intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề án môn học: Giải pháp phát triển các doanh nghiệp Logistics của Việt Nam trong hội nhập quốc tế

Chia sẻ: Hanh Duong | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:51

344
lượt xem
86
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề án môn học: Giải pháp phát triển các doanh nghiệp Logistics của Việt Nam trong hội nhập quốc tế có kết cấu gồm ba chương trình bày về những lý luận cơ bản về doanh nghiệp logistics; thực trạng phát triển các doanh nghiệp logistics Việt Nam; giải pháp phát triển các doanh nghiệp logistics Việt Nam trong hội nhập quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề án môn học: Giải pháp phát triển các doanh nghiệp Logistics của Việt Nam trong hội nhập quốc tế

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Trêng §¹i häc kinh tÕ quèc d©n ------------ ĐỀ ÁN MÔN HỌC Đề tài: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP LOGISTICS  CỦA VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Giảng viên hướng dẫn : GS.TS. ĐẶNG ĐÌNH ĐÀO Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THÀNH LUÂN MSV : CQ532365 Lớp : QTKD Thương Mại 53A
  2. Hµ Néi - 2014 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1, Lý do và ý nghĩa của đề tài: Bối cảnh quốc tế  hóa và toàn cầu hóa cùng với sự  tiến bộ  vượt bậc của  khoa học kỹ thuật đã mang đến cho mỗi đất nước những cơ hội tham gia và thị  trường toàn cầu. Trên thế  giới hiện nay,hoạt động thương mại quốc tế  diễn ra   sôi động với mức tăng trưởng ngày càng cao. Các nước phát triển đã khai thác các  hoạt động này để phục vụ cho tăng trưởng kinh tế quốc gia. Còn các nước đang   phát triển (trong đó có Việt Nam) lại tận dụng các điều kiện đó thông qua việc   phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu . Nhưng để  vận chuyển hàng hóa (nguyên, vật liệu và thành phẩm) từ  địa  điểm này sang địa điểm khác đặc biệt là giữa các quốc gia một cách nhanh chóng  với chi phí thấp và độ an toàn cao thì việc ứng dụng logistics là rất quan trọng. Ở  Việt Nam hiện nay, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa đang diễn ra   rất sôi động và có đóng góp quan trọng cho việc phát triển kinh tế. Cùng với sự  mở rộng của hoạt động thương mại quốc tế, dịch vụ logistics cũng đã được hình  thành và bước đầu phát triển tại Việt Nam. Sự  phân công lao động ngày càng  mạnh mẽ đã hình thành nên những công ty chuyên cung cấp dịch vụ logistics. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) và mở cửa  11 ngành dịch vụ  trong đó có lĩnh vực vận tải sẽ  mang đến cho ngành dịch vụ  logistics của nước nhà không những cơ  hội mà cả  thách thức để  phát triển. Hệ  SV: Nguyễn Thành Luân 2 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  3. thống các doanh nghiệp logistics Việt Nam tuy đông về số lượng nhưng vẫn còn   nhiều bất cập mà nổi trội hơn cả chính là hiệu quả  hoạt động. Nếu như  không  có sự  thay đổi trong hoạt động logistics của mình, các doanh nghiệp Logistics  Việt Nam sẽ  thất thế  ngay trên thị  trường của mình. Chính vì vậy, để  đối phó  với môi trường cạnh tranh vô cùng gay gắt sau khi Việt Nam gia nhập WTO,   việc phải có được các giải pháp phù hợp cho các doanh nghiệp logistics nói riêng   và toàn bộ ngành logistics nói chung là một yêu cầu cấp bách về phương diện lý   luận cũng như thực tiễn. Theo đó, em đã quyết định chọn đề tài “Giải pháp phát triển các doanh  nghiệp logistics của Việt Nam trong hội nhập quốc tế” với mong muốn đóng  góp những hiểu biết của mình về lĩnh vực logistics. 2, Mục đích nghiên cứu của đề tài: ­ Nghiên cứu bản chất của dịch vụ  logistics, các dịch vụ  được cung cấp  bởi  các doanh  nghiệp  logistics  và  vai  trò  của  chúng  đối  với  nền  kinh  tế  nói  chung, đối với các doanh nghiệp nói riêng. ­ Đánh giá môi trường kinh doanh logistics  ở Việt Nam hiện nay và thực   trạng kinh doanh logistics ở các công ty Việt Nam. ­  Đề  xuất  giải  pháp  cho  những  vấn  đề  còn  tồn  tại  giúp  cho  các  doanh  nghiệp logistics Việt Nam cạnh tranh và phát triển trong môi trười hội nhập quốc   tế. 3, Kết cấu của đề án:  Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề án  được trình bày thành 3 chương: Chương I: Những lý luận cơ bản về Doanh nghiệp logistics Chương II: Thực trạng phát triển các doanh nghiệp logistics  Việt Nam. Chương  III:  Giải pháp  phát  triển  các  doanh nghiệp  logistics  Việt Nam   trong hội nhập quốc tế SV: Nguyễn Thành Luân 3 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  4. SV: Nguyễn Thành Luân 4 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  5. CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP  LOGISTICS 1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của doanh nghiệp Logistics 1.1. Khái niệm: 1.1.1. Doanh nghiệp Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Điều 4), doanh nghiệp là tổ chức kinh  tế  có tên riêng, có tài sản, có trụ  sở giao dịch  ổn định, được đăng ký kinh doanh  theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. 