intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề Tài: Bài tập lớn hiến pháp.vch. thí điểm bỏ hội đồng nhân dân - thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: Vu Conghuan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:48

198
lượt xem
35
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 nước ta là một nước quân chủ chuyên chế nên không có hiến pháp. Để phục vụ cho công cuộc cai trị đất nước chế độ phong kiến ở nước ta đã xây dựng được một bộ máy nhà nước chuyên chế tập quyền khá hoàn chỉnh. Và đây là công cụ đắc lực cho việc xác lập quyền thống trị của giai cấp phong kiến.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề Tài: Bài tập lớn hiến pháp.vch. thí điểm bỏ hội đồng nhân dân - thực trạng và giải pháp

  1. Bài luận Thí điểm bỏ HĐND cấp Huyện - thực trạng và giải pháp để ngiên cứu. 1
  2. MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG BÀI Hội đồng nhân dân: HĐND Uỷ ban nhân dân: UBND Mặt trận tổ quốc: MTTQ MỤC LỤC: A. MỞ ĐẦU........................................................................................ Trang 1. 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... tr 1. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ tr 2. 3. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ tr 2. 4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... tr 2. 5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu ................................................................. tr 3. 6. phương pháp nghiên cứu ....................................................................... tr 3. 7. bố cục đề tài........................................................................................... tr 3. B. NỘI DUNG............................................................................................................ tr 4. Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN .......... tr 4. 1.1. Khái niệm có liên quan ...................................................................... tr 4. 1.2. Lịch sử hình thành hội đồng nhân dân ............................................... tr 6. 1.3. Vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân........................... tr 8. 1.4. Các nhiệm vụ quyền hạn của HĐND ở nước ta. ................................ tr 9. Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN Ở CẤP HUYỆN. ............................................ tr 14. 2.1. một số vấn đề lý luận ....................................................................... tr 14. 2.1.1. Lý do không tổ chức hội đồng nhân dân quận huyện. .................. tr 15. 2.1.2. Lý do nên tiếp tục tổ chức hội đồng nhân dân cấp huyện............. tr 27 2.1.3. Ý kiến chủ quan của bản thân. ...................................................... tr 32. 2.2. thực tiễn thực hiện thí điểm bỏ hội đồng nhân dân cấp huyện ở huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. ............................................................................. tr 33. 2.2.1. tình hình kinh tế xã hội huyện Triệu phong. ................................. tr 33. 2
  3. 2.2.2. Một số kết quả của việc thực hiện thí điểm bỏ HĐND huyện ở huyện Triệu Phong trong thời gian qua............................................................ .tr 34. Chương 3: GIẢI PHÁP ....................................................................................... tr 42. C. KẾT LUẬN........................................................................................... tr 44. D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 3
  4. A. MỞ ĐẦU. 1. lý do chọn đề tài. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 nước ta là một nước quân chủ chuyên chế nên không có hiến pháp. Để phục vụ cho công cuộc cai trị đất nước chế độ phong kiến ở nước ta đã xây dựng được một bộ máy nhà nước chuyên chế tập quyền khá hoàn chỉnh. Và đây là công cụ đắc lực cho việc xác lập quyền thống trị của giai cấp phong kiến. Đến Khi thực dân Pháp vào xâm lược và đô hộ nước ta đã làm cho nền kinh tế xã hội có sự chuyển biến sâu sắc. Thời kỳ này ngoài việc vơ vét của cải tài nguyên thiên nhiên thực dân pháp còn mang vào nước ta một nền văn hóa mới. Lúc đó trong xã hội đã có sự phân hóa những giai cấp mới và cùng với nó là sự xuất hiện tư tưởng lập hiến và xây dựng lại bộ máy nhà nước theo xu hướng mới. Sau khi cách mạng tháng 8-1945 thắng lợi, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan phong kiến. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, kể từ đây lịch sử dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam đã bước sang một trang mới, một thời kỳ mới với việc thiết lập một chế độ mới, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Các tầng lớp nhân dân lao động đã làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, được hưởng đầy đủ các quyền công dân của một quốc gia, trong đó có các quyền cơ bản như quyền tự do dân chủ, quyền bầu cử, ứng cử đã được ghi nhận lần đầu tiên trong bản Hiến pháp của nước ta được Quốc hội khoá I thông qua năm 1946. Cũng từ đây, bộ máy nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã được thiết lập, nhân dân đã lần đầu tiên thực hiện quyền bầu cử để bầu ra chính quyền các cấp, trong đó có chính quyền địa phương (gồm: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp). Chức năng, quyền hạn, tên gọi và số lượng các cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra trong bộ máy nhà nước đã có nhiều thay đổi. Và nhìn chung xu hướng sửa đổi hiện nay là nhằm rút gọn bộ máy nhà nước, giúp cho các cơ quan hoạt động có chất lượng và hiệu quả hơn. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải có những xử lý linh hoạt để thích ứng với 4
  5. những biến động của kinh tế thị trường. Để không bị “hoà tan” trong vòng xoáy đó, đưa đất nước ta hoàn thành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội thì chúng ta phải xây dựng hệ thống chính quyền ngày càng hoàn thiện và vững chắc. Chính vì lẽ đó mà ngày 15 tháng 11 năm 2008 tại kỳ họp thứ tư ,Quốc hội khóa XII, đã thông qua nghị quyết số 26/2008/NQ-QH12 về thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân Huyện, Quận, Phường”. Tuy nhiên nghị quyết này vẫn còn nhiều vấn đề cần phải xem xét lại. Đây cũng chính là mục đích của nhà nước ta nhằm đưa ra thảo luận công khai, lấy ý kiến nhân dân cũng như khảo nghiệm thực tế để có thể xem xét một cách đúng đắn là có nên áp dụng trên phạm vi cả nước hay không. Đây là một vấn đề mang tính thực tiễn đời sống xã hội. Là một sinh viên luật tôi cũng muốn góp một phần trí tuệ của mình và thực hiện đầy đủ quyền công dân của bản thân trong việc xem xét, xác định tính đúng sai của giải pháp trên để nhà nước có thể tham khảo và thực hiện chính sách đúng đắn. Vì vậy mà tôi đã lựa chọn đề tài : “Thí điểm bỏ HĐND cấp Huyện - thực trạng và giải pháp” để ngiên cứu. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu nhằm tìm ra những mặt tích cực cũng như những mặt hạn chế trong việc thí điểm bỏ HĐND huyện hiện nay. Từ đó đưa ra được kiến nghị về việc bỏ hội đồng nhân dân là hợp lý hay không hợp lý, giúp nhà nước có thể đưa ra những quyết định đúng đắn. Để xây dựng một bộ máy nhà nước vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. 3. Đối tượng nghiên cứu. - Cơ cấu tổ chức và Hoạt động của HĐND nói chung và hội đồng nhân dân cấp huyện nói riêng. 4. Phạm vi nghiên cứu. 5
  6. Chỉ nghiên cứu trên phạm vi hẹp là các tỉnh thưc hiện thí điểm bỏ HĐND cấp huyện. Mở rộng một phần nghiên cứu bộ máy nhà nước ta ở địa phương, kể cả các tỉnh không tham gia thí điểm. 5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu. Nghiên cứu về việc nhà nước thí điểm bỏ HĐND cấp huyện có ý nghĩa vô cùng quan trọng: - giúp bản thân hiểu hơn về vấn đề, rèn luyện được các kĩ năng sử dụng tài liệu và phân tích tài liệu. - từ những phân tích, đánh giá về đề tài có thể đóng góp ý kiến của mình tới các cơ quan có thẩm quyền. - đây có thể là tài liệu tham khảo cho những cá nhân tổ chức có quan tâm đến đề tài. 6. Phương pháp nghiên cứu. - phương pháp thống kê thu thập tài liệu. - Phương pháp phân tích và xử lý tài liệu. - Nêu ví dụ, dẫn chứng để chứng minh. - phương pháp so sánh. 7. Bố cục đề tài. Bài làm gồm 3 phần Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Phần nội dung chuyên đề gồm 3 chương: - chương 1: Môt số vấn đề lý luận về Hội đồng nhân dân. - chương 2: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc không tổ chức hội đồng nhân dân ở cấp quận, huyện. - chương 3: Giải pháp. 6
