  mở  cửa thị trường bán lẻ, khi hàng loạt các đại  gia bán lẻ, siêu thị nước ngoài “nhảy vào”, nếu không có chính sách quản lý   tốt, chuỗi cung ứng nông sản cũng khó mà hoạt động một cách minh bạch,  công khai. Và khi đó, nông sản khó mà đến tay người dùng với giá tiệm cận  giá thành sản xuất. Vấn đề  đặt ra là, có phải những bất cập trong cơ  chế  quản lý đã làm   cho ngành lúa gạo Việt Nam chưa thực sự phát triển hướng vào xuất khẩu  một cách đúng nghĩa? Dưới đây, chúng ta sẽ  cùng điểm lại tình hình sản   xuất, chế  biến, xuất khẩu gạo để  có thể  nhận diện rõ những hạn chế  đó  và tìm ra những điểm cần hoàn thiện, bổ sung để nâng cao tính cạnh tranh   của mặt hàng này trên thị trường thế giới trong tương lai trên căn bản tham  gia tích cực hơn vào chuỗi cung ứng gạo toàn cầu. 2.Kết cấu của đề tài  Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liêu tham khảo, phụ lục đề án   được trình bày thành 3 chương:    Chương I: Những lý luận cơ bản về chuỗi cung ứng sản phẩm.    Chương II: Thực trạng về chuỗi cung ứng gạo ở nước ta hiện nay. 6 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  7. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào    Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng gạo xuất khẩu   ở nước ta hiện nay. 7 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  8. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào CHƯƠNG I NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM I.Khái quát về chuỗi cung ứng sản phẩm 1.Bản chất chuỗi cung ứng sản phẩm. 1.1.Khái niệm chuỗi cung ứng sản phẩm.    Cạnh tranh một cách thành công trong bất kỳ  môi trường kinh doanh  nào hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải tham gia vào công việc kinh  doanh của nhà cung cấp cũng như khách hàng của nó. Điều này yêu cầu các   doanh nghiệp khi đáp ứng sản phẩm hoặc dịch vụ cho khách hàng cần phải  quan tâm sâu sắc hơn đến dòng dịch chuyển nguyên vật liệu, cách thức  thiết kế và đóng gói sản phẩm và dịch vụ của nhà cung cấp, cách thức vận   chuyển và bảo quản sản phẩm hoàn thành và những điều mà người tiêu  dùng hoặc khách hàng cuối cùng thực sự  yêu cầu (ví dụ  như  có nhiều  doanh nghiệp có thể  không biết sản phẩm của họ  được sử  dụng như  thế  nào trọng việc tạo ra sản phẩm cuối cùng mà khách hàng sử  dụng). Hơn  nữa, trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt  ở  thị  trường toàn cầu hiện nay,   việc giới thiệu sản phẩm mới với chu kỳ sống ngày càng ngắn hơn, cùng  với mức độ  kỳ  vọng ngày càng cao của khách hàng đã thúc đẩy các doanh   nghiệp phải đầu tư, và tập trung nhiều vào chuỗi cung  ứng của nó. Điều   này, cùng với những tiến bộ liên tục trong công nghệ  truyền thông và vận  tải (ví dụ, truyền thông di động, Internet và phân phối hàng qua đêm), đã  thúc đẩy sự phát triển không ngừng của chuỗi cung ứng và những kỹ thuật   để quản lý nó. Trong một chuỗi cung  ứng điển hình, nguyên vật liệu được mua ở một  hoặc nhiều nhà cung cấp; các bộ phận được sản xuất ở một nhà máy hoặc   nhiều hơn, sau đó được vận chuyển đến nhà kho để  lưu trữ   ở  giai đoạn  trung gian và cuối cùng đến nhà bán lẻ  và khách hàng. Vì vậy, để  giảm  thiểu chi phí và cải tiến mức 8 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  9. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào phục vụ, các chiến lược chuỗi cung ứng hiệu quả phải xem xét đến sự  tương tác  ở  các cấp độ  khác nhau trong chuỗi cung  ứng. Chuỗi cung  ứng,   cũng được xem như  mạng lưới hậu cần, bao gồm các nhà cung cấp, các   trung tâm sản xuất, nhà kho, các trung tâm phân phối, và các cửa hàng bán  lẻ, cũng như nguyên vật liệu, tồn kho trong quá trình sản xuất và sản phẩm   hoàn thành dịch chuyển giữa các cơ sở.Vậy chuỗi cung ứng là gì?     "Chuỗi cung ứng là một chuỗi hay một tiến trình bắt đầu từ nguyên liệu  thô cho tới khi sản phẩm làm ra hay dịch vụ  tới tay người tiêu dùng cuối  cùng. Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn về phân phối và các  phương tiện để  thực hiện thu mua nguyên liệu, biến đổi các nguyên liệu  này qua khâu trung gian để sản xuất ra sản phẩm, phân phối sản phẩm này   tới   tay   người   tiêu   dùng"   (Introduction   to   supply   Chain   Management­ Ganeshan&Harrison).    "Chuỗi cung ứng là hệ thống các công cụ để chuyển hoá nguyên liệu thô  từ  bán thành phẩm tới thành phẩm, chuyển tới người tiêu dùng thông qua  hệ  thống phân phối" (The evolution of Supply Chain Management Model   and Practice­Lee& Billington).     "Chuỗi cung cấp là một mạng lưới gồm các tổ chức có liên quan, thông  qua các mối liên kết phía trên và phía dưới trong các quá trình và hoạt động  khác nhau sản sinh ra giá trị  dưới hình thức sản phẩm dịch vụ  trong tay   người tiêu dùng cuối cùng" (bài giảng của GS.Souviron về  quản trị chuỗi   cung cấp).    "Chuỗi cung  ứng bao gồm tất cả  các doanh nghiệp tham gia, một cách  trực tiếp hay gián tiếp, trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung  ứng không chỉ bao gồm nhà sản xuất và nhà cung cấp, mà còn công ty vận   tải, nhà kho, nhà bán lẻ  và khách hàng của nó. Những chức năng này bao   gồm, nhưng không bị  hạn chế, phát triển sản phẩm mới, marketing, sản   xuất, phân phối, tài chính và dịch vụ khách hàng".   Trong một chuỗi cung ứng điển hình, nguyên vật liệu được mua ở một   hoặc nhiều nhà cung cấp; các bộ phận được sản xuất ở một nhà máy hoặc   9 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  10. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào nhiều hơn, sau đó được vận chuyển đến nhà kho để  lưu trữ   ở  giai đoạn  trung gian và cuối cùng đến nhà bán lẻ  và khách hàng. Vì vậy, để  giảm  thiểu chi phí và cải tiến mức phục vụ, các chiến lược chuỗi   cung  ứng  hiệu quả  phải xem xét đến sự  tương tác  ở  các cấp độ  khác nhau trong  chuỗi cung  ứng. Chuỗi cung  ứng cũng được xem như mạng lưới hậu cần,   bao gồm các nhà cung cấp, các trung tâm sản xuất, nhà kho, các trung tâm   phân phối và các cửa hàng bán lẻ  cũng như  nguyên vật liệu, tồn kho trong   quá trình sản xuất và sản phẩm hoàn thành dịch chuyển giữa các cơ sở.  Cùng với sự  phát triển của sản xuất, của công nghệ  thông tin, thì dây   chuyền cung  ứng này càng phức tạp, vai trò của công nghệ  thông tin trong   quản trị dây chuyền cung ứng ngày càng lớn. Tất cả các sản phẩm đến tay   người tiêu dùng thông qua một vài hình thức của chuỗi cung ứng, có một số  thì lớn hơn và một số thì phức tạp hơn rất nhiều. Với ý tưởng chuỗi cung   ứng này, ta dễ dàng nhận thấy rằng chỉ có một nguồn tạo ra lợi nhuận duy   nhất cho toàn chuỗi đó là khách hàng cuối cùng. Khi các doanh nghiệp riêng   lẻ  trong chuỗi cung  ứng ra các quyết định kinh doanh mà không quan tâm  đến các thành viên khác trong chuỗi, điều này sẽ dẫn đến giá bán cho khách   hàng cuối cùng là rất cao, mức phục vụ  chuỗi cung  ứng thấp và điều này  làm cho nhu cầu khách hàng tiêu dùng cuối cùng trở nên thấp. Về mặt lý thuyết, chuỗi cung ứng hoạt động như một đơn vị cạnh tranh   riêng biệt và cố hữu, thực hiện những việc mà nhiều doanh nghiệp lớn, các  doanh nghiệp hội nhập dọc cố  gắng đạt được