1.1.2. Logistics Trước hết về  từ  “logistics”, Logistics có người dịch ra là hoạt động hậu  cần bởi nó bắt nguồn từ  quân sự  hay lại nói đó là dịch vụ  giao nhận kho vận.  Tuy nhiên, tất cả các cách dịch đó đều chưa thỏa đáng, không phản ánh đúng bản  chất của logistics bởi nó là một từ bao hàm nghĩa quá rộng giống như trường hợp  của từ marketing vậy. Cách tốt nhất là giữ nguyên là “logistics”. Về  khái niệm, theo  Ủy ban kinh tế  xã hội Châu Á – Thái Bình Dương  (ESCAP) thì: Logistics là quá trình tối  ưu hóa về  vị  trí, lưu trữ  và chu chuyển   hàng hóa từ  điểm xuất phát đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua hàng   loạt các hoạt động kinh tế. Bên cạnh đó, ta có thể kể đến các khái niệm khác về  Logistics như: - Logistics là quá trình xây dựng kế hoạch, cung cấp và quản lý việc chu   chuyển và lưu kho có hiệu quả hàng hóa dịch vụ và các thông tin liên quan từ nơi   xuất xứ  tới nơi tiêu thụ  vì mục tiêu đáp  ứng nhu cầu của khách hàng (World  Marintime University­  Đại học Hàng Hải Thế giới. D.Lambert. 1998). - Logistics là quá trình lập kế hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện  việc quản lý, kiểm soát việc di chuyển và bảo quản có hiệu quả  về  chi phí và   ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu bán thành phẩm và thành phẩm,  cũng như  các thông tin tương  ứng từ  giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng   hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. ( Ủy  ban Quản lý Logistics của Hoa Kỳ) SV: Nguyễn Thành Luân 5 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  6. - Trong   luật   Thương   mại   Việt   Nam   năm   2005   (Điều   233   ­   mục   4   –   Chương VI): “Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân   tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm: nhận hàng, vận chuyển,   lưu kho, lưu bãi, làm thủ  tục hải quan, các thủ  tục giấy tờ  khác, tư  vấn khách   hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ  khác có liên   quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng các khái niệm về  dịch vụ  logistics có thể chia làm hai nhóm: - Nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa của luật Thương mại  2005, coi Logistics gần như  tương tự  với hoạt động giao nhận hàng hóa. Tuy  nhiên cũng cần chú ý là định nghĩa trong luật thương mại có tính mở, thể  hiện   trong đoạn in nghiêng “hoặc các dịch vụ  khác có liên quan tới hàng hóa”. Theo   trường phái này, bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các yếu tố hỗ trợ  cho quá trình vận chuyển sản phẩm từ  nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ. Theo họ,  dịch vụ  logistics mang nhiều yếu tố  vận tải, người cung cấp dịch vụ  logistics   theo khái niệm này không có nhiều khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận   tải đa phương thức (MTO). - Nhóm định nghĩa thứ  hai về  dịch vụ  logistics có phạm vi rộng, có tác  động từ giai đoạn tiền sản xuất  cho tới khi hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối   cùng. Theo nhóm định nghĩa này, dịch vụ  logistics gắn liền cả  quá trình nhập   nguyên, nhiên vật liệu làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hóa   và đưa vào các kênh lưu thông, phân phối để đến tay người tiêu dùng cuối cùng. 1.1.3. Như vậy, hiểu theo cả nghĩa rộng và hẹp, tôi đồng ý với quan điểm  “Doanh nghiệp Logistics là doanh nghiệp thực hiện dịch vụ  phân phối và lưu   thông hàng hóa dưới sự tổ chức và quản lý khoa học việc lập kế hoạch, dịch vụ   … từ  điểm khởi nguồn sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng với chi phí   thấp nhất nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất xã hội tiến hành được nhịp   nhàng, liên tục và đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của khách hàng”. 1.2. Sơ  lược về  quá trình hình thành và phát triển dịch vụ  logistics,   nhà cung ứng dịch vụ logistics. SV: Nguyễn Thành Luân 6 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  7. Sự  phát triển của dịch vụ  logistics bắt nguồn từ  sự  thay  đổi trong sản   xuất. Người bán hàng hóa không nhất thiết phải là nhà sản xuất và người mua  cũng không nhất thiết phải là người tiêu dùng cuối cùng. Và để  tránh  ứ  đọng   vốn, các nhà sản xuất kinh doanh luôn tìm cách duy trì một lượng hàng dự  trữ  nhỏ nhất. Điều này đòi hỏi các nhà giao nhận vừa phải đảm bảo giao hàng đúng  lúc (JIT), vừa phải tăng cường vận chuyển những chuyến hàng nhỏ  nhằm giúp  những   nhà   sản   xuất   kinh   doanh   thực   hiện   mục   tiêu   tối   thiểu   hàng   tồn   