  7. B. NỘI DUNG. Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN Vấn đề tổ chức lại bộ máy chính quyền địa phương các cấp, đặc biệt là việc tổ chức hay không tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) ở một số loại đơn vị hành chính đã được giới học giả quan tâm và được Đảng và Nhà nước ta đề cập đến ngay từ cuối những năm 90, cùng với việc nghiên cứu đổi mới hệ thống chính trị và ban hành Hiến pháp năm 1992. Tuy nhiên, qua hai lần ban hành. Gần đây nhất, vấn đề đã được đặt ra một cách trực diện khi Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành trung ương khóa X (năm 2007) đã chỉ rõ: đối với chính quyền nông thôn không tổ chức HĐND ở huyện; đối với chính quyền đô thị không tổ chức HĐND ở quận và phường. Đây có thể coi là một định hướng đổi mới rất cơ bản về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương ở nước ta trong thời kỳ đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường, phù hợp mục tiêu cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây cũng là kết quả của sự tìm tòi nghiên cứu lựa chọn mô hình tổ chức phù hợp với những thay đổi về vai trò, chức năng của bộ máy nhà nước nói chung, của từng cấp chính quyền địa phương nói riêng trong thời kỳ mới. Vậy đâu là cơ sở khoa học của định hướng đó. Để trả lời được câu hỏi này chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu sâu hơn vể cơ sở lý luận của vấn đề này. 1.1 .khái niệm có liên quan Ngay từ xa xưa, Nguyễn Trãi đã khẳng định “đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Nhà nước ta mạnh hay yếu phụ thuộc vào sự đồng thuận về ý Đảng, lòng dân. Thấy được tầm quan trọng của sức dân trong quá trình xây dựng đất nước nên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, thiết chế HĐND đã được xác lập. 7
  8. Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân cùng với Quốc hội hợp thành hệ thống cơ quan nhà nước và là gốc của chính quyền nhân dân. Các cơ quan nhà nước khác đều do Quốc hội và Hội đồng nhân dân thành lập. Khác với Quốc hội là cơ quan thay mặt toàn thể nhân dân cả nước, sử dụng quyền lực trên phạm vi toàn quốc, Hội đồng nhân dân thay mặt nhân dân địa phương sử dụng quyền lực nhà nước trong phạm vi địa phương mình. Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương (Điều 1 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Và tại khoản 2 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 cũng đã nêu rõ khái niệm Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn. 8
  9. Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở. 1.2. Lịch sử hình thành hội đồng nhân dân. Trong lịch sử xã hội loài người đã trải qua năm hình thái xã hội, bốn kiểu nhà nước và cứ mỗi kiểu nhà nước quyền tự chủ, tự quản của cộng đồng dân cư ngày càng thừa nhận và nâng cao. Quyền đó đã dần được đưa vào cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước và được thể hiện rõ nhất ở các hình thức quản lý dân chủ, tự quản. nhưng mãi đến kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa, phương thức tổ chức chính quyền địa phương mới dựa trên quan điểm thừa nhận quyền lực nhân dân của từng cộng đồng lãnh thổ. Ở nước ta, việc tổ chức cơ quan chính quyền địa phương về cơ bản cũng tuân theo các nguyên tắc trên. Như vậy, đến Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì mô hình chính quyền địa phương là một cơ quan đại diện quyền lực Nhà nước của nhân dân trên địa bàn lãnh thổ (Xô viết, Hội đồng) do nhân dân địa phương bầu ra, vừa đại diện cho nhân dân địa phương, vừa đại diện cho cơ quan nhà nước cấp trên - là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Nhìn chung thì chính quyền ở địa phương vừa bảo đảm về lợi ích của nhân dân địa phương, vừa đảm bảo lợi ích của nhà nước. Sau khi cách mạng tháng 8-1945 thắng lợi, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan phong kiến. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, kể từ đây lịch sử dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam đã bước sang một trang mới, một thời kỳ mới với việc thiết lập một chế độ mới, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Các tầng lớp nhân dân lao động đã làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, được hưởng đầy đủ các quyền công dân của một quốc gia, trong đó có các quyền cơ bản như quyền tự do dân chủ, quyền bầu cử, ứng cử đã được ghi nhận lần đầu tiên trong bản Hiến pháp của nước ta được Quốc hội khoá I thông qua năm 1946 (tại mục B, chương 2 Hiến pháp 1946). Cũng từ đây, bộ máy nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã được thiết lập, nhân dân đã lần đầu tiên thực hiện quyền bầu 9
