Đề án: Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh hóa giai đoạn 2017-2020
lượt xem 18
download
Đè án nhằm phát hiện, chấn chỉnh kịp thời các vi phạm trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, không để xảy ra quá hạn giam giữ, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do không phạm tội, truy tố đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Ngăn chặn kịp thời những trường hợp xâm phạm đến các quyền của công dân, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, khắc phục tình trạng để án tồn đọng, kéo dài thời hạn giải quyết. Đề xuất với cấp ủy sở tại, chính quyền địa phương có giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề án: Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh hóa giai đoạn 2017-2020
- Phần 1. MỞ ĐẦU 1.1 Lý do lựa chọn đề án Cải cách tư pháp luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Bộ chính trị đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, trong đó có Nghị quyết Trung ương số 08/NQTW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ cấp bách trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49NQTW ngày 02/08/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Định hướng chỉ đạo trọng tâm là cải cách một bước cơ bản, toàn diện hoạt động điều tra, kiểm sát và xét xử. Nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phòng chống và xử lý tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ và tạo môi trường đầu tư thuận lợi, phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua Viện Kiểm Sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn có nhiều đổi mới trong công tác chỉ đạo, điều hành, tạo sự chuyển biến rõ nét trong công tác chuyên môn nghiệp vụ. Vai trò công tố được đề cao, trách nhiệm công tố được tăng cường. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự đã nâng cao chất lượng và hiệu quả, góp phần cùng các cơ quan tố tụng trong hoàn thành tốt nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Bỉm Sơn đã khởi tố điều tra bình quân 100 vụ án/150 bị can mỗi năm. Cùng với đó, phát sinh hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra tất cả các vụ án đã khởi tố, xử lý đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nhìn chung 5 năm gần đây[20112016], ba cơ quan tố tụng thị xã Bỉm Sơn đã giải quyết, xử lý gần 500 vụ án/ 700 bị cáo đều đảm bảo đúng qui định của luật tố tụng, đúng nội dung bản chất của vụ án.Trong đó có vai trò thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, 1
- đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thị xã, góp phần phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được,Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn còn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót trong hoạt động chuyên môn như: vẫn còn tình trạng chưa kiểm sát chặt chẽ, kịp thời việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, phê chuẩn bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, sau đó phải chuyển xử lý hành chính hoặc trả tự do, do hành vi chưa cấu thành tội phạm, việc truy tố còn thiếu sót dẫn đến có vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, nhiều vụ án kéo dài thời hạn giải quyết, còn để xảy ra một số trường hợp sai chưa kịp phát hiện những vi phạm trong hoạt động tư pháp để kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục….Tình trạng hạn chế trên đây vẫn còn xảy ra ở Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn . Trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, với vị trí, vai trò thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự mà pháp luật đã giao cho ngành kiểm sát nói chung, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn nói riêng, đang phải gánh vác một nhiệm vụ nặng nề là cùng các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý, giải quyết các vụ án hình sự. Hạn chế tối đa những sai sót, vi phạm trong quá trình tác nghiệp tránh bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. 1.2. Mục tiêu của đề án Mục tiêu chính của đề tài là “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh hóa giai đoạn 20172020”. Để thực hiện thành công và có hiệu quả chất lượng đề tài này, đặt ra mục tiêu cụ thể như sau: Phát hiện, chấn chỉnh kịp thời các vi phạm trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, không để xảy ra quá hạn giam giữ, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do không phạm tội, truy tố đúng người đúng tội, đúng Pháp luật. 2
