intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Cách dùng từ mới, từ viết tắt của sinh viên hiện nay

Chia sẻ: Mai Anh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:25

168
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu về nguồn gốc hình thành việc sử dụng từ mới, từ viết tắt; tìm hiểu thực trạng về việc sử dụng từ mới, từ viết tắt của sinh viên hiện nay; xác định được nguyên nhân của việc sử dụng từ mới, từ viết tắt; đưa ra các quan điểm, ý kiến của việc sử dụng từ mới, từ viết tắt; đề ra phương hướng để phát huy những mặt mạnh và hạn chế những mặt yếu của việc sử dụng từ mới và ngôn ngữ viết tắt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Cách dùng từ mới, từ viết tắt của sinh viên hiện nay

  1. A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Trong xu thế  hội nhập và toàn cầu hóa, cùng với sự  phát triển mạnh mẽ  của khoa học công nghệ, tiếng Việt với vai trò là ngôn ngữ văn hóa dân tộc đã có  những thay đổi nhanh chóng xét trên nhiều phương diện. Một trong những thay   đổi dễ  nhận thấy nhất và luôn dành được sự  quan tâm của xã hội, đó là ngôn  ngữ của giới trẻ ­ những chủ nhân tương lai của đất nước.  Vấn đề càng trở nên “nóng” hơn khi gần đây, trên các phương tiện thông tin   đại chúng, những ý kiến trái chiều về vấn đề này được đưa ra bàn luận sôi nổi.   Các nhà giáo dục cho rằng nó không chỉ  gây ảnh hưởng xấu tới mặt ngữ nghĩa   của từ  mà còn làm mất đi sự  trong sang của tiếng Việt. Tuy nhiên các bạn trẻ,  đặc biệt là học sinh, sinh viên lại có lí lẽ của riêng mình về điểm mạnh của việc   viết tắt và sử dụng những từ mới tự tạo như tiết kiệm, sáng tạo, gần gũi, nhanh  gọn trong học tập và cuộc sống hằng ngày. Bên nào cũng có lý do để  thuyết   phục  quan  điểm   của  riêng   mình,  chính   vì  vậy  cần  có  một  cuộc  nghiên  cứu   nghiêm túc thực sự về thực trạng sử dụng từ mới và từ viết tắt của các bạn trẻ  hiện nay để  có một cách đánh giá, nhìn nhận đúng đắn và khách quan về  mặt  mạnh và mặt yếu của loại ngôn ngữ này.  Hy vọng  đề tài này sẽ giải quyết được một phần nào đó những khúc mắc,  tồn tại của việc sử dụng ngôn ngữ, đồng thời thêm vào bức tranh toàn cảnh một   công trình mới hơn, tích hơn hơn nhưng cũng hết sức khách quan và khoa học. II. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ­ Nghiên cứu về nguồn gốc hình thành việc sử dụng từ mới, từ viết tắt. 1
  2. ­ Tìm hiểu thực trạng về  việc sử  dụng từ  mới, từ  viết tắt của sinh viên   hiện nay. ­ Xác định được nguyên nhân của việc sử dụng từ mới, từ viết tắt. ­ Đưa ra các quan điểm, ý kiến của việc sử dụng từ mới, từ viết tắt. ­ Đề  ra phương hướng để  phát huy những mặt mạnh và hạn chế  những   mặt yếu của việc sử dụng từ mới và ngôn ngữ viết tắt. III. Cấu trúc đề tài Đề tại được chia làm ba phần chính, bao gồm Phần mở đầu: Giới thiệu tổng quan về lý do, nhiệm vụ nghiên cứu và cấu  trúc của đề tài. Phần nội dung: Gồm 5 nội dung chính ­ Trình bày về khái niệm từ mới, từ viết tắt nguồn gốc hình thành việc sử  dụng từ mới, từ viết tắt ở sinh viên hiện nay. ­ Thực trạng và nguyên nhân của việc sử dụng từ mới, từ viết tắt. ­ Tác động của việc sử dụng từ mới, từ viết tắt. ­ Những ý kiến đánh giá về việc sử dụng từ mới, từ viết tắt. ­ Phương hướng để  phát huy mặt mạnh, hạn chế  mặt yếu trong  việc sử  dụng từ mới, từ viết tắt. Phần kết luận: Tổng hợp, nhận xét kết quả đạt được và rút ra những ưu,  nhược điểm trong đề tài. 2
  3. B. PHẦN NỘI DUNG I. Lý thuyết chung về từ mới và từ viết tắt của sinh viên hiện nay. 1. Khái niệm về từ mới và từ viết tắt Việc sử dụng từ mới và từ viết tắt của giới trẻ hiện nay đã hình thành một   loại ngôn ngữ mới, đó là ““ngôn ngữ teen”” hay nói cách khác là “ngôn ngữ @”,   nó được sáng tạo dựa trên ngôn ngữ  mẹ  đẻ  hoặc vay mượn từ  ngôn ngữ  nước  ngoài. Theo đó, “ngôn ngữ  teen”, cũng bao hàm hệ  thống các kí hiệu mang ý  nghĩa trong giao tiếp hoặc biểu hiện nội dung cần truyền  đạt. Theo các nhà  nghiên cứu ngôn ngữ học gần đây, “ngôn ngữ teen”, hay còn gọi là ngôn ngữ @,   là một loại hình ngôn ngữ được thay đổi từ các loại hình ngôn ngữ chính thống,   bao gồm sự kết hợp của những kí hiệu khác nhau và