kho   (Minimum stock). Mặt   khác,   cuộc   cách   mạng   Container   hoá   trong   vận   tải   diễn   ra   trong  những năm 70 của thế  kỷ  XX đã giải quyết được tình trạng ùn tắc tại các đầu  mối giao thông khác. Điều này đã giúp các nhà vận chuyển tìm ra một phương   pháp vận tải mới để đưa hàng hóa từ nơi gởi đến nơi nhận một cách thông suốt,   đó là vận tải đa phương thức. Người gửi hàng chỉ  cần ký hợp đồng vận tải với   một nhà kinh doanh vận tải đa phương thức (Multimodal Transport Operator –   MTO) để thực hiện toàn bộ việc vận chuyển hàng hoá của mình. Ban đầu, dịch vụ logistics được thuê ngoài là dịch vụ  vận chuyển và giao  nhận. Hàng hóa đi từ  nước người bán đến nước người mua thường dưới hình   thức hàng lẻ, phải qua tay nhiều người vận tải ở mỗi phương thức vận tải khác   nhau. Vì vậy xác suất rủi ro mất mát xảy ra đối với hàng hóa là rất lớn do người   gửi hàng phải ký nhiều hợp đồng vận tải riêng biệt với từng người vận tải thực   sự  và trách nhiệm của mỗi người vận tải chỉ giới hạn trong dịch vụ hay ch ặng   đường của người đó đảm nhiệm. Vào những năm 60, 70 của thế  kỷ  này, cách  mạng container hóa trong vận tải đã đảm bảo an toàn và độ  tin cậy trong di  chuyển hàng hóa là tiền đề cho sự ra đời của vận tải đa phương thức. Sau đó khách hàng rất cần một người đứng ra tổ chức mọi công việc ở tất   cả  các công đoạn liên quan để  tiết kiệm tối đa thời gian, chi phí và rủi ro phát  sinh nhằm gia tăng lợi nhuận. Từ đó, những người vận tải đa phương thức ngoài  làm vận chuyển, giao nhận đã kiêm thêm các khâu liên quan đến quá trình sản  xuất hàng hóa như: gia công, chế biến lắp ráp, đóng gói, gom hàng, xếp hàng, lưu   kho và giao nhận. Hoạt động giao nhận vận tải thuần túy đơn lẻ đã chuyển dần  SV: Nguyễn Thành Luân 7 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  8. sang hoạt động tổ chức toàn bộ dây chuyền phân phối vật chất và trở thành một   bộ  phận khăng khít của chuỗi mắt xích “cung­cầu”. Xu hướng đó không những  đòi hỏi phải phối hợp liên hoàn tất cả  các phương thức vận tải, mà còn đòi hỏi   phải kiểm soát được các luồng thông tin, luồng hàng hóa và luồng tài chính. Chỉ  khi tối  ưu được toàn bộ quá trình này thì mới giải quyết được vấn đề  đặt ra là:  vừa tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, vừa tăng lợi nhuận   cho các đơn vị  kinh doanh dịch vụ  vận tải giao nhận, bảo  đảm được lợi ích  chung của các bên tham gia vào dây chuyền. Hoạt động giao nhận vận tải thuần  túy chuyển sang hoạt động tổ chức toàn bộ dây chuyền vận động của hàng hóa­  đó chính là hoạt động logistics. Như  vậy, do sự  thay đổi của môi trường kinh   doanh toàn cầu đã đặt ra nhu cầu cho ngành dịch vụ  logistics hình thành và phát   triển. Từ  sự  phân tích trên chúng ta thấy rằng dịch vụ logistics chính là sự  phát  triển  ở  giai đoạn cao của các khâu dịch vụ  giao nhận kho vận, điều phối hàng  hóa từ khâu tiền sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng qua các công đoạn:  dịch chuyển, lưu kho và phân phát hàng hóa. Trong quá trình lưu chuyển hàng  hóa,   đồng   thời   cũng   có   sự   lưu   chuyển   của   các   dòng   thông   tin   của   dịch   vụ  logistics. Vì vậy, ngày nay nhiều công ty giao nhận kho vận và nhiều hiệp hội   giao nhận kho vận ở các nước đã đổi tên thành công ty cung cấp dịch vụ logistics  và Hiệp hội các nhà cung cấp dịch vụ logistics.  Như vậy dịch vụ logistics là những hoạt động giúp cho hoạt động logistics  của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục mà không nhất   thiết phải do chính doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thực hiện. Ban  đầu do  doanh nghiệp không đủ khả năng kiểm soát toàn bộ hoạt động của mình khi qui  mô mở  rộng buộc doanh nghiệp phải thuê bên ngoài thực hiện các hoạt động   trong chuỗi logistics. Dần dần, các doanh nghiệp phát hiện hiệu quả  hơn nên đã  chuyển sang thuê các doanh nghiệp dịch vụ  tiến hành thực hiện thay mình các  hoạt   động logistics. Từ  đó hình thành nên các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ  logistics như hiện nay. 1.3. Vai trò của doanh nghiệp logistics SV: Nguyễn Thành Luân 8 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  9. Nếu người ta xem Marketing là vũ khí chiến lược trong cạnh tranh vào những   năm của thế kỷ XX thì trong thế kỷ XXI vai trò này đã nhường lại cho hoạt động   logistics. Do vậy, dịch vụ logistics hoàn hảo sẽ là vũ khí quan trọng trong thời đại  ngày  nay. 1.3.1. Doanh nghiệp Logistics góp phần làm giảm chi phí lưu thông, chi phí sản   xuất và chi phí cơ hội cho doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thương mại. ­   Chi phí lưu thông: Dịch vụ  logistics không chú trọng tiết kiệm chi phí cho  một khâu nhất định mà là chú trọng vào tính hiệu quả trong cả quá trình, nghĩa là   cung cấp dịch vụ với tổng chi phí nhỏ nhất. * Với chi phí vận chuyển: Một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tự  khai thác phương tiện vận tải của   chính mình thường không đạt hiệu quả  do lượng hàng không cho phép khai thác   tốt nhất phương tiện trong tất cả các ngày làm việc hoặc xe chỉ chở một chiều.   