- Ngăn chặn kịp thời những trường hợp xâm phạm đến các quyền của công dân, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, khắc phục tình trạng để án tồn đọng, kéo dài thời hạn giải quyết. Thông qua thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn tham mưu, đề xuất với cấp ủy sở tại, chính quyền địa phương có giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm. Đây là trách nhiệm chính trị lớn của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn trước Đảng, chính quyền và nhân dân trong thị xã, phấn đấu từ năm 2017– 2020 hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn đạt chất lượng về trình độ, kỹ năng thao tác chuyên môn nghiệp vụ đạt 95% trở lên, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp thực hiện quản lý Nhà nước bằng Pháp luật. 1.3 Nhiệm vụ của đề án 1.3.1 Thực hiện nghị quyết của Bộ chính trị Bộ chính trị đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, trong đó có Nghị quyết Trung ương số 08/NQTW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ cấp bách trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49NQTW ngày 02/08/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 1.3.2 Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát là Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. 1.3.3 Thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương Ngăn chặn kịp thời những trường hợp xâm phạm đến pháp luật hình sự, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Thông qua thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn tham mưu, đề xuất với cấp ủy sở tại, chính quyền địa phương có giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm. Đây là 3
- trách nhiệm chính trị lớn của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn trước Đảng, chính quyền và nhân dân trong thị xã, phấn đấu từ năm 2017 – 2020. 1.3.4 Thực hiện nghị quyết của chi bộ, chỉ tiêu nghiệp vụ của đơn vị đề ra. Thực hiện tốt nghị quyết của chi bộ đề ra trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phấn đấu thực hiện bằng và vượt chỉ tiêu nghiệp vụ của đơn vị đề ra trong từng thời kỳ. 1.4. Giới hạn của đề án 1.4.1 Phạm vi đối tượng Là hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra,xét xử các vụ án hình sự, được tổ chức triển khai thực hiện cho chính đơn vị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử án hình sự để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp nhằm nâng cao vị thế của ngành kiểm sát trong hoạt động tố tụng, đề án này được triển khai trên toàn đơn vị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, tất cả từ cán bộ nghiệp vụ, kiểm tra viên, kiểm sát viên, người giữ trọng trách như viện trưởng, phó viện trưởng đều phải tiếp tục học tập rèn luyện về trình độ kỹ năng công tác kiểm sát nói chung, vì trong các khâu kiểm sát thì thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án hình sự là khâu mũi nhọn của hoạt động kiểm sát. 1.4.2 Không gian Đề án Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự được triển khai thực hiện trong phạm vi địa bàn thị xã Bỉm Sơn do đội ngũ Cán bộ, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, lãnh đạo của đơn vị trực tiếp thực hiện. 1.4.3 Thời gian thực hiện đề án Quá trình triển khai thực hiện đề án, lãnh đạo đơn vị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bỉm Sơn phải có tổ chức họp rút kinh nghiệm kết quả thực hiện hằng năm 4
- nhằm tìm ra những ưu điểm đã đạt được trong quá trình hoạt động chuyên môn nghiệp vụ để phát huy, đồng thời cũng rút ra được những thiếu sót, tồn tại, vướng mắc, từ đó rút ra ở nguyên nhân chủ quan và khách quan, đề có biện pháp thảo luận, bàn bạc, khắc phục để các năm sau của quá trình thực hành đề án có chất lượng hiệu quả tốt hơn năm trước. Từ cơ sở thực tiễn đó, đơn vị tổ chức tổng kết thực tiễn thực hiện đề án triển khai từ đầu năm 2017 và kết thúc vào năm 2020. Phần 2. NỘI DUNG 2.1 Căn cứ xây dựng đề án 2.1.1 Căn cứ khoa học, lý luận 2.1.1.1 Căn cứ khoa học Các khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử hình sự * Khái niệm thực hành quyền công tố Thực hành quyền công tố giai đoạn điều tra, xét xử là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện trong giai đoạn điều tra, xét xử phát sinh từ khi thụ lý giải quyết tố giác tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố đến khởi tố, điều tra và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra và xét xử vụ án hình sự. * Khái niệm kiểm sát điều tra hình sự Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh trong giai đoạn điều tra, nhằm đảm bảo cho quá trình điều tra khách quan, toàn diện, đầy đủ của những vi phạm pháp luật, trong quá trình diều tra phải được phát hiện, khắc phục. * Khái niệm kiểm sát xét xử vụ án hình sự 5