thường được sử dụng trên   mạng Internet, cụ thể là trên các nhật kí cá nhân (blog), diễn đàn (forum), mạng   xã hội (social network), các công cụ  trò chuyện trực tuyến khác, hay trong tin   nhắn điện thoại (sms)… Từ đó có thể thấy, “ngôn ngữ teen” dự có thể coi là một hệ thống ngôn ngữ  tương đối độc lập nhưng vẫn dựa trên nền tảng ngôn ngữ  bình thường và giới   hạn sử dụng hầu như chỉ trên Internet hay khi nhắn tin điện thoại nên đấy chưa   thể coi là một ngôn ngữ hoàn chỉnh mà chỉ có thể coi là sự biến tướng hoặc một  nhánh phát triển của ngôn ngữ. Bên cạnh đó, cũng vì được sáng tạo ra một cách  tự phát và không có một hệ thống học thuật nào ghi lại và chấp nhận, “ngôn ngữ  teen” thay đổi liên tục theo sự  sáng tạo của mọi người và vì thế, đôi khi không  đáp ứng được yêu cầu hiểu của một ngôn ngữ. 2. Nguồn gốc hình thành của việc sử dụng từ mới và từ viết tắt Sự  phát triển “ngôn ngữ  teen” đi liền với sự  hình thành và phát triển của   môi trường mà nó tồn tại:  Internet và Mạng điện thoại di động.  Sự  phát triển  3
  4. của lĩnh vực viễn thông cùng với nhịp sống công nghiệp trong bối cảnh toàn cầu  hóa đã đưa “ngôn ngữ teen” ra khắp toàn thế giới. Đặc biệt, sự xuất hiện của điện thoại di động , cụ thể hơn là hệ  thống tin   nhắn SMS đã làm cho “ngôn ngữ  teen” phát triển một cách vượt trội khi việc  giới hạn dung lượng một tin nhắn chỉ với 160 kí tự đã khiến cho người sử dụng  có xu hướng viết tắt, tạo ra những từ mới với mục đích nhanh gọn hơn. Từ  đó  mà ngày càng có nhiều hình thức viết tắt và sử dụng từ mới. Dần dà, những bạn  trẻ  cho rằng đây là một hình thức giao tiếp mới mẻ  và thú vị  và nghĩ ra những  loại hình chuyển đổi sáng tạo hơn để tạo thành “ngôn ngữ teen”. Ở  Việt Nam, “ngôn ngữ  teen” manh nha  ở  khoảng năm 2004 – 2005 khi   Internet trở  nên phổ  biến và phát triển mạnh từ  năm 2007 – 2008 đến tận bây  giờ. Cùng với sự ra đời của blog, Facebook và các trang mạng xã hội đã trở thành  một phần không thể thiếu trong giới trẻ thì họ cũng bắt đầu sử dụng điện thoại  di dộng và phụ thuộc hơn vào chúng. Và thói quen nhắn tin “j” thay cho “i”, “p”   thay cho “b” để  tiết kiệm thời gian và các loại viết tắt trở  nên “quen mắt” với   những bạn trẻ  sử  dụng công nghệ. Những người đầu tiên sử  dụng “ngôn ngữ  teen” trong SMS cũng dựng chúng thường xuyên trên blog và lúc chat nên từ cảm  thấy lạ lúc ban đầu, dần dà những cách thức thay đổi này được chấp nhận. Càng  sử dụng nhiều, giới trẻ càng nghĩ ra nhiều cách biến đổi ngôn ngữ mà theo họ là   độc đáo, lạ nhưng vẫn đảm bảo có thể hiểu được, và chúng cứ từ từ thâm nhập,  trở thành thói quen không thể từ bỏ ngay được của phần lớn thanh thiếu niên.  Từ  năm 2007 đến nay có thể  coi là giai đoạn phát triển nhanh và khá hoàn  thiện của “ngôn ngữ teen”. Cùng với sự phát triển chóng mặt của Internet và độ  bao phủ  cao của điện thoại di động thì “ngôn ngữ  teen” xuất hiện ngày càng  nhiều, thậm chí có nhiều phương thức kí hiệu mà các bạn trẻ đôi khi cũng không   thể  giải mã nổi. Hiện tượng này xuất phát từ  một bộ  phận không nhỏ  muốn   4
  5. khẳng định “cái tôi” khác người chứ không còn vì mục đích nhanh, tiện lợi như  ban đầu 3. Sơ lược từ mới và từ viết tắt của giới trẻ “Ngôn ngữ teen” tuy chỉ mới hình thành và phát triển trong vong một thập kỉ  trở  lại đây nhưng đã đạt đến sự  đa dạng về  chủng loại và số  lượng. Do đặc   điểm của ngôn ngữ hệ Latinh, các phương thức biến đổi ngôn ngữ để hình thành  “ngôn ngữ teen” theo đó cũng có những đặc điểm gần với các nước phương Tây  như Mĩ hay châu Âu tuy nhiên nó vẫm mang nét đặc trưng riêng biệt thể hiện sự  sáng tạo của giới trẻ Việt Nam. Nhìn chung, khi tìm hiểu về “ngôn ngữ teen” người ta thường phân chia làm  hai phương diện từ viết tắt và từ mới. Hai mặt này vừa độc lập, vừa thống nhất  với nhau trong mối quan hệ  biện chứng. Bởi lẽ  bản thân các từ  được viết tắt   không tồn tại trong từ điển tiếng Việt, nói cách khác, đó là một loại ngôn ngữ  biến tướng từ ngôn ngữ chính, không chính thống về cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa. * TỪ  VIẾT TẮT: Trong hệ  thống “ngôn ngữ  teen”, từ  viết tắt được chia  thành 2 loại là viết tắt tự tạo và viết tắt theo quy luật. a)Viết tắt tự tạo  Viết tắt tự  tạo rất phổ  biến  ở  các phòng chat hoặc  ở  điện thoại di động.  Cách viết tắt không theo một quy luật chung nào. Thỉnh thoảng, nó có theo một  quy luật nào đó thì cũng chỉ áp dụng cho một số từ thường dùng. Một vài ví dụ về viết tắt tự tạo “U co dj choi o? If dj, lay cho T cun gtrinh. O ranh thi thoi.” (Cậu có đi chơi  không? Nếu đi, lấy cho tớ cuốn giáo trình. Không rảnh thì thôi). 5