  10. cử để bầu ra chính quyền các cấp, trong đó có chính quyền địa phương (gồm:Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp). Kể từ đó đến nay, đã 67 năm qua, mặc dù có những sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của đất nước nhưng dù trong hoàn cảnh, điều kiện nào (thời chiến hay thời hoà), chính quyền các cấp nói chung và chính quyền địa phương (trong đó có Hội đồng nhân dân) đã làm tròn vai trò là cơ quan quyền lực của nhân dân. Nhờ vậy, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được đảm bảo và mở rộng hơn. Ngược dòng lịch sử, chúng ta sẽ thấy rằng trong Hiến pháp 1946 đã dành hẳn một chương để quy định về tổ chức và hoạt động Hội đồng nhân dân (ChươngV của Hiến pháp 1946), cụ thể tại Điều 58 đã nêu “Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông, trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Ủy ban hành chính. Ở bộ và huyện, chỉ có Ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Ủy ban hành chính huyện do Hội đồng các xã bầu ra”. Như vậy, ngay từ lúc mới thành lập, Hội đồng nhân dân chỉ có 02 cấp, đó là cấp tỉnh và cấp xã (không có cấp huyện như ngày nay). Đến Hiến pháp 1959, quy định về tổ chức của Hội đồng nhân dân các cấp cũng đã có sự thay đổi so với trước, cụ thể tại Điều 78 nêu “Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương;Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã;Huyện chia thành xã, thị trấn.Các đơn vị hành chính trong khu vực tự trị do luật định”. Điều 79 quy định: “Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính.Các thành phố có thể chia thành khu phố có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính theo quyết định của Hội đồng Chính phủ”. Theo quy định trên thì Hội đồng nhân dân đều được thành lập ở các cấp (tỉnh, huyện, xã), như vậy hiến pháp cho phép tổ chức hội đồng nhân dân cấp huyện. 10
  11. tuy nhiên, cũng cần lưu ý thêm là trong thời kỳ này do hoàn cảnh, điều kiện của đất nước còn chiến tranh, nên Hiến pháp còn quy định thêm về tổ chức của hội đồng nhân dân các khu tự trị (Điều 92 Hiến pháp 1959). Kế thừa những quy định của Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 vẫn tiếp tục ghi nhận các quy định về tổ chức Hội đồng nhân dân các cấp (thành lập Hội đồng nhân dân ở 3 cấp: tỉnh, huyện, xã), nhưng cũng thấy rằng đây là thời kỳ đất nước đã thống nhất toàn vẹn lãnh thổ nên không còn ghi nhận quy định về việc tổ chức Hội đồng nhân dân của các khu tự trị như hiến pháp 1959 nữa 1.3. Vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân. Vị trí, tính chất, chức năng của hội đồng nhân dân được quy định tại điều 119, Điều 120 Hiến pháp năm 1992 và cụ thể hóa tại luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003. Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo các nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Hội đồng nhân dân cùng với Quốc hội hợp thành hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, thay mặt nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước và là cái gốc của chính quyền nhân dân. Các cơ quan nhà nước khác đều do Quốc hội và Hội đồng nhân dân thành lập. Khác với Quốc hội là cơ quan thay mặt toàn thể nhân dân cả nước, sử dụng quyền lực nhà nước trên phạm vi toàn quốc., hội đồng nhân dân thay mặt nhân dân địa phương sử dụng quyền lực nhà nước trong phạm vi địa phương mình. Điều này quyết định phạm vi, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân trong Nhà nước ta là những tổ chức chính quyền gần gũi dân nhất, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân, nắm vững đặc điểm của địa phương, do dó nắm và quyết định mọi công việc sát hợp với 11