- Kiểm sát xét xử vụ án hình sự là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm kiểm sát tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh trong giai đoạn xét xử vụ án, nhằm đảm bảo cho quá trình xét xử vụ án được khách quan toàn diện Từ các khái niệm nêu trên, các giai đoạn thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử được phân định như sau: Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Giai đoạn này theo quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự thì hoạt động hành quyền công tố và kiểm sát điều tra được phát sinh từ cơ quan cảnh sát điều tra quyết định thụ lý tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, các hoạt động bắt, tạm giữ hình sự cho đến quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tạm giam bị can, cho đến khi cơ quan kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra kèm theo vụ án chuyển đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can bằng một tội danh cụ thể. Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự, phát sinh từ khi Viện kiểm sát đã có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng chuyển theo hồ sơ sang Tòa án để xét xử theo thẩm quyền, Tòa án thụ lý đến khi tiến hành xét xử và bản án có hiệu lực pháp luật. Thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát là hai chức năng hoàn toàn độc lập của Viện kiểm sát, được phân định rõ ràng tại các điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hiện quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Trong hai chức năng hoàn toàn độc lập này đều do Viện kiểm sát tiến hành và luôn gắn bó với nhau. Khi một vụ án hình sự xảy ra, từ giai đoạn tiếp nhận tin tố giác tội phạm, khởi tố điều tra, xét xử thì Viện kiểm sát đồng bộ phải thực hiện cả hai chức năng này. Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội. Phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội 6
- phạm xảy ra và tiếp diễn suốt từ khởi tố, điều tra đến truy tố bị can ra tòa tranh tụng tại phiên tòa và kết thúc bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Thực hành quyền công tố ở Việt Nam chúng ta căn cứ vào các quy định của Hiến pháp và pháp luật và thực tiễn từ trước tới nay được giao cho duy nhất Viện kiểm sát. Vậy chủ thể thực hành quyền công tố ở Việt nam là Viện kiểm sát nhân dân. Như vậy chức năng này cũng phát sinh bắt đầu từ khi phát sinh tố tụng cho đến khi vụ án được đưa ra xét xử, án có hiệu pháp luật. Trách nhiệm của Viện kiểm sát có nhiệm vụ giám sát hoạt động của cơ quan điều tra từ khi thụ lí tin báo tố giác tội phạm, khởi tố điều tra vụ án, kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án từ khi Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can bằng cáo trạng chuyển sang tòa án để xét xử cho đến khi án có hiệu lực, kiểm sát hoạt động của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Nếu phát hiện vi phạm sẽ sử dụng thẩm quyền do pháp luật quy định để điều chỉnh. 2.1.1.2 Căn cứ lý luận Tiêu chí đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra xét xử các vụ án hình sự được xác định như sau: Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát, điều tra, xét xử các vụ án hình sự còn được đánh giá bằng việc thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu kế hoạch được giao. Các chỉ tiêu kế hoạch đó đều được thảo luận bàn bạc để đi đến xây dựng kế hoạch công tác từng năm của đơn vị trên cơ sở bám sát chỉ tiêu kế hoạch của ngành như: phấn đấu 100% án kiểm sát điều tra kết thúc trong thời hạn luật định, truy tố 100% án kết thúc điều tra đề nghị truy tố, không có án cải sửa, không có án bị hủy, không có án khởi tố sau đó phải đình chỉ do bị can không phạm tội, giảm đến mức tối thiểu án quá hạn, án trả hồ sơ điều tra bổ sung, không có oan, sai trong hoạt động công tố, kiểm sát điều tra xử vụ án hình sự, trong năm không có kiểm sát viên để thiếu sót trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ… Các tiêu chí phê chuẩn bắt giam đều đúng luật định …Kịp thời phát hiện sai sót của cơ quan tố tụng và có kiến nghị, kháng nghị hiệu quả, đây là tiêu 7
- chí hết sức quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động thực hàh quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử trong năm. Khai thác tối ưu nhất mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan cảnh sát điều tra, tòa án thị xã để nhằm thực hiện có hiệu qua chức năng công tố và chức năng kiểm sát trong cả hai giai đoạn điều tra và xét xử. Với cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã, trên cơ sở hoạt động độc lập theo pháp luật của từng ngành, còn phải mở ra quan hệ phối hợp, bàn bạc, giải quyết, xử lý những vụ việc phức tạp trên cơ sở tạo điều kiện cùng hoàn thành nhiệm vụ. Với cơ quan tòa án là cơ quan xét xử, viện kiểm sát hoạt động công tố và kiểm sát xét xử độc lập theo pháp luật nhưng không ngừng quan hệ phối hợp để bàn biện pháp giải quyết những vụ việc khó, phức tạp. Việc khai thác tối ưu quan hệ phối hợp 3 ngành tố tụng trong huyện tốt thì chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự cũng được nâng cao. Kiểm sát viên được phân công làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, xét xử phải có trách nhiệm bám sát diễn biến hoạt động điều tra, xét xử để kịp thời phát hiện thiếu sót để yêu cầu thực hiện đúng luật nhất là giai đoạn điều tra, kiểm sát viên phải theo sát điều tra viên để kịp thời chỉ đạo điều tra tránh sai sót cũng như thiếu tinh thần trách nhiệm trong điều tra. 2. 1.2 Căn cứ chính trị, pháp lý: 2.1.2.1 Căn cứ chính trị: a. Hệ thống các quan điểm của Đảng về vai trò của ngành kiểm sát trong thực hành quyền cồng tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự. Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Tiếp đó ngày 25/4/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện 8
- hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết số 49 về Chiến lược caỉ cách tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 79KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ chính trị theo tinh thần nghị quyết 49 vẫn giữ nguyên vị trí vai trò của ngành kiểm sát như hiện nay. Với 03 nghị quyết trên, Bộ Chính trị đã xác định các định hướng quan trọng, toàn diện cho Chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 và việc xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong đó, Nghị quyết số 49 xác định: Trước mắt VKSND giữ nguyên chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. VKSND được tổ chức phù hợp với tổ chức của tòa án và tăng cường trách nhiệm công tố trong trong hoạt động điều tra. Trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp, VKSND đã là cơ quan đi đầu, thực hiện có hiệu quả việc đổi mới sâu rộng cả về mặt tổ chức hoạt động, đội ngũ cán bộ, KSV đến phương pháp, phương châm thực hiện, đóng góp một phần quan trọng vào thành quả chung của sự nghiệp đổi mới của đất nước. Nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả của các khâu công tác và tổ chức hoạt động của ngành Kiểm sát, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, trong nhiều năm qua,Viện trưởng VKSNDTC đã ban hành nhiều Chỉ thị quán triệt VKSND các cấp tổ chức triển khai thực hiện nghiêm chủ trương cải cách tư pháp như: Các Chỉ thị về thực hiện nhiệm vụ công tác hằng năm của ngành Kiểm sát, Chỉ thị số 03/2008/CTVKSTCVPT1 ngày 19/6/2008 về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, Chỉ thị số 04/CTVKSTC VPT1 ngày 17/5/2012 về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm dân. Chỉ thị số 06/CTVKSTC ngày 05/11/2012 về tăng cường công tác thống kê và ứng dụng công nghệ thông tin, Chỉ thị số 04/CTVKSTC ngày 14/8/2013 về tăng cường công tác thanh tra, Chỉ thị số 06/CT VKSTC ngày 06/12/2013 về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, Chỉ thị số 05/CT VKSTC TTr ngày 31/3/2014 về tăng cường kỉ cương, kỉ luật công vụ và trật tự nội vụ, Chỉ thị số 08/CTVKSTC ngày 16/10/2014 về đổi 9
- mới nâng cao chất lượng công tác thi đua, khen thưởng...Ngoài ra, để thực hiện tốt nhiệm vụ của ngành, Viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao đã ban hành hệ thống các quy chế về hoạt động nghiệp vụ, thanh kiểm tra, thi đua khen thưởng, xây dựng ngành... Đặc biệt thời gian vừa qua, diễn ra một sự kiện chính trị quan trọng của ngành đó là Luật tổ chức Viện Kiểm Sát Nhân Dân sửa đổi đã được Quốc hội khóa XIII, kì họp thứ 8 thông qua ngày 21/11/2014. Với 6 chương 101 điều. Luật tổ chức Viện Kiểm Sát Nhân Dân năm 2014 tiếp tục khẳng định rõ hơn vị trí của Viện Kiểm Sát Nhân Dân là thiết chế hiến định trong bộ máy Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ pháp chế XHCN. Đây là một dự án luật công phu, khoa học, phù hợp thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức, kiện toàn bộ máy, nâng cao chất lượng mọi hoạt động của ngành kiểm sát. b. Nội dung, biện pháp thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự Nội dung biện pháp thực hành quyền công tố và điều tra, xét xử án hình sự tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân cấp huyện, thị cũng được cụ thể hóa tại Bộ luật tố tụng hình sự, luật tổ chức Viện Kiểm Sát Nhân Dân, các quy chế của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, các thông tư liên ngành. 2.1.2.2. Căn cứ pháp lý: a. Nhiệm vụ quyền hạn của Viện Kiểm Sát Nhân Dân cấp huyện, thị Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân thủ Pháp luật trong tố tụng hình sự. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Viện kiểm sát, kiểm sát việc tuân thủ theo Pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện 10
- pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố điều tra truy tố, xét xử thi hành án đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội (Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự). * Viện kiểm sát thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người đúng tội, đúng Pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội. Không để người nào bị khởi tố, bị bắt tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trước Pháp luật. Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: + Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trước pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. + Quyết định phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. + Hủy bỏ các quyết định tố tụng trước pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. 11
- + Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện. + Yêu cầu cơ quan điều tra, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội. + Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, tiến hành một số hoạt động điều tra làm rõ căn cứ, quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội. + Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của Pháp luật. + Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn trong quá trình điều tra, truy tố. + Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa. + Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. + Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự (Điều 3 – Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân – 2014) b. Trình tự thủ tục thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự * Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra Giai đoạn này được phát sinh từ khi cơ quan cảnh sát điều tra công an thị quyết định thụ lý tố giác và tin báo về tội phạm, trình tự của các giai đoạn này như sau: + Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố. Theo quy định tại điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự thì cơ quan điều tra có nhiệm vụ tổ chức tiếp nhận giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm quyền. Khi Viện kiểm sát nhân dân tiếp nhận được tin báo 12
- tố giác tội phạm phải kịp thời chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền để xác minh, giải quyết. Trong trường hợp cơ quan điều tra tiếp nhận tin báo tố giác tội phạm không ra quyết định giải quyết hoặc ra quyết định giải quyết nhưng không thông báo cho Viện kiểm sát thì lãnh đạo Viện kiểm sát phải cử ngay kiểm sát viên đã được phân công tiếp nhận và giải quyết tin báo tố giác tội phạm kiểm sát chặt chẽ tính có căn cứ của tin báo đó. Viện kiểm sát phải chủ động, không được thụ động ngồi chờ, quan hệ phối hợp để phân loại quyết tố giác tin báo, tố giác tội phạm phải được thực hiện thường xuyên giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Đối với những việc phức tạp cần có ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo mỗi ngành tố tụng trong thị xã. + Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự: Theo quy định tại điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp trong việc khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra, viện kiểm sát có quyền ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án không có căn cứ của cơ quan điều tra và ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra, nếu quyết định không khởi tố án hình sự, không có căn cứ và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự giao cho cơ quan điều tra để tiến hành điều tra. Do đó khi được phân công kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc gửi kịp thời quyết định khởi tố, quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra, tránh tình trạng là vụ án đã được khởi tố nhưng cơ quan điều tra không gửi kịp cho Viện kiểm sát, cơ quan điều tra chỉ gửi khi cần có sự phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc khi cần thiết phải có sự phê chuẩn lệnh tạm giam bị can… + Thực hành quyền công tố và kiểm sát khởi tố bị can: 13
- Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát ở đây chủ yếu là xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra (Điều 126 Khoản 4 Bộ luật tố tụng hình sự). Với việc quy định thẩm quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra là một bảo đảm quan trọng các quyền dân chủ của công dân trong tố tụng hình sự. Quyết định khởi tố bị can có ý nghĩa hoàn toàn khác với quyết định khởi tố vụ án vì quyết định khởi tố vụ án là hoạt động khởi động để cơ quan điều tra tìm kiếm dấu vết, tu thập chứng cứ chưa can thiệp sâu vào quyền cơ bản của công dân. Trong khi đó quyết định khởi tố bị can có ý nghĩa và ảnh hưởng rất lớn đối với người bị khởi tố bị can có ảnh hưởng sâu sắc tới sinh mạng chính trị, tới hình ảnh của bị can trong đời sống xã hội, tới tâm lý, tình cảm của người bị khởi tố. Chính vì vậy mà Pháp luật đã giao quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cho Viện kiểm sát và đó cũng là giao quyền quyết định cuối cùng cho viện kiểm sát đối với có khởi tố hay không khởi tố một công dân, mặc dù quyết định đó do cơ quan điều tra ban hành. Việc giao thẩm quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cho