và đã thất bại trong việc   thực hiện mục tiêu này. Điểm khác biệt chính là các doanh nghiệp trong   chuỗi cung  ứng hoàn toàn tự  do trong việc quyết định thâm nhập hoặc rời   khỏi mối quan hệ chuỗi nếu quan hệ này không đem lại lợi ích cho họ; đó  chính là tổ  chức thị  trường tự  do nhằm giúp đỡ  chuỗi cung  ứng vận hành  một cách hiệu quả hơn khối liên kết dọc. 1.2.Quản trị chuỗi cung ứng sản phẩm. Có   rất   nhiều   định   nghĩa   về   quản   trị   chuỗi   cung   ứng   (Supply   Chain   Management­SCM) 10 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  11. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào Theo Viện quản trị cung ứng mô tả quản trịchuỗi cung ứng là việc thiết   kế  và quản lý các tiến trình xuyên suốt, tạo giá trịcho các tổchức để  đáp   ứng nhu cầu thực sựcủa khách hàng cuối cùng. Sựphát triển và tích hợp   nguồn lực con người và công nghệ  là then chốt cho việc tích hợp chuỗi   cung ứng thành công. Theo Hội đồng chuỗi cung ứng thì quản trị chuỗi cung ứng là việc quản   lý cung và cầu, xác định nguồn nguyên vật liệu và chi tiết, sản xuất và lắp   ráp, kiểm tra kho hàng và tồn kho, tiếp nhận đơn hàng và quản lý đơn   hàng, phân phối qua các kênh và phân phối đến khách hàng cuối cùng. Theo hội đồng quản trị hậu cần, một tổ chức phi lợi nhuận thì quản trị  chuỗi cung  ứng là“…sự  phối hợp chiến lược và hệ  thống các chức năng   kinh doanh truyền thống và các sách lược xuyên suốt các chức năng này   trong một công ty cụthểvà giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng với   mục đích cải thiện thành tích dài hạn của các công ty đơn lẻ  và của cả   chuỗi cung ứng”. Theo TS. Hau Lee và đồng tác giả Corey Billington trong bài báo nghiên   cứu thì quản trịchuỗi cung ứng như là việc tích hợp các hoạt động xảy ra ở   các cơ sở của mạng lưới nhằm tạo ra nguyên vật liệu, dịch chuyển chúng   vào sản phẩm trung gian và sau đó đến sản phẩm hoàn thành cuối cùng, và   phân phối sản phẩm đến khách hàng thông qua hệ thống phân phối. Quản trị  chuỗi cung  ứng là tập hợp những phương thức sử  dụng một   cách tích hợp và hiệu quả nhà cung cấp, người sản xuất, hệ thống kho bãi  và các cửa hàng nhằm phân phối hàng hóa được sản xuất đến đúng địa  điểm, đúng lúc với đúng yêu cầu về  chất lượng, với mục đích giảm thiểu  chi phí toàn hệ  thống trong khi vẫn thỏa mãn những yêu cầu về  mức độ  phục vụ. Tính nhất quán thể  hiện trong các định nghĩa này đó chính là ý  tưởng của sự phối hợp và hợp nhất số  lượng lớn các hoạt động liên quan  đến sản phẩm trong số các thành viên của chuỗi cung cấp nhằm cải thiện   năng suất hoạt động, chất lượng, và dịch vụ khách hàng nhằm đạt được lợi   thế cạnh tranh bền vững cho tất cả các tổ chức liên quan đến việc cộng tác   này. Vì thế, để quản trị thành công chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp phải   11 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  12. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào làm việc với nhau bằng cách chia sẻ  thông  những thay đổi về  công suất;  các chiến lược marketing mới; sự phát triển mới sản phẩm và dịch vụ; sự  phát triển công nghệ mới; các kế hoạch thu mua; ngày giao hàng và bất kỳ  điều gì tác động đến các kế hoạch phân phối, sản xuất và thu mua. Ví dụ,  khi một nguyên liệu hoặc sản phẩm cụ  thể  có giá tăng trong cung ngắn   hạn thì một doanh nghiệp có thể nhận thấy sẽ có lợi nếu chọn lựa trong số  nhà cung ứng một doanh nghiệp thích hợp nhằm đảm bảo nguồn cung liên  tục chi tiết khan hiếm này. Việc cân nhắc này có thể có lợi cho cả