Trong khi đó thông qua doanh nghiệp dịch vụ logistics xe sẽ chạy hai chiều đi và   về  đều có hàng, container sẽ  đầy hơn do việc ghép chung hàng của các đơn vị  thuê ngoài dịch vụ khác nhau. Ngoài ra, dựa vào phương thức vận chuyển đa phương thức người cung cấp dịch   vụ logistics giúp người gửi hàng giảm chi phí bằng cách kết hợp các loại phương   tiện vận tải khác nhau như máy bay, xe lửa, ôtô, tàu biển… Các dịch vụ đóng gói  và lắp ráp tại nơi tiêu thụ cũng giảm được trọng lượng và thể tích chuyên chở. * Với chi phí lưu kho: Với việc thiết kế  và bố  trí kho hợp lý, quản lý lượng  hàng tồn kho bằng máy tính để  cập nhật thông tin hàng ngày, các doanh nghiệp  có thể giảm hoàn toàn chi phí lưu kho. * Với chi phí và lãi suất ngân hàng: Với việc giảm lượng hàng tồn kho cũng   như  các chi phí vận tải và các chi phí khác, doanh nghiệp cần một lượng vốn ít  hơn phục vụ cho đầu tư vào những lĩnh vực là thế mạnh của mình do đó nhu cầu  vay vốn giảm, chi phí cho lãi suất tiền vay cũng giảm theo. ­  Chi phí sản xuất: Thông qua dịch vụ logistics, hàng hóa sẽ có được dòng chảy đầu vào đảm bảo và  chất lượng. Một dịch vụ  logistics tốt sẽ  cung  ứng sản phẩm ngay đúng lúc thị  SV: Nguyễn Thành Luân 9 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  10. trường cần. Và trong mối liên hệ  trong sản xuất là đầu ra của một tổ  chức này   chính là một đầu vào của tổ chức khác. Hơn nữa, với cơ sở vật chất và thông tin  hiện đại, các nhà cung ứng này có thể cung ứng hàng hóa với chất lượng và thời  gian đảm bảo hơn cho các nhà sản xuất. Doanh nghiệp logistics có thể tham gia vào quá trình tư vấn nguyên vật liệu ngay   từ  quá trình thiết kế  sản phẩm giúp rút ngắn thời gian chuẩn bị  cho sản phẩm   mới. Hơn nữa dịch vụ  logistics tốt đảm bảo nguyên vật liệu đi đúng theo lịch  trình và đáp ứng kịp thời cho kế hoạch sản xuất tránh tình trạng ngắt quãng sản  xuất do thiếu nguyên vật liệu. Bên cạnh đó dịch vụ logistics góp phần hợp lý hóa các giai đoạn sản xuất. Thay   vì sản xuất tại một địa điểm từ công đoạn đầu đến cuối thì nhà sản xuất có thể  phân bổ một số công đoạn như lắp ráp, gia công nhằm tận dụng nguồn nhân lực   rẻ hay nguồn nguyên liệu dồi dào. Với sự cung ứng nguyên vật liệu đúng lúc, bảo đảm và sự thiết kế địa điểm sản  xuất hợp lý sẽ  giúp giảm thiểu chi phí sản xuất mà không ảnh hưởng đến chất   lượng sản phẩm. ­ Chi phí cơ hội: Thay vì các doanh nghiệp đầu tư dàn trải vào những lĩnh vực mình không có lợi  thế  cạnh tranh mà chiếm nhiều vốn như  nhà kho, đội vận tải, họ  có thể  tập  trung vào việc tạo ra sản phẩm độc đáo để tăng sức cạnh tranh. Chi phí cơ  hội còn thể  hiện  ở  chỗ  các doanh nghiệp có thể  giao hàng đúng lúc  không gây ứ đọng vốn do sản xuất theo đúng nhu cầu, tránh được chi phí lưu kho   và tồn đọng hàng  hóa. Tóm lại, để giảm chi phí mà không ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, doanh  nghiệp logistics có thể  cung cấp các dịch vụ  từ  nguồn vào tới việc bố  trí sản   xuất hiệu quả  cũng như  tránh được việc đầu tư  dàn trải nhờ  vậy không những  không làm giảm chất lượng hàng hóa mà còn nâng cao hiệu quả sản xuất. 1.3.2. Doanh nghiệp logistics tạo thêm giá trị  gia tăng và cung cấp dịch vụ   khách hàng. SV: Nguyễn Thành Luân 10 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  11. Ngày nay người mua hàng không chỉ mua một sản phẩm vì công dụng của nó mà  còn mua cả dịch vụ kèm theo sản phẩm đó. Với những dịch vụ  giá trị  gia tăng của logistics như  dán nhãn, đóng gói, lắp ráp,  dịch vụ khách hàng… đã tạo thêm giá trị gia tăng cho hàng hóa giúp cho doanh thu   của nhà sản xuất được tăng lên. Hơn nữa các dịch vụ như gom và phân hàng lẻ,   xé lẻ  các lô hàng lớn , chuẩn bị  các lô hàng hỗn hợp… tạo điều kiện cho các   doanh nghiệp đáp  ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng và giảm được chi phí phát  sinh. 1.3.3. Logistics là công cụ marketing hiệu quả giúp các doanh nghiệp sản xuất   thâm nhập thị trường Không gì thuận lợi hơn cho các nhà xuất khẩu khi có một căn cứ phân phối hàng   ngay tại khu vực tiêu thụ. Tại đây, hàng hóa sẽ được phân phối theo yêu cầu của  khách hàng theo đúng chất lượng và số  lượng, việc in  ấn nhãn hiệu theo tiếng  bản xứ, thậm chí có thể mua thêm nguyên liệu tại chỗ để gia công thêm cho hàng  nhập khẩu mà không bị đánh thuế sẽ giảm chi phí rất lớn cho nhà nhập khẩu và   tạo thuận lợi rất lớn trong việc cung cấp cho khách hàng các dịch vụ  đa dạng   khác nhau. Ngày nay, việc sử  dụng các doanh nghiệp   logistics có uy tín cũng là một cách   tăng thêm uy tín cho chính công ty xuất nhập khẩu, tạo thêm độ  an tâm cho đối   tác. Để thu hút khách hàng, các doanh nghiệp logistics còn kiêm thêm dịch vụ môi  giới giữa người mua và người bán vốn không quen biết nhau và họ là người đảm  bảo uy tín cho hai bên. Với  những  vai  trò   của   doanh  nghiệp  logistics   trên  đây  đã   làm  cho  các   doanh  nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thương mại dần chuyển sang thuê ngoài dịch vụ  logistics phục vụ cho chuỗi hoạt động logistics của doanh nghiệp. 