  6. ­ “Mog rag e se hiu! A wen, e bun ngu ch? Bi h hon 12h rui do.” (Mong rằng  em sẽ hiểu! Anh quên, em buồn ngủ chưa? Bây giờ hơn 12 giờ rồi đó). Xem các ví dụ  trên, ta thấy “ngôn ngữ  teen” là sự  “biến hóa” tùy tiện của  tiếng Việt. Ví dụ: ­ “đi” thành “dj”. ­ “không” thành “0”, “ko”, “k”, “kh”, “kg”, ... ­ “bây giờ” thành “bi h”. ­ “biết rồi” thành “bit rui”. ­ Chữ “qu” thành “w”. ­ Chữ ““gì” thành “j”. ­ Chữ “ơ” thành “u”. ­ Chữ “ô” thành “u”. ­ Chữ “ă” thành “e”. ­ Chữ “ng” ở cuối thì chỉ còn chữ “g”. ­ M = E = em. ­ N = A = anh ­ Chèn tiếng Anh vào như: if = nếu, U = you = bạn, … Nói chung, các bạn trẻ thích cách dùng các chữ trên vì nó ngộ ngộ, lạ và rất   “xì­tin” (style). Hơn nữa, khi dùng những chữ kiểu này trong điện thoại sẽ  hạn  chế số lần nhấn vào bàn phím cũng như tiết kiệm ký tự. Ví dụ, khi muốn nhắn  chữ    “đi” trong điện thoại, phải nhấn số  3, rồi 3 lần số  4 thì bây giờ  chỉ  cần   nhấn số  3 và số  5 là có được chữ  “dj” nhanh chóng mà người nhận vẫn hiểu   được ta đang nói gì. 6
  7.  Chèn tiếng nước ngoài  cũng là một hình thức của viết tắt tự tạo . Để  thể  hiện “đẳng cấp nhắn tin”, bên cạnh việc nhắn nhanh, ít ký tự, những người  nhắn tin còn thông qua hình thức chèn tiếng nước ngoài vào tin nhắn. Ngôn ngữ  được lựa chọn hàng đầu chính là tiếng Anh vì so với các ngôn ngữ  khác, tiếng  Anh được xem là thứ ngôn ngữ “hot” nhất đối với giới trẻ hiện nay. Ví dụ các tin nhắn ngắn gọn chèn tiếng Anh khá thông dụng như sau: ­ “2day U co ranh o?” (Hôm nay bạn có rảnh không?). ­ “I nho. Thanks U da nhac!” (Tôi nhớ. Cảm ơn bạn đã nhắc!). ­ “g9” = “goodnight” = chúc ngủ ngon. ­ “2day” = “today” = hôm nay. ­ “2nite” = “tonight” = tối nay. Tiếng Việt thời @ lối viết này có thể xem là khó hiểu nhất trong các cách  viết tắt, một số  âm bị  bóp méo như  âm “ô” thành “u”, “i” thành “y” hay “iê”  thành “i”. Ví dụ như: “Sáng nay mình ngủ  dzậy và quyết định học kiểu chat trên Internet của   thanh niên Việt Nam. Thứ  nhất, mình quyết định thay chữ  “ô” bằng chữ  “u” ­ nhưng chỉ  trong   mụt số  trường hợp đặc biệt thui! Trong mụt số  trường hợp khác, mình sẽ  bỏ   chữ  “ô” hẳn ra. Nếu viết quá chuẩn thì văn của mình sẽ  nặng nề, khín cho   người đọc thấy chán. Tức là phải sửa lun ­ mình không mún làm người khác bít   vậy mà bùn đâu!”                                                                            (Tiếng Việt thời @ ­ Joseph Ruelle) Ưu điểm và hạn chế của viết tắt tự tạo: 7
  8. * Ưu điểm của viết tắt tự tạo là khi quen dùng thì cũng thành một quy luật   nào đó cho một số từ thường dùng và ta viết được rất ngắn một số chữ thường   dùng, như  ví dụ “không” thành “0”, “ko”, “k”, “kh”, “kg”. Giữa tôi và bạn A,  ký hiệu 0, ko,k, kh hoặc kg sẽ mang ý nghĩa là "không", nhưng có thể giữa tôi và  bạn B và C thì k lại có nghĩa là “Ok”, kk có nghĩa là "very good, …”.  * Hạn chế của viết tắt tự tạo là: ­ Chỉ  viết tắt được một ít chữ  thường dùng, chứ  không áp dụng được cho  tất cả các từ khác có vần tương tự. ­ Ký hiệu riêng thường không thống nhất giữa các nhóm nên chỉ  những  người trong nhóm mới hiểu được nhau, người ngoài nhóm muốn hiểu cũng hơi  khó và có thể hiểu lầm. b) Viết tắt theo quy luật Các quy luật viết tắt bao gồm: 1. Thay phụ âm đầu  • F thay PH …… Vd: fai = phai . • C thay K …… Vd: ce = ke, cim = kim. • K thay KH …… Vd: ki ko kan = khi kho khan. • Z thay D …… Vd: zu zi = du di, zo zự = do dự. • D thay Đ …… Vd: di dâu dó = đi đâu đó, zo dó = do đó. • J thay GI …… Vd: ju jn jay j = giu gin giay gi.           • G thay GH …… Vd: ge = ghe, gi = ghi. • NG thay NGH …… Vd: nge = nghe, ngi = nghi. • Q thay QU …… Vd: qay qan =  quay quan, qe qan = que quan, qet = quet. 8
  9. 2.Thay phụ âm cuối chữ  • G thay NG …… Vd: xoog = xoong, kog mog = khong mong. • H thay NH …… Vd: hoah = hoanh, hueh = huenh, bah = banh. • K thay CH …… Vd: hoak = hoach, nguek = nguech, sak = sach. 3. I­Y và Uy  • I thay Y …… Vd: i ta = y ta, li tri = ly tri, li tak = ly tach • Y thay UY …… Vd: thy = thuy, byt = buyt, sy ngi = suy nghi. Ngoài ra việc viết tắt của giới trẻ  còn được thể  hiện qua một số  kí hiệu  như là # (khác) ; 
  10. trẻ ngày nay đang lạm dụng "vãi" một cách tràn lan, không đúng ý nghĩa thực sự  của bản thân từ ngữ này nhằm mục đích nhấn mạnh điều gì đó.  Còn rất nhiều từ  lóng khác mà giới trẻ  hiện nay sử  dụng rất nhiều như  “gấu” – chỉ người yêu, GATO, FA, “tự sướng”,… Ngày càng có nhiều từ  (cụm từ) mới được giới trẻ  tạo ra hoặc bổ  sung   những nét mới, điều này là hệ  quả  của sự  phát triển Internet và mạng di động,  đồng thời cũng một phần do hiệu ứng đám đông, xem như là xu thế của giới trẻ  đã góp phần phổ cập những từ mới trong cuộc sống hàng ngày. II. THỰC TRẠNG  VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC SỬ  DỤNG TỪ  MỚI, TỪ VIẾT TẮT CỦA SINH VIÊN 1. Thực trạng Theo một cuộc khảo sát thì 100 % các bạn sinh viên hiện hay sử dụng “ngôn  ngữ teen” nhiều hơn hai loại. Điều này cũng dễ hiểu bởi không ai lại sử dụng 1  loại ngôn ngữ đơn điệu khi giao tiếp bao giờ, ngay như tiếng Việt còn có nhiều   phương ngữ. Những con số này cũng hoàn toàn hợp lý vì thanh niên, thanh thiếu  niên sử dụng “ngôn ngữ  teen” khi chat, nhắn tin là vì muốn tiết kiệm thời gian,   thể hiện những cảm xúc một cách chân thật và làm  nội dung tin nhắn vui nhộn   và đáng yêu hơn. Không chỉ  sử  dụng từ  mới, từ viết tắt trong cuộc sống hàng ngày mà giới  trẻ còn áp dụng điều nay ngay cả trong hoạt động học tập của mình. Từ ghi bài  đến làm bài kiểm tra, viết tiểu luận, bài thu hoạch, v,v… 2. Nguyên nhân Bất cứ sự  vật, hiện tượng nào cũng có nguyên nhân và những yêu tố  khác  nhau làm nó trở nên phổ biến và mất đi, vì vậy việc giới trẻ sử dụng từ viết tắt   10
  11. cũng như từ (cụm từ) mới nhiều và đã thành “nếp” cũng như thế, nó đã có một   quá trình tương đối lâu dài tác động vào ý thức của giới trẻ và dần dần trở thành  thói quen như là một loại phản xạ có điều kiện. Cứ như vậy, tần suất xuất hiện  của từ lóng ngày càng trở nên nhiều hơn. Cụ  thể  trong trường hợp “ngôn ngữ  teen”, như  đã phân tích về  sự  hình  thành, “ngôn ngữ  teen” xuất hiện cùng với hệ  thống SMS và các công cụ  giao   tiếp trực tuyến. Tuy nhiên, để  có thể  dẫn đến việc sử  dụng “ngôn ngữ  teen”  một cách rộng rãi như  hiện nay cần nhiều yếu tố tác động, cả  khách quan lẫn   chủ quan. Sau đây là số liệu thu thập được từ một cuộc điều tra về lí do các bạn  trẻ hiện nay sử dụng “ngôn ngữ teen”. Có thể thấy rằng, hai lý do chiếm đa số của việc sử dụng “ngôn ngữ teen”  là tiết kiệm thời gian, tiền bạc và thể  hiện cảm xúc chân thật. Điều này chứng  tỏ đa số học sinh, sinh viên sử dụng “ngôn ngữ teen” bắt nguồn từ những nguyên  do tích cực, khách quan nhiều hơn là chủ quan. Ngoài ra có một số lượng không  nhiều là sử  dụng với lí do thể hiện sự độc đáo, cá tính của bản thân, đảm bảo   riêng tư với người lớn và sử dụng theo mốt Nếu xét về nguyên nhân khách quan, chính sự nhanh, tiết kiệm và tiện lợi là  nguyên nhân hàng đầu. Thứ nhất, 1 tin nhắn SMS chỉ giới hạn ở 160 kí tự (kể cả  khoảng trắng – space) nên việc truyền đạt nội dung dài và đầy đủ sẽ gặp nhiều   hạn chế. Ví dụ  khi làm việc nhóm, một tin nhắn 160 kí tự  sẽ  chỉ  vừa đủ  để  thông báo thời gian, địa điểm, và rất sơ lược nội dung cuộc họp chứ chưa nói tới   việc dặn dò hay nhắc nhở  các nội dung cụ  thể; việc nhắn nhiều tin vừa tốn   kém, vừa mất thời gian. Thời gian đầu khi điện thoại mới phổ biến, hầu hết là   11
  12. điện thoại phím số, để bấm 1 kí tự ta phải bấm phím số 2 đến 3 lần, mất nhiều   thời gian so với bàn phím Qwerty được phát triển sau này. Khi đó, bấm j thay cho  i (muốn có “i” ta phải bấm phím 4 ba lần, còn để có “j” chỉ cần bấm 5 một lần)   sẽ  tiết kiệm được thời gian. Mà “i” lại là một nguyên âm phổ  biến trong tiếng   Việt nên việc thay “i” bằng j sẽ rút được nhiều thời gian dành cho nhắn tin. Tính   trung bình, giữa ba lần bấm phím 4 ta có hai lần ngắt quãng tương đương thời  gian một lần bấm, nên lấy j thay cho i sẽ nhanh hơn gấp 5 lần. Tiếp tục đào sâu vào nguyên nhân do nhanh, tiết kiệm và tiện lợi, ta cũng   dễ   dàng   thấy  việc  viết   tắt   cũng  không   nằm  ngoài   lí   do   này.  Việc  viết   trại  nguyên âm hay phụ âm (có thể coi là một hình thức khác của viết tắt) cùng với  viết tắt sẽ  tiết kiệm được rất nhiều thời gian cho người nhắn tin. Từ đó, việc  nghĩ ra những kí hiệu, hay đúng hơn là áp dụng những kí hiệu quen thuộc thay  cho những từ khi nhắn khiến cho người dùng cảm thấy “nhẹ nhàng” hơn nhiều  (ví dụ như = thay cho bằng, ~ thay cho những…). Việc gõ dấu thanh khác đi so  với tiếng Việt truyền thống (đã bàn  ở  chương I) cũng có nguyên nhân từ  việc  điện thoại di động không thể bỏ dấu được, mà nhiều chữ yêu cầu phải bỏ dấu   để  nghĩa được tường minh nên việc bỏ  dấu cũng đuợc biến đổi để  dần hình  thành nên cách bỏ dấu thường thấy trong “ngôn ngữ teen” hiện nay. Nguyên nhân lớn thứ hai theo cuộc khảo sát vừa là nguyên nhân khách quan  vừa là nguyên nhân có phần chủ quan., đó là việc “ngôn ngữ teen” giàu chất cảm  xúc khi thể hiện tâm trạng. “ngôn ngữ teen” là một loại ngôn ngữ viết, mà khác  với ngôn ngữ nói có thể  biểu cảm thông qua lên xuống giọng, các cử  chỉ, biểu   hiện của khuôn mặt hay cơ thể…, ngôn ngữ viết không thể đáp ứng các yêu cầu  này. “ngôn ngữ teen” đã khắc phục điểm yếu này, hay đúng hơn, việc giải quyết   vấn đề  cảm xúc trong ngôn ngữ  viết, ngôn ngữ  viết dùng trong giao tiếp và  12
  13. truyền đạt thông tin, đã dẫn tới một số  loại hình biến đổi ra đời “ngôn ngữ  teen”. Các bạn trẻ muốn những câu chữ, dù là “viết” trên màn hình điện thoại hay  máy tính cũng phải thể  hiện rõ thái độ  hay cảm xúc của mình. Đầu tiên là sử  dụng các cách viết trại âm để  phần nào thể  hiện một cách nói “tượng thanh”  hơn. Lấy ví dụ  cụ  thể  của một từ  viết tắt thông dụng trong ghi bài và cả  khi  chat, nhắn tin là “hok” thay cho “không”, hay “oh”, “uh”,… thay cho “ừ”. Cách  viết “hok” khi đọc lên tạo cho người nhận tin một cảm giác ngọng nghịu hay   dửng dưng rất “đặc trưng” mà chỉ  “ngôn ngữ  teen” mới có khả  năng “tượng   hình”, “tượng thanh” như thế.  Hay như “oh” thì đồng ý như qua loa hay pha một  chút “không quan tâm” thì “uh” lại mang một thái độ quan tâm tới vấn đề hơn. Nguyên nhân lớn thứ  ba thì lại hoàn toàn thuộc về  nguyên nhân chủ  quan,  đó chính là cá tính và cái tôi độc đáo, sáng tạo của các bạn trẻ. Dự tỉ lệ cho rằng   đây là nguyên nhân không lớn, nhưng đây là nguyên nhân chủ  quan có tỉ  lệ  lớn   nhất so với các nguyên nhân chủ quan khác. Việc khẳng định cá tính có đôi phần   giống với thể hiện cảm xúc, bởi dù sao cảm xúc cũng ít nhiều bị chi phối bởi cá   tính; thêm vào đó là sự sáng tạo. Các bạn trẻ cho rằng mình rất sáng tạo (không   ai phủ  nhận điều này) nên họ  cho rằng cần phải cải tiến “ngôn ngữ  teen” hơn   nữa bằng những kí tự  khác, những từ  viết tắt mà chỉ  họ  mới hiểu. Thế  là họ  mày mò với bàn phím, đưa ra những cách gõ mới chỉ  để  cho thấy họ  sáng tạo,  trong cách viết lẫn cách đọc. Và dĩ nhiên, sự sáng tạo đôi khi lại dẫn tới những   ngôn ngữ quá khác so với chuẩn chung, những loại hình kí hiệu hay tượng hình   khó đọc. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học lứa tuổi, các em  ở  vào tuổi   thiếu niên và tuổi vị  thành niên có xu hướng chơi theo nhóm, giao tiếp dễ  dàng   với những bạn đồng trang lứa nhưng lại gặp khó khăn trong việc giao tiếp với   13
  14. người lớn, do khoảng cách về  môi trường sống, lối sống và lối tư  duy. Chính  bởi thế, việc giới trẻ  sáng tạo ra một ngôn ngữ  riêng "lưu hành nội bộ" trong   "giới" của mình cũng là một điều hết sức tự nhiên.  Nguyên nhân thứ tư (riêng tư, bí mật với phụ huynh) có thể coi là vừa chủ  quan vừa khách quan. Nguyên nhân này chiếm 13.5% tổng số người được khảo  sát. Một số  bậc phụ  huynh kiểm soát con mình quá gắt gao đến mức tiêu cực   buộc các bạn khi trao đổi thông tin phải dựng những cách mã hóa, dự  thông tin  đó không hề có nội dung xấu nhưng các bạn cho rằng đó là “personal” – nghĩa là  chỉ thuộc về cá nhân nên các cha mẹ không có quyền can thiệp. Sử dụng mã hóa   và các từ viết tắt chỉ có teen mới hiểu giúp họ  đáp ứng được yêu cầu này trong   ngôn ngữ. Xét về chủ quan là do các bạn trẻ luôn có tư tưởng chống đối, không  muốn bị can thiệp.  Nguyên nhân thứ năm (theo trào lưu) có thể coi là nguyên nhân khách quan,  khi mà nhiều người bắt đầu sử dụng, một bạn trẻ khi chat với bạn bè hay tham  gia các diễn đàn sẽ bắt gặp các loại hình “ngôn ngữ teen” và theo đó bắt đầu sử  dụng một cách không hoàn toàn cố ý, dần dà thành thói quen. Những lý do này không phải là hoàn toàn tiêu cực, nó chỉ thể hiện sự nhận   thức chưa chín chắn của các bạn trẻ  mới lớn về  loại hình ngôn ngữ. Cũng vì  chúng được sử dụng với mục đích chưa thật sự đúng đắn dẫn đến việc sử dụng   tùy tiện khiến cho mọi người có cách đánh giá không tốt về “ngôn ngữ teen”. III. TÁC ĐỘNG  VỀ  VIỆC SỬ  DỤNG TỪ  (CỤM TỪ) MỚI VÀ TỪ  VIẾT TẮT CỦA SINH VIÊN 1. Tác động tích cực Các nhu cầu có thật trong giao tiếp của giới trẻ dẫn tới “ngôn ngữ teen” ra   đời và được sử  dụng rộng rãi trong gần như  100% các bạn trẻ. Đáp  ứng được   14
  15. các nhu cầu này nên “ngôn ngữ  teen” mới có thể  tồn tại và được các bạn trẻ  chuộng đến ngày hôm nay, nghĩa là về  cơ  bản “ngôn ngữ  teen” đã giải quyết  một số vấn đề tồn tại, do đó, có thể coi “ngôn ngữ teen” có những mặt tích cực   không thể phủ nhận với xã hội. Những hệ quả tích cực bắt nguồn từ chính yêu   cầu ra đời của “ngôn ngữ teen” và vì thế gắn chặt với các lí do các bạn trẻ đưa  ra để ủng hộ việc sử dụng “ngôn ngữ teen”.   Lí do lớn nhất dẫn tới việc sử dụng “ngôn ngữ  teen” theo chúng tôi khảo  sát là do nhanh và tiện lợi, tiết kiệm trong giao tiếp, và vì thế  đây cũng là mặt   tích cực lớn nhất và dễ nhận thấy nhất. Việc sử dụng “ngôn ngữ teen” rõ ràng là   tiết kiệm khoảng không và dung lượng tin nhắn với ít kí tự  hơn. Đặc biệt khi  cùng lúc chat với nhiều người căng lúc thì việc tiết kiệm càng hiệu quả. Lược  bỏ  càng nhiều càng tốt các phương thức biểu đạt rườm rà và dài dòng nhưng   vẫn đảm bảo nội dung cơ bản của tin nhắn là một yêu cầu cao trong giao tiếp.  Thứ hai cũng xuất phát từ một lí do lớn đó là khả năng biểu cảm của “ngôn   ngữ  teen”. Đây là một ích lợi mà chỉ  có “ngôn ngữ  teen” mới có so với các loại  ngôn ngữ viết khác. Có thể nói khả  năng biểu cảm của “ngôn ngữ  teen” không   thua gì so với ngôn ngữ  nói chuyện trực tiếp với khả năng “giả  lập” được hầu   hết các giọng điệu, ngữ điệu hay ngôn ngữ cơ thể. Nói gọn lại về mặt tích cực,  có thể nói rằng “ngôn ngữ teen” lôi cuốn, sinh động. Nhìn vào những con chữ có  thể biết sắc thái diễn đạt của chủ nhân "biểu cảm" đến mức nào.  Lợi ích thứ  ba cũng xuất phát từ  nguyên nhân chủ  yếu, là chơi trội và thể  hiện khả  năng sáng tạo của teen. Sử  dụng “ngôn ngữ  teen” cho biết rằng bạn   vẫn còn trẻ và nắm bắt dược nhịp thở của công nghệ. 15
  16. Lợi ích thứ  tư  này lại không được các bậc phụ  huynh  ủng hộ, đó là việc   bảo mật. Đa số  thanh thiếu niên như  "cá gặp nước" khi sử  dụng dịch vụ  nhắn   tin bởi ở đó, những từ viết tắt và tiếng nước ngoài sẽ được phát huy tối đa. 2. Tác động tiêu cực Mọi sự  vật, hiện tượng tồn tại trong thế  giới khách quan đều tuân theo   những quy luật nhất định. Một trong những quy luật quan trọng nhất và mang  tính bất biến là sự  tồn tại, thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Cũng  giống như hai mặt của một tờ giấy, bên cạnh sự tồn tại của những tác động tích  cực đã được đề  cập  ở  phần trên, những yếu tố  tiêu cực  ảnh hưởng trực tiếp   hoặc gián tiếp tới bộ  phận giới trẻ  được khảo sát vẫn luôn là đề  tài được bàn   luận sôi nổi trên các tờ báo giấy, báo mạng, hội thảo, v.v… Tác động tiêu cực đầu tiên được đề  cập chính là việc sử  dụng “ngôn ngữ  teen” sẽ làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Đây cũng là vấn đề tốn nhiều  giấy mực, gây ra những luồng tranh luận đa chiều trên rất nhiều bài báo. Dư  luận (đặc biệt là những người thuộc  độ  tuổi trung niên trở  lên hoặc những   người có học vị  cao như  thạc sĩ, tiến sĩ, thậm chí là phó giáo sư, giáo sư) đã   không ít lần bày tỏ  thái độ  không đồng tình hay một cách khác là thể  hiện “nỗi  tiếc thương” cho “sự biến thái của ngôn ngữ  mẹ  đẻ”. Họ  cho rằng, tiếng Việt   đã phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài để rồi hoàn thiện như ngày hôm  nay. Nhưng chính cái cách sử  dụng vô tội vạ  “ngôn ngữ  teen” của giới trẻ  đã,   đang và sẽ  làm mai một đi những tinh hoa của tiếng Việt; từ đó ngôn ngữ  của   dân tộc sẽ  dần mai một đi và rồi tương lai của tiếng Việt sẽ  đi về  đâu. Không  chỉ  dừng lại  ở  chỗ  lo ngại cho tương lai của tiếng Việt trên khía cạnh kí âm,  cách viết mà mở  rộng ra, dư  luận còn e sợ  việc tiếp xúc “ngôn ngữ  teen” với   mật độ dày đặc sẽ khiến cho cách phát âm tiếng mẹ đẻ của giới trẻ trở nên lệch  chuẩn, méo mó. 16
  17. Ảnh hưởng tiêu cực tiếp theo nằm  ở  khía cạnh thói quen. Sẽ  ra sao nếu   như mật độ sử dụng “ngôn ngữ teen” của giới trẻ được đẩy lên mức hàng ngày,   hàng giờ, tại mọi nơi, mọi lúc? Các nhà giáo dục e sợ  cái viễn cảnh   khi mà  “ngôn ngữ  teen” đã ăn vào máu của từng cá thể, trở  thành một bộ  phận không  thể  tách rời trong mọi hoạt động đời sống xã hội của mỗi cá nhân. Không khó   để liệt kê những bất cập mà việc lạm dụng “ngôn ngữ  teen” có thể  gây ra cho   thế hệ trẻ. Giờ kiểm tra hay thi cử, dưới áp lực của điểm số  và thời lượng làm  bài ngắn ngủi, liệu những cái đầu non trẻ  có đủ  tỉnh táo để  biết tạm gạt đi  những từ  viết tắt, những kí tự  độc đáo, những cụm từ  mà chỉ  học sinh – sinh  viên mới hiểu, những thứ  đã trở  nên quen thuộc, để  có thể  hoàn thành tốt bài   làm. Khi tiếp chuyện với người lớn tuổi hoặc trong lúc tham gia một sự  kiện   trang trọng, điều gì sẽ đảm bảo rằng giới trẻ sẽ không lỡ lời sử dụng những từ  ngữ mà bình thường chỉ để tán gẫu với bạn bè. Việc quá dễ dãi và tùy tiện trong  sử  dụng “ngôn ngữ  teen” không chỉ   ảnh hưởng đến kết quả  học tập, làm việc  mà còn có thể  khiến cho hình  ảnh của bản thân trong mắt người khác trở  nên   xấu đi rất nhiều. Yếu tố  tiêu cực thứ  ba đó là “ngôn ngữ  teen” có thể  cuốn thế  hệ  trẻ  vào  những việc làm vô bổ  chỉ  để  làm nổi bật bản thân. Thay vì chăm chỉ  học tập  hoặc tham gia vào những chương trình ngoại khóa bổ  ích, giới trẻ  có thể  bỏ  hàng giờ, thậm chí là ngày này qua ngày khác để sáng tạo cho riêng mình một bộ  ngôn ngữ riêng biệt, đặc sắc, và tối quan trọng là “không đụng hàng”. Tất cả chỉ  để khẳng định cá tính độc đáo, để chứng minh cho mọi người thấy tính duy nhất   của cá thể. Từ đó giới trẻ đua nhau cho ra đời những bộ kí tự, những tổ hợp mật   mã mà ai đó nếu như chỉ nhìn thoáng qua, thiếu sự nghiên cứu và tìm tòi, thì có lẽ  sẽ cảm thấy như lạc vào một ma trận không lối thoát. Điều này cũng sẽ gây mất   thiện cảm thậm chí là tạo cảm giác khó chịu cho bất kỳ  ai nhận được một tin   17
  18. nhắn hay lá thư dưới dạng mã hóa như vậy, đặc biệt khi họ không có chút khái   niệm về  cách đọc mật mã teen hay không có thời gian rảnh rỗi để  dịch từng từ  một. Còn rất nhiều tác động tiêu cực từ việc sử dụng “ngôn ngữ teen” gây ra cho   thế  hệ  trẻ  mà dư  luận đã phản ảnh; thế  nhưng, chỉ với ba yếu tố  trên cũng đủ  để nhận thấy được cái nhìn rất khắt khe của dư luận, nhất là những người làm  giáo dục, đối với việc sử dụng “ngôn ngữ teen” của giới trẻ. IV. QUAN ĐIỂM VỀ  VIỆC SỬ  DỤNG TỪ  (CỤM TỪ) MỚI VÀ TỪ  VIẾT TẮT CỦA SINH VIÊN Nhìn chung các quan điểm về việc sử dụng từ (cụm từ) mới và từ  viết tắt  trong ngôn ngữ  tên của sinh viên được chia làm ba trường phái chính  một là  “phản đối”, hai là “chấp nhận, bàng quan” và ba là “chấp nhận, dẫn dắt”. Phản đối  là trường phái đầu tiên xuất hiện khi Việt Nam đối mặt với sự  bùng nổ đột biến “ngôn ngữ teen”. Các bài báo đầu tiên viết về “ngôn ngữ teen”   xuất hiện năm 2004 với những đầu đề  như  “Loạn “ngôn ngữ  teen”” (báo Ngôi  Sao), “Giữ  gìn sự  trong sáng của tiếng Việt” (báo của Quốc Học Huế)…Hầu  hết các ý kiến lúc bấy giờ  đều cho rằng “ngôn ngữ  teen” là mối nguy hại làm  mất sự trong sáng của tiếng Việt. Đến năm 2005­2006, những ý kiến phản đối   về “ngôn ngữ teen” bắt đầu lan rộng và bùng nổ với một loạt bài báo như “Hãy  gìn giữ  tiếng Việt” (báo Mực Tím), “Khi học trò lạm dụng “ngôn ngữ  teen””  (Báo Người lao động), “Khổ  nạn ngôn từ  biến tấu của teen” (báo Đời sống và  Pháp luật), “Lậm ngôn ngữ @” (báo Thanh niên)… Quả thật sự ra đời và thay đổi chóng mặt của “ngôn ngữ teen” lúc bấy giờ  đã gây sự bàng hoàng và khó chấp nhận đối với thế hệ cũ, Tiến sĩ ngôn ngữ học  Hoàng Anh ­ Học viện Báo chí Tuyên truyền cho rằng: “Hiện tượng nói và viết   18
  19. tiếng Việt tùy tiện, bừa bãi trong đời sống hàng ngày, đặc biệt là ngôn ngữ trên   mạng đang diễn ra phổ  biến, khiến nhiều bậc phụ  huynh phải lên tiếng. Sử   dụng ngôn ngữ  tuỳ  tiện, cẩu thả. Việc lạm dụng ngôn ngữ  tiếng lóng của giới   trẻ hiện nay là một điều rất nguy hiểm. Điều đáng nói là thứ ngôn ngữ này đang   trở thành trào lưu mạnh mẽ đến nỗi nếu học sinh nào không sử dụng nó thì lập   tức bị  coi là lỗi thời, không sành điệu. Khi thứ  tiếng “lai căng” này được đưa   vào các ngôn ngữ chính thức như một thói quen vô thức của giới trẻ sẽ dẫn đến   sự lệch chuẩn, mất phông văn hoá.” Trường phái phản đối luôn tồn tại suốt quá trình hình thành và phát triển   của “ngôn ngữ  teen”. Trong trường phái này sảm tạp những ý kiến khách quan   và phi khách quan, lý tính và phi lý tính, khoa học và phi khoa học. Những ý kiến   phản đối có thể bắt nguồn từ định kiến xấu về mạng internet, hoặc cũng có thể  bắt nguồn từ  lý luận: “Ngôn ngữ  được sáng tạo để  giao tiếp và hiếu biết lẫn  nhau, “ngôn ngữ teen” khó hiểu và quá xa lạ, nó đã vi phạm quy luật cơ bản của   ngôn ngữ” … Dù bắt nguồn như thế nào, các ý kiến trong trường phái phản đổi  này đã dần thu hẹp lại trong thời gian gần đây bởi sự  chèn ép của hai trường   phái mới xuất hiện là “chấp nhận, bàng quan” và “chấp nhận, dẫn dắt”.  Chấp nhận, bàng quan: Cùng với sự lớn mạnh đột biến không thể  ngăn cản của việc dùng từ  viết   tắt, từ mới của giới trẻ trong những năm gần đây, các giáo sư tiến sĩ đã vào cuộc  và tiến sâu vào nghiên cứu “mổ  xẻ” “ngôn ngữ  teen”. Giáo sư  Nguyễn Văn   Khang đã khẳng địng rằng “ngôn ngữ  teen” không thể  xóa bỏ  được, bởi   “Khi  nào còn tồn tại cư dân mạng, còn tồn tại nhóm xã hội của giới trẻ, thì còn ngôn   ngữ đó. Quy luật phát triển là xã hội luôn vận động, ngôn ngữ cũng vậy, có cái   sẽ được tiếp nhận, nhưng có cái sẽ bị đào thải.”  19
  20. Đồng ý với suy nghĩ trên cũng có nhiều giáo sư, tiến sĩ và nhà văn danh  tiếng như: ­ PGS. TS ngôn ngữ  học Phạm Văn Tình, Tạp chí Từ  điển học và Bách  khoa thư cũng nói: “Đây là một hiện tượng ngôn ngữ mới xuất hiện vài năm trở   lại đây và có xu hướng ngày càng rộ lên. Thực chất đây chỉ  là cách nói vui đùa,   tếu táo, sử  dụng ngôn ngữ  với cách biến âm, ghép âm cho có vần điệu. Những   cách nói này mang ý nghĩa giải trí nhiều hơn, tuy nhiên không phải là không có   những câu cũng có ý nghĩa nhận thức cuộc sống. Có thể nói lối nói vui nhộn này   là một hình thức để các bạn trẻ khẳng định mình, đồng thời cũng là cách để giải   tỏa áp lực học hành, những stress trong cuộc sống, nên hoàn toàn có thể chia sẻ   và thông cảm được.” ­ Nhà văn Văn Giá, chủ nhiệm khoa Viết văn, Đại học Văn hóa Hà Nội, cho  rằng, sự vận động của đời sống ngôn ngữ trong giao tiếp có thời gian đóng băng  nhưng cũng có thời gian nở  rộ: “Phải thừa nhận rằng cách sử  dụng ngôn ngữ   thông minh, linh hoạt, và năng động của các em làm cho ngôn ngữ không bị đóng   băng cằn cỗi mà trở  nên sinh động hơn… Chúng ta không nên quá lo lắng mà   hãy có cái nhìn bình tĩnh. Những lối nói vui vui, vô hại có thể  sẽ  tồn tại, còn   những cái không tốt, không hay chắc chắn sẽ  bị  cuộc sống tự thanh lọc, không   còn đất sống”  Tất cả những ý kiến trên đều cho rằng nên nhận “ngôn ngữ teen” một cách   khách quan và bình tĩnh, họ  không hoàn toàn  ủng hộ  “ngôn ngữ  teen”, nhưng   cũng không phản đối, bởi bản thân tiếng Việt có sức sống nội tại rất lớn và  mãnh liệt, qua thời gian, tự nó đã biết chắt lọc những tinh hoa của các ngôn ngữ. Tóm lại, những cái nhìn trong trường phái “chấp nhận, bàng quan” chỉ  là  một nhân chứng ghi nhận lại sự  ra đời và phát triển của “ngôn ngữ  teen” như  một loại hình ngôn ngữ mới của tiếng Việt hiện đại. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2