đôi bên ­  thị trường mới cho nhà cung cấp, điều này dẫn đến cơ hội kinh doanh sản   phẩm mới trong tương lai; và việc cung ứng tiếp tục trong dài hạn với mức   giá ổn định cho người mua. Sau đó, khi đối thủ cạnh tranh mới bắt đầu sản   xuất sảm phẩm khan hiếm hoặc khi nhu cầu sụt giảm, nhà cung cấp có thể  không được các hãng mua đánh giá cao; thay vào đó, doanh nghiệp có thể  nhận thấy sẽ có lợi hơn trong việc thương lượng với người mua tiềm năng  khác và sau đó chấm dứt   với người mua ban đầu. Thông qua ví dụ  này,   chúng ta có thể nhận thấy rằng chuỗi cung cấp và động và linh hoạt và vì  thế nảy sinh nhiều vấn đề trong việc quản lý chúng một cách hiệu quả. Trong khi quản trị  chuỗi cung cấp có thể  cho phép các tổ  chức nhận  thức rõ thuận lợi của việc tích hợp dọc trên cơ  sở  những điều kiện chính  yếu cho việc quản trị hiệu quả việc này. Có lẽ một yếu tố quan trọng nhất   đó chính là sự  thay đổi về  văn hóa tổ  chức của tất cả  thành viên tham gia  trong chuỗi cung  ứng làm cho họ  có lợi hơn và quản lý hiệu quả  quản trị  chuỗi cung ứng. Với các công ty có văn hóa tổ chức theo kiểu truyền thống,   quan tâm đến lợi ích ngắn hạn vì thế hành động theo định hướng thành tích   theo nhiều cách có thể tạo ra xung đột với mục tiêu của việc quản trị chuỗi   cung  ứng. Quản trị  chuỗi cung  ứng nhấn mạnh đến việc định vị  các tổ  chức theo cách thức giúp cho tất cả  các thành viên trong chuỗi đều được   lợi. Vì thế, quản trị chuỗi cung ứng một cách hiệu quả lệ thuộc rất lớn vào  mức độ tin tưởng, sự hợp tác, sự cộng tác và thông tin một cách trung thực   và chính xác. 12 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  13. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào Các nhà quản trị phụ trách thu mua, sản xuất, hậu cần và vận tải không   chỉ  phải được trang bị  những kiến thức cần thiết về các chúc năng chuỗi   cung ứng quan trọng mà còn phải đánh giá và am hiểu mức độ tương tác và  ảnh   hưởng   của   các   chức   năng   này   đến   toàn   chuỗi   cung   ứng.   Rebecca  Morgan, chủ  tịch của Fulcrum Consulting Works, một công ty tư  vấn về  quản trị chuỗi cung  ứng có trụ  sở  ở  bang Ohio, phát biểu rằng: "rất nhiều  công ty đi đến các thỏa thuận mà họ gọi là sự cộng tác, sau đó cố gắn kiểm   soát mối quan hệ này từ đầu đến cuối. Nhiều công ty sản xuất xe hơi thực  hiện điều này  ở giai đoạn bắt đầu”, bà ta nói. “Họ  đưa ra nguyên tắc đơn   phương: anh sẽ  thực hiện điều này cho tôi nếu anh muốn làm ăn với tôi,   không cần biết nó có ý nghĩa gì với anh hay không”.    Ranh giới của các chuỗi cung  ứng tích hợp cũng rất linh động. Mọi  người thường nói rằng ranh giới chuỗi cung  ứng kéo dài từ  “nhà cung cấp   cho nhà cung cấp của doanh nghiệp đến khách hàng của khách hàng của   họ”; ngày nay, hầu hết những nỗ lực phối hợp quản trị chuỗi cung ứng của   doanh nghiệp không vượt ra giới hạn này. Thực ra, trong nhiều trường hợp,   các doanh nghiệp nhận thấy rằng thực sự khó khăn để gia tăng nỗ lực phối  hợp ngoài những khách hàng và nhà cung cấp trực tiếp quan trọng nhất của  doanh nghiệp (thực ra trong một nghiên cứu khảo sát các doanh nghiệp thì  rất nhiều đại diện của doanh nghiệp phát biểu rằng đa số các nỗ lực trong   chuỗi cung  ứng chỉ   đối với khách hàng và nhà cung cấp bên trong của   doanh nghiệp mà thôi). Tuy nhiên, theo thời gian và những kết quả  thành   công bước đầu, nhiều doanh nghiệp đang mở  rộng ranh giới chuỗi   cung  ứng của nó. 2.Vai trò của chuỗi cung ứng sản phẩm.    