1.4.Phân loại:  Theo tính chuyên môn hóa của các Doanh nghiệp Logistics, người ta chia  thành: * Các công ty cung cấp dịch vụ  vận tải. Bao gồm: SV: Nguyễn Thành Luân 11 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  12. + Các công ty cung cấp dịch vụ vận tải  đơn phương thức : Là những công   ty  chỉ cung cấp một loại phương tiện vận tải. Ví dụ: Công ty  cung cấp dịch vụ  vận tải đường bộ , đường sắt, hàng không, đường biển;  + Các công ty cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức : là những công ty  cung cấp từ  hai phương tiện vận tải khác nhau trở  lên trong cả  quá trình vận   chuyển + Các công ty cung cấp dịch vụ khai thác cảng            + Các công ty môi giới  vận tải * Các công ty cung cấp dịch vụ phân phối. Bao gồm: + Các công ty cung cấp dịch vụ kho bãi + Các công ty cung cấp dịch vụ phân phối . * Các công ty cung cấp dịch vụ hàng hóa. Bao gồm: + Các công ty môi giới khai thuê hải quan + Các công ty giao nhận, gom hàng lẻ + Các công ty chuyên ngành hàng nguy hiểm + Các công ty dịch vụ đóng gói vận chuyển. * Các công ty cung cấp dịch vụ logistics chuyên ngành. Bao gồm:  + Các công ty công nghệ thông tin  + Các công ty viễn thông  + Các công ty cung cấp giải pháp tài chính, bảo hiểm  + Các công ty cung cấp dịch vụ giáo dục và đào tạo.  Phân loại theo hình thức khai thác hoạt động logistics: ­ Các công ty Logistics thứ  nhất (1PL ­ First Party Logistics): người chủ  sở  hữu hàng hóa  tự  mình tổ  chức và thực hiện các hoạt động logistics để  đáp  ứng   nhu   cầu   của   bản   thân.   Theo   hình   thức   này,   chủ   hàng   phải   đầu   tư   vào  phương tiện vận tải, kho chứa hàng, hệ thống thông tin, nhân công để quản lý và  vận hành hoạt động logistics. First Party Logistics làm phình to quy mô của doanh  nghiệp và thường làm giảm hiệu quả  kinh doanh vì doanh nghiệp không có đủ  SV: Nguyễn Thành Luân 12 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  13. quy mô cần thiết, kinh nghiệm và kỹ  năng chuyên môn để  quản lý, vận hành  hoạt động logistics. ­ Các công ty Logistics bên thứ hai (2 PL ­ Second Party Logistics) – người   cung cấp dịch vụ  logistics bên thứ  hai là người cung cấp dịch vụ  cho một hoạt  động đơn lẻ  trong chuỗi các hoạt động logistics (vận tải, kho bãi, thủ  tục Hải   quan, thanh toán,…) để  đáp  ứng nhu cầu của chủ  hàng m ch ́ ưa tích hợp hoạt   động logistics. Loại hình này bao gồm các hãng vận tải đường biển, đường bộ,  đường hàng không, các công ty kinh doanh kho bãi, khai thuê hải quan, trung gian   thanh toán… ­ Các công ty Logistics bên thứ 3 (3 PL ­ Third Party Logistics) – là người   thay mặt cho chủ  hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ  logistics cho từng bộ  phận chức năng, ví dụ như thay mặt cho người gửi hàng thực hiện thủ tục xuất   nhập khẩu và vận chuyển nội địa hoặc thay mặt cho người nhập khẩu làm thủ  tục thông quan và vận chuyển hàng đến địa điểm đến quy định, … Do đó 3PL  bao gồm nhiều dịch vụ  khác nhau, kết hợp chặt chẽ  việc luân chuyển, tồn trữ  hàng hóa, xử  lý thông tin, … và có tính tích hợp vào dây chuyền cung  ứng của   khách hàng. ­ Các công ty Logistics bên thứ  tư  (4 PL ­ Fourth Party Logistics) – là  người tích hợp (intergrator) – người hợp nhất, gắn kết các nguồn lực, tiềm năng  và cơ sở vật chất khoa học kỹ thuật của mình với các tổ chức khác để thiết kế,  xây dựng và vận hành các giải pháp chuỗi logistics. 4PL chịu trách nhiệm quản lý   dòng lưu chuyển logistics, cung cấp giải pháp dây chuyền cung ứng, hoạch định,  tư   vấn logistics,   quản  trị   vận tải,  …  4 PL  hướng  đến quản  trị   cả   quá   trình   logistics, như nhận hàng từ nơi sản xuất, làm thủ tục xuất, nhập khẩu, đưa hàng  đến nơi tiêu thụ cuối cùng. ­ Gần đây cùng với sự  phát triển của Thương mại điện tử, người ta đã  nói đến khái niệm công ty Logistics bên thứ 5 (5 PL). 