Viện kiểm sát nhằm đảm bảo việc khởi tố một công dân phải có căn cứ và đúng Pháp luật. Do đó khi nhận được quyết định khởi tố bị can và tài liệu có liên quan của cơ quan điều tra chuyển sang kiểm sát viên, chuyên viên được phân công phải nghiên cứu tài liệu, kiểm sát chặt chẽ tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định, quyết định khởi tố bị can. Tính có căn cứ của quyết định khởi tố bị can phải được phản ánh đầy đủ trong tài liệu gửi kèm, kiểm sát viên được phân công không được chỉ kiểm tra tính có căn cứ nêu trong quyết định khởi tố bị can. Tính có căn cứ nêu trong quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra chỉ có giá trị so sánh, khi tính có căn cứ được phản ánh trong các tài liệu gửi kèm. Tính có căn cứ của quyết định khởi tố bị can được thể hiện qua những chững cứ có trong tài liệu gửi kèm, khẳng định chính bị can là người đã thực hiện, người đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án và người thực hiện hành vi 14
- phạm tội đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội đó (Điều 12 Bộ luật hình sự) Tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị can thể hiện ở thủ tục ra quyết định và hình thức quyết định khởi tố bị can. Một quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm ra quyết đinh, họ tên, chức vụ người ra quyết định, dấu của cơ quan ra quyết định, họ tên, ngày tháng năm sinh, nghề nghiệp, hoặc hoàn cảnh gia đình của bị can, bị can bị khởi tố vì tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự, thời gian và địa điểm phạm tội và những tình tiết khác… Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra cần phải nhận thấy, nếu quyết định khởi tố bị can thỏa mãn hai điều kiện kiện trên thì kiểm sát viên làm báo cáo nói rõ tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị can và đề xuất lãnh đạo yêu cầu cơ quan cảnh sát điều tra thị xã ra quyết định đúng theo quy định của Pháp luật. Sau khi cơ quan điều tra đã đáp ứng đúng yêu cầu của Viện kiểm sát thì kiểm sát viên làm đề xuất đề nghị lãnh đạo viện phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Trong vòng 24h, kể từ khi ra quyết định hoặc yêu cầu Viện kiểm sát phải gửi cho cơ quan điều tra để thực hiện, đồng thời kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc thực hiện các quyết định và yêu cầu. Nếu cơ quan điều tra không thực hiện thì kiểm sát viên phải báo cáo kịp thời với lãnh đạo Viện kiểm sát để có biện pháp xử lý kịp thời theo quy định của Pháp luật. Ngoài các hoạt động nêu trên, kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các biện pháp điều tra do cơ quan điều tra áp dụng đối với người bị khởi tố trước khi có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Trước khi có sự phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra chỉ có quyền áp dụng một biện pháp duy nhất đó là tiến hành hỏi cung bị can ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can, các biện pháp điều tra khác mà Pháp luật quy định, chỉ áp dụng đối với bị can như áp giải bị can (Điều 130 Bộ luật tố tụng hình sự) ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam…(các Điều 80, 88, 91, 92, 93, 146,…Bộ luật tố tụng hình sự) thì cơ quan 15
- điều tra không được áp dụng, các biện pháp này chỉ được áp dụng khi quyết định khởi tố bị can đã được Viện kiểm sát phê chuẩn. * Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự: Phạm vi thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự ( xét xử sơ thẩm) được bắt đầu từ khi bản cáo trạng và quyết định truy tố của Viện kiểm sát cùng hồ sơ vụ án đã được chuyển đến Tòa án cho đến khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Giai đoạn này thì vị trí chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự đã được quy định tại Mục 4 Chương II Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát và các Điều 206, 207, 217 Bộ luật tố tụng hình sự thì tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự thì kiểm sát viên phải thực hiện nhiệm vụ theo quy định cụ thể. Pháp luật còn quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong thực hiện công tác kiểm sát xét vụ án hình sự. Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm sát tuân thủ theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, như kiểm sát thời hạn đưa vụ án ra xét xử, thời hạn mở phiên tòa (Điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự), kiểm sát nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự)…, kiểm sát việc tiến hành thủ tục tố tụng của hội đồng xét xử, của những người triệu tập đến phiên tòa…nếu phát hiện thấy Tòa án hoặc hội đồng xét xử có vi phạm pháp luật thì kiểm sát viên phải có ý kiến kịp thời, kiến nghị Tòa án, hội đồng xét xử khắc phục những thiếu sót vi phạm. 16