Trong doanh nghiệp, chuỗi cung ứng giữ một vai trò quan trọng. Quản   lý chuỗi cung  ứng (SCM) gắn liền với hầu như tất cả các hoạt động của   các doanh nghiệp sản xuất,từ  việc hoạch  định và quản lý quá trình tìm  nguồn hàng, thu mua, sản xuất thành phẩm,…đến việc phối hợp với các  đối tác, nhà cung  ứng,các kênh trung gian, nhà cung cấp dịch vụ  cho đến   khách hàng. 13 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  14. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào ­ SCM giải quyết cả đầu ra lẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách có  hiệu quả nhờ vào thay đổi các nguồn nguyên vật liêu đầu vào hoặc tối ưu  hoá quá trình luân chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ  (có thể  tiết  kiệm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp). Có không ít doanh nghiệp đã gặt hái thành công lớn nhờ soạn thảo chiến   lược và giải pháp SCM thích hợp, ngược lại có nhiều doanh nghiệp gặp  khó khăn thất bại do đưa ra quyết định sai lầm như  chọn sai nguồn cung   cấp nguyên vật liệu, chọn sai vị  trí kho bãi, tính toán lượng dự  trữ  không   phù hợp, tổ chức vận chuyển chồng chéo. ­ SCM hỗ  trợ  đắc lực cho hoạt động tiếp thị  đặc biệt là tiếp thị  hỗn  hợp. SCM đóng vai trò then chốt trong việc đưa sản phâmt đến đúng nơi cần  đến và vào đúng thời điểm thích hợp. Mục tiêu lớn nhất của SCM là cung  cấp sản phẩm,dịch vụ cho khách hàng với tổng chi phí nhỏ nhất. ­Từng bước nâng cao hiệu quả  hoạt động sản xuất của công ty và tạo  điều kiện cho chiến lược thương mại điện tử phát triển. ­Điều phối khả  năng sản xuất có giới hạn và thực hiện lên kế  hoạch   sản xuất nhằm làm cho kế hoạch sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. ­Cung cấp khả năng trực quan hoá đối với các dữ liệu liên quan đến sản  xuất và khép kín dây chuyền cung cấp tạo điều kiện cho việc tối  ưu hoá  sản xuất đúng lúc bằng các hệ thống sắp xếp và lập kế hoạch. ­Phân tích dữ liệu thu thập được và lưu trữ hỗ sơ với chi phí thấp nhất.  Hoạt động này nhằm phục vụ  cho những mục đích liên quan đến hoạt  động sản xuất (dữ  liệu thông tin về  sản phẩm, dữ  liệu về  nhu cầu thị  trường...) để đáp ứng đòi hỏi của khách hàng. II.Nội dung của chuỗi cung ứng sản phẩm 1.Nội dung của chuỗi cung ứng sản phẩm 1.1.Cấu trúc và cac thanh viên cua chu ́ ̀ ̉ ỗi cung ứng 14 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  15. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào * Cấu trúc chuỗi cung ứng Một dây chuyền chuỗi cung ứng sản xuất bao gồm tối thiểu ba yếu tố:   nhà cung cấp, bản thân đơn vị sản xuất và khách hàng. ­Nhà cung cấp là các công ty bán sản phẩm dịch vụ là nguyên liệu đầu  vào cần thiết cho quá trình sản xuất, kinh doanh.Thông thường nhà cung  cấp được hiểu là đơn vị  cung cấp nguyên liệu trực tiếp như  vật liệu thô,  các ch tiêt của sản phẩm, bán thành phẩm.Các công ty cung cấp dịch vụ cho   sản xuất, kinh doanh được gọi là nhà cung cấp dịch vụ. ­Đơn vị sản xuất là nơi sửdụng nguyên liệu, dịch vụ đầu vào và áp dụng  các quá trình sản  xuất để  tạo ra sản phẩm cuối cùng. Các nghiệp vụ  về  quản lý sản xuất được sử dụng tối đa ở đây nhằm tăng hiệu quả, nâng cao   chất lượng sản phẩm tạo nên sự thông suốt của dây chuyền cung ứng; ­Khách hàng là người sử dụng sản phẩm của đơn vị sản xuất. Như  vậy, chuỗi cung  ứng là một tổng thể  giữa nhiều nhà cung ứng và  khách hàng được kết nối với nhau; trong đó mỗi khách hàng đến lượt mình  lại là  nhà cung ứng cho tổ chức tiếp theo cho đến khi thành phẩm tới được   tay người tiêu dùng. Nói một cách khác có thể xem chuỗi cung  ứng là một   mạng lưới bao gồm những đơn vị, công đoạn có liên quan với nhau trong   việc khai thác tài nguyên nhằm sản xuất ra sản phẩm phục vụ cho người   tiêu dùng kể cả công đoạn trung gian như vận tải, kho bãi, bán buôn, bán lẻ  và bản thân khách hàng. Bản thân mỗi doanh nghiệp cũng là một chuỗi  cung  ứng thu nhỏ  bao gồm các bộ  phận sản xuất, các bộ  phận có chức  năng liên quan đến thoả  mãn nhu cầu khách hàng như  tài chính,công nghệ  thông tin, phát triển sản phẩm mới, tiếp thị, bán hàng, phân phối, dịch vụ  khách hàng.     