5 PL phát triển nhằm phục   vụ cho Thương mại điện tử, các nhà cung cấp dịch vụ 5 PL là các 3 PL và 4 PL  đứng ra quản lý toàn chuỗi phân phối trên nền tảng thương mại điện tử. SV: Nguyễn Thành Luân 13 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  14. Vì vậy các doanh nghiệp với vai trò  là nhà cung cấp dịch vụ  logistics   không bao gồm nhà cung cấp logistics bên thứ nhất vì đó chính là bản thân doanh  nghiệp tự cung ứng mà không thuê bên ngoài 2,3,4,5PL 1.5. Những nhân tố cơ bản và sự tác động đến hoạt động các Doanh nghiệp   logistics Việt Nam hiện nay. 1.5.1. Cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động logistics, trong đó hệ  thống giao thông và hạ  tầng thông tin có vai trò hết sức quan trọng. Chi phí vận  tải giao nhận thường chiếm hơn 1/3 tổng chi phí của logistics và là yếu tố không   thể  thiếu được trong logistics , yêu cầu này xuất phát từ  xu hướng chuyên môn  hóa trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Giao nhận vận tải đảm nhận việc di  chuyển nguyên vật liệu vào doanh nghiệp sau đó phân phối sản phẩm từ  doanh  nghiệp ra thị trường tạo thành một vòng tuần hoàn trong hoạt động sản xuất kinh  doanh của doanh nghiệp. Do đó, vai trò của yếu tố  cơ sở  hạ  tầng, bao gồm hệ  thống hạ  tầng giao thông, kho bãi nhà xưởng, phương tiện vận tải, cơ  sở  hạ  tầng thông tin,… là rất quan trọng, là một trong những bộ  phận cấu thành hoạt   động cung ứng dịch vụ logistics. Nó là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp   logistics hoạt động kinh doanh tốt trong lĩnh vực của mình. Lãnh thổ  toàn vẹn của Việt Nam bao gồm diện tích đất liền, theo tổng  điều tra đất năm 2002 là 329,297 km2 và vùng biển rộng hơn 1 triệu km2. Việt   Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi cho vận tải quốc tế, nằm ở khu vực chiến lược   trong vùng Đông Nam Á. Bờ biển Việt Nam dài hơn 3260km. Trung bình khoảng  20km chiều dài bờ biển có một cửa sông thông ra biển, có nhiều cảng nước sâu,  các sân bay quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên quốc gia và mạng lưới giao thông   là tiền đề  khả  quan để  phát triển Logistics. Các cảng biển tự  nhiên, ví dụ  như  vịnh hay các cảng nước sâu…là một trong những đặc điểm địa lý rất có giá trị  trong việc phát triển vận tải sông, biển mà bất kỳ  quốc gia nào cũng mong có   được. SV: Nguyễn Thành Luân 14 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  15. Điều   kiện   địa   lý   thuận   lợi   là   một   trong   những   yếu   tố   để   phát   triển   logistics. Việc có được điều kiện địa lý thuận lợi sẽ  mở  ra khả  năng phát triển   mô hình Logistics. Đặc biệt gần hai năm khi Việt Nam gia nhập WTO thì vốn   đầu tư  nước ngoài đã tạo ra bộ  mặt mới cho hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt   Nam. Đã có rất nhiều các dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng đang được thực hiện. Hệ thống cảng biển Việt Nam đã được quy hoạch và đang hình thành và  phát triển đa dạng, phong phú. Các loại hình cảng mới như cảng nước sâu, cảng   container chuyên dụng…với vốn đầu tư  lên đến hàng chục, trăm triệu USD đã   được xây dựng, đang phát huy tác dụng…Lượng hàng hóa vận chuyển thông qua  cảng hàng năm đều tăng về  mọi chỉ  tiêu kể  cả  hàng hóa xuất nhập khẩu cũng  như hàng hóa vận chuyển nội địa. 1.5.2.  Công nghệ thông tin. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin và sự ra đời của thương mại điện tử  hơn bao giờ  hết đã mở  ra cơ  hội to lớn cho các doanh nghiệp trong ngành giao  nhận vận tải và logistics nói riêng khả năng tinh giảm chi phí, nâng cao hiệu quả  kinh doanh và sức cạnh tranh của mình trên thương trường. Công nghệ  thông tin và thương mại điện tử  tại Việt Nam còn mới mẻ,   song lại có tốc độ phát triển rất nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế  giới. Với  hiện   trạng  va   xu  hướng  phát  triển   công  nghệ   thông  tin  cũng  như  thương mại điện tử  của Việt Nam sẽ tạo ra nhiều cơ hội và khả  năng áp dụng   công nghệ Logistics trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.  Vị  trí của Logistics trong toàn bộ  quá trình phân phối vật chất thực chất là sử  dụng và xử  lý thông tin để  tổ  chức và quản lý chu trình di chuyển hàng hóa qua  nhiều cung đoạn, chặng đường, phương tiện, địa điểm khác nhau đáp  ứng yêu  cầu kịp thời, đúng lúc. Sự tham gia của công nghệ thông tin trong ngành logistics  đã thúc đẩy  quản lý  có  hiệu  quả  các  hoạt  động  logistics  và  giúp  các  công  ty  logistics  đáp  ứng  được yêu cầu của chủ  hàng. Hầu hết các công ty lớn đều có  phần mềm như  hệ  thống quản lý  kho  (WMS)  và hệ  thống  quản  lý  vận  tải  để  quản  lý  hệ  thống  kho,  hoạt  động  vận tải  và  các  hoạt  động  khác  của  mình.  SV: Nguyễn Thành Luân 15 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  16. Chuyển giao dữ liệu điện tử (EDI) và Internet đã cho phép các  công ty 3PL cung  cấp  các  dịch  vụ  giá  trị  lớn  hơn  cho  khách  hàng  của  họ,  họ  có  thể  thấy được  nguyên liệu, hàng hoá của họ đang ở đâu trên thế giới từ đó phục vụ cho quản lý  chuỗi cung ứng ngày càng hiệu quả hơn. Các dịch vụ cung cấp công cụ tìm  kiếm  (track and trace) đã xác lập giá trị cho khách hàng trong việc lên kế hoạch hoạt  động của họ tốt hơn và giảm vốn lưu động do tồn kho và các hoạt động vận tải  khác. Do vậy trong xu hướng cạnh tranh hiện nay,  ứng dụng công nghệ thông  tin đóng  vai  trò  hết  sức  quan  trọng  trong  ngành  công  nghiệp  logistics,  có  quyết  định đến sự tồn tại của doanh nghiệp logistics. 1.5.3. Sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành Trong kinh doanh việc tạo ra cạnh tranh là việc rất dễ  hiểu, các doanh   nghiệp logistics cạnh tranh để dành thị phần cho mình, nhằm tạo ta lợi nhuận và   uy tín cho doanh nghiệp. Logistics được quan tâm  ở  các quốc gia trên thế  giới trong lĩnh vực kinh  doanh từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 và có sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở  các nước phát triển. Logistics ở Việt Nam mới xuất hiện từ những năm 90 của thế  kỷ XX và hiện nay vẫn đang đước đi những bước đi đầu tiên trong lĩnh vực này.  Bước vào hội nhập, các doanh nghiệp Logistics trong nước sẽ  gặp không ít sự  cạnh tranh. Tại hội thảo về  phát triển dịch vụ  logistics, do Hiệp hội Giao nhận kho   vận Việt Nam phối hợp với báo Thương mại tổ  chức, Thứ  trưởng Bộ Thương   mại Lương Văn Tự  nói rằng các doanh nghiệp dịch vụ  logistics sắp tới sẽ  đối  mặt với áp lực cạnh tranh lớn, khi Việt Nam thực hiện cam kết mở  cửa thị  trường dịch vụ  này cho nhà đầu tư  nước ngoài. Ông nói: “Trong quá trình đàm   phán gia nhập Tổ  chức Thương mại Thế  giới (WTO), chúng ta đã cam kết cho   nước ngoài được thiết lập ngay các doanh nghiệp liên doanh, với tỷ  lệ  góp vốn   49­51%, để  thực hiện kinh doanh các dịch vụ  vận tải, giao nhận, kho bãi... Ba   năm sau, tỷ lệ góp vốn của phía nước ngoài sẽ tăng lên và họ có thể thiết lập các   công ty 100% vốn sau 5­7 năm”. SV: Nguyễn Thành Luân 16 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  17. Đến nay, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp dịch vụ logistics   trong lĩnh vực vận tải biển còn gặp nhiều khó khăn thì các tập đoàn hàng hải lớn  thế  giới đã và đang từng bước thâm nhập, củng cố, chiếm lĩnh thị  trường trong  nước và ngày càng khẳng định vị  trí lớn mạnh của mình như  APL, Mitsui OSK,   Maersk Logistics , NYK Logistics … Đây là những tập đoàn hùng mạnh, tính   cạnh tranh rất lớn với bề dày kinh nghiệm, năng lực tài chính khổng lồ, có mạng  lưới đại lý, hệ thống kho hàng chuyên dụng, dịch vụ khép kín trên toàn thế giới,  mạng lưới thông tin kết nối rộng khắp, trình độ tổ chức quản lý cao và đảm bảo  khép kín quy trình hoạt động vận chuyển hàng hóa toàn cầu, đòi hỏi các doanh  nghiệp Logistics  trong nước  phải không ngừng  đổi mới,  hoàn thiện mình để  không bị lép vế ngay trên “sân nhà” và vươn ra thế giới. 1.5.4. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế  Về  chính sách hội nhập, Việt Nam đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập   kinh tế thông qua những cải cách về cơ chế, chính sách, thủ  tục hành chính, xây  dựng hệ thống pháp luật kinh tế và tài chính phù hợp với thông lệ quốc tế.  Việc trở  thành thành viên chính thức của WTO đã đưa Việt Nam thành  một quốc gia mở  cửa về thương mại hàng hóa, dịch vụ  và đầu tư  từ  đó nguồn  cầu logistics sẽ tăng lên nhanh chóng: -   Vốn đầu tư nước ngoài. Kể từ  khi Luật Đầu tư  trực tiếp nước ngoài có hiệu lực (1988), FDI vào  VN ngày càng tăng cả  về  dự  án, vốn đăng ký và số  nước, vùng lãnh thổ. Tính  đến hết năm 2012, tổng vốn FDI đăng ký là 242.613 triệu USD, vốn thực hiện là  102.551 triệu USD.  Nguồn vốn ODA nhằm phát triển cơ sở hạ tầng và các nguồn vốn từ các   tổ  chức phi chính phủ  hỗ  trợ  cho Việt Nam ngày càng tăng. Tính từ  năm 1993  đến hết năm 2012, tổng vốn ODA cam kết đạt 76,176 triệu USD, giải ngân đạt  35,967 triệu USD, tương đương với 3,36% GDP. Thương mại quốc tế  liên tục  tăng đã thúc đẩy cho các doanh nghiệp Logistics phát triển hoạt động. - Thương mại quốc tế  liên tục tăng đã thúc đẩy cho các doanh nghiệp   logistics phát triển hoạt động. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1991,   SV: Nguyễn Thành Luân 17 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  18. đặc biệt là từ  năm 1995 đến nay đã không ngừng tăng trưởng và thực sự  trở  thành động lực chính, quan trọng của sự phát triển kinh tế. Tốc độ  tăng kim ngạch xuất khẩu tương đối cao, giá trị  kim ngạch xuất  khẩu tăng mạnh, nếu so sánh năm 2012 với năm 1986, thì kim ngạch xuất khẩu   tăng gấp khoảng 145 lần (114.529 triệu USD/789,1 triệu USD) Hình 1.1                                                        (Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam)  Tuy nhiên, Việt Nam gia nhập WTO cũng mang lại nhiều thách thức khi   doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh gay gắt với doanh nghiệp nước ngoài.  