  12. nguyện vọng của nhân dân địa phương. Hội đồng nhân dân còn là một tổ chức có tính chất quần chúng , bao gồm các đại biểu của mọi ầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, những công dân, nông dân, trí thức ưu tú cùng nhau bàn bạc và giải quyết mọi công việc quan trọng của địa phương. Như vậy, hội đồng nhân dân vừa là một tổ chức có tính chất chính quyền, vừa có tính chất quần chúng, vừa là trường học quản lý nhà nước, quản lý địa phương. Nhân dân lao dộng làm chủ không chỉ ở từng địa phương mà còn làm chủ trên phạm vi cả nước. Do đó, hội đồng nhân dân không chỉ chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương mà còn phải chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên. Hội đồng nhân dân một mặt phải chăm lo xây dựng địa phương về mọi mặt, bảo đảm phát triển kinh tế và văn hóa nhằm nâng cao đời sống nhân dân địa phương, mặt khác phải hoàn thành nhiệm vụ do cấp trên giao cho. Xuất phát từ những quy định của hiến pháp và luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003 thì hội dồng nhân dân có ba chức năng lớn. Đó là quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương; Đảm bảo thực hiện các quy định và quyết định của của quan nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương; thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của ủy ban thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, tòa án,viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và cá tổ chức kinh tế xã hội khác trên địa phương. Các chức năng của hội đồng nhân dân được luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003 cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, quyền hạn. Vậy hội đồng nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn như thế nào? 1.4. Các nhiệm vụ quyền hạn của HĐND ở nước ta. Nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng nhân dân các cấp về cơ bản là giống nhau. Nhưng do đặc thù phạm vi tác động rộng, hẹp khác nhau nên ở mỗi cấp lại có một sự thay đổi để phù hợp. Do mục đích của bài nghiên cứu như đã nói ở trên tôi sẽ đi sâu vào phân tích nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng nhân dân cấp huyện ở nước ta. 12
  13. - Về kinh tế: quy định trong chương II( luật tổ chức HĐND và UBND) tại điều 19. Quyết định quy hoạch, kế hoạch dài hạn và hàng năm về phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng đất đai, phát triển ngành và quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị, nông thôn trong phạm vi huyện mình quản lý; lĩnh vực đầu tư và quy mô vốn đầu tư theo phân cách của Chính phủ; Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công ở địa phương và thông qua cơ chế khuyến khích phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển các thành phần kinh tế ở địa phương; bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế theo quy định của pháp luật; Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện; dự toán thu, chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách huyện mình; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện ngân sách địa phương; điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết; giám sát việc thực hiện ngân sách đã được HĐND quyết định; Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách ở địa phương theo quy định của Luật ngân sách nhà nước; Quyết định thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân trong huyện và mức huy động vốn theo quy định của pháp luật; Quyết định phương án quản lý, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực ở địa phương; Quyết định biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu và gian lận thương mại. - Về văn hóa- xã hội: quy định trong chương II ( Luật tổ chức HĐND và UBND) tại điều 20. Quyết định chủ trương, biện pháp phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo; quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giáo dục mầm non, giáo 13
  14. dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp; bảo đảm cơ sở vật chất và điều kiện cho các hoạt động giáo dục, đào tạo ở huyện mình; Quyết định chủ trương, biện pháp phát triển sự nghiệp văn hoá, thông tin, thể dục thể thao; biện pháp bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hoá trong địa bàn huyện; biện pháp bảo đảm cơ sở vật chất và điều kiện cho các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao ở địa phương theo quy định của pháp luật. Quyết định chủ trương, biện pháp phát triển nguồn nhân lực, sử dụng lao động, giải quyết việc làm và cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt của người lao động, bảo hộ lao động; thực hiện phân bổ dân cư và cải thiện đới sống nhân dân ở huyện mình. Quyết định biện pháp giáo dục, bảo vệ, chăm sóc thanh niên và nhi đồng; xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá; giáo dục truyền thống đạo đức tốt đẹp, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc; biện pháp ngăn chặn việc truyền bá văn hoá phẩm phản động, đồi truỵ, bài trừ mê tín, hủ tục và phòng, chống các tệ nạn xã hội, các biểu hiện không lành mạnh trong đời sống xã hội ở địa phương. Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới khám, chữa bệnh; biện pháp bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo vệ và chăm sóc người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; bảo vệ, chăm sóc bà mẹ, trẻ em; thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; phòng, chống dịch bệnh và phát triển y tế ở địa bàn huyện. Quyết định biện pháp thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, những người và gia đình có công với nước; thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và xoá đói, giảm nghèo. - Về khoa học, công nghệ, tài nguyên môi trường: quy định trong chương II (Luật tổ chức HĐND và UBND) tại điều 21( HĐND cấp huyện). Quyết định chủ trương, biện pháp khuyến khích việc nghiên cứu, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân ở địa phương. 14
  15. Quyết định biện pháp quản lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguốn lợi ở vùng biển tại địa phương theo quy định của pháp luật. Quyết định biện pháp bảo vệ môi trường; phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt, suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường ở địa phương theo quy định của pháp luật. Quyết định biện pháp thực hiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm; ngăn chặn việc sản xuất và lưu hành hàng giả, kém chất lượng tại địa phương, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. - Về lĩnh vực an ninh- quốc phòng, trật tự an toàn xã hội: quy định trong chương II ( Luật tổ chức HĐND và UBND) tại điều 22. Quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh và thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng dự bị động viên ở địa phương. Quyết định biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phòng ngừa, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa phương. - Về thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo: quy định trong chương II ( Luật tổ chức HĐND và UBND) tại điều 23. Quyết định biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân trí của đồng bào các dân tộc thiểu số, bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tăng cường đoàn kết toàn dân và tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc ở trên địa bàn huyện. Quyết định biện pháp thực hiện chính sách tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật; bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân ở địa phương theo quy định của pháp luật. - Trong lĩnh vực thi hành pháp luật và xây dựng chính quyền và quản lý địa giới hành chính tại địa phương được quy định tại chương II( Luật tổ chức HĐND và UBND) tại điều 24 và điều 25. 15
  16. Quyết định biện pháp bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của mình ở đại phương. Quyết định biện pháp bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân; Quyết định biện pháp bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước; bảo hộ tài sản của cơ quan, tổ chức và cá nhân ở địa phương; Quyết định biện pháp bảo đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cùa công dân theo quy định của pháp luật. Trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính: Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của UBND, trưởng Ban và các thành viên khác của các Ban của HĐND, Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân cấp huyện; bãi nhiệm đại biểu HĐND và chấp nhận việc đại biểu HĐND xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu theo quy định của pháp luật; Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu; Phê chuẩn cơ cấu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân cấp huyện, quyết định thành lập, sáp nhập, giải thể một số cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện theo hướng dẫn của Chính phủ. Quyết định tổng biên chế sự nghiệp ở địa phương phù hợp với yêu cầu phát triển và khả năng ngân sách của địa phương; thông qua tổng biên chế hành chính của địa phương trước khi trình cấp có thẩm quyền quyết định; Thông qua đề án thành lập mới, chia và điều chỉnh địa giới hành chính để đề nghị cấp trên xem xét, quyết định; quyết định việc đặt tên, đổi tên đường, phố, quảng trường, công trình công cộng ở địa phương theo quy định của pháp luật; Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp luật của UBND cấp huyện, nghị quyết trái pháp luật của HĐND cấp xã; Giải tán HĐND cấp xã trong trường hợp HĐND đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân, trình HĐND tỉnh phê chuẩn trước khi thi hành; 16
  17. - Bên cạnh đó quyền hạn, nhiệm vụ HĐND quận được quy định cụ thể tại điều 26, chương II, Luật tổ chức HĐND và UBND. Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN Ở CẤP QUẬN, HUYỆN. 2.1. một số vấn đề lý luận Ngày 15/11/2008, tại kì họp thứ 4 quốc hội khóa XII đã thông qua nghị quyết số 26/2008/QH12 về “Thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường”. Ngày 16/01/2009, Uỷ ban thường vụ quốc hội đã ban hành nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 về “danh sách huyện, quận, phường của các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường” theo danh sách này, cả nước thực hiện không thí điểm hội đồng nhân dân huyện, quận, phường tại 67 huyện, 32 quận và 483 phường của 10 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương. Việc lựa chọn địa phương thực hiện thí điểm đã đảm bảo nguyên tắc đại diện vùng miền trong cả nước, có đô thị, có nông thôn, có đồng bằng và miền núi, số lượng tỉnh thành phố trực thuộc trung ương thực hiện thí điểm thích hợp, không quá ít để có cơ sở tổng kết rút kinh nghiệm Trong quá trình xây dựng thảo luận để thông qua Đề án thí điểm này và thậm chí đến nay vẫn còn có những ý kiến khác nhau, như: Tại sao lại không tổ chức hội đồng nhân dân – “Cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân” như hiến pháp và pháp luật hiện hành xác định ở các cấp chính quyền nói trên? Tại sao không sửa đổi Hiến pháp, sửa đổi luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân hiện hành để không tổ chức hội đồng nhân dân ở tất cả các huyện trong cả nước mà chỉ thực hiện thí điểm ở 10 địa phương nói trên? Không tổ chức hội đồng nhân dân huyện có hạn chế quyền dân chủ đại diện của nhân dân? Và nhất là cơ quan nào sẽ giám sát đối với Uỷ ban nhân dân ở cấp huyện, giám sát hoạt động của 17
  18. tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân huyện?... Và còn rất nhiều những vấn đề pháp lý và thực tiễn khác nữa nảy sinh khi không tổ chức hội đồng nhân dân cấp huyện. Tôi sẽ đi vào lý giải những vấn đề này ở phần dưới đây. 2.1.1. Lý do không tổ chức hội đồng nhân dân huyện. Sau quá trình nghiên cứu và tìm hiểu việc thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân cấp huyện ở nước ta hiện nay tôi đã tổng hợp và phát triển được một số lý do sau: Một là, việc không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện là học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân. Sau cách mạng tháng Tám thành công, vấn đề quan trọng hàng đầu đặt ra cho Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải khẩn trương nghiên cứu ban hành văn bản về tổ chức chính quyền địa phương. Sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương Ban nghiên cứu Tổ chức chính quyền địa phương do Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp làm trưởng ban đã trình để Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 về tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban hành chính, Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã, thành phố. Sắc lệnh số 63 quy định cụ thể về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng Nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp (xã, huyện, tỉnh kỳ). Sắc lệnh quy định “Hội đồng Nhân dân do nhân dân bầu ra theo lối phổ thông và trực tiếp đầu phiếu và là cơ quan đại diện cho nhân dân. Ủy ban hành chính do Hội đồng Nhân dân bầu ra và là cơ quan hành chính vừa thay mặt cho nhân dân vừa đại diện cho Chính phủ.” Sắc lệnh số 77 về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã thành phố “Quy định chi tiết về cách tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng Nhân dân và Ủy ban hành chính thành phố, cách tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Ủy ban hành chính khu phố nơi không tổ chức Hội đồng Nhân dân. Tại mỗi thành phố sẽ có 3 cơ quan là Hội đồng Nhân dân thành phố, Ủy ban hành chính thành phố, Ủy ban hành chính khu phố.” 18
  19. Có thể nói, Sắc lệnh số 63 và 77 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành là văn bản pháp lý đầu tiên về tổ chức chính quyền nhân dân ở Việt Nam. Các quy định trong Sắc lệnh số 63 và 77 về tổ chức chính quyền nhân dân ở nông thôn và ở các thành phố còn giữ nguyên giá trị đến ngày nay. Một vấn đề hết sức quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ nhân dân, Nhà nước của dân là Nhà nước bộ máy chính quyền Nhà nước, chính quyền của nhân dân được lập ra phải bằng con đường bầu cử trực tiếp hoặc gián tiếp, phải thực hiện quyền dân chủ của nhân dân bằng con đường lập hiến, nghĩa là quyền dân chủ của nhân dân phải được quy định trong Hiến pháp. Chính bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo trình Quốc hội thông qua đã toát lên đầy đủ tư tưởng của Người về xây dựng chính quyền và các thiết chế dân chủ nhân dân. Tư tưởng chủ đạo của Hiến pháp năm 1946 là “Đảm bảo các quyền tự do, dân chủ;” thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân;” “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,” “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang nhau về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, đều được tham gia chính quyền và công cuộc Kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình.” Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.” Đồng thời, theo Người nhân dân có quyền tự do ứng cử và bầu cử, nhân dân có quyền lựa chọn bầu ra những người thay mình thực thi quyền lực Nhà nước thì nhân dân cũng có quyền thay đổi, hoặc bãi miễn những người không làm tròn bổn phận, nhiệm vụ mà nhân dân giao phó, nhân dân ủy thác “nhân dân có quyền bãi miễn Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng Nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng.” 19
  20. Nhân dân có quyền bãi miễn, thay đổi Chính phủ nếu Chính phủ đó làm hại đến nhân dân và bầu ra Chính phủ khác. Khi được bầu làm Chủ tịch Chính phủ, Người nói “Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân.” Người khẳng định: “Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy nếu không làm được việc cho dân thì dân không cần đến nữa;” “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” không có nghĩa phải xây dựng một chính quyền có bộ máy đồ sộ với những người đại biểu đại diện tầng tầng lớp lớp mà phải xây dựng một chính quyền gần dân, sát dân với bộ máy gọn nhẹ hoạt động có hiệu lực, hiệu quả với đội ngũ công chức tinh thông cần mẫn là công bộc của nhân dân, tiêu tốn ít tiền của nhân dân làm được nhiều việc cho dân, phục vụ đắc lực nhân dân. Hội đồng Nhân dân ở đâu hoạt động hình thức, chồng chéo, kém hiệu lực, hiệu quả, không làm được nhiều việc cho dân thì cũng phải xem xét tinh giản để lợi cho dân. Ý tưởng “thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” được thể hiện trong 2 sắc lệnh nói trên và được khẳng định lại trong Hiến pháp 1946 bằng các quy định về tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân, cụ thể như “ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng Nhân dân do đầu phiếu, trực tiếp, phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng Nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Ủy ban hành chính. Ở bộ và huyện chỉ có Ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính Bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra, Ủy ban hành chính Huyện do Hội đồng các xã bầu ra. Hội đồng Nhân dân quyết nghị những vấn đề thuộc về địa phương mình, những Nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của cấp trên. Ủy ban hành chính có trách nhiệm thi hành các mệnh lệnh của cấp trên; thi hành các Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân địa phương mình sau khi được cấp trên chuẩn y; chỉ huy công việc hành chính trong địa phương.” 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2