Ba dòng luân chuyển được xem xét trong bất kì chuỗi cung ứng nào: ­Dòng vật liệu là dòng dịch chuyển từ  nhà cung cấp đến nhà bán lẻ  trong   đó   nguyên   vật   liệu   được   chuyển   đổi   thành   sản   phẩm   và   sau   đó  chuyển đến khách hàng. 15 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  16. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào ­Dòng thông tin bao gồm dữ  liệu được lưu trữ  và truy xuất mỗi khi   trạng thái hệ thống thay đổi. ­Dòng tiền bao  gồm chi phí sản xuất, chi phí tồn kho,.... *Các hoạt động của chuỗi cung ứng Hoạt động của chuỗi cung ứng là một vòng quay gồm 5 giai đoạn: ­Lập kế hoạch Trong hoạt động của chuỗi cung  ứng, lập kế hoạch là khâu quan trọng   nhất bao trùm lên các hoạt động khác.Việc lập kế hoạch  ở đâu được thực   hiện  ở  hai cấp độ: một là kế  hoạch tổng thể  cho toàn chuỗi mang tính   trung hạn và dài hạn, mặt khác kế hoạch cũng phải được thực hiện ở từng   khâu của chuỗi. Sau khi lập kế hoạch, thông tin sẽ được truyền đến tất cả  các khâu trong chuỗi  nhờ   đó mọi hoạt  động trong chuỗi  được  tổ  chức   thống nhất và có tính hệ thống. Ví dụ: kế hoạch tìm nguồn hàng, kế hoạch   sản xuất nhằm đưa ra lượng nguyên vật liệu cần thiết, nguồn cung những   nguyên vật liệu này, số lượng hàng cần sản xuất; kế hoạch giao hàng cung  cấp những thông tin cần thiết để  đáp  ứng nhu cầu khách hàng; kế  hoạch  hàng trả về (bao gồm trả về ở khâu nguyên liệu và khâu thành phẩm) cung  cấp thông tin về kế hoạch trả hàng để có phương án đặt hàng mới….Để có  được kế  hoạch tốt chúng ta phải có nguồn thông tin tốt. Nếu muốn xác  định lượng hàng cần thiết cho thị  trường ta phải dựa vào các yếu tố  như  mức độ tiêu dùng, tồn kho, điều kiện kinh tế, thị trường và những thông tin   về đối thủ cạnh tranh…Muốn lập kế hoạch cung ứng người lập phải hiểu   được các nguồn lực cả bên trong và ngoài doanh nghiệp như lực lượng lao   động, công suất, kho bãi, phương tiện vận chuyển…..Kế  hoạch phải rõ  ràng, cụ thể, tập trung được nguồn lực vào những lĩnh vực cần ưu tiên và  quan   trọng   là   nó   phải   phù   hợp   với   chiến   lược   kinh   doanh   của   doanh  nghiệp, có khả năng hỗ trợ chiến lược chung của doanh nghiệp. ­Tìm nguồn hàng và mua hàng    Thực hiện quá trình mua hàng gồm đặt hàng, nhận hàng, kiểm tra,  thanh toán trên cơ sở kế hoạch về nguồn hàng đã được lập, ngoài ra nó còn   16 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  17. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào liên quan đến việc tìm, lựa chọn và quản lý quan hệ với các nhà cung cấp.   Mục đích của hoạt động này là tìm được nguồn hàng có chất lượng  ổn  định, phù hợp với những yêu cầu trong sản xuất của doanh nghiệp, tiết  giảm chi phí thông qua lợi thế  về  quy mô, tăng khả  năng linh hoạt trong   sản xuất nhờ mối quan hệ tốt với nhà cung cấp­ hỗ trợ về điều kiện giao  hàng, thanh toán… ­Sản xuất    Là công đoạn biến nguyên vật liệu thành thành phẩm theo quy cách,  chất lượng   đã đề  ra. Ngày nay,  để  tăng khả  năng linh hoạt của doanh   nghiệp, giảm chi phí, ngày càng nhiều doanh nghiệp sử  dụng các đối tác  bên ngoài gia công một phần hoặc sản xuất hoàn thiện toàn bộ sản phẩm.  