- Thực hành quyền công tố tại phiên tòa và kiểm sát tuân theo pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự là hai nhiệm vụ khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau để cùng thực hiện tốt chức năng kiểm sát. Trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Có những thao tác nghiệp vụ bằng quyết định là: Phân công, thay đổi kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm. Phân công kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm, việc phân công kiểm sát viên giải quyết từng vụ án cụ thể. Trong trường hợp kiểm sát viên phải từ chối tiến hành tố tụng thì quy định tại Điều 45 Bộ luật tố tụng hình sự, kiểm sát viên có thể bị thay đổi nếu thuộc các trường hợp quy định tại Điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, khi phân công kiểm sát viên, lãnh đạo Viện kiểm sát thị xã phải chú ý điều này: không để xảy ra trường hợp Tòa án hoặc những người tham gia tố tụng tại phiên tòa đề nghị thay đổi kiểm sát viên. Kiểm sát viên khi được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử đối với vụ án, nếu gặp những trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng quy định ở Điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự thì phải chủ động báo cáo với viện trưởng hoặc phó viện trưởng phụ trách để cử kiểm sát viên khác thay thế. Việc thay đổi kiểm sát viên (Điều 43 Bộ luật tố tụng hình sự) thì viện trưởng là người quyết định việc có thể thay đổi hoặc không thay đổi (phó viện trưởng phụ trách nêu ra quyết định phải được viện trưởng phân công). Nếu Viện kiểm sát ra quyết định không thay đổi kiểm sát viên thì phải có văn bản nói rõ về việc không thay đổi. Về việc có mặt của kiểm sát viên tại phiên tòa Điều 184 Bộ luật tố tụng hình sự quy định tại phiên tòa kiểm sát viên, viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa. Vì vậy ngay sau khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử, Viện kiểm sát phải chủ động sắp xếp phân công kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Trước khi tham gia phiên tòa, kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của kiểm sát viên khi được phân công thực hành quyền 17
- công tố và kiểm sát xét xử. Chỉ có nghiên cứu kỹ hồ sơ, nắm vững nội dung vụ án thì kiểm sát viên mới có thể hoàn thành việc buộc tội bị cáo trước tòa. Nếu không nắm vững hồ sơ thì chất lượng tham gia xét xử của kiểm sát viên sẽ không đạt yêu cầu và không sử dụng nhuần nhuyễn các chứng cứ buộc tội khi luận tội. Do đó, lời buộc tội của kiểm sát viên sẽ kém thuyết phục. Không nghiên cứu kỹ hồ sơ là việc làm thiếu trách nhiệm và thường dẫn đến tình trạng lúng túng, bị động (thực tiễn này đã rút kinh nghiệm nhiều phiên tòa, trong nhiều năm, phiên tòa nào kiểm sát viên nghiên cứu kỹ hồ sơ thì chất lượng công tố đạt kết quả tốt và ngược lại). Việc báo cáo của kiểm sát viên, trước khi tham gia phiên tòa, kiểm sát viên phải cáo báo với lãnh đạo viện về việc giải quyết vụ án, nội dung này được quy định tại Điều 6 quy chế kiếm sát xét xử. + Năm là hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm ở giai đoạn trước khi mở phiên tòa. Chuẩn bị đề cương xét hỏi và chuẩn lời luận tội: Trước khi tham gia phiên tòa, kiểm sát viên phải làm cho được dự thảo, đề cương tham gia xét hỏi. Mục đích của việc xét hỏi là để nhằm làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo (trên cơ sở yếu tố cấu thành tội phạm và dấu hiệu đặc trưng của tội phạm cụ thể). Để chủ động, kiểm sát viên cần dự kiến những tình huống diễn biến có thể xảy ra tại phiên tòa như (thái độ, tâm lý của bị cáo, khă năng phản cung, thay đổi lời khai của bị cáo so với lời khai ở giai đoạn điều tra…) Cũng cần dự báo trước những vấn đề mà luật sư sẽ hỏi, sẽ nêu ra tại phiên tòa để chủ động, tự tin khi tranh luận. Kiểm sát hoạt đông của Tòa án trước khi mở phiên tòa. Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, ngoài việc thực hành quyền công tố kiểm sát viên còn nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng. Hoạt động kiểm 18
- sát xét xử không phải là để cản trở việc xét xử mà là tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử giải quyết vụ án một cách đúng pháp luật, khách quan, toàn diện, bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia phiên tòa. Do đó, để đạt được mục đích trên, khi tiến hành kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc tiến hành các thủ tục tố tụng của Tòa án, của Hội đồng xét xử ở từng giai đoạn cụ thể, kiểm sát việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng. Ngoài ra kiểm sát viên còn phải kiểm sát chặt chẽ các nội dung như: Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn của Tòa án (Điều 177 Bộ luật tố tụng hình sự, việc chấp hành Pháp luật của Tòa án về thời hạn chuẩn bị xét xử (Điều 176 Bộ luật tố tụng hình sự), nội dung quyết định mở phiên tòa (Điều 