Nhiều năm trước các doanh nghiệp logistics Việt Nam được chính phủ  bảo hộ  khá kỹ thông qua các biện pháp ngăn chặn doanh nghiệp nước ngoài tiếp cận thị  trường trong nước, ngoại trừ  một số  doanh nghiệp logistics nước ngoài được  thành lập trước năm 2005 khi luật Thương mại sửa đổi có quy định về  ngành  nghề  logistics và các doanh nghiệp được thành lập với Hiệp định thương mại  song phương. Tuy nhiên khi gia nhập WTO tồn tại và phát triển được hay không   SV: Nguyễn Thành Luân 18 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  19. gần như tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh của chính doanh nghiệp. Thực trạng   này đặt các doang nghiệp Việt Nam trước nhiều thách thức hơn cơ hội, buộc các  doanh nghiệp phải tự củng cố mình khi mà ngành nghề liên quan đến logistics đã  mở cửa hoàn toàn. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Logistics là quá trình tối ưu hóa về vị trí, thời gian, lưu trữ và vận chuyển   các tài  nguyên  từ  điểm  đầu  tiên  của  dây  chuyền  cung  ứng  đến  tay  người  tiêu  dùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế. Ngày nay vì tính hiệu quả mà  các  doanh  nghiệp  chuyển dần các hoạt động logistics không phải là thế  mạnh  của   mình   sang   cho  các   doanh   nghiệp   logistics   thực   hiện.   Như   vậy   dịch   vụ  logistics là những hoạt động giúp cho hoạt động logistics của doanh nghiệp sản   xuất kinh doanh được tiến hành  liên  tục mà không nhất thiết phải do chính  doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thực  hiện. Ban đầu do doanh nghiệp không đủ  khả năng kiểm soát toàn bộ hoạt động của  mình khi qui mô mở rộng buộc doanh  nghiệp phải thuê bên ngoài thực hiện các hoạt  động trong  chuỗi  logistics.  Dần  dần,  các  doanh  nghiệp  phát  hiện  hiệu  quả  hơn  nên  đã chuyển sang thuê các  doanh nghiệp dịch vụ tiến hành thực hiện thay mình các hoạt động logistics. Xu  hướng trên thế giới cho thấy càng ngày các dịch vụ logistics càng đi sâu vào quá  trình logistics của doanh nghiệp và dần dần trở thành đối tác không  thể thiếu khi  đảm  nhận  nhiệm  vụ  giá  trị  gia  tăng  liên  quan  đến  thanh  toán,  dịch  vụ  khách  hàng,… dần đi đến quản trị cả quá trình logistics. Vai trò của dịch vụ  logistics đã được khẳng định rõ với những đóng góp   cho ngân sách quốc gia, giúp tăng năng lực cạnh tranh của quốc gia nói chung của  doanh nghiệp nói riêng…. Trong giai đoạn hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp   logistics Việt Nam phải đối mặt với những thách thức nhiều hơn cơ hội, đâu là  những thế mạnh doanh nghiệp Việt Nam cần khai thác để tận dụng cơ hội, vượt   qua thách thức cho sự  cạnh tranh và phát triển của mình. Phân tích thực trạng  hoạt động của họ sẽ giúp chúng ta tìm ra những giải pháp thiết thực nhất. SV: Nguyễn Thành Luân 19 Lớp: QTKD Thương mại 53A
  20. CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CÁC DOANH NGHIỆP  LOGISTICS Ở VIỆT NAM. Trong vòng 5 năm trở lại đây ở Việt Nam ngành logistics tuy đã có tốc độ  phát triển nhanh nhưng vẫn chưa có số  liệu thống kê đầy đủ, chính thức từ  các   ban ngành và tổ  chức Nhà nước. Do vậy phần thực trạng kinh doanh của các  doanh nghiệp logistics Việt Nam chủ yếu dựa trên số liệu được tác giả thu thập   từ nhiều nguồn khác nhau. Trước tiên, chúng ta đi vào tìm hiểu  1. Khả  năng đáp  ứng nhu cầu thị  trường của các doanh nghiệp logistics  trong nước. Hoạt động vận tải và giao nhận thông thường với danh nghĩa là công ty   logistics, các công ty cũng chỉ  mới đáp  ứng được 25% nhu cầu vận tải và giao   nhận của thị  trường, 75% còn lại đành phải nhường cho phía các công ty nước   ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ dành được một phần rất nhỏ trong thị  trường dịch vụ logistics.  Theo tính toán mới nhất của Cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực quan trọng   nhất trong logistics là vận tải biển thì các doanh nghiệp hay các công ty vận tải  biển chỉ  đáp  ứng chuyên chở  được 18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu,  phần còn lại đang bị chi phối bởi các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này thực sự  là một sự  thua thiệt lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi có 90% hàng hóa  xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển, sản lượng vận tải biển của   Việt Nam những năm gần đây có sự giảm nhẹ nhưng đây vẫn là một thị trường  mơ   ước của các tập đoàn nước ngoài. Trong thời kỳ  hội nhập, nếu chúng ta  không có những biện pháp kịp thời thì nguy cơ  bị  thâu tóm là không thể  tránh  khỏi. SV: Nguyễn Thành Luân 20 Lớp: QTKD Thương mại 53A
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2