Trong hoạt động này mục tiêu không chỉ  là chi phí thấp mà còn là yêu cầu  về tốc độ và mức độ linh hoạt. Bên cạnh đó, một yêu cầu cũng không kém  phần quan trọng là kiểm soát chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ngành   nghề đăng kí hoặc do doanh nghiệp tự đề ra. ­Giao hàng   Quá trình giao hàng được bắt đầu từ  việc nhận đơn hàng bao gồm cả  những hoạt động cần thiết để  có được đơn hàng đó như  chào giá cho đến  thu được tiền của khách hàng. Giai đoạn này cần chú ý: mức độ  dịch vụ  phải tương xứng với chi phí. Do đó những khách hàng có thế  mang lại  nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp hơn những khách hàng khác.Vì vậy điều  đầu tiên là phải phân khúc thị trường, sau đó đưa ra những mức độ dịch vụ  cho các đối tượng khách hàng khác nhau. Giảm thời gian và chi phí nhờ hệ  thống trao đổi thông tin, thiết lập hệ thống truy xuất về tình trạng hàng hoá   tại những khâu khác nhau trong chuỗi. ­Hàng trả về   Áp dụng cho những nguyên vật liệu nhập về do không đúng tiêu chuẩn  hoặc những hàng hoá bán ra thi trường không đảm bảo chất lượng. Để  quản lý hoạt động này, điều đầu tiên là phải xác định những điều kiện nào  thì hàng hoá nguyên liệu sẽ được trả về. Bên cạnh đó, thông tin hàng trả về  17 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  18. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào phải được phổ biến đến tất cả các khâu trong chuỗi nhằm đưa ra các biện   pháp phòng ngừa và xử lý kịp thời. 1.2.Mối quan hệ giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng.   Mọi người sử dụng những tên gọi khác nhau cho các chuỗi hoạt động  và tổ  chức. Khi con người nhấn mạnh đến họat động sản xuất, họ  xem  chúng như  là các quy trình sản xuất; khi họ  nhấn mạnh  đến khía cạnh  marketing, họ gọi chúng là kênh phân phối; khi họ nhìn ở góc độ tạo ra giá  trị, họ  gọi chúng là chuỗi giá trị, khi họ  nhìn nhận về  cách thức thỏa mãn   nhu cầu của khách hàng, họ  gọi nó là chuỗi nhu cầu.  Ở  đây chúng ta tập  trung vào sự dịch chuyển nguyên vật liệu và thuật ngữ chung nhất là chuỗi   cung cấp. Một câu hỏi thường đặt ra nhưng chưa có câu trả  lời rõ ràng­ liên quan   đến việc phân biệt và làm rõ sự khác nhau giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung   cấp. Micheal Porter­ người đầu tiên phát biểu khái niệm chuỗi giá trị  vào  thập niên 1980, biện luận rằng chuỗi giá trị  của một doanh nghiệp bao   gồm các hoạt động chính và các hoạt động bổ  trợ  tạo nên lợi thế  cạnh   tranh khi được cấu hình một cách thích hợp. Tuy nhiên khái niệm chuỗi giá  trị  cũng đã được phát triển như là một công cụ  để  phân tích cạnh tranh và  chiến lược. Porter phân biệt các hoạt động chính và hoạt động bổ trợ. Các   hoạt động chính là những hoạt động hướng đến việc chuyển đổi về  mặt  vật lý và quản lý sản phẩm hoàn thành để  cung cấp cho khách hàng. Hậu  cần đến và hậu cần ra ngoài là các thành tố  quan trọng và then chốt của   chuỗi giá trị, đây chính là yếu tố tạo ra “giá trị” cho khách hàng của doanh   nghiệp và mang lại lợi ích tài chính cho công ty. Việc tích hợp một cách sâu  rộng các chức năng sản xuất, bán hàng, marketing với hậu cần cũng là một  tiêu thức quan trọng của chuỗi giá trị. Các hoạt động của Chuỗi giá trị  chung 18 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  19. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào ­Hình 1­ Porter phân biệt và nhóm gộp thành năm hoạt động chính: •  Hậu cần đến(inbound logistics): những hoạt động này liên quan đến  việc nhận, lưu trữ và dịch chuyển đầu vào vào sản phẩm, chẳng hạn như  quản trị nguyên vật liệu, kho bãi, kiểm soát tồn kho, lên lịch trình xe cộ và   trả lại sản phẩm cho nhà cung cấp. •   Sản xuất: các họat động tương  ứng với việc chuyển  đổi đầu vào  thành sản phẩm hoàn thành, chẳng hạn như gia công cơ  khí, đóng gói, lắp   ráp, bảo trì thiết bị, kiểm tra, in ấn và quản lý cơ sở vật chất. •  Hậu cần ra ngoài(outbound logistics): đây là những hoạt động kết hợp  với việc thu thập, lưu trữ  và phân phối hàng hóa vật chất sản phẩm đến   người mua, chẳng hạn như quản lý kho bãi cho sản phẩm hoàn thành, quản  trị nguyên vật liệu, quản lý phương tiện vận tải, xử lý đơn hàng và lên lịch   trình­kế hoạch. •  Marketing và bán hàng những hoạt động này liên quan đến việc quảng   cáo, khuyến mãi, lựa chọn kênh phân phối, quản trị  mối quan hệ  giữa các  thành viên trong kênh và định giá. •   Dịch vụ  khách hàng các hoạt động liên quan đến việc cung câp dịch  vụ nhằm gia tăng hoặc duy trì giá trị của sản phẩm, chẳng hạn như cài đặt,  19 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
  20. Đề án môn học                                                          GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào sửa chữa và bảo trì, đào tạo, cung cấp thiết bị  thay thế  và điều chỉnh sản  phẩm. Các hoạt động bổ trợ được nhóm thành bốn loại: •   Thu mua: thu mua liên quan đến chức năng mua nguyên vật liệu đầu  vào được sử dụng trong chuỗi giá trị của công ty. Việc này bao gồm nguyên  vật   liệu,   nhà   cung   cấp   và   các   thiết   bị   khác   như   máy   móc,   thiết   bị   thí  nghiệm, các dụng cụ văn phòng và nhà xưởng. Những ví dụ này minh họa  rằng các đầu vào được mua có thể  liên hệ  với các họat động chính cũng   như  các hoạt động bổ  trợ. Đây chính là lý do khiến Porter phân loại thu   mua như một hoạt động bổ trợ chứ không phải là họat động chính. • Phát triển công nghệ: “Công nghệ” có ý nghĩa rất rộng trong bối cảnh   này, vì theo quan điểm của Porter thì mọi họat động đều gắn liền với công  nghệ, có thể  là bí quyết, các quy trình thủ  tục hoặc công nghệ  được sử  dụng trong tiến trình hoặc thiết kế  sản phẩm. Đa phần các họat động giá  trị  sử  dụng một công nghệ  kết hợp một số  lượng lớn các tiểu công nghệ  khác nhau liên quan đến các lĩnh vực khoa học khác nhau. • Quản trị nguồn nhân lực: đây chính là những hoạt động liên quan đến  việc chiêu mộ, tuyển dụng, đào tạo, phát triển và quản trị thù lao cho toàn   thể nhân viên trong tổ chức, có hiệu lực cho cả các họat động chính và hoạt  động bổ trợ. • Cơ sở  hạ tầng công ty: công ty nhìn nhận ở góc độ tổng quát chính là  khách hàng của những hoạt động này. Chúng không hổ  trợ  chỉ  cho một  hoặc nhiều các hoạt động chính­mà thay vào đó chúng hỗ  trợ  cho cả  tổ  chức. Các ví dụ  của những hoạt động này chính là việc quản trị, lập kế  hoạch, tài chính, kế  toán, tuân thủ  quy định của luật pháp, quản trị  chất   lượng và quản trị cơ sở vật chất. Trong các doanh nghiệp lớn, thường bao  gồm nhiều đơn vị  hoạt động, chúng ta có thể  nhận thấy rằng các hoạt   động này được phân chia giữa trụ sở chính và các công ty hoạt động. Cơ sở  hạ tầng chính là đề tài được bàn cải nhiều nhất về lý do tại sao nó thay đổi   quá thường xuyên đến vậy. 20 SV: Ngô Thị Thùy Liên                                              L ớp: QTKD Thương mại 53B
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0