178 Bộ luật tố tụng hình sự), việc giao quyết định của Tòa án, việc tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án. Việc kiểm sát tuân theo Pháp luật tại phiên tòa của Viện kiểm sát. Tại phiên tòa ngoài nhiệm vụ bảo vệ cáo trạng và quan điểm truy tố của Viện kiểm sát (thực hiện quyền công tố trước tòa), kiểm sát viên còn có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm sát hoạt động xét xử và của những người tham gia tố tụng, nhằm bảo đảm cho hoạt động xét xử của Tòa án đũng nghĩa, đúng tội đúng pháp luật và công minh, quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng được bảo đảm, tôn trọng quy trình xét xử. Tại phiên tòa, kiểm sát viên cần kiểm sát các hoạt động sau đây của hội đồng xét xử: Kiểm sát thủ tục bắt đầu phiên tòa. Khi bắt đầu phiên tòa chủ tọa phiên tòa phải đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thư ký phiên tòa báo cáo danh sách có mặt của những người được triệu tập đến phiên tòa. Sau phần kiểm tra căn cước của những người tham gia tố tụng, Chủ tọa phiên tòa giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của những người này (Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự) 19
- Sau khi nghe Chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, sau khi nghe Thư ký phiên tòa đọc danh sách có mặt của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên phải kiểm tra ngay thành phần Hội đồng xét xử xem có đúng với thành phần được nêu trong quyết định đưa vụ án ra xét xử mà Tòa án đã gửi cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng có liên quan không, kiểm tra danh sách những người được triệu tập đển phiên tòa và danh sách có mặt của họ tại phiên tòa xem có phù hợp nhau không hoặc thiếu vắng một ai không. Trước khi Hội đồng xét xử chuyển sang phần xét hỏi, kiểm sát viên cần chú ý yêu cầu Hội đồng xét xử quan tâm những trường hợp sau: Trường hợp Pháp luật quy định bị cáo bắt buộc phải có mặt tại phiên tòa: Trong trường hợp bị cáo vắng mặt thì Tòa án có thể tiến hành xét xử trong các trường hợp sau: Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa được Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ (Điều 187, Khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự) Trường hợp Pháp luật quy đinh bắt buộc phải có người bào chữa mà người bào chữa vắng mặt tại phiên tòa (Điều 157, khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự) Trường hợp người làm chứng, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người giám định, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người phiên dịch vắng mặt. Nếu sự vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử vụ án hình sự thì Hội đồng xét xử cũng phải hoãn phiên tòa (Điều 191, khoản 1, Điều 192 Bộ luật tố tụng hình sự) Xong các thủ tục ban đầu, chuyển sang phần xét hỏi: Trước khi tiến hành xét hỏi: Đại diện Viện kiểm sát là kiểm sát viên giữ quyền công tố đọc cáo trạng (Điều 206 Bộ luật tố tụng hình sự) Hội đồng xét xử tiến hành xét hỏi bị cáo. Ngoài việc Hội đồng xét xử tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên cũng tham gia xét xử tại phiên tòa, nhằm củng cố làm 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại thành phố Đà Nẵng
7 p | 2999 | 616
-
Lập và thẩm định dự án - phần 1 Nguyễn Quốc Ân
61 p | 952 | 616
-
Bài thuyết trình tình hình xuất khẩu gạo việt nam giai đoạn 2006-2012
31 p | 768 | 119
-
Đề án: " Phát triển Giáo dục mầm non 2010- 2015"
2 p | 1227 | 118
-
GẠCH ỘP LÁT HÀ NỘI
3 p | 421 | 99
-
BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỌC TẬP TRONG SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM KỸ THUẬT VĨNH LONG
7 p | 191 | 50
-
Nâng cao chất lượng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
11 p | 221 | 45
-
Lập dự án miễn phí Trạm dừng chân Dầu Giây - Tâm Châu
5 p | 253 | 44
-
Qủan lý nội tại hiệu quả
14 p | 133 | 26
-
Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành thủy sản bằng việc nâng cao chất lượng nuôi trồng và chế biến - 6
8 p | 93 | 23
-
Bảo hộ mậu dịch
24 p | 301 | 19
-
Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành thủy sản bằng việc nâng cao chất lượng nuôi trồng và chế biến - 8
8 p | 100 | 13
-
Chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại các ngân hàng thương mại
8 p | 128 | 12
-
Bài giảng Quản lý dự án - Phan Thế Vinh
152 p | 106 | 11
-
Nâng cao lợi thế cạnh tranh của cá tra Việt Nam trên thị trường quốc tế
7 p | 231 | 9
-
Tiểu luận: Điều tra viên thực hiện sai phương án trong Tổng điều tra kinh tế năm 2021. Trách nhiệm xử lý thuộc về ai?
20 p | 50 | 9
-
TÓM TẮT CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU THỰC HÀNH GIÁO DỤC SONG NGỮ TRÊN CƠ SỞ TIẾNG MẸ ĐẺ: HƯỚNG TỚI NỀN GIÁO DỤC CÓ CHẤT LƯỢNG VÀ BÌNH ĐẲNG.
8 p | 89 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn